You are on page 1of 3

Nguyễn Minh Châu từng tâm niệm trong sự nghiệp cầm bút của mình: “Văn học và đời

sống là
những đường tròn đồng tâm và tâm điểm chính là con người.” Quả thực là như vậy. Nếu như trước đó,
bước vào văn nghiệp trong tâm thế của một cây bút lãng mạn, thì sau này, trong quá trình viết, tìm hiểu
khai thác về cuộc đời, Nguyễn Minh Châu nhìn nhận ra được sứ mệnh của người cầm bút. Tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn thể hiện rõ nét tư duy “nghệ thuật vị nhân
sinh” – văn học sinh ra là vì con người, vì cuộc đời của ông. Đọc “ Chiếc thuyền ngoài xa”, mỗi nhân vật
đều xuất hiện và tỏa sáng với những nét đẹp riêng nhưng có lẽ để lại nhiều ấn tượng cũng như trăn trở
nhất trong lòng người đọc nhất chính là hình ảnh người đàn bà làng chài – đại diện điển hình cho những
người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng chan chứa tình yêu thương.

Truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa “ viết vào tháng 8 năm 1983, là đứa con tinh thần tiêu biểu cho
cảm hứng đời tư thế sự gắn với vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm
lúc đầu được in trong tập “ Bến quê “ sau đó được đưa vào tập truyện ngắn cùng tên ( 1987). Năm 1983,
đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết thúc thắng lợi, chúng ta
trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang bước vào giai đoạn đổi
mới, cho nên cuộc sống có nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn
Minh Châu. “ Chiếc thuyền ngoài xa” kể về chuyến đi sáng tác của nhiếp ảnh Phùng khi đến với vùng đất
biển miền Trung. Và từ chuyến đi ấy, anh đã nhận ra rất nhiều chiều của cuộc sống, nhiều góc khuất mà
con người vẫn bỏ lỡ. Hình ảnh người đàn bà là hình ảnh khiến anh vừa khó hiểu, vừa băn khoăn, vừa
đau xót. Có thể nói người làng chài là hình ảnh biểu tượng cho cuộc sống khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi
của người phụ nữ.

Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh Phùng như một sự đẽo gọt sơ sài của tạo
hóa nhưng lại giàu sức gợi. Đó là hình ảnh một người đàn bà trạc tuổi ngoài bốn mươi, cao lớn với
những đường nét thô kệch. Dáng vẻ của người phụ nữ ấy đã nói hết cái quãng đời cơ cực, bất hạnh của
mình : “ Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ”. Không dừng lại ở đó người đàn bà đáng thương này lại được nhìn nhận qua góc độ của một
người chồng, với cái nhìn cay nghiệt, trút giận vào “ tấm lung áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới
ướt sũng.” Đây chẳng khác gì một con người quen với nỗi cơ cực, cam chịu, sự nhọc nhằn lam lũ in hằn
lên trên thân hình khắc khổ kia của chị.

