You are on page 1of 97

HỌC VĂN CHỊ HIÊN

Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

BỘ 10 ĐỀ THAM KHẢO KÈM ĐÁP ÁN CHI TIẾT


ĐỀ 01
I.PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu:
Với tinh thần xung kích, đi đầu của người đảng viên, cụ Lê Thị Văn (đảng viên 70 năm tuổi
Đảng, ngụ phường Linh Chiểu) đã tham gia đóng góp ủng hộ phòng chống dịch với số tiền
15 triệu đồng. Cụ Văn chia sẻ, “Đây là số tiền tôi được nhận huy hiệu 70 năm tuổi Đảng,
ban đầu dự định dùng toàn bộ số tiền này làm công tác từ thiện gì đó mang ý nghĩa cộng
đồng chứ không tiêu xài cho cá nhân. Tuy nhiên, khi xem tin tức về diễn biến phức tạp của
dịch bệnh cùng với thông tin phát động toàn dân chung sức ủng hộ công tác phòng chống
dịch bệnh của Đảng, Nhà nước, tôi đã quyết định dùng số tiền này ủng hộ cho Quỹ Phòng
chống dịch Covid-19 với mong muốn đóng góp chút vật lực và tình cảm của mình cùng đất
nước đánh thắng giặc Covid-19”.
Được biết, trước đây cụ Văn đã từng công tác trong ngành y tế. Là một bác sĩ quân y, cụ
đồng cảm sâu sắc với những khó khăn, hiểm nguy của các y bác sĩ đang ngày đêm tham gia
trực tiếp ở tuyến đầu phòng chống dịch bệnh Covid-19. “Xem truyền hình đưa tin về hoạt
động phòng chống dịch mà thấy thương các em, các cháu vô cùng; tôi cũng từng công tác
trong ngành y tế nên rất hiểu và thương. Hiện nay do tuổi cao, sức yếu; nếu không tôi rất
muốn được tham gia trực tiếp cùng với mọi người chống dịch” - cụ Văn trải lòng với chúng
tôi.
Chị Hoa, con gái của cụ cho biết thêm: “Mẹ tôi rất quan tâm đến hoạt động phòng chống
dịch bệnh nên thường xuyên theo dõi tin tức và mong muốn góp sức mình cùng cộng đồng, xã
hội nên gia đình rất ủng hộ cụ. Số tiền đóng góp tuy không nhiều nhưng chứa đựng trong đó
là tình cảm yêu thương và tinh thần chia sẻ vì thường ngày mẹ chúng tôi cũng hay tham gia
đóng góp các phong trào khác do địa phương phát động”.
Khi được hỏi rằng cụ có mong muốn hay điều gì nhắn gửi đến các cán bộ, y bác sĩ đang ngày
đêm tham gia phòng chống dịch bệnh Covid-19, với đôi mắt sáng ngời và tinh anh, cụ mỉm
cười và nói: Tôi rất tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác phòng
chống dịch bệnh hiện nay và mong rằng các cán bộ, y bác sĩ - “những chiến sĩ áo trắng” sẽ
giữ gìn sức khỏe thật tốt để đánh thắng giặc Covid-19, bảo vệ sức khỏe nhân dân...
(Trích “Nhân dân quận Thủ Đức đồng lòng phòng chống dịch bệnh Covid-19,
18/04/2020)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích.
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích.

1
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 3: Khi tham gia đóng góp phòng chống dịch, cụ Lê Thị Văn đã chia sẻ điều gì? Điều đó
thể hiện cụ là người như thế nào?
Câu 4: Qua đoạn trích, anh chị có suy nghĩ gì về hành động của cụ Lê Thị Văn?
II.LÀM VĂN (7.0)
Câu 1(2.0) Từ nội dung đoạn trích anh /chị hãy nêu suy nghĩ của mình về sự cống hiến
không kể tuổi tác trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid hiện nay.
Câu 2 (5.0) Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
(Tố Hữu, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, trang 111)
Hãy phân tích đoạn thơ trên để thấy được vẻ đẹp của bức tranh từ bình về cảnh vật và con
người Việt Bắc.

ĐỀ 02
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu dưới đây:
Mỗi người trên thế giới đều là những người khách bộ hành, mỗi ngày đều bước đi một cách
chủ động hoặc bị động trên con đường mình đã chọn…
Cuộc đời không chỉ là con đường đi khó, đôi khi chúng ta còn gặp phải những hố sâu do
người khác đào ra, gặp phải sự tấn công của thú dữ, mưa bão và tuyết lạnh. Bất luận gian
khó thế nào, chỉ cần chúng ta còn sống, chúng ta còn phải đối mặt. Sống tức là thực hiện một
cuộc hành trình không thể trì hoãn…
Trước muôn vàn lối rẽ, không ai có được bản đồ trong tay, cũng không phải ai cũng có kim
chỉ nam dẫn đường, tất cả đều phải dựa vào sự phán đoán và lựa chọn của bản thân. Nếu
bạn rẽ nhầm lối, khoảng cách với xuất phát điểm sẽ bị rút ngắn ngược lại, nếu rẽ đúng, con
đường phía trước sẽ bằng phẳng, rộng rãi.

2
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

(Trích Bí quyết thành công của Bill Gates, Khẩm Sài Nhân, NXB Hồng Đức)
Câu 1(0.5): Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên.
Câu 2(0.5): Tác giả có quan điểm thế nào về “sống”?
Câu 3(1.0): Anh/ Chị hiểu như thế nào về câu nói: “Trước muôn vàn lối rẽ, không ai có được
bản đồ trong tay, cũng không phải ai cũng có kim chỉ nam dẫn đường, tất cả đều phải dựa vào
sự phán đoán và lựa chọn của bản thân.”
Câu 4(1.0): Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/chị?
II.LÀM VĂN
Câu 1(2.0): Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến
được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Sống tức là thực hiện một cuộc hành trình
không thể trì hoãn”.
Câu 2(5.0) Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã viết: “Mặt hắn có một vẻ gì
phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Từ
những câu văn trên và hiểu biết của anh/chị, hãy phân tích sự chuyển biến tâm trạng nhân vật
anh cu Tràng từ khi đón người “vợ nhặt” về nhà. Qua đó hãy làm rõ tư tưởng nhân đạo của
nhà văn Kim Lân.

ĐỀ 03
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Có một người học trò đến hỏi thầy giáo của mình rằng: “Thưa thầy, con phải làm thế nào để
có thể đánh bại đối thủ một cách nhanh nhất ạ?”
Người thầy mỉm cười rồi liền dùng một nhành cây vạch xuống đất một đường thẳng. Ông
nói: “Con hãy tìm cách làm cho đường thẳng này ngắn lại nhưng không được xóa nó, khi
nào có kết quả thì đến tìm ta”.
Người học trò mang theo bài toán của thầy giáo về nhà. Anh nghĩ mãi nhưng vẫn không biết
phải làm sao để khiến đường thẳng kia ngắn lại mà không được xóa nó đi. Thế rồi, anh bắt
đầu cảm thấy yêu cầu này hết sức vô lý và không thể thực hiện được.
Sau ba ngày suy nghĩ, anh vẫn không tìm được đáp án nên bèn đến gõ cửa nhà thầy một lần
nữa. Anh nói: “Thưa thầy, con nghĩ mãi nhưng vẫn không biết làm cách nào để khiến đường
thẳng này ngắn đi cả”.
Nghe người học trò nói xong, thầy giáo lại dùng một nhánh cây khác, nhẹ nhàng vẽ một
đường thẳng song song với đường thẳng cũ, nhưng lại dài hơn đường thẳng kia một đoạn.

3
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Sau đó, ông cười và nói: “Con xem, chẳng phải giờ đường thẳng cũ đã ngắn hơn so với
đường thẳng mới rồi hay sao?”
Rồi ông lại từ tốn nói tiếp: “Đối thủ của con chính là đường thẳng ban đầu. Con không thể
khiến con đường của họ trở nên tồi tệ hơn. Cách duy nhất con có thể làm được, đó là làm
cho bản thân mình trở nên xuất sắc hơn, làm cho con đường của con dài nhất có thể. Vậy thì
con đã thành công rồi”.
(Theo songdep.tv)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt của văn bản trên.
Câu 2: Trong văn bản, người học trò đã có phản ứng như thế nào với yêu cầu của thầy giáo?
Câu 3: Ý nghĩa biểu tượng của hai đường thẳng trong cách lí giải của thầy giáo là gì?
Câu 4: Bài học ý nghĩa nhất đối với anh/chị qua văn bản trên?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh / chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ)
bàn về ý nghĩa của câu nói: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất” (Platon)
Câu 2: Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích sau:
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)
Từ đó bình luận về phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

4
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ĐỀ 04
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
Triết gia: Hãy tưởng tượng mình đang đứng trên sân khấu. Khi đó, nếu cả hội trường sáng
đèn thì cậu có thể nhìn rõ đến cả hàng ghế cuối cùng. Nhưng nếu đèn chiếu cường độ mạnh
chỉ tập trung vào chỗ cậu đứng thì chắc chắn cậu sẽ không thể nhìn thấy ngay cả hàng ghế
đầu tiên.
Cuộc đời của chúng ta giống hệt như vậy. Chính vì đang chiếu ánh sáng mờ nhạt vào cả cuộc
đời nên mới nhìn thấy, hay đúng ra là cảm thấy mình nhìn thấy, cả quá khứ lẫn tương lai.
Nhưng nếu rọi đúng đèn chiếu cường độ mạnh vào "ngay tại đây, vào lúc này" thì sẽ không
thấy quá khứ và tương lai nữa.
Chàng thanh niên: Đèn chiếu cường độ mạnh ư ?
Triết gia: Phải! Chúng ta cần sống hết mình "ngay tại đây, vào lúc này".
... Đi nhìn quá khứ và tương lai là cậu đang tìm cách biện hộ cho chính mình. Chuyện đã xảy
ra trong quá khứ không còn liên quan gì đến cậu "ngay tại đây, vào lúc này" và tương lai ra
sao cũng không phải là việc cậu cần suy nghĩ “ngay tại đây, vào lúc này". Nếu sống hết mình
"ngay tại đây, vào lúc này", sẽ chẳng cần nói đến những điều đó.
Chàng thanh niên: Nhưng...
Triết gia: ...Ta cho rằng cuộc đời mình thế này nên không thể sống khác, còn xấu xa thì
không phải lỗi của ta, mà là tại quá khứ, tại hoàn cảnh. Quá khứ được nêu ra ở đây không là
gì khác ngoài một sự bao biện, một lời nói dối cuộc đời.
Lối sống của cậu "ngay tại đây, vào lúc này” có thể thay đổi được bằng ý chí bản thân. Cuộc
đời quá khứ có vẻ là một vạch liền chỉ vì cậu không ngừng quyết tâm "không thay đổi" mà
thôi. Còn cuộc đời tương lai là một tờ giấy trắng, không kẻ sẵn đường đi. Ở đó không có câu
chuyện nào cả.
Chàng thanh niên: Nhưng, đó là chủ nghĩa nắm bắt từng khoảnh khắc. Không, là chủ nghĩa
khoái lạc xấu xa mới đúng!
Triết gia: Không phải! Việc rọi đèn chiếu vào duy nhất một chỗ "ngay tại đây, vào lúc này”
chính là sống một cách nghiêm túc và trân trọng nhất với những gì ta có thể làm được lúc
này.
(Dám bị ghét - Koga Fumitake, Kishimi Ichiro - NXB Lao động,H, 2018 – tr 316,317)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2: Hình ảnh “đèn chiếu cường độ mạnh” trong đoạn văn bản tượng trưng cho điều gì?

5
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 3: Anh/chị có đồng tình với quan niệm “cuộc đời mình thế này nên không thể sống
khác, còn xấu xa thì không phải lỗi của ta, mà là tại quá khứ, tại hoàn cảnh” không? Vì sao?
Câu 4: Nêu giá trị của việc lặp lại cụm từ “ngay tại đây, vào lúc này” trong đoạn văn bản.

II. LÀM VĂN (7.0 điểm)


Câu 1: Từ nội dung đoạn trích phần Đọc - hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ về tác hại của lối sống không chịu thay đổi ở một bộ phận giới
trẻ hiện nay.
Câu 2: Nêu cảm nhận của anh/chị về trích đoạn sau:
“... Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò
làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt ... Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”...
(Trích “Người lái đò Sông Đà” - Nguyễn Tuân)
Từ đó hãy làm rõ “chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của miền
Tây Bắc mà nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa.

ĐỀ 05
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Hãy để đam mê dẫn lối, trong trường hợp thất bại, ta chẳng có gì hối tiếc. Điều này tưởng
như là chân lý của tuổi trẻ. Bởi, một khi không có gì chắc chắn, thì hãy chọn thứ không chắc
chắn đáng giá nhất. [...] Đam mê mang dáng vẻ của một cái đích chắc chắn. Chỉ cần dấn
thân đi theo nó thì sẽ tìm thấy thứ mà người trẻ khát khao. Có lẽ vì thế, ta quên mất một điều
quan trọng: Trong đam mê, cũng như hầu hết các sự việc trong cuộc sống này, luôn tiềm ẩn
một yếu tố đáng ngại, đó là chẳng có gì hoàn toàn chắc chắn.
[...] Không bao giờ là thừa khi ta dành thời gian lắng lòng, xem lại chặng đường đã qua,
nhìn sâu vào chính bản thân mình, từ đó xác định lại và xóa tan những ảo mộng về đam mê.
Tri thức là con mắt của đam mê. Lý trí giúp ta thấu đáo hành trình sắp sửa dấn thân vào. Dĩ
nhiên, không có điều gì hoàn toàn chắc chắn, nhưng càng hiểu rõ về lựa chọn của mình bao
nhiêu, nguy cơ thất bại sẽ giảm thiểu bấy nhiêu.
Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ. Hãy đón nhận những đặc quyền tuổi trẻ. Thế nhưng, khi
tận hưởng đặc quyền bay bổng ước mơ và quỹ thời gian còn dài rộng để được phép khờ dại,
ở các thời khắc then chốt, ta vẫn cần bớt đi cảm tính, sử dụng lý trí, lắng nghe chung quanh

6
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

và chính mình nhiều hơn. [...] Và như thế, ta lên đường, cùng lời nhắc của Benjamin
Franklin: “Nếu đam mê chở bạn, hãy để lý trí cầm cương.”
(Theo Trí Thức Trẻ, 30/3/2018)
Câu 1: Phương thức biểu đạt của đoạn trích trên là gì?
Câu 2: Theo đoạn trích, yếu tố đáng ngại luôn tiềm ẩn trong đam mê là gì?
Câu 3: Dựa vào đoạn trích, anh/chị hãy đưa ra cách để giảm thiểu thất bại khi theo đuổi đam
mê.
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với quan điểm: “Hãy để đam mê dẫn lối, trong trường hợp thất
bại, ta chẳng có gì hối tiếc” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích phần Đọc - hiểu, anh/chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200
chữ) về bài học rút ra qua câu nói của Benjamin Franklin: “Nếu đam mê chở bạn, hãy để lý
trí cầm cương.”
Câu 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong trích đoạn bài thơ Sóng
của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
Dẫu xuôi về phương bắc

Để ngàn năm còn vỗ
(Theo SGK Ngữ văn 12, tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, H.2016)

ĐỀ 06
PHẦN I: ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
MỘT LÁ THƯ THÔNG BÁO KẾT QUẢ HỌC TẬP DO MỘT TRƯỜNG TIỂU HỌC Ở
LANCASHIRE (ANH) GỬI TỚI HỌC SINH CUỐI CẤP
“Xin vui lòng xem kết quả kì thi KS2 được đính kèm với thư này. Chúng tôi rất tự hào về em
bởi em đã chứng minh sự cam kết và cố gắng cao nhất của mình trong tuần này.
Tuy nhiên chúng tôi cũng cảm thấy lo ngại rằng những bài thi này không phải lúc nào cũng
đánh giá được những gì đã làm cho em trở thành một con người đặc biệt và độc đáo. Những
người tạo ra các đề thi và chấm điểm không biết tất cả mọi thứ về các em hay các cách giáo
viên đã dạy em như thế nào, chúng tôi hi vọng gì về các em và chắc chắn không biết cách gia
đình em đang giúp đỡ em như thế nào.
Họ không biết rằng em có thể nói hai ngôn ngữ. Họ không biết rằng, em biết chơi một loại
nhạc cụ nào đó, em có thể khiêu vũ hoặc vẽ một bức tranh. Họ không biết rằng, bạn bè của

7
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

em luôn tin tưởng mỗi khi em có mặt ở nơi nào đó hay biết rằng tiếng cười của em có thể làm
cho một ngày ảm đạm nhất cũng trở nên bừng sáng.
Họ không biết rằng, em có thể làm thơ hay viết nhạc, chơi hoặc tham gia thể thao nhưng đôi
khi em vẫn tự hỏi về tương lai của mình, hoặc đôi khi em vẫn chăm sóc em trai hoặc em gái
của mình sau giờ học. Họ không biết rằng em đã đi du lịch đến một nơi nào đó hoặc là em
biết kể một câu chuyện tuyệt vời hay thực sự thích thú việc dành thời gian với gia đình…
Họ có thể không biết rằng em là người đáng tin cậy, tốt bụng hay chu đáo, và mỗi ngày em
đều đã cố gắng đến mức tối đa … những điểm số mà em nhận được sẽ nói cho em biết một
chút gì đó về em nhưng chúng không nói lên tất cả những gì thuộc về con người em.
Hãy vui vẻ với kết quả học tập của mình và hãy tự hào về nó nhưng hãy nhớ, bạn vẫn còn có
nhiều cách khác để trở nên thông minh”.
(Theo http://infonet.vn, ngày 16/07/2014)
Câu 1: Chỉ ra các thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn văn bản trên. Trong đó thao tác
lập luận chính là gì?
Câu 2: Văn bản thông báo kết quả học tập trên có gì đặc biệt, khác với thông báo thông
thường?
Câu 3: Có những biện pháp tu từ nào được sử dụng trong đoạn văn 3, 4, 5? Nêu tác dụng của
các biện pháp tu từ đó.
Câu 4: Vì sao người viết khẳng định: “những điểm số mà em nhận được sẽ nói cho em biết
một chút gì đó về em nhưng chúng không nói lên tất cả những gì thuộc về con người em.”
Trình bày trong một đoạn văn ngắn (5 - 7 câu)
PHẦN II: LÀM VĂN
Câu 1: Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về nguyên
nhân của hiện tượng rất nhiều người quá coi trọng kết quả học tập của học sinh hiện nay.
Câu 2: Anh/chị hãy phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện trong
tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ đó, hãy bình luận về vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhân vật này.

ĐỀ 07
PHẦN I: ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
Rễ lầm lũi trong đất
Không phải để biết đất mấy tầng sâu
Rễ lam lũ cực nhọc và đen đúa

8
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Vì tầm cao trên đầu

Khi chưa chạm tới mây biếc


chưa là nơi ca hát những loài chim
thì dẫu phải xuyên qua bao tầng đất đá
rễ vẫn xuyên tìm

Có thể ai đó đã nghe lá hát


Đã nghe từ hoa, từ quả mùi hương
Nhưng với cây, bài ca đích thực
Là từ rễ cất lên.
(Rễ, Nguyễn Minh Khiêm)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản?
Câu 2: Để tạo nên lá, hoa, quả... “rễ” trong bài thơ đã phải làm gì? Từ hình tượng của “rễ”,
anh/chị liên tưởng đến điều gì trong cuộc đời?
Câu 3: Trong văn bản có sử dụng hình ảnh tương phản giữa rễ với những bộ phận còn lại của
cây như lá, hoa, quả; hãy chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật của sự tương phản đó.
Câu 4: “Nhưng với cây, bài ca đích thực / Là từ rễ cất lên” Anh/chị có đồng tình với quan
niệm trên không? Lí giải vì sao?
PHẦN II: LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) bàn về ý nghĩa của sự cống hiến, hi sinh thầm lặng trong cuộc sống.
Câu 2:
Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ những vùng Nam Định,
Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm
ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi
chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi
ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy
Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm
tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.
[…]
Nhìn theo bóng Tràng và bóng người đàn bà lủi thủi đi về bến, người trong xóm lạ lắm. Họ
đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Hình như họ cũng hiểu được đôi phần. Những

9
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, Nxb GD, 2016, trang 24-25)
Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích trên. Từ đó nhận xét lời tâm sự của Kim Lân về ý đồ và
cảm hứng sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”: “…Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng
không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.

ĐỀ 08
Phần I: Đọc hiểu
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu dưới đây:
Con ếch nghễnh ngãng
Một đàn ếch đang di chuyển qua cánh rừng thì 2 con ếch không may bị rơi xuống hố sâu.
Những con ếch khác cùng xem cái hố sâu đến chừng nào và kết luận rằng, hố quá sâu để có
thể vượt ra ngoài. Chúng khuyên 2 con ếch kia rằng hãy giữ sức, vì chẳng có hy vọng gì đâu.
Phớt lờ những lời nói đó, 2 con ếch bị rơi xuống hố vẫn nỗ lực tìm cách nhảy ra khỏi hố.
Những con ếch trên miệng hố, không những không động viên mà còn khuyên chúng hãy từ bỏ
đi.
Một trong 2 con ếch sau vài lần thử nhảy đã kiệt sức và chấp nhận buông xuôi. Trong khi đó,
con ếch còn lại càng nhảy càng hăng hơn và cuối cùng nó lấy hết sức nhảy vọt ra khỏi cái
hố.
Khi ra ngoài, những con ếch khác hỏi rằng: "Cậu không nghe thấy chúng tôi nói gì sao?".
Con ếch nhỏ đã giải thích rằng, vì nó bị điếc nên nó nghĩ rằng cả đàn ếch đã cổ vũ nó cố
gắng nhảy ra ngoài.
(Theo Vndoc.com)
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là gì?
Câu 2: Theo văn bản, khi bị rơi xuống hố, 2 con ếch đã có phản ứng như thế nào?
Câu 3: Theo em, hình ảnh 2 chú ếch được nhắc đến trong văn bản mang ý nghĩa biểu tượng
gì?
Câu 4: Thông điệp ý nghĩa nhất anh/chị rút ra từ văn bản trên là gì?
Phần II: Làm văn
Câu 1: Từ nội dung của phần đọc hiểu, anh chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về trích dẫn:
“Điều quan trọng không phải là những gì xảy đến với cuộc sống của bạn mà là cách bạn nhìn
vào biến cố đó.”

10
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 2: Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã 2 lần miêu tả sự trỗi dậy
của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân: “Trong đầu Mị đang
rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách.” và trong đêm đông: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây
mây cởi trói cho A Phủ… Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị
đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc”.
Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong hai lần miêu tả
trên, từ đó làm nổi bật sự khác biệt cơ bản trong hai lần sức sống tiềm tàng trỗi dậy ấy.

ĐỀ 09
PHẦN I: ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu
Trong một cuộc sống vận hành ngày càng nhanh, những áp lực ngày càng tăng và những
thay đổi diễn ra chóng vánh, tồn tại trong thế giới ấy như thế nào, đó là lựa chọn của ta. Dĩ
nhiên, ta không thể đi ngược dòng chảy. Ta không thể mang câu nói của ông bà ngày xưa
“tốt gỗ hơn tốt nước sơn” để kháng cự trào lưu. Bề ngoài giờ đây quan trọng không kém nội
dung, dù là con người hay sản phẩm. Trong lĩnh vực hàng hóa, các nhà sản xuất phải làm
ưng mắt khách hàng trước, rồi mới có cơ hội chứng tỏ chất lượng. Bản thân mỗi chúng ta
cũng vậy. Nếu không có ngoại hình phù hợp với nơi ta bước vào, ta hãy chuẩn bị tinh thần ta
sẽ bị nơi ấy từ khước.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa vẻ đẹp ngoại hình đóng vai trò tối thượng. Ý niệm về vẻ
đẹp vẫn nên là một phép cân bằng giữa nội dung và hình thức. Ngoại hình rất quan trọng, dù
vậy, nó cũng chỉ là một trong rất nhiều yếu tố tạo nên con người ta. Nó không phải là tất cả,
và không thể thay thế hay lấp đầy những yếu tố khác, như học vấn, tri thức, tài năng, lòng
nhân ái, óc hài hước… Thời gian sống và tài lực của mỗi người là có hạn. Nếu ta dồn hết
tâm sức cho vẻ ngoài, dĩ nhiên các yếu tố khác sẽ đi xuống trong một biểu đồ bù trừ.
Và còn một điều nữa ta đừng quên, đó là so với các giá trị khác, vẻ đẹp bề ngoài luôn là giá
trị phai tàn trước nhất, bởi thời gian. Cái đẹp thường mặc định phải đi cùng tuổi trẻ. Đến
một lúc nào đó, tuổi trẻ qua mất, nhan sắc rời đi, điều khiến ta sống dễ chịu và dễ dàng hơn
là các giá trị khác, sức khỏe hay những mối liên hệ tình thân chẳng hạn.
(Nguồn: Trí Thức Trẻ)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2: Theo đoạn trích, quan niệm về vẻ đẹp hiện nay khác gì so với ngày xưa?
Câu 3: Dựa vào đoạn trích, anh/chị hãy lí giải tại sao vẻ đẹp ngoại hình không phải là tất cả?

11
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 4: Anh/chị có đồng tính với quan điểm: “Nếu không có ngoại hình phù hợp với nơi ta
bước vào, ta hãy chuẩn bị tinh thần ta sẽ bị nơi ấy từ khước.” không? Vì sao?
PHẦN II: LÀM VĂN
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200
chữ) bàn luận về tầm quan trọng của vẻ đẹp ngoại hình trong cuộc sống ngày nay.

Câu 2: Phân tích hai đoạn thơ trong thi phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu. Từ đó anh/chị hãy nêu
cảm nhận về quá trình sống, chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và dân ta
thời kì kháng chiến chống Pháp.
Ta đi, ta nhớ những ngày

Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những đường Việt Bắc của ta

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

ĐỀ 10
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Với những người bình dân, “fake news” có thể là một thuật ngữ khá mới. Thật ra thuật ngữ
này được sử dụng để chỉ về những hiện tượng đã rất cũ: chuyện thông tin sai sự thật. Người
bình dân hay gọi nôm na là tin vịt, tin đồn nhảm, tin đặt điều bịa chuyện.
[...]Từ khi cơn đại dịch Covid-19 nổ ra, cơn dịch “fake news” cũng theo đó mà hoành hành.
Ai cũng muốn mình có tiếng nói trong thế giới ảo. Ai cũng muốn làm nhà đưa tin nhanh nhất
và hot nhất. Cả khi tin tức chưa được xác minh và chính bản thân mình cũng chưa cân nhắc
được những thiệt hại có thể gây ra, người ta vẫn cho phép mình đăng tải và phát tán tin tức.
Chỉ khổ cho những người bình dân đơn sơ, gặp tin gì cũng tin. Chỉ tội nghiệp cho những
người luôn bắt đầu lý luận bằng câu khẳng định: trên mạng nói thế này, trên mạng nói thế
kia…
[...]Ông bà ta vẫn thường dạy “một lời nói dối, sám hối bảy ngày”. Không biết những người
dựng tin nói dối có biết sám hối hay không. Nhưng bất cứ một lời nói dối nào cũng có tác hại
như một loài cỏ độc, bám rễ và ăn sâu trong tâm hồn của người dung dưỡng nó. Điều bị bào
mòn và huỷ hoại trước tiên không phải là những nạn nhân của lời nói dối, nhưng chính là

12
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nhân cách của người nói dối. Hình phạt dành cho kẻ nói dối là chẳng những không một ai tin
mình, mà chính mình cũng chẳng tin được một ai (G.Bernard Shaw). Chúng ta cần cẩn trọng
và có trách nhiệm trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông, để không tự biến mình
thành người cộng tác với những lời nói dối, những kiểu thông tin làm mất bình an và gây
chia rẽ.
(Trích “Tin giả-Fake News giữa mùa đại dịch”–Vatican.com)
Câu 1 (0,5 điểm): Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích trên.
Câu 2 (0,5 điểm): Theo tác giả, “fake news” nghĩa là gì?
Câu 3 (1,0 điểm): Anh chị hiểu như thế nào về câu: “một lời nói dối, sám hối bảy ngày”?
Câu 4 (1,0 điểm): Anh/chị có đồng tình với ý kiến “Điều bị bào mòn và huỷ hoại trước tiên
không phải là những nạn nhân của lời nói dối, nhưng chính là nhân cách của người nói dối”
không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Qua đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy
nghĩ của bản thân về tác hại của tin giả.
Câu 2.(5,0 điểm)
Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong đoạn trích Đất Nước, trích trường ca Mặt đường
khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (SGK Ngữ Văn 12, tập 1, NXB GD 2008, trang
118,):
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

13
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ĐÁP ÁN ĐỀ 01

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

1 Phong cách ngôn ngữ của đoạn trích là báo chí. 0.5

2 Nội dung chính của đoạn trích là nói về đóng góp của cụ Lê Thị 0.5
Văn trong công tác phòng chống dịch Covid (0.25) và tình cảm
cụ dành cho Chính quyền và các y bác sĩ đang chiến đấu với dịch
bệnh (0.25).

3 - Cụ Văn đã chia sẻ: “Đây là số tiền...cùng đất nước đánh 1.0


thắng giặc Covid-19”. (lời chia sẻ dài nên học sinh dùng
dấu “...”)(0,5)
- Lời chia sẻ đó thể hiện cụ Văn rất có ý thức đóng góp, sẻ
chia vì cộng đồng; cụ không chỉ chia sẻ vật chất mà hành
động của cụ còn thể hiện tinh thần toàn dân cùng chung
tay chống dịch.

4 - Học sinh bày tỏ suy nghĩ của mình hành động của cụ Lê 1.0
Thị Văn như:(0,5)
+ Cảm phục tấm lòng cụ dành cho cộng đồng.
+ Ca ngợi, trân quý sự đóng góp của cụ trước tình
hình dịch bệnh đang cao trào như hiện nay,...
- Liên hệ bản thân và cuộc sống(0,5)
+ Mỗi người hãy tự nâng cao ý thức phòng chống
dịch
+ Kêu gọi đóng góp, ủng hộ phòng chống dịch
+ Tuyên truyền những tấm gương như cụ Lê Thị
Văn để cổ động tinh thần chống dịch,...

II LÀM VĂN 7.0

1 Từ nội dung đoạn trích anh chị hãy nêu suy nghĩ của mình về 2.0
sự cống hiến không kể tuổi tác trong công tác phòng chống
dịch bệnh Covid hiện nay.

14
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

0.25
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp,
tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Sự cống hiến không kể tuổi tác trong công tác phòng chống dịch
Covid-19 hiện hay.

1.0
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành luận điểm; vận dụng tốt
các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động: (1.0)

-Nêu vấn đề nghị luận.

-Giải thích: “cống hiến không kể tuổi tác” là quên đi lợi ích của
bản thân, đem hết tài năng, trí tuệ, sức lực,... đóng góp cho lợi ích
chung không kể khi trẻ hay về già.

-Biểu hiện:

+ Dù ở độ tuổi nào ta cũng phải nắm bắt tình hình, diễn biến phức
tạp của dịch bệnh Covid-19.

+ Cập nhật tin tức và tuyên truyền, cảnh báo, hướng dẫn mọi
người chấp hành nghiêm chỉnh quy định về giãn cách xã hội
trong tình hình dịch bệnh Covid-19 qua các trang mạng xã hội,
những video cổ động,... tùy vào khả năng của bản thân.

+ Tham gia công tác phòng chống dịch bệnh Covid ở địa
phương,...

+ Kịp thời báo cáo, phê phán những hành vi vô ý thức, chống đối
công tác phòng chống dịch,...

15
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Ý nghĩa: Mỗi người đều là những “chiến binh” trong công tác
tuyên truyền về phòng chống dịch, bằng những việc làm thiết
thực đã đóng góp to lớn trong công tác phòng chống dịch. Chúng
ta hãy những tổ chức phòng chống dịch tham gia và tuyên truyền
tới tất cả mọi người trong gia đình, cộng đồng; làm gương để mọi
người học hỏi, noi theo để từ đó là cả xã hội đều có ý thức phòng
chống dịch, bệnh…

- Liên hệ bản thân và cuộc sống.

0.25
d. Sáng tạo

Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn đề
cần nghị luận

0.25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

2 5.0
Vẻ đẹp cảnh vật và con người Việt Bắc qua bức tranh tứ bình.

0.25
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Vẻ đẹp cảnh vật và con người Việt Bắc qua bức tranh tứ bình.

4.0
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện
sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận;

16
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng: (4.0)

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo
một số ý cơ bản sau đây:

LĐ 1: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn
thơ

LĐ 2: Cảm nhận về bức tranh tứ bình về cảnh vật và con


người Việt Bắc

- Hai câu thơ đầu:

+ Cặp đại từ nhân xưng “mình”-“ta” là cách đối đáp quen


thuộc của tình yêu đôi lứa, vợ chồng. Bằng cách gọi này,
tác giả đã biến cuộc chia tay chính trị giữa cán bộ và
người dân Việt Bắc như cuộc chia tay của đôi lứa yêu
nhau đầy bịn rịn, lưu luyến.
+ Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại hai lần diễn tả nỗi nhớ dâng
trào mãnh liệt không kìm nén được. Đây cũng chính là
cảm xúc chủ đạo của bài thơ.
+ Điệp ngữ “ta về lặp lại hai lần và đứng đầu mỗi dòng thơ
giúp tô đậm tâm trạng người ra đi, thể hiện sự tiếc nuối,
không nỡ rời xa.
+ Đối tượng của nỗi nhớ: “hoa” và “người”. “Hoa” là biểu
tượng cho cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, còn “người”
được coi là “hoa của đất” theo như cách nói của ca dao.
Trong nỗi nhớ của người ra đi, “hoa” và “người” như
đồng hiện, soi chiếu nhau tạo nên vẻ đẹp khắc sâu trong
tâm hồn người chiến sĩ Cách mạng.

- Bức tranh mùa đông:

+ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng bút pháp chấm


phá: nổi bật trên nền xanh rộng lớn của núi rừng là màu

17
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đỏ của hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến
hình ảnh ngọn đuốc xua đi cái lạnh của của núi rừng mùa
đông) và màu vàng của những đốm nắng.
+ “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: hình ảnh tia nắng
ánh lên từ con dao gài thắt lưng gợi dáng vẻ khỏe khoắn,
lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên
nhiên, cuộc sống.

- Bức tranh mùa xuân:

+ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khôi của


hoa mơ tràn ngập không gian núi rừng, thiên nhiên tràn
đầy nhựa sống khi xuân về.
+ Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và
cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”,
“chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút, tỉ mỉ với
từng thành quả lao động của mình.

-Bức tranh mùa hạ:

+ “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: toàn bộ khung cảnh thiên


nhiên như đột ngột chuyển sang sắc vàng qua động từ
“đổ”:
● Có thể liên tường màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu
tưng bừng, đầy sức sống
● Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở
hoa.
+ “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái”: cách
gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả với con
người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể
hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người
Việt Bắc.

- Bức tranh mùa thu

18
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

+ “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu
sáng núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”,
niềm vui và tự do.
+ Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có
tấm lòng thủy chung, nặng ân tình.

Luận điểm 3: Đánh giá:

Bức tranh tứ bình về Việt Bắc được Tố Hữu khắc họa đầy ấn
tượng với những màu sắc tươi sáng, ấm áp, âm thanh rộn rã. Mùa
nào cũng đẹp, cũng đằm thắm, tinh tế. Vẻ đẹp thiên nhiên Việt
Bắc và con người đan cài, hòa quyện làm cho tình yêu Việt Bắc
càng nồng nàn, nỗi nhớ Việt Bắc càng thêm da diết.

0.25
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt độc đáo; suy nghĩ, kiến giải mới mẻ
về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và tư tưởng của tác giả.

0.25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ
pháp, ngữ nghĩa của tiếng Việt.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I.ĐỌC HIỂU

Câu 1:

Phong cách ngôn ngữ chính là báo chí.

=>Cách xác định:

- Phía cuối đoạn trích ghi nguồn: Trích “Nhân dân quận Thủ Đức đồng lòng phòng
chống dịch bệnh Covid-19, 18/04/2020.
- Đoạn trích chứa nội dung mang tính thời sự, sự kiện, nhân vật cụ thể, thông tin nhanh,
ngắn gọn.

19
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 2:

Nội dung chính của đoạn trích là nêu lên những đóng góp của cụ Lê Thị Văn trong
công tác phòng chống dịch Covid và tình cảm cụ dành cho Chính quyền và các y bác sĩ đang
chiến đấu với dịch bệnh.

=> Cách xác định: Đọc thật kỹ văn bản, xác định được nội dung chính của từng đoạn.
Câu 3:
Cụ Lê Thị Văn chia sẻ: ““Đây là số tiền tôi được nhận huy hiệu 70 năm tuổi Đảng,
ban đầu dự định dùng toàn bộ số tiền này làm công tác từ thiện gì đó mang ý nghĩa cộng
đồng chứ không tiêu xài cho cá nhân. Tuy nhiên, khi xem tin tức về diễn biến phức tạp của
dịch bệnh cùng với thông tin phát động toàn dân chung sức ủng hộ công tác phòng chống
dịch bệnh của Đảng, Nhà nước, tôi đã quyết định dùng số tiền này ủng hộ cho Quỹ Phòng
chống dịch Covid-19 với mong muốn đóng góp chút vật lực và tình cảm của mình cùng đất
nước đánh thắng giặc Covid-19”
=> Cách xác định: tìm từ khóa “Cụ Văn chia sẻ” trong bài, trích dẫn nguyên si lời của cụ và
đặt trong dấu “...””
Lời chia sẻ đó thể hiện cụ Văn rất có ý thức đóng góp, sẻ chia vì cộng đồng; cụ không
chỉ chia sẻ vật chất mà hành động của cụ còn thể hiện tinh thần toàn dân cùng chung tay
chống dịch.
=>Cách xác định: cần hiểu rõ nội dung của bài viết và lời chia sẻ của cụ Văn để làm câu này.
Câu 4:
Hành động đóng góp, sẻ chia cũng như tình cảm của cụ dành cho chính quyền khiến
em rất cảm phục tấm lòng cụ dành cho cộng đồng. Cụ đã dùng số tiền khi được nhận huy
hiệu 70 năm tuổi Đảng nhờ những đóng góp của mình cho xã hội, đất nước để giờ đây lại một
lần nữa, cụ đã khiến số tiền ấy trở nên ý nghĩa khi ủng hộ cho chiến dịch chống dịch Covid-
19 đang hoành hành trên cả nước. Đó là hành động đáng ca ngợi, trân quý và học tập. Chúng
ta hãy nâng cao ý thức phòng chống dịch Covid-19 cũng như kêu gọi mọi người cùng đóng
góp, ủng hộ phong trào chống dịch. Mỗi chúng ta hãy là một chiến sĩ hậu phương để những y
bác sĩ cùng chính quyền an tâm diệt giặc Covid-19 nhé!
=> Cách làm: nêu ra suy nghĩ của bản thân =>Lý giải (dựa vào nội dung văn bản) =>Liên hệ
bản thân và mọi người.