Người đàn bà hàng chài mang trong mình một nỗi niềm bất hạnh. Vì xấu xí nên cơ hội hạnh phúc ít
hơn những người khác, bệnh đậu mùa khiến chị rỗ mặt. Mặc dù gia đình khá giả, có nhà ở trên phố
nhưng vì ngoại hình xấu xí nên không nên duyên với ai, nhưng dù vậy chị vẫn khát khao hạnh phúc cho
thân phận hẩm hiu : có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá rồi tiếp theo đó là chuỗi ngày
lênh đênh, cơ cực sống trên biển với một gia đình đông đúc trên một con thuyền chật hẹp nghèo túng
quanh năm, với những ngày phải ăn xương rồng luộc chấm muối khi không thể đi biển được. Không
những thế, người phụ nữ ấy còn trở thành nạn nhân của nạn bạo hành gia đình : bị hành hạ “ ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, và còn cả chuyện “ bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh”. Lời bộc bạch của người đàn bà bất hạnh ấy ẩn chứa một nỗi day dứt xót xa. Đôi mắt của chị như
xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương
xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình.
Ít ai biết rằng, ẩn sau dáng hình thô kệch xấu xí, ẩn sau số phận nghiệt nghã, khắc khổ kia của
người đàn bà làng chài là những vẻ đẹp bên trong, là vẻ đẹp của sự thấu hiểu lẽ đời, giàu tình yêu
thương. Đó là một tấm lòng vị tha cao cả đối với chồng, dù bị chồng nhẫn tâm đánh đập, hành hạ, thế
nhưng người phụ nữ này không trách móc mà lại rất cảm thông, thấu hiểu, sẵn sàng chấp nhận nghịch
cảnh éo le ấy. Không muốn nhìn thấy cảnh chồng đánh đập mình, chị xin chồng lên bờ mà đánh : “ Sau
này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão… đưa tôi lên bờ mà đánh….” Lời nói trong ngập ngừng, đứt
quãng, nối đau như đang dâng tràn trong tim. Người đàn bà đáng thương ấy không ngừng ra sức bảo vệ
gia đình nhỏ của mình. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình,
chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy, khi được đề nghị giúp đỡ , chị chỉ biết van xin: “Xin các
chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng
bắt con bỏ nó". Người đàn bà ấy tự nhần phần sai, thua thiệt về phía mình : “ Cũng tại đàn bà ở thuyền
chúng tôi nhiều quá”, cũng không ngừng bênh vực cho chồng trước mặt Phùng và Đẩu : trước kia là một
anh con trai hiền lành nhưng cục tính, do cuộc sống vất vả quá nên lão chồng chỉ còn cách đánh vợ để
giải tỏa những bức bí của cuộc đời. Phải là một người rất yêu thương, giàu lòng bị tha, người đàn bà làng
chài mời có thể có những đức tính hi sinh cao cả như vậy.

Không chỉ có vậy, người đàn bà ấy còn là một người phụ nữ rất mực thương con. Ngoài việc hi sinh
vì con, xin chồng đừng đánh mình trước mặt con, người đàn bà hàng chài còn vì con mà cam chịu bao
đau thương, nhục nhã. Khi phát hiện ra con mình – thằng Phác nhìn thấy cảnh ba đánh mẹ, người đàn
bà hàng chài đau đớn, nhục nhã. Nhìn thấy con đánh cha để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy mếu máo : “
Phác, con ơi !” rồi ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy
vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Hành động ấy là biểu hiện của một nỗi bất an, bấn loạn trong đau đớn đến
tột cùng. Sự vái lạy ấy như một sự van xin, nhận lỗi về phía mình. Phải là một con người có lòng yêu
thương con sâu sắc mới có thể cam chịu và hi sinh cao cả như thế.

Ẩn đằng sau lớp vỏ bọc tưởng như vô cảm, thất học kia lại là một người đàn bà ít học nhưng lại vô
cùng thấu hiểu lẽ đời. Người đàn bà hàng chài xuất hiện ở tòa án với những nét diễn biến thật ấn tượng.
Từ hình ảnh một người dân nghèo, lam lũ, sợ sệt, “ lung túng tìm một góc tường để ngồi” bỗng chốc
thay đổi hẳn. Nếu như lúc đầu người đàn bà xưng con, gọi là ông, quí tòa thì đến khi đối thoại với Đẩu,
mụ lại xưng là chị, gọi là mấy chú, các chú. Để bảo vệ chồng, bảo vệ gia đình mình, người phụ nữ ấy trở
nên khéo léo, thấu suốt, từ chối bỏ chồng bằng những lí lẽ thuyết phục. Chị biết rõ nỗi vất vả, cơ cực
trên một chiếc thuyền không có đàn ông, chị biết dựa vào quá khứ tốt đẹp của chồng để thuyết phục.
Hơn thế, người đàn bà ấy còn biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi, đời thường. “ Lần đầu tiên trên
khuôn mặc xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười” – vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ. Và người phụ nữ ấy thật cao cả : “ Vui nhất là lúc ngồi
nhìn đàn con chúng tôi được ăn no”. Một người đàn bà ít học nhưng lại thấu suốt lẽ đời, giàu đức hi
sinh, thật đáng ca ngợi và khâm phục !