II.LÀM VĂN

20
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 1:
Dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 thực sự đã gieo nỗi kinh hoàng trên toàn thế
giới: hơn hai triệu ca mắc bệnh, hơn một trăm nghìn người tử vong, hơn ba mươi quốc gia có
người bị lây nhiễm, đó là những con số gây ám ảnh của một căn bệnh đã trở thành “thảm họa
toàn cầu”- Covid-19. Tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp đòi hỏi mỗi người dân đều phải
nâng cao ý thức phòng chống dịch bệnh và đó là lúc để thể hiện sự cống hiến không kể tuổi
tác trong công tác phòng chống dịch Covid-19 hiện nay. Dù ở độ tuổi nào ta cũng phải nắm
bắt tình hình, diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19 qua các phương tiện thông tin đại
chúng đáng tin cậy. Việc cập nhật tin tức và tuyên truyền, cảnh báo, hướng dẫn mọi người
chấp hành nghiêm chỉnh quy định về giãn cách xã hội trong tình hình dịch bệnh Covid-19 là
nghĩa vụ, trách nhiệm không của riêng ai. Tôi đã rất xúc động trước tấm gương cụ Lê Thị
Văn ở Thành phố Hồ Chí Minh, dù đã 70 năm tuổi Đảng nhưng vẫn không ngần ngại ủng hộ
15 triệu đồng cho công tác phòng chống dịch bệnh ở địa phương. Tôi cũng đã nở nụ cười trìu
mến trước hình ảnh những em nhỏ ngoan ngoãn học bài tại nhà, nghe lời cha mẹ, thầy cô, trở
thành một phần hậu phương vững chắc để cha mẹ các em an tâm và vững vàng trong thời kì
khó khăn bởi dịch bệnh. Mỗi người đều là những “chiến binh” trong công tác tuyên truyền về
phòng chống dịch, “chiến binh” nhỏ tuổi có, “chiến binh” lão thành cũng có, bằng những việc
làm thiết thực đã đóng góp to lớn trong công tác đẩy lùi dịch bệnh. Vậy tại sao ta còn lưỡng
lự và chần chừ, hãy suy nghĩ đúng, hành động đúng để góp phần phòng chống căn bệnh quái
ác và lâu dài hơn là xây dựng một cộng đồng đoàn kết, phát triển vững bền. Mỗi cá nhân là
một tế bào của xã hội, chính vì vậy để dịch bệnh mau chóng qua đi trả lại bình yên cho cuộc
sống, mỗi người chúng ta hãy cống hiến hết sức mình không kể vật chất, tinh thần. Ngay lúc
này đây, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái cần được nâng lên cao nhất để chiến thắng
cơn đại dịch thế kỷ.
Câu 2: Tham khảo đề 5 trong bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 02

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

1 Phong cách ngôn ngữ của văn bản trên là chính luận. 0.5

2 Quan điểm của tác giả về “sống” là: “Sống tức là thực hiện một 0.5
cuộc hành trình không thể trì hoãn…”

21
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

3 Nhận định đã nói lên trong cuộc đời mỗi con người đều phải đưa 1.0
ra những lựa chọn, đó có thể là lựa chọn đúng, cũng có thể là sai
bởi không phải ai cũng may mắn có xuất phát điểm tốt, được giúp
đỡ, không ai biết trước được tương lai sẽ xảy ra điều gì vì vậy mỗi
người hãy tự làm chủ quyết định, quyền phán đoán của bản thân về
tương lai.

4 - Học sinh đưa ra thông điệp mà mình cảm nhận được và lý 1.0
giải sao cho hợp lý.
- Đưa ra liên hệ bản thân và cuộc sống.

II LÀM VĂN 7.0

1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của 2.0
anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu:
“Sống tức là thực hiện một cuộc hành trình không thể trì hoãn”.

0.25
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận

Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp,
tổng – phân – hợp, móc xích hoặc song hành.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

Nêu suy nghĩ về nhận định: “Sống tức là thực hiện một cuộc hành
trình không thể trì hoãn”.

1.0
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành luận điểm; vận dụng tốt
các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng;
rút ra bài học nhận thức và hành động: (1.0)

-Nêu vấn đề nghị luận.

-Giải thích:

+ Cuộc hành trình: để nói về con đường đời của mỗi con

22
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

người trong cuộc sống.


+ Trì hoãn: chần chừ, do dự trước một dự định nào đó.

-Bàn luận vấn đề:

+ Cuộc sống không phải bao giờ cũng thuận lợi, suôn sẻ, mà
luôn có những khó khăn, thử thách vì vậy nếu sợ hãi,“trì
hoãn”, trốn tránh, con người sẽ không bao giờ có thể bước
đến thành công.
+ Cuộc đời của mỗi người là hữu hạn vì vậy nếu còn chần
chừ, do dự ta sẽ bỏ lỡ thời gian và những cơ hội quý giá để
xây dựng cuộc sống và tìm kiếm thành công.
+ Dũng cảm bước đi, chấp nhận đương đầu với mọi khó
khăn, thử thách, con người sẽ trưởng thành, được sống một
cuộc đời phong phú, giàu trải nghiệm và có ý nghĩa.

-Dẫn chứng cụ thể: Nick Vujicic, diễn viên Mai Phương,...

-Lật lại vấn đề: chúng ta thực hiện “cuộc hành trình không thể trì
hoãn” nhưng phải lưu tâm đến sự khách quan của điều kiện. Ta
phải gắn dự định, mục tiêu vào hoàn cảnh cuộc sống sao cho phù
hợp tránh để cuộc sống lao đi mất kiểm soát, bất chấp tất cả để
thực hiện.

-Liên hệ bản thân và cuộc sống.

0.25
d. Sáng tạo

Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn đề
cần nghị luận

0.25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu

Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

23
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

2 5.0
Sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật anh cu Tràng khi đưa
người “vợ nhặt” về nhà qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của
tác phẩm.

0.25
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận

Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề,
thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.

0.25
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận

Sự chuyển biến tâm trạng của nhân vật anh cu Tràng khi đưa
người “vợ nhặt” về nhà qua đó thể hiện giá trị nhân đạo của tác
phẩm.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện
sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng:

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo một
số ý cơ bản sau đây:

0.5
LĐ 1: Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

LĐ 2: Phân tích sự chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật 2.5
anh cu Tràng từ khi đưa người “vợ nhặt” về nhà.
- Giới thiệu về anh cu Tràng:
+ Hoàn cảnh gia đình: “dân ngụ cư” bị khinh bỉ, cha mất
sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh.
+ Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai
bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ
ngờ nghệch, vụng về, …

24
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Sau hai lần gặp gỡ định mệnh, giữa cơn đói kém, thị đã đồng ý
theo Tràng về làm vợ, hai người nên duyên vợ chồng trong hoàn
cảnh bi hài và trớ trêu.

- Trên đường về: Vẻ mặt “có cái gì phớn phở khác thường”, “tủm
tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm
trạng hạnh phúc, hãnh diện, chưa thể tin nổi rằng mình đã có vợ.

- Khi về đến nhà:

+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự


bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu
nhưng chân thật, mộc mạc.

+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo


rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ
tuột khỏi tay.

+ Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ


hẳn đi.

-Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà, Tràng


nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng
thấy mình trưởng thành hơn, nghĩ cần phải chăm lo cho cái “hạnh
phúc” mới có của mình.

+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh “đám
người đói và lá cờ bay phấp phới”, đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi
đời, con đường đi mới manh nha trong tâm trí Tràng.

LĐ 3: Đánh giá giá trị nhân đạo của tác phẩm 1.0

- Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và
cái chết đầy bi thương của những năm trước Cách mạng
tháng Tám nhưng vẫn ánh lên khát khao hạnh phúc mãnh
liệt của người lao động nghèo khổ.

25
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Tấm lòng cảm thông, thấu hiểu thể hiện ở nghệ thuật miêu
tả tâm lí nhân vật một cách chi tiết, chính xác và hấp dẫn.
- Nhà văn đã khẳng định vẻ đẹp đáng trân trọng của người
lao động dù trong hoàn cảnh nào họ cũng không nguội tắt
hy vọng, vẫn vươn lên để sống với một niềm tin vào tương
lai tốt đẹp hơn, thể hiện ở hình ảnh đám người đói và lá cờ
đỏ bay phấp phới cứ trở đi trở lại trong tâm trí Tràng ở cuối
câu chuyện.

0.25
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt độc đáo; suy nghĩ, kiến giải mới mẻ
về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm và tư tưởng của tác giả.

0.25
e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp,
ngữ nghĩa của tiếng Việt.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I.ĐỌC HIỂU

Câu 1(0.5) Phong cách ngôn ngữ của văn bản trên là chính luận.

=>Cách xác định:

-Văn bản trên có dạng văn xuôi.

-Văn bản đề cập đến vấn đề trong cuộc sống, trình bày quan điểm của tác giả về vấn đề đó.

Câu 2(0.5)

Quan điểm của tác giả về “sống” là: “Sống tức là thực hiện một cuộc hành trình không thể trì
hoãn…

=>Cách xác định: đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi tiết
trong bài. Tìm trong bài và trích dẫn đặt trong dấu “...”

Câu 3(1.0)

Câu nói: “Trước muôn vàn lối rẽ, không ai có được bản đồ trong tay, cũng không phải ai
cũng có kim chỉ nam dẫn đường, tất cả đều phải dựa vào sự phán đoán và lựa chọn của bản

26
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thân” đã nói lên trong cuộc đời mỗi con người đều phải đưa ra những lựa chọn, đó có thể là
lựa chọn đúng, cũng có thể là sai bởi không phải ai cũng may mắn có xuất phát điểm tốt,
được giúp đỡ, không ai biết trước được tương lai sẽ xảy ra điều gì. Vì vậy mỗi người hãy tự
làm chủ quyết định, quyền phán đoán của bản thân về tương lai.
=>Cách xác định: đọc thật kỹ câu nói và bám vào ngữ cảnh của đoạn văn bản, có thể giải
thích từng cụm từ để tường minh hơn nhưng với câu nói đã rõ ràng thì chỉ cần khái quát ý
nghĩa câu nói là đạt yêu cầu.

Câu 4(1.0)

-Học sinh đưa ra thông điệp mà mình cảm nhận được và lý giải, trong đó có những thông
điệp chính sau:

+ Trong cuộc đời sẽ phải trải qua rất nhiều khó khăn, vấp ngã, thậm chí thất bại nhưng
khi còn sống, thì ta cần không ngừng nỗ lực, cố gắng.
+ Cuộc đời của chúng ta ra sao, thành công hay thất bại đều do chính mỗi chúng ta lựa
chọn.
+ Trước muôn vàn ngã rẽ của cuộc đời, chúng ta cần suy nghĩ chín chắn, lựa chọn cẩn
thận để đưa ra những quyết định đúng đắn nhất.

-Đưa ra liên hệ bản thân và cuộc sống.

II.LÀM VĂN

Câu 1:

- Xác định vấn đề nghị luận: suy nghĩ về nhận định: lối sống chủ động, không trì hoãn,
không ngại ngần lảng tránh trước khó khăn, thử thách, tự tin làm chủ cuộc đời mình.

Cuộc sống hiện đại luôn vận động không ngừng nghỉ, mỗi giây phút đều trôi qua thật
nhanh, nếu không sớm nhận thức được và tự thân nỗ lực thì chẳng mấy chốc ta đã tự gắn cho
cuộc đời của mình hai chữ “vô nghĩa”. Câu nói: “Sống tức là thực hiện một cuộc hành trình
không thể trì hoãn” như một lời nhắc nhở, thúc giục ta hãy nhanh chóng bước những bước đi
của hoài bão, của dấn thân, của cố gắng. Bằng hình ảnh so sánh giữa cuộc sống và “cuộc
hành trình không thể trì hoãn”, câu nói đã đem đến cho chúng ta bài học về lối sống chủ
động, không trì hoãn, ngần ngại hay lảng tránh trước gian nan thử thách, từ đó tự tin làm chủ
cuộc đời mình. Trì hoãn sẽ chỉ khiến ước mơ mãi luôn nằm trên trang giấy, thành công mãi
chỉ là chân trời xa vời ta không thể chạm tới. Bởi một quy luật đơn giản: “Có làm thì mới có
ăn / Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (Tục ngữ). Bạn dám nghĩ, nhưng không dám làm,

27
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bạn muốn thành công, nhưng sợ thất bại? Nhưng những người dám làm không bao giờ hối
hận vì những điều mình đã bỏ ra, đã quyết tâm nỗ lực, đã không ngại ngần mà tự tin vươn tới
để theo đuổi lí tưởng đời mình. Không trì hoãn đam mê xê dịch, dù đã có những lúc muốn
gục ngã vì làm năm công việc một lúc, chàng trai Lý Thành Cơ đã trở thành một travel
blogger nổi tiếng, 25 tuổi đi được 30 quốc gia mà vẫn hoàn thành tốt công việc với mức
lương lí tưởng. Cuộc đời của mỗi người là hữu hạn vì vậy nếu còn chần chừ, do dự ta sẽ bỏ lỡ
thời gian và những cơ hội quý giá để xây dựng cuộc sống và tìm kiếm thành công. Hãy dũng
cảm bước đi, chấp nhận đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, con người sẽ trưởng thành,
được sống một cuộc đời phong phú, giàu trải nghiệm và có ý nghĩa. Qua đó ta thấy được câu
nói “Sống tức là thực hiện một cuộc hành trình không thể trì hoãn” hoàn toàn đúng đắn. Mỗi
người hãy tự đặt ra mục tiêu phù hợp cho bản thân và lập kế hoạch để thực hiện nó, hãy tự tin
vào năng lực của mình và bạn sẽ chinh phục được những ước muốn còn đang ấp ủ. Bởi nếu
như Paven trong “Thép đã tôi thế đấy” từng “tuyên thệ” lẽ sống của đời mình: “Cái quý nhất
của con người ta là sự sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân
hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn
của mình”, thì mỗi chúng ta, với sự sống quý giá trong tay, không có lí do gì để trì hoãn thêm
nữa. Đừng để dành mọi việc cho ngày mai mà hãy luôn tự hỏi: Không bây giờ thì là bao giờ?

Câu 2: Tham khảo đề 13 trong bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 03

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phương thức tự sự 0.5

Câu 2 Người học trò đã mang bài toán của thầy giáo về nhà nhưng 0.5
anh nghĩ mãi không ra. Anh bắt đầu cảm thấy yêu cầu của thầy
hết sức vô lí và không thể thực hiện được.

Câu 3 Ý nghĩa biểu tượng của hai đường thẳng: 1.0


- Đường thẳng ban đầu, ngắn hơn, tượng trưng cho đối
thủ, những điều mà con người muốn vượt qua.
- Đường thẳng mới, dài hơn, tượng trưng cho bản thân
mỗi con người.
=> Ta không thể thay đổi đường thẳng ban đầu, chỉ có thể vẽ

28
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

một đường thẳng khác dài hơn, đồng nghĩa với việc ta không
thể làm thay đổi đối thủ, để vượt lên, cách tốt nhất là nỗ lực để
bản thân ngày một xuất sắc hơn.

Câu 4 - Thí sinh trình bày bài học ý nghĩa nhất được rút ra từ 1.0
văn bản.
- Nêu lí do thuyết phục.
Gợi ý: Bài học về sự tự nỗ lực, bài học về chiến thắng bản
thân, bài học về sự cố gắng để trở nên ưu tú hơn, bài học về
động lực để vươn lên...

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 100 chữ) bàn về ý nghĩa của 2.0
câu nói: “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách
nhất” (Platon)

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Chiến thắng bản thân 0.25
là chiến thắng hiển hách nhất.

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:

- Giải thích, khẳng định ý nghĩa nhận định: “Chiến thắng


bản thân” là vượt lên chính mình, hiểu được điểm yếu,
nỗi sợ hãi của bản thân và tự mình vượt qua nó, hay
còn là sự phá bỏ những giới hạn tầm thường của bản
thân. “Chiến thắng hiển hách nhất” là chiến thắng đem
lại vinh quang, sự vui sướng tột độ và mang nhiều ý
nghĩa quan trọng. => Chiến thắng bản thân, vượt lên
chính mình sẽ đem đến những vinh quang, những
thành công và hạnh phúc xứng đáng.

29
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Bàn luận:
+ Chiến thắng bản thân là khi ta hiểu được những
khuyết điểm của mình và tự giác vươn lên, khắc
phục; là khi ta vượt qua được những nỗi sợ hãi
của mình, những giới hạn về tri thức, về sức
khỏe, về hiểu biết… của bản thân mình.
+ Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách
nhất vì không có đối thủ nào hiểu ta bằng chính
ta, vượt lên chính mình sẽ tạo ra những cái tôi
ưu tú hơn, ngày một hoàn thiện hơn.
+ Để chiến thắng bản thân mỗi người cần nghiêm
túc nhìn nhận, thẳng thắn đánh giá, có sự khiêm
tốn, kiên trì, nỗ lực không ngừng nghỉ, chiến
thắng về cảm xúc, chiến thắng về ý chí...
+ Dẫn chứng: Khang A Tủa đã chiến thắng số
phận của một chàng trai dân tộc thiểu số để trở
thành sinh viên trường Đại học nổi tiếng thế
giới….
- Bài học và liên hệ bản thân

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Cảm nhận về trích đoạn thơ trong “Đất Nước” (Nguyễn 5.0
Khoa Điềm), từ đó bình luận về phong cách thơ trữ tình -
chính luận của tác giả.

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: cảm nhận về đoạn thơ, từ 0.25

30
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đó bình luận về phong cách trữ tình - chính luận của tác giả.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5


- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu
biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mĩ, với
phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén,
mang màu sắc trữ tình - chính luận.
- “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca
“Mặt đường khát vọng”, sáng tác năm 1971 tại chiến
trường Bình Trị Thiên. Đoạn trích được xem là đoạn
thơ hay về đề tài quê hương đất nước của thơ ca Việt
Nam hiện đại.

LĐ 2: Cảm nhận đoạn thơ 2.5


* Đất nước trong tư tưởng của tác giả trước tiên là của những
con người vô danh
- Trên phương diện lịch sử, bốn ngàn năm đã trôi qua là
bốn ngàn năm nhân dân cần cù lao động, kiên cường
chống giặc và bảo vệ đất nước.
- Ở đó, vẻ đẹp tâm hồn, tính cách VN được khám phá và
ngời sáng. Họ là vô vàn những con người bình dị, vô
danh. Họ chính là nhân dân - những con người bình
thường mà phi thường, giản dị, mộc mạc mà cao cả, kỳ
vĩ. Chính nhân dân đã tạo dựng, gìn giữ ĐN trải qua
bao thời đại.
- Những con người bình thường, giản dị trong cuộc sống
hàng ngày nhưng cũng rất đỗi phi thường khi đứng lên
bảo vệ Tổ quốc trước quân xâm lược.
- Điểm mới của NKĐ trong cái nhìn về ĐN qua thời
gian lịch sử là đã thấy được vai trò không thể thay thế
của những con người bình dị, vô danh mặc dù “không

31
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ mới là người “làm


nên ĐN muôn đời”.
* Vai trò của nhân dân trong việc hình thành và gìn giữ những
giá trị đáng quý của đất nước
- Nhân dân âm thầm giữ gìn và để lại cho thế hệ sau mọi
giá trị vật chất và tinh thần: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói,
bản sắc văn hóa các vùng miền, các thành quả lao
động. Họ tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau
truyền thống yêu nước và đánh giặc.
- “Để ĐN này là ĐN của nhân dân/ ĐN của Nhân dân,
ĐN của ca dao thần thoại”: khẳng định như một chân
lí. Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ
của văn hóa văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao.
Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời
sống tâm hồn, tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ.
NKĐ đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp
tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, bản sắc Việt: thật say
đắm trong tình yêu (Dạy anh biết “yêu em từ thuở
trong nôi”), quý trọng tình nghĩa (“Biết quý công cầm
vàng những ngày lặn lội”) và kiên trì, bền bỉ trong đấu
tranh (“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà
không sợ dài lâu”)
* Nghệ thuật: Đoạn trích sử dụng hiệu quả, sáng tạo thể thơ tự
do, chất liêụ văn hóa và văn học dân gian; kết hợp hài hòa giữa
chất trữ tı̀nh và chı́nh luân;

LĐ 3: Nhận xét về phong cách thơ trữ tình - chính luận của 1.0
Nguyễn Khoa Điềm
- NKĐ với giọng thơ giàu suy tư, vừa dạt dào chất trữ
tình vừa sâu lắng chất chính luận.
- Chất trữ tình nằm trong xúc cảm cá nhân được bộc lộ
trong thơ, thể hiện ở lối thơ tâm sự ngọt ngào đằm
thắm giữa “anh” và “em”, thể hiện ở chất dân gian với
những hình ảnh thân thuộc, gần gũi, gợi cảm.

32
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Chất chính luận thể hiện ở chiều sâu suy tư và cảm


nhận của tác giả về tư tưởng “ĐN của Nhân dân”, gắn
vận mệnh đất nước với số phận, trách nhiệm của những
con người bình dị vô danh. Đó là một quan điểm có
tính thời sự, lớn lao nhưng cũng vô cùng bức thiết
trong bối cảnh chiến tranh và cả trong thời kì hòa bình.
- Phong cách thơ trữ tình - chính luận được thể hiện đặc
sắc và rõ nét ở cả nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

PHẦN I: ĐỌC HIỂU

Câu 1: Phương thức biểu đạt của văn bản trên là tự sự.

=> Cách xác định:

- Trong văn bản, tác giả kể về sự việc giữa cậu học trò và người thầy của mình:

+ Có nhân vật: thầy giáo, học trò.

+ Có cuộc trò chuyện giữa hai thầy, trò.

+ Có diễn biến hành động của hai nhân vật.

+ Có các câu trần thuật.

Câu 2: Người học trò đã mang bài toán của thầy giáo về nhà nhưng anh nghĩ mãi không ra.
Anh bắt đầu cảm thấy yêu cầu của thầy hết sức vô lí và không thể thực hiện được.

=> Cách xác định: đọc kỹ văn bản và tìm trong bài các trích dẫn đặt trong dấu “...” - diễn tả
thái độ của người học trò để trả lời chính xác cho câu hỏi.

Câu 3:

Trong cách lí giải của thầy giáo, hai đường thẳng là biểu trưng cho những điều mà
con người muốn vượt qua và chính bản thân mình. Đường thẳng ban đầu là đường ngắn hơn,

33
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tượng trưng cho đối thủ, những điều mà con người muốn vượt qua. Còn đường thẳng mới lại
dài hơn và tượng trưng cho bản thân mỗi con người. Như vậy, ta không thể thay đổi đường
thẳng ban đầu, chỉ có thể vẽ một đường thẳng khác dài hơn, đồng nghĩa với việc ta không thể
làm thay đổi đối thủ, để vượt lên, cách tốt nhất là nỗ lực để bản thân ngày một xuất sắc hơn.

=> Cách xác định: đọc thật kỹ câu hỏi và bám vào ngữ cảnh của đoạn văn bản, giải nghĩa đầy
đủ các đối tượng đề hỏi, có thể giải thích từng cụm từ để ý nghĩa nêu ra tường minh hơn.

Câu 4:

Nêu lên bài học ý nghĩa nhất (1) và liên hệ với bản thân (2).

(1) Tham khảo một trong những bài học sau:


- Trong cuộc sống của chúng ta, có biết bao khó khăn mà ta cần phải vượt qua. Những
khó khăn đó như một định luật tự nhiên để ta có thể phát triển và thăng tiến. Nhưng
để có thể vượt qua được những khó khăn đó đòi hỏi chúng ta phải có sự kiên trì, bền
bỉ.
- Người có ý chí, nghị lực, biết tự nỗ lực sẽ khắc phục được hạn chế của bản thân, tìm
ra đường đi từ ngõ cụt, biết xuyên thủng màn đêm của khó khăn để bước ra ánh sáng.
- Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất mà chúng ta ai cũng cần đạt được.
Bạn đừng bao giờ hòa hoãn với bản thân để duy trì những thói quen xấu. Bạn sẽ
chẳng bao giờ đạt được điều mình muốn nếu như không cố gắng, không quyết tâm và
không thực sự muốn thành công. Hãy chiến thắng bản thân để có được sức mạnh
vươn tới những vì sao.
- Không ai có thể sống thay cho bạn, cũng không ai chịu trách nhiệm về cuộc đời thay
bạn, kể cả cha mẹ. Đừng giống như những kẻ mộng mơ, chỉ biết ngồi im và mong
muốn vận may đến với mình. Vận may của bạn xuất phát chính từ tư duy của con
người bạn. Hãy gạt bỏ những tư duy của lối sống tiêu cực, khám phá sự ưu tú của bản
thân và hoàn thành vận mệnh được thượng đế trao ban: “Sống một cuộc sống không
bao giờ hối tiếc”.
(2) Tham khảo cách sau: Hiểu được điều đó, tôi luôn chọn hành động thay vì ảo vọng,
chọn nỗ lực tự thân thay vì hạ bệ người khác để vươn lên. Vì cuộc đời dài rộng, giữa
thế giới biết bao người ưu tú, tôi quyết tâm trở thành phiên bản hoàn hảo nhất của bản
thân.

PHẦN II: LÀM VĂN

Câu 1:

34
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Cuộc đời của mỗi người từ khi sinh ra cho tới lúc trưởng thành rồi nhắm mắt xuôi tay
đều phải trải qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Nhưng thực chất, thứ đáng sợ nhất ngăn cản
bước chân của bạn tiến đến thành công chính là nỗi sợ hãi, sự tự ti ẩn sâu bên trong con
người bạn, khiến bạn không dám đối mặt và vượt qua, thay vì những trở ngại do hoàn cảnh
khách quan. Chính vì thế, điều quan trọng là bạn có dám đương đầu với những trở ngại của
chính mình hay không, bởi “Chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển hách nhất” (Platon).
Vượt lên chính mình, hiểu được điểm yếu, nỗi sợ hãi của bản thân và tự mình vượt qua nó,
hay là sự phá bỏ những giới hạn tầm thường của bản thân, “chiến thắng bản thân” chính là
“chiến thắng hiển hách nhất”, là chiến thắng đem lại vinh quang, sự vui sướng tột độ và mang
nhiều ý nghĩa quan trọng. Như vậy, câu nói đã khẳng định ý nghĩa của việc chiến thắng bản
thân, vượt lên chính mình sẽ đem đến những vinh quang, thành công và hạnh phúc xứng
đáng. Chiến thắng bản thân là khi ta hiểu được những khuyết điểm của ban thân và tự giác
vươn lên, khắc phục; là khi ta vượt qua được những nỗi sợ hãi, tự ti. mặc cảm những giới hạn
về tri thức, về sức khỏe, về hiểu biết…, những hàng rào vô hình do chính ta tạo nên luôn
ngăn trở ta đến với thành công. Chàng trai Khang A Tủa nếu không vượt lên chính mình,
không dũng cảm vượt qua sự tự ti của một học trò người H’Mông, không nỗ lực học từng con
chữ tiếng Anh, học tự tin, học hòa nhập, thì anh đã không thể trở thành một sinh viên Đại học
Fulbright ưu tú như hiện nay. Quả thật, thành quả “hiển hách” và xứng đáng luôn đến với
những ai kiên trì, dũng cảm vươn lên. Bên cạnh đó, chiến thắng bản thân là chiến thắng hiển
hách nhất bởi không có đối thủ nào hiểu ta bằng chính ta, vượt lên chính mình sẽ tạo ra
những cái tôi ưu tú hơn, ngày một hoàn thiện hơn. Để chiến thắng bản thân, mỗi người cần
nghiêm túc nhìn nhận, thẳng thắn đánh giá, có sự khiêm tốn, kiên trì, nỗ lực không ngừng
nghỉ, chiến thắng về cảm xúc, chiến thắng cả về ý chí… Đừng vội rơi nước mắt tuyệt vọng,
đừng vội nản lòng mà quay lưng với những gì đang theo đuổi, cũng đừng dễ dàng thỏa mãn
với hiện tại, hãy quyết tâm đến cùng rồi ta sẽ trở thành một phiên bản hoàn thiện nhất. Chỉ
cần bạn có thể chiến thắng được nỗi sợ hãi, sự tự ti và cả những ham muốn, dục vọng tồn tại
bên trong con người mình thì chắc chắn, thành công sẽ đến với bạn vào một ngày không xa.
Hãy nhớ rằng, ở bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh nào thì "chiến thắng bản thân vẫn là chiến
thắng hiển hách nhất".

Câu 2: Tham khảo đề 9 trong bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 04

35
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phương thức tự sự 0.5

Câu 2 Hình ảnh “đèn chiếu cường độ mạnh” trong đoạn văn bản 0.5
tượng trưng cho:

- Thái độ sống hết mình cho từng khoảnh khắc của hiện tại.

- Thái độ sống một cách nghiêm túc và trân trọng với những gì
có thể làm được trong hiện tại.

Câu 3 Thí sinh có thể trả lời đồng tình không đồng tình vừa đồng tình 1.0
vừa không đồng tình. Yêu cầu lí giải ngắn gọn, hợp lí, mạch
lạc và thuyết phục.
- Bày tỏ quan điểm
- Lí giải quan điểm
* Một số gợi ý theo hướng không đồng tình:
- Cuộc sống luôn vận động và biến đổi, khi con người mong
muốn, con người đều có thể thay đổi được chính mình theo
hướng tích cực hơn.
- Bất cứ điều gì xảy ra đều là do nguyên nhân chủ quan và
khách quan nên khi trở nên tha hóa, xấu xa thì đó không chỉ là
lỗi của hoàn cảnh mà là của mỗi người.
- Con người cần hiểu được chính mình và có ý thức thay đổi
mình tốt hơn để góp phần vào sự phát triển chung của
xã hội.
* Một số gợi ý theo hướng đồng tình:
- Mỗi cá nhân có một năng lực, phẩm chất riêng, sống trong
một điều kiện cụ thể riêng nên sự thay đổi để bứt phá là rất
khó khăn.
- Con người luôn chịu tác động của hoàn cảnh nên hoàn cảnh
chính là yếu tố khiến con người trở nên xấu xa, tha
hóa.
- Con người cũng cần biết hướng về quá khứ thì mới có thể tồn

36
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tại trong hiện tại và hiểu được tương lai.

Câu 4 Giá trị của cụm từ “ngay tại đây, vào lúc này”. 1.0
- Tạo ấn tượng và gây sự chú ý đối với nhân vật “chàng thanh
niên” trong cuộc trò chuyện cũng như gây sự chú ý với bạn
đọc.
- Khẳng định ý nghĩa quan trọng, ý nghĩa quyết định của từng
khoảnh khắc hiện tại đối với mỗi người.
- Nhắc nhở mỗi người cần có thái độ sống trân trọng, hết mình
với hiện tại.

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Suy nghĩ về tác hại của lối sống “không chịu thay đổi” 2.0

ở một bộ phận giới trẻ hiện nay.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tác hại của lối sống 0.25
“không chịu thay đổi” ở một bộ phận giới trẻ hiện nay.

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:

- Lối sống “không chịu thay đổi” là lối sống trì trệ, bảo
thủ, ngại va chạm, không chịu tiếp thu cái mới, chỉ
hoài niệm về quá khứ. Lối sống này đang tồn tại ở một
bộ phận giới trẻ.
- Lối sống này mang lại nhiều tác hại ảnh hưởng đến sự
phát triển nhân cách, khiến con người trở thành cái
bóng của người khác, không thực hiện các mục tiêu
trong cuộc đời, dễ gặp thất bại, ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của xã hội...
- Phê phán bộ phận giới trẻ lười thay đổi, ngại dấn thân,

37
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chỉ biết đi theo những lối mòn, ỷ lại vào thành quả của
người khác...
- Thí sinh đưa dẫn chứng thực tế phù hợp
- Bài học nhận thức, hành động

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Nêu cảm nhận về trích đoạn trong tác phẩm “Người lái đò 5.0
Sông Đà”, từ đó làm rõ “chất vàng của thiên nhiên” và
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” của miền Tây Bắc mà nhà
văn Nguyễn Tuân đã khắc họa.

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: cảm nhận về đoạn thơ, từ 0.25
đó bình luận về phong cách trữ tình - chính luận của tác giả.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5


- Nguyễn Tuân được coi là cây đại thụ của rừng đầu
nguồn Văn học Việt Nam thế kỉ XX với một phong
cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo. Chính tấm lòng yêu
con người, yêu đất nước góp phần làm nên những trang
văn thật tài hoa của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là nhà
văn của núi cao vực sâu, thác dữ của những phong
cảnh tuyệt mỹ, mang phong cách tài hoa và uyên bác.
- Tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” rút từ tập “Sông

38
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Đà” -1960, gồm 15 bài tùy bút. Tác phẩm ra đời trong
khí thế phấn khởi hăng say của miền Bắc xây dựng
Chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Tuân tìm về với mảnh đất
miền Tây của Tổ quốc để mê say khám phá chất vàng
của thiên nhiên và con người nơi đây cũng là gợi về
tâm hồn dân tộc đúc lại trong thiên tùy bút này.

LĐ 2: Cảm nhận về trích đoạn 2.5


* Nội dung: đoạn trích miêu tả cảnh vượt thác của người lái đò
mà ở đó, con sông Đà như một loài thủy quái biết bày binh bố
trận đầy tinh quái còn ông đò như một vị tướng quân lão
luyện, dũng cảm chiến đấu và giành được chiến thắng. Trận
thủy chiến diễn ra qua ba chặng:
- Trùng vi thạch trận thứ nhất:
+ Đá sông dàn thạch trận, mở ra năm cửa: bốn
cửa tử và một cửa sinh. Những hòn đá bệ vệ,
oai phong lẫm liệt. Sóng nước thì hò la vang
dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo. Thác nước sông
Đà mưu mô xảo quyệt tới mức như thể quân
liều mạng vào sát nách mà đá trái, thúc gối vào
bụng, vào hông thuyền.
+ Ông lái đò lúc bấy giờ đã bị thương vẫn nhất
định giữ lấy mái chèo, hay chân kẹp chặt cuống
lái, mặt méo bệch đi nhưng tiếng chỉ huy vẫn
ngắn gọn, tỉnh táo. Ông đò thực thụ là một
người chiến sĩ, người chỉ huy vô cùng bản lĩnh,
dũng cảm.
- Trùng vi thạch trận thứ hai:
+ Đá sông tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh bố trí
lệch sang bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo
đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá, bám lấy
thuyền rồi lỗi vào tập đoàn cửa tử.
+ Với ông đò “cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi
đến cùng như cưỡi hổ”. Ông “nắm chặt lấy bờm

39
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

sóng, đúng guồng rồi ông đò ghì cương lái mà


lái miết một đường chéo về phía cửa đá”. Chinh
chiến đã lâu, ông đò thuộc lòng binh pháp của
thần sông, thần đá nơi đây, cho nên ông lão đã
vận dụng sáng tạo những chiến thuật của mình
để giành lấy chiến thắng cuối cùng. “Đứa thì
ông tránh và rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn chặt đôi ra để mở đường tiến.” Ông lão ấy
đã giao chiến với tướng đá, quân đá thạch trận
sông Đà như một dũng sĩ anh hùng giữa đời
thường.
- Trùng vi thạch trận thứ ba:
+ Bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống
ở giữa bọn đá hậu vệ.
+ Ông lái đò hiện lên với sự nhịp nhàng, điêu
luyện khi chèo lái con thuyền: “Vút, vút, cửa
ngoài, của trong lại cửa trong cùng thuyền như
một mũi tên tre xuyên qua nhanh hơn nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được.”
Nguyễn Tuân đã đưa ra một phép so sánh độc
đáo và chính xác, gây được nhiều ấn tượng
trong lòng đọc giả đó là hình ảnh người lái đò
và người lái xe đang lao xuống dốc đèo. Người
lái xe khi nguy nan vẫn còn chỗ để bám víu, đó
là phanh tay, có tiến lên, lùi lại còn đối với
người lái đò bây giờ thì không còn đường lùi
“Cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái
phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại,
không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay
ngang mà úp xuống chứ không có lùi gì cả”.
=> Trong trận thủy chiến, ông lái đò như một chiến tướng
“tả xung hữu đột”, phát huy trọn vẹn, đủ đầy tài trí sự linh hoạt
ứng biến của mình. Vượt qua ba trùng vi thạch trận với rất ít

40
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

cửa sinh, ông lái đò đã thành công trong việc phá vỡ trùng vi
thạch trận này để giành thắng lợi về cho mình. Ông làm chủ
thiên nhiên và tin vào sức mạnh của chính bản thân mình. Đối
với người lái đò, con thuyền là chiến mã, mái chèo là thanh
gươm, ông lái đò hiện lên vững chãi, lồng lộng giữa sóng nước
dữ tợn. Đối lập với thiên nhiên sông nước bao la mênh mông,
thế nhưng sức vóc của ông không hề nhỏ bé, đơn độc.
* Nghệ thuật: miêu tả chi tiết, hình ảnh sống động, kì thú, độ
dài câu văn linh hoạt, từ ngữ đắc địa, độc đáo...