Người đàn bà hàng chài với cuộc đời đầy sự bất ngờ không thể lí giải được, cứ tưởng chị yếu hèn
nhu nhược nhưng hóa ra lại vô cùng cao cả, lớn lao; cứ tưởng chị, dốt nát , kém hiểu biết nhưng hóa ra
lại vô cùng trải nghiệm, sâu sắc và thấu tỏ lẽ đời dù cho chị tự nhận những suy nghĩ của mình là cái sự
lạc hậu. Chị hiểu việc mình làm và chấp nhận cuộc sống ấy chứ hoàn toàn không phải do dốt nát, lạc hậu
như chị tự nhận vì trong một lẽ nào đó, con người có khi phải sống trong bi kịch, buộc phải chấp nhận bi
kịch.

Với người đàn bà này, cội rễ của sự cam chịu ấu chính là tình mẫu tử, vì chị sống cho những đứa
con, vì chị là một người mẹ - một người mẹ không chỉ biết l đủ miếng ăn cho con mà còn muốn con lớn
lên đúng nghĩa một con người, một người mẹ âm thầm không muốn làm tổn thương những tâm hồn trẻ
thơ non nớt nên âm thầm một mình xin chồng lên bờ đánh. Chị biết cách dạy còn hơn nhiều người mẹ
khác khi cho con lên bờ ở với ông ngoại, chị không giống những người mẹ muốn lôi kéo con làm đồng
minh nên sẵn sàng kể tội, nói xấu bố chúng. Người phụ nữ ấy thật vị tha và vô cùng cao thượng. Trước
mắt Phùng, chị không còn là nạn nhân để cho công lí và lòng đốt dang tay cứu vớt, lòng thương hại ở
Phùng đã nhường chỗ cho sự kính trọng và niềm khâm phục.

Với cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, mang ý nghĩa phát hiện về đời sống, nghệ
thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực và sâu sắc cùng cách kể chuyện sinh động, ngôn ngữ nhân vật
phù hợp với đặc điểm tính cách, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn sâu trong nhân vật, Nguyễn Minh Châu đã thành
công trong việc khắc họa bức chân dung về người đàn bà hàng chài – đại diện cho những người phụ nữ
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới : cuộc sống khó khăn, nghèo đói, tủi cực, bị ngược đãi về cả thể xác lẫn
tinh thần nhưng trái tim lúc nào cũng ấm nóng tình yêu thương và giàu lòng vị tha, nhân hậu để rồi qua
đó hể hiện nỗi quan hoài thường trực của Nguyễn Minh Châu đối với con người trong cuộc sống đời tư –
thế sự, niềm khao khát tìm kiếm, tôn vinh vẻ đẹp con người cùng những khắc khoải lo âu trước cái xấu,
cái ác.

Hình ảnh người đàn bà hàng chài đã trở thành “nỗi ám ảnh" với chính nhân vật người nghệ sĩ
Phùng, cũng là hình ảnh đem đến những ấn tượng đặc biệt trong lòng đọc giả. Một chút ồn ào, một chút
đau đớn, một chút tủi hờn, một chút xót thương, một chút đồng cảm,...tôi vẫn nghĩ rằng những cảm xúc
bản thân còn lưu lại sau khi đọc xong câu chuyện này còn nhiều hơn như thế. Và hình ảnh người đàn bà
hàng chài vẫn vẫn, đẹp đẽ, thánh thiện, bao dung. Người đàn bà ấy là biểu trưng cho biết bao nhiêu
những người phụ nữ hàng chài khác mang trong mình một vẻ đẹp khuất lấp, chỉ cần gạt nhẹ một chút đã
thấy sáng lấp lánh, long lanh.

You might also like