LĐ 3: “chất vàng của thiên nhiên” và “thứ vàng mười đã qua 1.0
thử lửa” của miền Tây Bắc mà nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc
họa.
- Nhà văn dùng cách thức so sánh, dùng chữ “vàng” (vẻ
đẹp và sự quý giá) để ví von với vẻ đẹp thiên nhiên ban
tặng cho con sông và vẻ đẹp phẩm chất, khí phách, tài
trí của con người lao động. Nếu vẻ đẹp của thiên nhiên
là “chất vàng” thì vẻ đẹp con người là “vàng mười”,
tức là vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ.
- Nhưng vẻ đẹp và sự quý giá ấy không dễ tìm thấy, mà
nó còn đang ẩn giấu, náu mình trong những vùng đất
xa xôi, ở những thứ xù xì thô ráp, ở trong đời sống
hằng ngày. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải là người biết
tìm kiếm, sàng lọc và phát hiện ra vẻ đẹp ấy, và thể
hiện nó bằng tài năng của mình. Qua đó, tác phẩm là
món quà dâng cho đời, góp nhặt những thứ “vàng
mười” đẹp đẽ của thiên nhiên đất nước và con người.
- “chất vàng” của con sông Đà thể hiện ở sức mạnh dữ
dội của thác đá, tiềm ẩn trong đó giá trị về kinh tế, văn
hóa, là thử thách và cũng là động lực để con người chế
ngự và thể hiện tài trí.
- “thứ vàng mười” được bộc lộ rõ nhất ở tài trí của người
lái đò, người lao động bình dị nhưng là người nghệ sĩ
tài hoa thực thụ trong công việc.

41
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT


I. ĐỌC HIỂU
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là phương thức tự sự.
=> Cách xác định:
+ Văn bản viết về câu chuyện của vị triết gia và chàng thanh niên
+ Có nhân vật, theo mạch truyện kể, chủ yếu kể lại cuộc đối thoại của hai nhân vật
Câu 2:
Hình ảnh “đèn chiếu cường độ mạnh” trong đoạn văn bản tượng trưng cho thái độ
sống hết mình của con người cho từng khoảnh khắc của hiện tại. Hình ảnh đó còn thể hiện
thái độ sống một cách nghiêm túc và trân trọng với những gì có thể làm được trong hiện tại.
=> Cách xác định: Đọc kỹ đoạn: “Cuộc đời của chúng ta giống hệt như vậy. Chính vì đang
chiếu ánh sáng mờ nhạt vào cả cuộc đời nên mới nhìn thấy, hay đúng ra là cảm thấy mình
nhìn thấy, cả quá khứ lẫn tương lai. Nhưng nếu rọi đúng đèn chiếu cường độ mạnh vào "ngay
tại đây, vào lúc này" thì sẽ không thấy quá khứ và tương lai nữa.” Sự đối sánh giữa ánh sáng
mờ nhạt và ánh sáng với đèn chiều cường độ mạnh trong cuộc đời, sự nhấn mạnh “ngay tại
đây, ngay lúc này” thể hiện sự sống hết mình ở khoảnh khắc hiện tại.
Câu 3:
Tôi không đồng tình với quan điểm: “cuộc đời mình thế này nên không thể sống khác,
còn xấu xa thì không phải lỗi của ta, mà là tại quá khứ, tại hoàn cảnh”. Bởi cuộc sống luôn
vận động và biến đổi, khi con người mong muốn, con người đều có thể thay đổi được chính
mình, có thể “sống khác” theo hướng tích cực hơn. Bất cứ điều gì xảy ra đều là do nguyên
nhân chủ quan và khách quan nên khi trở nên tha hóa, xấu xa thì đó không chỉ là lỗi của hoàn
cảnh mà là của mỗi người. Như vậy, con người cần hiểu được chính mình và có ý thức thay
đổi mình tốt hơn để góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
=> Cách xác định: Câu này các bạn có thể đồng ý hoặc không đồng ý nhưng cần nêu được
lên những lý lẽ, lập luận thuyết phục cho quan điểm của mình.
Câu 4:

42
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Việc lặp lại cụm từ “ngay tại đây, vào lúc này” có giá trị tạo ấn tượng và gây sự chú ý
đối với nhân vật “chàng thanh niên” trong cuộc trò chuyện cũng như gây sự chú ý với bạn
đọc, giúp khẳng định, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng, ý nghĩa quyết định của từng khoảnh
khắc hiện tại đối với mỗi người. Từ đó, cụm từ này là lời nhắc nhở mỗi người cần có thái độ
sống hết mình với hiện tại, trân trọng thời gian trong hiện tại. Hiểu được điều đó, mỗi giây
phút trôi qua đối với bản thân tôi đều là một cơ hội quý giá để học hỏi và hoàn thiện mình.
Cố gắng tận dụng tốt thời gian và mình có, thẳng thắn đối diện với những điều chưa tốt của
bản thân chính là phương châm sống đúng đắn mà tôi theo đuổi.
=> Cách xác định: Căn cứ vào ngay từ đầu, với hình ảnh “ đèn chiều cường độ mạnh”, cụm
từ “ngay tại đây, vào lúc này” liên tiếp được lặp lại để làm sáng nghĩa, rõ ý cho hình ảnh đó.
Sự lặp đi lặp lại như vậy tạo nên sự chú ý cho nhân vật cũng như sự chú ý cho bạn đọc. Và
hơn hết bản thân từ ngữ đó nhấn mạnh đến sự trân trọng, ý nghĩa của sự sống trân trọng từng
khoảnh khắc hiện tại của mỗi người.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
“To be or not to be?” - cuộc sống là một chuỗi hành trình để ta điểm tô thêm cho câu
trả lời về giá trị sống của bản thân. Rằng ta đã sống? Hay quan trọng hơn đó là đã sống như
thế nào? Đi tìm câu trả lời ấy, nhìn lại chiếc gương soi về bản thân, dường như một góc tuổi
trẻ, đó là sự chai lỳ, lười biếng và đặc biệt là sự không chịu thay đổi đã dẫn đến nhiều tác hại
và hậu quả xấu. Lối sống “không chịu thay đổi” là lối sống trì trệ, bảo thủ, ngại va chạm,
không chịu tiếp thu cái mới, chỉ hoài niệm về quá khứ. Lối sống này đang tồn tại ở một bộ
phận giới trẻ. Không chịu thay đổi mang lại nhiều tác hại, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân
cách, khiến con người trở thành cái bóng của người khác, không thực hiện các mục tiêu trong
cuộc đời, dễ gặp thất bại, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội...Con người không
chịu thay đổi, tuy nhiên mọi thứ xung quanh ta thì luôn luôn không ngừng vận động phát
triển. Trì trệ, bảo thủ sẽ chỉ biến ta trở thành những kẻ tụt hậu, hạn hẹp, mãi núp mình dưới
một vỏ bọc cố định, kìm hãm khả năng phát triển, không có cơ hội khám phá tiềm năng của
bản thân mình. Người phụ nữ bị coi là “xấu nhất thế giới” Lizzie Velasquez, ta không thể
không khâm phục sự dũng cảm và bản lĩnh sống của người phụ nữ này. Cô không chọn việc
cố gắng phẫu thuật, cô không chọn cách đầu hàng tạo hóa mà luôn vươn lên trở thành một
trong những người phụ nữ truyền cảm hứng nhất về hành trình thay đổi bản thân chiến thắng
hoàn cảnh bằng sự thay đổi “phù hợp” của mình. Đáng phê phán biết bao về một bộ phận giới
trẻ lười suy nghĩ, lười dấn thân, luôn đi theo lối mòn, ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác.
Cuộc sống với đường đua đầy trở ngại, thử thách, những thử thách không hề giống nhau,

43
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chính vì vậy ta cần thay đổi, thay đổi chính mình, suy nghĩ, cách sống, hành vi của bản thân
cho phù hợp với hoàn cảnh và để có một cái tôi sống linh hoạt với một cuộc sống trọn vẹn ý
nghĩa nhất.
Câu 2: Tham khảo đề 18 trong bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 05

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phương thức biểu đạt của văn bản trên là nghị luận. 0.5

Câu 2 Theo đoạn trích, yếu tố đáng ngại luôn tiềm ẩn trong đam mê 0.5
là chẳng có gì hoàn toàn chắc chắn.

Câu 3 Cách để giảm thiểu thất bại khi theo đuổi đam mê: 1.0
- Dành thời gian lắng lòng, xem lại chặng đường đã qua,
nhìn sâu vào chính bản thân mình, từ đó xác định lại
tính thực tế và khả năng thực hiện đam mê của mình.
- Trau dồi vốn hiểu biết, tri thức của bản thân.
- Nhìn nhận vấn đề bằng cả lí trí thay vì chỉ bằng cảm
xúc cá nhân.
- Hiểu thật rõ về lựa chọn của mình, từ những thành quả
có thể đạt được cho đến những rủi ro có thể sẽ xảy ra.
- ...

Câu 4 - Học sinh đưa ra ý kiến của mình về quan điểm và lý 1.0
giải sao cho hợp lý.
- Đưa ra liên hệ với bản thân và cuộc sống.

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ 2.0
của anh/chị về

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy

44
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: “Nếu đam mê chở 0.25
bạn, hãy để lý trí cầm cương.”

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:
-Giải thích:
+ “đam mê” là niềm say mê, hứng thú, sở thích cá nhân
trong lĩnh vực nào đó.
+ “lí trí cầm cương” là phần người, điều khiển hành vi,
hoạt động của bản thân sao cho phù hợp với hoàn
cảnh.
=> Câu nói muốn khuyên chúng ta cần theo đuổi đam mê của
mình nhưng không nên liều lĩnh, hành động bộc phát mà cần
có một cái đầu lạnh để đưa ra những quyết định đúng đắn,
đem lại kết quả tối ưu nhất.
-Phân tích:
+ Mỗi người đều cần có đam mê để theo đuổi, điều đó
khiến cho cuộc sống trở nên có mục đích, có động lực
để sống và làm việc.
+ Việc đặt “lí trí” vào để kiểm soát hành động làm cho
hành vi của chúng ta có ý thức, cân nhắc được toàn
diện vấn đề giúp đưa ra phương án tốt nhất,...
-Bình luận:
+ Ta nên linh hoạt trong việc theo đuổi đam mê cũng
như áp đặt suy nghĩ, lí trí của bản thân trong ứng xử,..
+ Không nên tuyệt đối hóa bất cứ một phương diện nào
bởi làm gì cũng đều có rủi ro, không có gì là chắc
chắn.
+ Nên nuôi dưỡng đam mê kể cả khi ta chưa có điều kiện
để phát triển nó bởi nó sẽ là động lực để ta bước những
bước đi trưởng thành và hoàn thiện bản thân hơn nữa,..

45
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

+ Đưa ra dẫn chứng phù hợp


-Liên hệ và đưa ra bài học

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình 5.0
trong trích đoạn bài thơ Sóng của nữ sĩ Xuân Quỳnh:
“Dẫu xuôi về phương bắc...Để ngàn năm còn vỗ.”

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: 0.25


Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong trích đoạn bài
thơ Sóng của nữ sĩ Xuân Quỳnh: “Dẫu xuôi về phương
bắc...Để ngàn năm còn vỗ.”

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện
sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5

LĐ 2: Cảm nhận về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bốn 2.5
khổ thơ
- Khổ 6: Nhân vật trữ tình bộc lộ khát vọng thủy chung.
+ Điệp từ “dẫu” kết hợp với cách viết lạ hóa “xuôi Bắc”,
“ngược Nam” như một sự khẳng định chắc chắn thứ
tình cảm bền chặt “em” dành cho “anh”, dù biên độ
không gian và thời gian mở ra meeh mông, vô tận.
+ Đất trời có bốn phương tám hướng, dẫu cho ai đi về
phương Nam hay ngược lên phương Bắc thì trái tim

46
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

của em chỉ có duy nhất một phương để hướng về -


phương anh.
- Khổ 7: Nhân vật trữ tình chiêm nghiệm tinh tế về hành trình
của sóng và cũng là hành trình của tình yêu.
+ Trước những thử thách, nghịch lý của cuộc đời, em
chọn việc cố gắng theo đuổi, quyết tâm theo đuổi anh,
bởi em hiểu rằng, giống như con sóng ngoài đại
dương, dẫu cách trở chừng nào, cuối cùng cũng sẽ ôm
vào bờ cát trắng, em nhất định cũng sẽ đến được với
anh – tình yêu đích thực trong cuộc đời của mình.
+ Sóng vượt qua mọi khó khăn tìm đến bờ cát trắng, em
vượt qua mọi thử thách để tìm đến anh
- Khổ 8: Những lo âu, trăn trở rất đời thường nhưng cũng rất
sâu sa của nhân vật trữ tình
+ Sử dụng phép đối “dài thế - năm tháng vẫn đi qua”.
+ Liên tiếp là những chiêm nghiệm về quy luật của thiên
nhiên trong mối tương quan với quy luật của đời
người. Nhân vật trữ tình trong khổ thơ không xuất hiện
trực tiếp để cất lời thương yêu nhưng ở đây ta cảm
nhận được chiều sâu tâm hồn với bao lo âu, trăn trở
đầy nữ tính. Đó là nỗi lo về những mong manh của
tình yêu và sự hữu hạn của kiếp người
- Khổ 9: Nhân vật trữ tình với khát vọng hóa thân cao cả
+ Khát vọng được trở thành trăm ngàn con sóng nhỏ để
vĩnh cửu, trường tồn cùng tình yêu của mình.
+ Ước nguyện được “tan ra” nghĩa là được hóa thân và
cống hiến
+ Trăm con sóng nhỏ: Tượng trưng cho những tình yêu
cá nhân
+ Biển lớn: Biển lớn tình yêu, khát vọng tình yêu chung
+ Đặt trong thời điểm ra đời của bài thơ ở đây cũng có
thể hiểu: mang tình yêu cá nhân của mình hòa nhập
vào tình yêu Tổ quốc.

47
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

LĐ 3: Đánh giá về đặc sắc nội dung, nghệ thuật và vẻ đẹp của 1.0
nhân vật trữ tình trong các khổ thơ

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1: Phương thức biểu đạt của văn bản trên là nghị luận.

=> Cách xác định:

- Văn bản trên có dạng văn xuôi.


- Văn bản đề cập đến vấn đề lí trí và đam mê của con người.

Câu 2: Theo đoạn trích, yếu tố đáng ngại luôn tiềm ẩn trong đam mê là chẳng có gì hoàn
toàn chắc chắn.

=> Cách xác định: đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi tiết
trong bài. Tìm trong bài và trích dẫn đặt trong dấu “...”

Câu 3:

Để giảm thiểu thất bại khi theo đuổi đam mê, chúng ta cần dành thời gian lắng lòng,
xem lại chặng đường đã qua, nhìn sâu vào chính bản thân mình, từ đó xác định lại tính thực tế
và khả năng thực hiện đam mê của mình. Bên cạnh đó, việc trau dồi vốn hiểu biết, tri thức
của bản thân cũng vô cùng cần thiết. Đứng trước một vấn đề, ta nên nhìn nhận bằng cả lí trí
thay vì chỉ bằng cảm xúc cá nhân. Và cuối cùng, ta cần hiểu thật rõ về lựa chọn của mình, từ
những thành quả có thể đạt được cho đến những rủi ro có thể sẽ xảy ra.

=> Cách xác định: đọc thật kỹ văn bản, dựa vào hiểu biết của bản thân và những điều mình
đã trải qua để trả lời.

Câu 4:

Tôi đồng ý với quan điểm: “Hãy để đam mê dẫn lối, trong trường hợp thất bại, ta
chẳng có gì hối tiếc”. Vì khi theo đuổi đúng đam mê, ta sẽ được hạnh phúc, vui vẻ, được là

48
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

chính bản thân mình, nếu có thất bại thì cũng không hối tiếc với những gì đã lựa chọn. Khi
chúng ta làm trái với đam mê nếu có thành công cũng không cảm thấy thực sự hạnh phúc, vui
vẻ. Bởi vậy, điều quan trọng nhất đối với bản thân tôi là nhận ra được đam mê của bản thân
và sống hết mình với nó.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

Cuộc sống của chúng ta có rất nhiều ước mơ cần phải thực hiện và để làm được điều
đó thì cần phải có đam mê, nhưng đó chưa phải là tất cả. Bởi như Benjamin Franklin từng
nói: “Nếu đam mê chở bạn, hãy để lí trí cầm cương”. Từ cách nói hình ảnh, ví cuộc đời ta là
những chặng đường với chiến mã là “đam mê” còn dây cương chính là “lí trí”, Benjamin
Franklin muốn khuyên chúng ta cần theo đuổi đam mê nhưng không nên liều lĩnh, hành động
bộc phát mà cần có một cái đầu lạnh để đưa ra những quyết định đúng đắn, đem lại kết quả
tối ưu nhất. Đó là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn. Đam mê giúp ta có được động lực
sống, học tập và làm việc, có đam mê thì chúng ta luôn sống hết mình, tận tụy với chính sở
thích đó, vượt mọi khó khăn, trở ngại để đạt được mục tiêu. Hành trình theo đuổi đam mê ấy
chắc chắn không ít khó khăn, cạm bẫy và để vượt qua điều đó ta cần dùng lý trí của mình, suy
nghĩ thật kĩ, nhìn nhận thấu đáo, toàn diện, biết lắng nghe, chắt lọc ý kiến của mọi người. Để
đam mê không lạc lối, rất cần có lí trí song hành. Một người vừa có đam mê vừa có lý trí thì
nhất định sẽ có thành công, bởi họ biết mình sẽ làm những điều gì và điểm dừng ở đâu. Điều
ta cần là linh hoạt, không nên tuyệt đối hóa bất cứ một phương diện nào bởi làm gì cũng đều
có rủi ro, không có gì là chắc chắn. Minh chứng cho điều này là hình ảnh anh em “hoàng tử
xiếc” Quốc Cơ, Quốc Nghiệp đã liên tiếp xác lập những kỉ lục mới trên thế giới khi chỉ dùng
sức mạnh đôi tay, sức mạnh từ đầu và cổ để người nâng người di chuyển trên những địa hình
nhiều trở ngại. Có được những thành công ấy, đam mê chắc chắn là động lực không thể thiếu,
nhưng kèm với đó là 15 năm khổ luyện, là sự tính toán tỉ mỉ từ sức khỏe đến những rủi ro rất
dễ xảy ra. Mùi vị của thành công sẽ luôn ngọt ngào khi trong đó hòa quyện cả niềm đam mê
và lí trí sáng suốt. Bản thân tôi cũng có một niềm đam mê là được đi khắp nơi trên thế giới và
việc đầu tiên tôi cần làm là học thật tốt đặc biệt ở môn tiếng Anh. Từng bước từng bước dùng
lí trí xác định, tôi biết mình đang đi đúng hướng và tránh được những rủi ro không đáng có.
Mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, cống hiến và làm việc, vậy tại sao ta không sống trọn
cho đam mê nhưng bằng một cách thông minh và khéo léo. Chẳng ai có thể ngăn cản bạn đến
với thành công nếu bạn đã cầm chắc dây cương “lí trí” để điều khiển chú ngựa “đam mê”.

Câu 2: Tham khảo đề 12 trong Bộ 20 bài văn mẫu

49
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ĐÁP ÁN ĐỀ 06

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Các thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn trích là: phân 0.5
tích, bình luận, so sánh.
Thao tác chính là phân tích.

Câu 2 - Văn bản thông báo kết quả học tập trên đặc biệt ở chỗ 0.5
được viết dưới hình thức một bức thư, khác với văn
bản hành chính thông báo chính xác kết quả, điểm số,
thành tích thông thường.
- Bức thư không chỉ thông báo kết quả (kèm theo), mà
đặc biệt phân tích, động viên, ghi nhận, khích lệ, nhắn
nhủ, tin tưởng… những năng lực khác làm nên sự “đặc
biệt độc đáo” của mỗi học trò, “nhiều cách khác để học
sinh trở nên thông minh”, ngoài việc học tập và kết
quả, điểm số.

Câu 3 - Những biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn 3, 1.0
4, 5:
+ Biện pháp liệt kê: trong từng câu văn, người
viết chỉ ra nhiều phương diện năng lực, sở
trường khác nhau của mỗi học sinh.
+ Biện pháp lặp cấu trúc: “Họ không biết rằng,
em biết/em là…”
- Tác dụng: nhấn mạnh, khẳng định còn rất nhiều điều
mà những bài thi, những người tạo ra đề thi và chấm
điểm không biết về các học sinh. Đó là những điều
khiến mỗi người trở nên đặc biệt và độc đáo. Qua đó
thể hiện niềm tin tưởng, tự hào, khích lệ để mỗi học
sinh tự tin phát triển bản thân.

Câu 4 Người viết khẳng định: “những điểm số mà em nhận được sẽ 1.0
nói cho em biết một chút gì đó về em nhưng chúng không nói

50
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

lên tất cả những gì thuộc về con người em.” bởi lẽ:


- Những điểm số học sinh nhận được phản ánh một phần
hiểu biết, năng lực, sự cố gắng của chính các em trong
việc học tập kiến thức, rèn luyện kĩ năng ở các môn
học cụ thể.
- Nhưng chúng không nói lên tất cả những gì thuộc về
con người mỗi học sinh, bởi như trong bức thư đã chỉ
ra, những người tạo ra đề thi và chấm điểm không biết
tất cả mọi thứ về học sinh như sự giúp đỡ của thầy cô,
gia đình: năng khiếu ngoại ngữ, âm nhạc, hội họa, thể
thao; hứng thú, hiểu biết, trải nghiệm; sự chăm sóc,
quan tâm người thân, bạn bè; thái độ, tình cảm của mọi
người dành cho em..
- Qua đó người viết muốn bày tỏ sự tôn trọng, khích lệ,
động viên đối với các em học sinh, nhấn mạnh điểm số
không phải là tất cả để đánh giá một con người.

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 100 chữ) trình bày suy nghĩ 2.0
của anh/chị về nguyên nhân của hiện tượng rất nhiều
người quá coi trọng kết quả học tập của học sinh hiện nay.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: nguyên nhân của hiện 0.25
tượng rất nhiều người quá coi trọng kết quả học tập của học
sinh hiện nay.

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:
- Nêu hiện tượng: Ở Việt Nam hiện nay, rất nhiều người,
từ học sinh, cha mẹ học sinh, những người làm công

51
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tác giáo dục, cộng đồng, quá coi trọng kết quả học tập
của học sinh, coi kết quả học tập thể hiện trên điểm số,
bảng điểm là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá học
sinh.
- Bàn luận về nguyên nhân:
+ Khách quan: truyền thống học tập coi trọng
khoa cử, chương trình giáo dục nặng, hình thức
đánh giá vẫn chủ yếu bằng bài thi, điểm số…
+ Chủ quan: quan niệm, cái nhìn, cách đánh giá
phiến diện, đơn giản, chỉ nhìn ở kết quả cụ thể
cuối cùng chứ không nhìn vào quá trình; lối suy
nghĩ thích so sánh, ganh đua và điểm số chính
là công cụ so sánh đơn giản, rõ ràng nhất; …
+ Dẫn chứng:
- Bài học rút ra + Liên hệ bản thân:

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Anh/chị hãy phân tích câu chuyện của người đàn bà hàng 5.0

chài tại tòa án huyện trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ đó, hãy bình luận về vẻ đẹp
của người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhân vật này

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: phân tích câu chuyện của 0.25
người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện trong tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu). Từ đó, hãy bình luận
về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhân vật

52
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

này.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5


-Tác giả: Nguyễn Minh Châu(1930-1989)
+ Là cây bút đi tiên phong cho quá trình đổi mới văn học.
+ Ông luôn ý thức về ngòi bút của mình, luôn trăn trở,
tìm tòi, đổi mới cách viết cũng như phát hiện những
điều mới mẻ, có ý nghĩa trong cuộc sống để thể hiện.
+ Là cây bút có nhiều trải nghiệm trong cuộc sống, cuộc
sống của những người lính ngoài chiến trường cũng
như cuộc sống của những người dân chài sau chiến
tranh.
-Tác phẩm: “Chiếc thuyền ngoài xa”của Nguyễn Minh Châu
được sáng tác vào tháng 8 năm 1983, lúc đầu được in trong tập
“Bến quê”, sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên
cho cả tập truyện ngắn, xuất bản năm 1987.

LĐ 2: Phân tích câu chuyện của người đàn bà tại tòa án 2.5
huyện
- Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của
chánh án Đẩu, người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị
người đàn bà khốn khổ ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng
người đàn bà đã từ chối sự giúp đỡ ấy, chị chịu đau đớn, đánh
đổi bằng mọi giá để không phải bỏ chồng. Câu chuyện của
người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện là câu chuyện về sự
thật cuộc đời. Nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu
được nguyên do của những điều tưởng chừng vô lí.
+ Bề ngoài, đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu,
bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Vậy mà vẫn nhất
quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy.

53
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

+ Qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương
ấy, người ta mới thấy nguồn gốc của mọi sự chịu đựng, hi sinh
của chị.
● Đó là tình thương vô bờ dành cho những đứa con “đám
đàn bà ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông
để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng
đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa...phải sống cho con chứ không thể sống cho mình.”
● Là sự cảm thông, thấu hiểu đối với người chồng
● Là sự hiểu biết, từng trải...
=> Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản thì chỉ cần yêu cầu
người đàn bà li dị chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một
cách thấu suốt thì sẽ thấy suy nghĩ và cách ứng xử của người
đàn bà hàng chài là không thể khác được. Trong khổ đau triền
miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh
phúc nhỏ nhoi.
- Qua câu chuyện ở tòa án huyện, ta thấm thía rằng không thể
dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng
của đời sống.

LĐ 3: Bình luận về vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thể hiện 1.0
qua nhân vật người đàn bà hàng chài.
- Chị mang những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của người
phụ nữ Việt Nam: chịu thương, chịu khó, cam chịu,
nhẫn nhục, một lòng một dạ vì chồng, vì con, hi sinh
hạnh phúc của mình để đổi lấy hạnh phúc gia đình cho
con. Chắt chiu hạnh phúc mong manh nhỏ nhoi để làm
động lực cho cho cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
- Thấu hiểu và cảm thông cho chồng khi phải vất vả
chèo chống một nhà đông con, hiểu hoàn cảnh gia đình
nên không đòi hỏi gì cho mình,...
=> Đó là những phẩm chất cao quý đáng trân trọng.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn

54
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1: Các thao tác lập luận được sử dụng trong đoạn trích là: phân tích, bình luận, so sánh.
Thao tác chính là phân tích.

=> Cách xác định:

- Đoạn trích chia nhỏ đối tượng thành nhiều yếu tố bộ phận để đi sâu xem xét một cách toàn
diện.

- Đoạn trích bình luận là bàn bạc, nhận xét, đánh giá về một vấn đề.

- Đoạn trích làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong mối tương quan với đối tượng
khác.

Câu 2:

Văn bản thông báo kết quả học tập trên đặc biệt ở chỗ được viết dưới hình thức một
bức thư, khác với văn bản hành chính thông báo chính xác kết quả, điểm số, thành tích thông
thường.

Bức thư không chỉ thông báo kết quả (kèm theo), mà đặc biệt phân tích, động viên,
ghi nhận, khích lệ, nhắn nhủ, tin tưởng… những năng lực khác làm nên sự “đặc biệt độc đáo”
của mỗi học trò, “nhiều cách khác để học sinh trở nên thông minh”, ngoài việc học tập và kết
quả, điểm số.

=> Cách xác định: Đọc kỹ văn bản, bám vào hình thức của văn bản và các chi tiết phân tích,
động viên, ghi nhận, khích lệ, nhắn nhủ những năng lực khác làm nên sự “đặc biệt độc đáo”
của mỗi học trò. Trả lời rõ ràng điểm khác biệt trên hai phương diện hình thức và nội dung.

Câu 3:

55
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Những biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn văn 3, 4, 5: Biện pháp liệt kê: trong
từng câu văn, người viết chỉ ra nhiều phương diện năng lực, sở trường khác nhau của mỗi học
sinh; Biện pháp lặp cấu trúc: “Họ không biết rằng, em biết/em là…”

Tác dụng của hai biện pháp này là nhấn mạnh, khẳng định còn rất nhiều điều mà
những bài thi, những người tạo ra đề thi và chấm điểm không biết về các học sinh. Đó là
những điều khiến mỗi người trở nên đặc biệt và độc đáo. Qua đó thể hiện niềm tin tưởng, tự
hào, khích lệ để mỗi học sinh hãy tự tin phát triển bản thân.

=> Cách xác định: Đọc thật kỹ các đoạn văn 3, 4, 5; dựa vào các dấu hiệu nhận biết để xác
định các biện pháp tu từ. Từ đó nêu tác dụng của các biện pháp tu từ đó.

Câu 4:

Người viết khẳng định: “những điểm số mà em nhận được sẽ nói cho em biết một
chút gì đó về em nhưng chúng không nói lên tất cả những gì thuộc về con người em.” bởi lẽ
những điểm số học sinh nhận được phản ánh một phần hiểu biết, năng lực, sự cố gắng của
chính các em trong việc học tập kiến thức, rèn luyện kĩ năng ở các môn học cụ thể. Nhưng
chúng không nói lên tất cả những gì thuộc về con người mỗi học sinh, bởi như trong bức thư
đã chỉ ra, những người tạo ra đề thi và chấm điểm không biết tất cả mọi thứ về học sinh như
sự giúp đỡ của thầy cô, gia đình: năng khiếu ngoại ngữ, âm nhạc, hội họa, thể thao; hứng thú,
hiểu biết, trải nghiệm; sự chăm sóc, quan tâm người thân, bạn bè; thái độ, tình cảm của mọi
người dành cho em...Qua đó người viết muốn bày tỏ sự tôn trọng, khích lệ, động viên đối với
các em học sinh, nhấn mạnh điểm số không phải là tất cả để đánh giá một con người.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

- Xác định vấn đề nghị luận: nguyên nhân của hiện tượng rất nhiều người quá coi trọng
kết quả học tập của học sinh hiện nay.

Giữa một xã hội hiện đại, giáo dục không nằm ngoài guồng quay của sự đổi mới và
phát triển, có một vấn đề vẫn gây nhiều bàn cãi: điểm số là một phương tiện để “cân-đo-
đong-đếm”. Và khi xem xét về nguyên nhân của hiện tượng rất nhiều người quá coi trọng kết
quả học tập của học sinh, ta thấy được nhiều điều đáng suy ngẫm Quá coi trọng kết quả học
tập của học sinh được hiểu như là sự quan tâm một cách quá mức, thái quá hay thậm chí được

56
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

gọi là căn bệnh thành tích. Căn bệnh ấy trước tiên xuất phát từ nguyên nhân khách quan. Đất
nước ta có truyền thống giáo dục coi trọng khoa cử, chương trình giáo dục nặng nề, hình thức
đánh giá vẫn chủ yếu bằng bài thi, điểm số… Hình thức này lại chưa thực sự xem xét được
khả năng bên trong của mỗi học sinh mà mới chỉ dựa vào bề nổi. Bên cạnh đó cũng tồn tại
không ít những yếu tố chủ quan như quan niệm, cái nhìn, cách đánh giá phiến diện, đơn giản,
chỉ nhìn ở kết quả cụ thể cuối cùng chứ không nhìn vào quá trình tạo ra thành tích ấy. Cùng
với lối suy nghĩ thích so sánh, ganh đua, chạy theo những tiêu chuẩn của người khác để áp
đặt vào mình khiến bản thân lún sâu hơn vào kết quả không có thực. Và điểm số chính là
công cụ so sánh đơn giản, rõ ràng nhất. Một ví dụ điển hình có thể kể ra như trong các cuộc
trò chuyện giữa các bậc phụ huynh thì thành tích điểm số của con cái được nhắc đến như một
tất yếu. Điều đó vô tình trở thành một sợi dây buộc con cái của họ vào cuộc chạy đua điểm số
với “con nhà người ta”. Dần dần ngay trong chính các em học sinh cũng xuất hiện áp lực phải
làm sao để được điểm cao, phụ huynh thì lún dần vào các hành động tiêu cực như xin điểm,
xin danh hiệu,… mà vụ việc ở Hà Giang trong kì thi Trung học phổ thông Quốc gia năm
2018 là một “vết nhơ” gây nhức nhối. Nếu học sinh càng áp lực thì sự cố gắng để đạt thành
tích thực sự cũng không còn. Là một học sinh chuẩn bị bước vào một kì thi quan trọng mà kết
quả được đánh giá bằng điểm số, bản thân tôi đã có những lúc áp lực và kì vọng vô cùng vào
những số điểm, nhưng tôi cùng hiểu một kết quả xứng đáng với quá trình nỗ lực học tập mới
là động lực để tôi phát triển bản thân về sau này. Và tôi tin rằng, điểm số dù quan trọng đến
nhường nào thì khi được nhìn nhận đúng vai trò, đó sẽ thực sự là công cụ kiểm tra đánh giá
tối ưu và đong đầy tính nhân văn.

Câu 2: Tham khảo đề 19 trong Bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 07

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật 0.5

Câu 2 - Để tạo ra lá, hoa, quả, “rễ” đã xuyên qua bao tầng đất 0.5
đá tìm từng giọt nước, chắt chiu dinh dưỡng để nuôi
cây.
- Rễ giúp ta liên tưởng đến những người thành công
trong cuộc sống phải trải qua quá trình gian lao, vất vả;

57
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

những người âm thầm đứng sau để góp phần làm nên


thành công của tập thể, xã hội.

Câu 3 - Hình ảnh tương phản: 1.0


+ Rễ: lầm lũi, lam lũ cực nhọc, đen đúa
+ Lá hát, hoa quả ngát mùi hương
- Hiệu quả nghệ thuật: nhấn mạnh sự vất vả, khó nhọc
của rễ để làm nên những mùa màng bội thu; thể hiện
thái độ biết ơn đối với công lao của rễ.

Câu 4 - Nội dung lời thơ: khẳng định giá trị của rễ - yếu tố 1.0
quan trọng tạo nên sự vững bền của sự sống; ghi nhận
sự khó nhọc, những cống hiến, hi sinh thầm lặng của
rễ. Cũng như con người trong cuộc sống muốn vươn
lên tỏa sáng, khẳng định mình, muốn xây dựng xã hội
tiến bộ phải trải qua khó khăn, vất vả; phải có ý chí
quyết tâm và tinh thần sẵn sàng cống hiến, hi sinh.
- Quan điểm của cá nhân học sinh: đồng tình, không
đồng tình. Lí giải

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết 2.0
một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của sự cống
hiến, hi sinh thầm lặng trong cuộc sống.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: ý nghĩa của sự cống 0.25
hiến, hi sinh thầm lặng trong cuộc sống

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:
- Rễ là một bộ phận của cây cối, thường ở dưới mặt đất

58
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

vừa giúp cây bám đất, vừa hút dinh dưỡng nuôi cây. Rễ
là biểu tượng của quá trình gian lao, vất vả để làm nên
cuộc sống tốt đẹp; là ẩn dụ cho những con người nhỏ
bé, âm thầm làm việc, cống hiến, tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển tốt đẹp, bền vững của xã hội.
- Hi sinh là chịu mất mát, thiệt thòi lớn lao vì mục đích
chung, vì cái cao đẹp. Cống hiến là đóng góp công sức,
cái quý giá không màng đến lợi ích cá nhân mà làm
việc hết mình vì người khác, vì một tập thể, vì sự
nghiệp chung của đất nước. Sự hi sinh, cống hiến âm
thầm là một lẽ sống, một lí tưởng sống đẹp, tích cực.
- Sự hi sinh, cống hiến âm thầm có ý nghĩa sâu sắc: làm
nền tảng để bước vào tương lai, cho xã hội ngày một
tốt đẹp hơn. Lí tưởng sống cao đẹp ấy giúp con người
luôn bền gan vững chí để đạt tới ý nghĩ cao quý của đời
sống. Khi trao yêu thương con người sẽ biết sống vì
người khác, sẽ nhận được yêu thương. Những hi sinh
cao cả, cống hiến đích thực sẽ được ghi nhận và đánh
giá công bằng.
- Nêu dẫn chứng phù hợp
- Phương châm sống cho thế hệ trẻ: biết sống vì mình, vì
người khác, mở rộng trái tim mình; cần phải biết vượt
qua khó khăn, gian khổ, cống hiến cho cuộc đời. Phê
phán những cá nhân sống ích kỉ, chỉ mưu cầu lợi ích cá
nhân.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Cảm nhận của anh/chị về đoạn trích. Từ đó nhận xét lời 5.0

tâm sự của Kim Lân về ý đồ và cảm hứng sáng tác truyện

59
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ngắn “Vợ nhặt”: “…Cái đói hành hạ tất cả mọi người


nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Cảm nhận về đoạn trích. 0.25
Từ đó nhận xét lời tâm sự của Kim Lân về ý đồ và cảm hứng
sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”: “…Cái đói hành hạ tất cả mọi
người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5

LĐ 2: Cảm nhận đoạn trích 2.5


– Nô ̣i dung:
+ Tái hiê ̣n bức tranh bi thảm về nạn đói khủng khiếp năm
1945 qua không gian một ngã tư xóm chợ bị bao trùm
bởi sự chết chóc, thê lương (các hình ảnh: lũ lượt bồng
bế, dắt díu, những cái thây nằm còng queo,…màu sắc:
xanh xám, tối sầm… mùi vị: mùi ẩm thối của rác rưởi
và mùi gây của xác người…) →Bức tranh bao quát về
nạn đói có mô ̣t không hai trong lịch sử dân tô ̣c có sức
tố cáo tô ̣i ác của thực dân Pháp và phát xít Nhâ ̣t đã gây
ra cho nhân dân Viê ̣t Nam.
+ Mượn bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 để
khẳng định, ngợi ca sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn trong
tâm hồn những con người cùng khổ – nhà văn phát
hiê ̣n khát vọng đáng trân trọng của người nông dân
ngay khi cận kề cái chết:
● Tràng: phớn phở khác thường, tủm tỉm cười,
hai mắt sáng lên lấp lánh …Tràng thành mô ̣t

60
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

con người khác: ân cần, quan tâm đến người


đàn bà hãy còn xa lạ; lòng Tràng trỗi dậy niềm
vui sướng khiến anh “dường như quên hết
những cảnh ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả
đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên những
tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn chỉ còn
tình nghĩa với người đàn bà đi bên..”; Đó là
điều “mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người
đàn ông khốn khổ ấy” – niềm hạnh phúc bình
dị, niềm khát khao mái ấm gia đình.
● Người vợ nhặt ngại ngùng, e thẹn từ những
hành động rất nhỏ, không còn sự chao chát, liều
lĩnh như khi bị cái đói dồn đến chân tường. Vẻ
nữ tính ấy cho phép bạn đọc tin tưởng về một
người vợ hiền dịu và có thể cùng Tràng xây nên
một tổ ấm hạnh phúc về sau.
● Những người trong xóm ngụ cư: lạ, bàn tán,
hiểu, bỗng rạng rỡ hẳn lên… →Tình huống đã
tạo nên sự thay đổi mới mẻ theo hướng tích cực
của mọi người: bên bờ vực cái chết vì đói khát
vẫn biết cảm thông cho nhau, tin tưởng vào
điều tốt đẹp.
– Nghê ̣ thuâ ̣t: Tạo tình huống truyện đô ̣c đáo; Nghê ̣ thuâ ̣t miêu
tả: bút pháp tả thực tạo ấn tượng mạnh, miêu tả tâm lí nhân vâ ̣t
tinh tế; Ngôn ngữ sinh động, so sánh độc đáo, giàu tính tạo
hình..

LĐ 3: Nhận xét lời tâm sự của Kim Lân về ý đồ và cảm hứng 1.0
sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”: “…Cái đói hành hạ tất cả
mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn
họ”.
– Nhận xét về quan niệm: Kim Lân đã thực hiện thành công ý
đồ sáng tác của mình: biến câu chuyện ngày đói cay đắng, đau
khổ thành khúc ca chiến thắng của tình người và khát vọng

61
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

sống, khát vọng hạnh phúc tha thiết, mãnh liệt. Đó cũng là
tấm lòng, niềm thương cảm, xót xa của nhà văn trước những
con người nhỏ bé, sự trân trọng những ước mơ, khát vọng đẹp
đẽ và niềm tin vào cuộc sống của những con người nghèo khổ.
– Đánh giá chung vấn đề nghị luận.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

Câu 1: Phong cách ngôn ngữ của văn bản trên là phong cách nghệ thuật.

=> Cách xác định:

- Đây là 1 bài thơ.


- Văn bản trên xây dựng hình tượng chủ yếu bằng các biện pháp tu từ, có khả năng gây
cảm xúc, ấn tượng mạnh với người nghe, người đọc.

Câu 2:

Để tạo ra lá, hoa, quả, “rễ” trong bài thơ đã xuyên qua bao tầng đất đá tìm từng giọt
nước, chắt chiu dinh dưỡng để nuôi cây. Rễ giúp ta liên tưởng đến những người thành công
trong cuộc sống phải trải qua quá trình gian lao, vất vả; những người âm thầm đứng sau để
góp phần làm nên thành công của tập thể, xã hội.

=> Cách xác định: Đọc kỹ văn bản, bám vào các từ ngữ trong văn bản từ đó xác định hình
tượng của “rễ”, rút ra liên tưởng đến cuộc sống của con người.

Câu 3:

Trong bài thơ, tác giả đã sử dụng hình ảnh tương phản giữa “rễ” và các bộ phận khác
của cây. Trong đó, “rễ” thì lầm lũi, lam lũ cực nhọc, đen đúa còn trái lại “lá” thì “hát”, “hoa
quả” thì ngát mùi hương.

62
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Biện pháp này có hiệu quả nghệ thuật là nhằm nhấn mạnh sự vất vả, khó nhọc của rễ
để làm nên những mùa màng bội thu, qua đó thể hiện thái độ biết ơn đối với công lao của sự
cống hiến thầm lặng.

=> Cách xác định: đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi tiết
trong bài. Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật.

Câu 4:

Câu thơ: “Nhưng với cây, bài ca đích thực / Là từ rễ cất lên” đã khẳng định giá trị của
“rễ” - yếu tố quan trọng tạo nên sự vững bền của sự sống cho cây; ghi nhận sự khó nhọc,
những cống hiến, hi sinh thầm lặng của rễ. Cũng như con người trong cuộc sống muốn vươn
lên tỏa sáng, khẳng định mình, muốn xây dựng xã hội tiến bộ phải trải qua khó khăn, vất vả;
phải có ý chí quyết tâm và tinh thần sẵn sàng cống hiến, hi sinh. Tôi hoàn toàn đồng ý với
quan điểm này. Những cống hiến, hi sinh dù thầm lặng nhưng luôn có vai trò to lớn và ý
nghĩa sâu xa. Từ đây tôi thấu hiểu và trân trọng hơn những hành động đẹp trong cuộc sống,
dù chỉ là hành động nhỏ như đeo khẩu trang đúng theo khuyến cáo để góp phần phòng chống
dịch bệnh, tự giác ở nhà khi cần phải cách li xã hội… bởi tất cả đó đều là những suy nghĩ,
hành động giản đơn nhưng góp phần to lớn để cống hiến cho xã hội.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

- Xác định vấn đề nghị luận: ý nghĩa của sự cống hiến, hi sinh thầm lặng trong cuộc
sống.

“Thước đo của đời người không phải thời gian mà là sự cống hiến” - câu nói của Peter
Marshall đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cống hiến trong cuộc đời của mỗi con người.
Từ thực tế cuộc sống và những bài học triết lí như thế, ta hiểu rằng sự cống hiến, hi sinh thầm
lặng luôn mang ý nghĩa tốt đẹp và đáng trân trọng. Sự cống hiến thầm lặng ấy cũng được nhà
thơ Nguyễn Minh Khiêm gửi gắm qua hình ảnh ẩn dụ là bộ phận rễ của cây, trong sự tương
quan với chức năng của các bộ phận khác như lá, hoa, quả. Rễ vừa giúp cây bám đất, vừa hút
dinh dưỡng nuôi cây. Rễ là biểu tượng của quá trình gian lao, vất vả để làm nên cuộc sống tốt
đẹp. Trong xã hội chúng ta, những con người nhỏ bé, âm thầm làm việc, cống hiến, tạo nền
tảng vững chắc cho sự phát triển tốt đẹp, bền vững chính là hiện thân của “rễ”. Sự hi sinh,

63
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

cống hiến âm thầm là một lẽ sống, một lí tưởng sống đẹp, tích cực. Bởi hi sinh là chịu mất
mát, thiệt thòi lớn lao vì mục đích chung, vì cái cao đẹp. Cống hiến là đóng góp công sức, cái
quý giá không màng đến lợi ích cá nhân mà làm việc hết mình vì người khác, vì một tập thể,
vì sự nghiệp chung của đất nước. Những nghĩa cử cao đẹp ấy luôn có ý nghĩa sâu sắc, làm
nền tảng cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Lí tưởng sống biết cống hiến giúp con người luôn
bền gan vững chí để thực hiện điều lành, để gắn kết và vì nhau mà sống tốt hơn. Trao yêu
thương thì sẽ nhận được yêu thương. Điển hình là trong đại dịch Covid-19, khi cả thế giới
oằn mình chiến đấu với một chủng vi-rút chưa có thuốc điều trị, thì ở Việt Nam ta đã làm rất
tốt công tác phòng dịch mà ở đó những y bác sĩ, những các bộ chiến sĩ, công an, nhân viên
trong các khu cách ly tập trung chính là những “chiến binh đi đầu”... Họ tích tham gia chống
dịch, không màng đến sức khỏe của bản thân, nỗ lực cứu chữa người bệnh, nhường doanh
trại, chỗ ở để chuyển thành khu cách li, làm việc ngày đêm phục vụ mọi người,… Tất cả họ
đều là những tấm gương tiêu biểu nhất cho sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho xã hội. Từ
đây, mỗi người và đặc biệt là thế hệ trẻ cần hiểu được và rút ra phương châm sống cho mình:
biết sống vì người khác, biết mở rộng trái tim mình, quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ
để cống hiến cho cuộc đời. Hãy chọn cách sống như những đóa hoa để: “tỏa ngát hương thơm
cho đời, sống với nỗi khát khao rằng được hiến dâng cho cuộc đời”...

Câu 2:

Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân được đánh giá là nhà văn của làng quê với
cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình. Văn của Kim Lân đi sâu
vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác
phẩm “Vợ nhặt” được chấp bút bởi nhà văn này chính là một “kiệt tác” của văn học hiện thực
Việt Nam, tái hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên tình người và những
tia hi vọng trong tư tưởng của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng
thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Qua một trích đoạn
trong tác phẩm này: “Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào….Có cái gì lạ lùng và tươi mát
thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”, ta lại càng thấm thía hơn lời tâm sự của Kim
Lân về ý đồ và cảm hứng sáng tác: “...Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được
sức sống đơn sơ của tâm hồn họ”.

Kim Lân là một nhà văn đa tài, ngoài viết văn, ông còn tham gia diễn xuất và có
những vai diễn ghi dấu ấn với độc giả. Trong sự nghiệp sáng tác, ông chủ yếu viết về đề tài
nông thôn, nông dân Việt Nam và phong tục tập quán tại những miền thôn quê vùng đồng

64
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bằng Bắc Bộ. Với giọng văn nhẹ nhàng, gần gũi, đôn hậu nhưng vẫn sâu sắc, ý nhị, lối kể
chuyện rất duyên dáng, đời thường, Kim Lân chủ trương viết về người nông dân nghèo vì “họ
bao giờ cũng thiệt thòi” nên nhà văn “muốn đòi cho những người đó quyền làm người và
quyền sống.” Nổi bật trong mảng đề tài đó chính là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Tác phẩm có tiền
thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở
dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân
đã viết truyện “Vợ nhặt”.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” tái hiê ̣n bức tranh bi thảm về nạn đói khủng khiếp năm 1945,
chỉ trong vòng vài tháng khiến hơn hai triệu đồng ta từ Bắc Kỳ đến Quảng Trị chịu chết đói,
cái ám ảnh kinh hoàng ấy được Nam Cao viết trong “Đôi mắt’’ rằng “Có lẽ đến năm 2000,
con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình”. Truyện là bức tranh bao quát
về nạn đói có mô ̣t không hai trong lịch sử dân tô ̣c có sức tố cáo tô ̣i ác của thực dân Pháp và
phát xít Nhâ ̣t đã gây ra cho nhân dân Viê ̣t Nam. Trong tác phẩm Kim Lân không dùng những
từ ngữ quá nặng nề, gay gắt, không tiếng chửi bới, hay những sự kiện nào kịch tính để mô tả
lại viễn cảnh khủng khiếp của nạn đói. Tuy nhiên ông vẫn lột tả được cái tiêu điều, thê thảm
của một xóm ngụ cư trong giai đoạn đau thương nhất của lịch sử dân tộc, bằng những câu văn
nhẹ nhàng, nhưng rất thấm thía. Đó là cái cảnh những người dân tản cư, dìu dắt, bồng bế
nhau la liệt khắp nơi, bộ dạng thê thảm, tàn tạ, người ngợm “xanh xám như bóng ma”, “ngổn
ngang khắp lều chợ”, không gian bao trùm bởi sự chết chóc với cảnh “người chết như ngả
rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Ớn lạnh, ám ảnh
với cảnh “bóng người đói dật dờ lặng lẽ đi lại như bóng ma”, cùng với “tiếng quạ trên mấy
cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi khủng khiếp” như tiếng gọi của tử thần, còn con
người thì đang bước dần từng bước chậm rãi đến nghĩa địa, tuyệt vọng và bất lực. Những con
người ấy dường như đã nhìn thấy trước cái chết của mình, thậm chí “khó ai có thể tin mình
sống nổi”. Đó là một khung cảnh đầy bi thương và ám ảnh, được Kim Lân tái hiện lại trong
các dòng văn xen kẽ, ông không tập trung làm nổi bật nó, mà chỉ chấm phá trong một vài câu
văn khiến người ta có cảm giác cái chết hiện diện khắp nơi và nó dần trở thành lẽ thường
trong giai đoạn ấy: “Ngã tư xóm chợ về chiều càng xác xơ, heo hút. Từng trận gió từ cánh
đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa.
Dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những
bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Không ai
lạ gì cảnh người chết đói, thỉnh thoảng lại có một người ngã xuống, lúc đầu người ta còn có
sức để đi chôn, sau nhiều quá chỉ cuốn chiếu lại để đó, cuối cùng là không có cả chiếu để

65
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

cuốn, thê thảm và ghê sợ vô cùng. Có thể thấy rằng nhà văn Kim Lân không hề né tránh hiện
thực, nhưng quan trọng hơn giá trị của tác phẩm không nằm ở chỗ phơi bày giá trị hiện thực
mà là ở việc từ trong bóng tối của hiện thực tác giả đã tìm ra ánh sáng của sự sống, ánh sáng
của hy vọng, ánh sáng của tình người, của niềm tim toát lên từ những con người trong nạn
đói ấy.

Mượn bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 để khẳng định, ngợi ca sức sống mãnh
liệt, tiềm ẩn trong tâm hồn những con người cùng khổ – nhà văn phát hiê ̣n khát vọng đáng
trân trọng của người nông dân ngay khi cận kề cái chết. Những con người đang bám víu lấy
cái sự sống mỏng manh, đang nỗ lực sống sót, khổ cực vẫn đang cận kề nhưng trên tất cả họ
vẫn muốn hướng đến sự sống. Tiêu biểu được nhà văn khắc họa chính là nhân vật Tràng. Đây
là một nhân vật điển hình đại diện cho những con người trong nạn đói năm 44 - 45, lai lịch
của anh chàng có thể gói gọn trong ba chữ “dân ngụ cư”, gia đình Tràng nghèo khó, mẹ góa
con côi dựa dẫm vào nhau, làm nghề kéo xe bò thuê, công việc bấp bênh không ổn định.
Thêm nữa Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, với những đường nét thô kệch được tác giả ví
như sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa “hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm
bạnh ra, thân hình to lớn vập vạp” lại thêm cái tật “vừa đi vừa lảm nhảm những điều mà mình
nghĩ”, khi cười thì thường ngửa mặt lên trời cười hầy hầy. Như vậy là hội tụ đầy đủ những lí
do để ế vợ. Thế nhưng, điều bất ngờ là hôm đó, người ta lại thấy Tràng “về cùng một người
đàn bà nữa”. Sự thay đổi lộ rõ trên nét mặt: “mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường.
Hắn tủm tỉm cười nị một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Nhà văn tài tình đã đưa chi
tiết này lên trước, về sau mới giải thích tất cả, vừa giúp mạch truyện tự nhiên, vừa khiến cho
độc giả thấy tò mò và ít nhiều có cho mình những phán đoán. Một anh chàng trước nay chỉ đi
về một mình, nay lại phớn phở khác thường khi về cùng một người đàn bà xa lạ. Và rồi người
ta cũng hiểu, ấy là Tràng đang đưa vợ về nhà, người vợ mà anh vừa “nhặt được” giữa nạn đói
thê thảm này. Khác lắm chứ, sung sướng chứ, chưa biết mình có “chết vì đói” hay không mà
chỉ cần biết rằng mình đã có vợ, người vợ đang đi bên với biết bao những hi vọng về cuộc
sống sau này. Cái vẻ “mệt mỏi”, “đăm chiêu” giờ đây đã thay bằng nét mặt vui tươi, rạng rỡ.
Không thể hồ hởi phấn khởi như một chú rể trong một lễ cưới linh đình, cũng không thể sung
sướng tay tắt bắt mặt mừng khoe về người vợ nhưng chắc hẳn trong Tràng đang vui và hạnh
phúc lắm. Tất cả đều là tự nhiên và tất yếu những gì diễn ra trong tâm chí và hành động của
Tràng. “Hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, đó còn là ánh sáng của niềm tin, niềm hi vọng chính
đáng về một hạnh phúc bình dị - hạnh phúc đến từ mái ấm gia đình. Để rồi cứ như thế “trong
một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát

66
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Có thể thấy rằng sự vui mừng, niềm hạnh
phúc đã xóa mờ hết tất cả những gì khó khăn, khốn khổ đang diễn ra và đang chờ đợi phía
trước, kể cả cái chết. Điều đó khiến cho Tràng trở nên tinh tế hơn, không còn ngờ nghệch như
trước kia nữa, anh biết nghĩ cho người vợ mình, sợ lũ trẻ đùa giỡn khiến thị ngại ngùng,
“Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng”, rồi là tiếng cười khoái
chí: “Bố ranh!” Từ những nét miêu tả ngắn ngủi ấy thôi nhưng nhà văn Kim Lân đã đem đến
một không khí rất khác giữa không gian nạn đói ê chề, tăm tối, thảm hại - đó là không khí của
tình thương yêu, của niềm hi vọng rất đỗi bình dị.

Sóng đôi với Tràng trong buổi chiều thật lạ ấy chính là người vợ nhặt. Thị tỏ ra ngại
ngùng và e thẹn: “Đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt”, khi bị lũ trẻ trêu, thị “có vẻ khó chịu lắm”, “nhíu đôi lông mày lại, đưa tay lên xóc xóc
lại tà áo”. Trong sự đối sánh với hình ảnh thị khi mới gặp Tràng, bạn đọc dễ dàng nhận ra ở
cô không còn sự chao chát, liều lĩnh như khi bị cái đói dồn đến chân tường mà đã trở về với
bản tính hiền lành, ý tứ của người con gái. Vẻ nữ tính ấy cho phép bạn đọc tin tưởng về một
người vợ hiền dịu và có thể cùng Tràng xây nên một tổ ấm hạnh phúc về sau.

Như một nghịch lý, chuyện Tràng có vợ đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người trong
xóm ngụ cư: “…người trong xóm lạ lắm. Đây thực sự là một biến động nho nhỏ. Họ đứng cả
trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng
ngạc nhiên hơn nữa. Họ mừng, nhưng cũng lo thay cho anh. Người thì “Cười lên rung rúc”.
Người lại lo cho Tràng “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi
nhau sống qua được cái thì này không?” Nếu để ý ta sẽ thấy, khi Tràng chưa về, cả xóm ngụ
cư chìm trong âu lo và bóng tối, mọi người đều có gương mặt tối om vì đói. Nhưng khi Tràng
về, cùng với một người đàn bà, thì như có một luồng gió tươi mát thổi vào từng gương mặt
người. Họ cố cắt nghĩa xem Tràng đi với ai, sự ngạc nhiên khiến họ quên đi cái đói. Chi tiết
này lại một lần nữa thể hiện Kim Lân là một nhà văn nhân đạo. Ông đã đưa Tràng vào như
một chiếc phao tinh thần để cho cả thế giới này, cả xóm ngụ cư mà “cái đói đã tràn về tự bao
giờ” không bị cái đói cuốn trôi đi đến chìm nghỉm. Ta có thể nhìn thấy sự sẻ chia của những
người hàng xóm dành cho nhau. Cuộc sống đói khổ đến vậy, nhưng họ vẫn lo lắng cho những
người ở bên cạnh mình. Đây là một trong những minh chứng cho phẩm chất tốt đẹp của
những người dân lao động xưa. Cái hay nằm ở chỗ tình huống đã tạo nên sự thay đổi mới mẻ
theo hướng tích cực của mọi người: bên bờ vực cái chết vì đói khát vẫn biết cảm thông cho
nhau, tin tưởng vào điều tốt đẹp.

67
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Thành công nhất ở Kim Lân đó là ông đã tạo ra một tình huống truyện đô ̣c đáo với
nghê ̣ thuâ ̣t miêu tả: bút pháp tả thực tạo ấn tượng mạnh, miêu tả tâm lí nhân vâ ̣t tinh tế; ngôn
ngữ sinh động, so sánh độc đáo, giàu tính tạo hình… Tất cả những điều đó đã giúp nhà văn
phát hiê ̣n khát vọng đáng trân trọng của người nông dân ngay khi cận kề cái chết để mà
khẳng định, ngợi ca sức sống mãnh liệt, tiềm ẩn trong tâm hồn những con người cùng khổ.

Kim Lân đã từng tâm sự về ý đồ và cảm hứng sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt” như thế
này: “...Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn
họ”. Và thực sự với trích đoạn trong “Vợ nhặt”, nhà văn đã thực hiện thành công ý đồ sáng
tác của mình: biến câu chuyện ngày đói cay đắng, đau khổ thành khúc ca chiến thắng của tình
người và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc tha thiết, mãnh liệt. Đó cũng là tấm lòng,
niềm thương cảm, xót xa của nhà văn trước những con người nhỏ bé, sự trân trọng những ước
mơ, khát vọng đẹp đẽ và niềm tin vào cuộc sống của những con người nghèo khổ. Giá trị
nhân đạo cao cả của tác phẩm văn chương không nằm ở đâu xa mà xuất phát ngay từ ý đồ và
cảm hứng sáng tác thấm đượm tinh thần nhân văn như thế!

Viết về nạn đói năm 1945 là thế nhưng nhà văn Kim Lân không tập trung miêu tả
thực trạng xơ xác, thê thảm mà nạn đói mang đến cho con người mà tập trung bút lực khai
thác, khám phá vẻ đẹp ẩn chứa bên trong con người. Và đoạn trích trong "Vợ nhặt" của Kim
Lân đã vô cùng thành công khi tìm thấy ánh sáng đẹp đẽ nhất của sức sống, vẻ đẹp tình
thương bên trong những người nông dân nghèo - nạn nhân đáng thương của nạn đói. Qua đó,
tác giả cũng ngầm khẳng định một điều rằng: Cái đói, sự mất mát khủng khiếp hành hạ tất cả
mọi người, tước đoạt sinh mạng nhưng không át được sức sống đơn sơ và bản chất tốt đẹp
của tâm hồn họ. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách
Kim Lân.

ĐÁP ÁN ĐỀ 08

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phương thức tự sự 0.5

Câu 2 Khi bị rơi xuống hố, hai con ếch đã có phản ứng: phớt lờ lời 0.5
nói của những con ếch khác, hai con ếch bị rơi xuống hố vẫn

68
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

nỗ lực tìm cách nhảy ra khỏi hố.

Câu 3 - Hình ảnh chú ếch thứ nhất kiệt sức bỏ cuộc tượng trưng cho 1.0
những con người yếu đuối, bị những lời mỉa mai, dè bỉu nhấn
chìm.
- Hình ảnh chú ếch thứ hai nhảy ra khỏi miệng hố vì bị điếc
tượng trưng cho những người biến lời cay độc làm sức mạnh
để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Câu 4 - Học sinh đưa ra thông điệp mà mình cảm nhận được và 1.0
lý giải sao cho hợp lý.
- Đưa ra liên hệ bản thân và cuộc sống.
- Có thể tham khảo:
+ Luôn tin tưởng vào bản thân dù người khác cho là rất khó
khăn.
+ Hãy biến những lời chê bai, mỉa mai, dè bỉu thành động lực,
nguồn năng lượng để vượt qua khó khăn.

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ 2.0
của anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần
Đọc hiểu: “Điều quan trọng không phải là những gì xảy
đến với cuộc sống của bạn mà là cách bạn nhìn vào biến cố
đó.”

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Nêu suy nghĩ về nhận 0.25
định: “Điều quan trọng không phải là những gì xảy đến với
cuộc sống của bạn mà là cách bạn nhìn vào biến cố đó.”

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:

69
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Giải thích: Biến cố: sự việc xảy ra có tác động lớn đến
đời sống => Câu nói nhấn mạnh vào thái độ và hành
động của con người để vượt qua những thử thách, biến
cố.
- Bàn luận vấn đề:
+ Cuộc sống không phải bao giờ cũng thuận lợi,
suôn sẻ, mà luôn có những khó khăn, thử thách
vì vậy nếu buông bỏ, sợ hãi, trốn tránh, con
người sẽ không bao giờ có thể bước đến thành
công.
+ Những biến cố xảy ra để thấy được bản thân đã
có cách nhìn nhận trước mỗi sự việc như thế
nào: nếu nhìn theo hướng tích cực sẽ vượt qua
được khó khăn, nếu nhìn theo hướng tiêu cực sẽ
thất bại.
+ Dũng cảm bước đi, chấp nhận đương đầu với
mọi khó khăn, thử thách, nhìn khó khăn với cái
nhìn tích cực, con người sẽ trưởng thành, được
sống một cuộc đời phong phú, giàu trải nghiệm
và có ý nghĩa.
- Dẫn chứng cụ thể: Nick Vujicic, diễn viên Mai
Phương,...
- Liên hệ bản thân và cuộc sống.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí và hành động của 5.0

nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên (...), từ đó làm nổi
bật sự khác biệt cơ bản trong hai lần sức sống tiềm tàng
trỗi dậy ấy.

70
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Diễn biến tâm lí và hành 0.25
động của nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi
bật sự khác biệt cơ bản trong hai lần sức sống tiềm tàng trỗi
dậy ấy.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5


- Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Tô Hoài sáng tác theo xu hướng hiện thực,
thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời
thường trong những trang viết bình dị, tinh tế và đầy
chất thơ.
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ ” được sáng tác năm
1952 và in trong tập "Truyện Tây Bắc " (1953). Đây là
một tác phẩm có giá trị của văn xuôi Việt Nam hiện đại
khi phản ánh chân thực và sinh động con đường của
nhân dân miền núi cao Tây Bắc đi theo cách mạng.

LĐ 2: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật 2.5
Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự khác biệt
cơ bản trong hai lần sức sống tiềm tàng trỗi dậy ấy
*Khái quát nhân vật:
- Mị là một cô gái trẻ đẹp, đảm đang, duyên dáng, thổi
sáo giỏi, được nhiều chàng trai yêu mến ngày đêm thổi
sáo đi theo.
- Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ
nghèo ở miền núi ngày trước: có những phẩm chất tốt
đẹp, đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị đày đọa

71
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

trong cuộc sống nô lệ. Mị trở thành con dâu gạt nợ cho
nhà thống lí Pá Tra (Phần này chỉ nêu ngắn gọn, không
phân tích )
- Bị vùi dập đến cùng nhưng ở người con gái ấy vẫn
tiềm tàng sức sống mãnh liệt.
*Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân
vật Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Yếu tố ngoại cảnh tác động đến tâm trạng và hành
động của Mị :
+ Mùa xuân năm ấy thật đặc biệt: "Hồng Ngài
năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh
vàng vàng ửng...”
+ Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu
sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng
của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của
những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá
xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc
chắn không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn
yêu lửng lơ bay ngoài đường". Chính những
hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi
tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị .
+ Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi
cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi
loạn nhân tính”.Ngày tết Mị cũng uống rượu.
Mị ngồi bên bếp lửa “tai Mị văng vẳng tiếng
sáo gọi bạn đầu làng” nhưng “lòng Mị thì đang
sống về ngày trước". Tiếng sáo đánh thức tâm
hồn Mị , đánh thức quá khứ, đưa Mị trở về với
mùa xuân cũ. Vị ngọt ngào của quá khứ bất
giác nhắc nhớ vị cay đắng trong hiện tại. Mị
thấm thía đau khổ, lại nghĩ đến cái chết.
- Hiện tại và quá khứ: thân phận và khát vọng giao tranh
gay gắt trong Mị. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng.

72
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

"Mị muốn đi chơi”. Mị thay váy áo chuẩn bị đi chơi.


Hành động của Mị không khác nào một sự nổi loạn.
- Sức sống trào dâng mãnh liệt đến mức ngay cả khi bị A
Sử trói đứng vào cột nhà, Mị vẫn không biết mình bị
trói: vẫn vùng bước đi theo tiếng sáo gọi bạn yêu như
người mộng du. Những vết trói đau thít, tiếng chân
ngựa đạp vách, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng
con ngựa.
- Tô Hoài đã khám phá và phát hiện đằng sau một tâm
hồn câm lặng vẫn còn một tâm hồn khát khao sống:
khát khao yêu, đằng sau một con rùa lùi lũi nuôi trong
xó cửa còn có một con người.
*Phân tích sức sống tiềm tàng, sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân
vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ
- Mấy đêm liền, nhìn thấy A Phủ bị trói, Mị vẫn thản
nhiên thổi lửa, hơ tay. Tâm hồn Mị đã trở lại với sự
câm lặng, vô cảm từ sau đêm tình mùa xuân ấy.
- Cho đến khi nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị mới
xúc động, nhớ lại những dòng nước mắt và nỗi khổ của
mình.
- Thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh ngộ,
Mị chấp nhận chịu sự trừng phạt của nhà thống lý và
quyết định cắt dây trói cứu A Phủ.
- Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối và sau
đó vụt chạy theo A Phủ bởi “ở đây thì chết mất”. Hành
động ấy diễn ra một cách tức thời, là hành động bất
ngờ nhưng tất yếu. Mị cắt dây trói cứu A Phủ đồng thời
cũng tự giải thoát cho chính mình. Hành động ấy hoàn
toàn phù hợp với tính cách của Mị - một người con gái
giàu sức sống.
*Về nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí nhân vật

73
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

sinh động, có cá tính đậm nét.


- Mị ít hành động, nhân vật ý thức nội tâm.
- Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, đi sâu vào
khai thác diễn biến tâm lí.
- Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi, ngôn
ngữ giàu chất thơ

LĐ 3: Đánh giá khác biệt cơ bản trong hai lần sức sống tiềm 1.0
tàng trỗi dậy ấy.
- Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã
cắt đứt sợi dây trói hữu hình đang giam cầm A Phủ để
giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây
vô hình của thần quyền để giải phóng cho chính mình.
Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng hạnh
phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát
vọng tự do trong Mị - một con người tưởng như đã bị
nô lệ hóa hoàn toàn.
- Lần thứ nhất Mị nhận được sự tác động theo chiều
hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ định giải
thoát trong chốc lát.
- Lần thứ hai không có sự hỗ trợ từ ngoại cảnh, sự trỗi
dậy ở lần thứ hai mạnh mẽ quyết liệt hơn. Mị đã giải
thoát mình khỏi sự giằng buộc của cả cường quyền lẫn
thần quyền. Với hành động này Mị đã chiến thắng số
phận.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I. ĐỌC HIỂU

74
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của văn bản là tự sự

=> Cách xác định:

- Văn bản trên có dạng văn xuôi.


- Văn bản đề cập đến vấn đề trong cuộc sống, trình bày quan điểm của tác giả về vấn đề
đó.

Câu 2:

Khi bị rơi xuống hố, hai con ếch đã có phản ứng: phớt lờ lời nói của những con ếch
khác, hai con ếch bị rơi xuống hố vẫn nỗ lực tìm cách nhảy ra khỏi hố.

=> Cách xác định: đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi tiết
trong bài. Tìm trong bài và trích dẫn lại.

Câu 3:

Hình ảnh chú ếch thứ nhất kiệt sức bỏ cuộc tượng trưng cho những con người yếu
đuối, bị những lời mỉa mai, dè bỉu nhấn chìm.

Hình ảnh chú ếch thứ hai nhảy ra khỏi miệng hố vì bị điếc tượng trưng cho những
người biến lời cay độc làm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

=> Cách xác định: đọc thật kỹ câu hỏi và bám vào nội dung của đoạn văn bản, giải thích đầy
đủ, lần lượt từng đối tượng được hỏi, tránh bỏ sót đối tượng.

Câu 4:

Đối với tôi, thông điệp ý nghĩa nhất khi đọc câu chuyện “Con ếch nghễnh ngãng” là
hãy biến những lời chê bai, mỉa mai, dè bỉu của người khác thành động lực, nguồn năng
lượng để vượt qua khó khăn. Tự coi những lời tiêu cực xung quanh là lời động viên mình,
nhiều khi chọn cách “điếc” như chú ếch kia lại là một cách làm tối ưu nhất. Trước những thử
thách tưởng chừng chẳng thể vượt qua, sự chê bai, coi thường từ người khác sẽ càng khiến ta
nhụt chí. Nhưng khi có can đảm, quyết tâm để biến định kiến thành động lực, sự chê bai
thành đòn bẩy nâng ta bước lên thì chắc hẳn sẽ không còn khó khăn nào có thể ngăn trở ta
đến với thành công.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

Cuộc sống luôn tồn tại những khó khăn, thử thách, những gì ta phải trải qua không
phải lúc nào cũng màu hồng nhưng không vì thế mà chúng ta buông xuôi, nản chí. Câu nói:
“Điều quan trọng không phải là những gì xảy đến với cuộc sống của bạn mà là cách bạn nhìn

75
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

vào biến cố đó” như một lời cổ vũ tinh thần cho chúng ta vững bước trong cuộc sống bằng
một tinh thần và thái độ tích cực. “Biến cố” là những sự kiện xảy ra có ảnh hưởng và tác
động mạnh đến đời sống. Trước những tác động như thế, điều quan trọng là ta phải vững
lòng, luôn biết hướng về điều tốt đẹp. Qua đó, câu nói đã nhấn mạnh vào thái độ và hành
động của con người để vượt qua những thử thách, biến cố. Thật vậy, ta không thể quyết định
những điều xảy đến với mình nhưng ta hoàn toàn có thể quyết định cách để đối diện với tất
cả. Sau cùng, người ta thường chỉ nuối tiếc vì đã không làm hết sức, chẳng ai hối tiếc vì đã
dám thử nghiệm. Và thái độ của chúng ta trước những khó khăn thử thách là rất quan trọng,
nếu ta nhìn mọi thứ theo hướng tích cực thì sự việc trở lên đơn giản và dễ dàng hơn rất nhiều.
Nhưng nếu mang tâm trạng và cái nhìn tiêu cực thì mọi việc sẽ tồi tệ hơn, thất bại sẽ là điều
đương nhiên. Ai đó đã từng nói rằng: đời thay đổi khi chúng ta thay đổi. Vậy nên dù giông
bão có lớn đến đâu nhưng chỉ cần chúng ta có cái nhìn tích cực thì sẽ nhận lại những điều bất
ngờ. Chắc hẳn chúng ta cũng chưa thể quên được hình ảnh cặp vợ chồng chú lính chì Ngọc
Bảo, Lệ Thu. Cả hai cùng khiếm khuyết một chân nhưng không vì thế mà nản lòng từ bỏ
cuộc sống, hai người đều rất nỗ lực tìm cho mình niềm vui trong công việc, sự tự tin trước
cuộc đời. Ở họ ta nhìn thấy một điểm chung đó là dù những biến cố xảy ra tưởng như không
thể vượt qua được nhưng với niềm tin yêu cuộc sống, sự lạc quan thì cả hai đã cùng nhau
chiến thắng mọi trở ngại và trở thành người truyền cảm hứng tích cực cho xã hội. Hãy dũng
cảm bước đi, chấp nhận đương đầu với mọi khó khăn, thử thách, thành công nằm ở chính
cách nghĩ và thái độ của bạn. Mỗi khi chênh vênh hay nản lòng muốn bỏ cuộc, hãy nhớ rằng:
“Cuộc sống là 10% những gì xảy ra với bạn và 90% còn lại là cách bạn phản ứng với nó”.

Câu 2:

Có một nhà văn được mệnh danh là cây đại thụ cuối cùng của lớp tác giả văn xuôi
thời kì cách mạng. Với 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học,
nhà văn ấy đã sáng tác và cống hiến bền bỉ, trở thành một nhà văn của thiếu nhi, nhà văn của
Hà Nội, nhà văn của Tây Bắc. Đó không ai khác chính là tác giả Tô Hoài. “Cả một đời gắn
bó với đất nước và nhiều miền quê hương, trân trọng và yêu thương những con người lao
động mang tâm hồn và tính cách của người Việt Nam” (Hà Minh Đức), Tô Hoài đã đem đến
những trang văn đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu về phong cách này phải kể đến truyện
ngắn “Vợ chồng A Phủ” - một đứa con tinh thần mà qua đó nhà văn đã trả được “món nợ” ân
tình với đất và người Tây Bắc. Trong tác phẩm, nhà văn đã khéo léo miêu tả hai lần trỗi dậy
của sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị: trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cởi

76
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

trói cho A Phủ, mà ở mỗi thời điểm nhân vật đều có những diễn biến tâm lí và hành động
khác nhau, để lại bao dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc.

Là nhà văn xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại, Tô Hoài sáng tác theo xu hướng
hiện thực, thiên về phản ánh những sự thật của cuộc sống đời thường trong những trang viết
bình dị, tinh tế và đầy chất thơ, bộc lộ vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về cuộc sống, đặc
biệt là đối với những phong tục tập quán độc đáo của nhiều vùng đất khác nhau. Xuất phát từ
sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống và con người miền núi mà những tác phẩm viết về đề tài
này đã trở thành mảng sáng tác quan trọng và có giá trị của Tô Hoài. Tập “Truyện Tây Bắc”
là minh chứng rõ nét cho điều này. Và trong ba truyện ngắn của tập truyện này, “Vợ chồng A
Phủ” được coi là tác phẩm xuất sắc nhất. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm
1952, là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng nhà văn cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc.
Tác phẩm đã phản ánh chân thực và sinh động con đường của nhân dân miền núi cao Tây
Bắc đi theo cách mạng để đánh đổ thần quyền và bạo quyền phi nghĩa, khẳng định sức sống
bền bỉ và mạnh mẽ nơi con người mà cụ thể ở đây chính là nhân vật Mị.

Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô có tài thổi sáo, thổi đàn môi, Mị uốn chiếc lá
trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, trai làng vì mê tiếng sao mà ngày đêm thổi sáo đi
theo Mị, đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị. Sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng sáo cho
thấy cái tài và cái tình của người thổi sáo. Có lẽ, Mị đã gửi bao tình cảm, biết bao khát khao
vào tiếng sáo ấy khiến vẻ đẹp trong tâm hồn nhạy cảm, trong trái tim thiết tha yêu sống của
cô đã thông qua tiếng sáo mà làm rung động mê đắm lòng người. Mị là người con gái có tính
cách mạnh mẽ, tự chủ. Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khao khát yêu và có người yêu theo
sự lựa chọn của trái tim mình. Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị về làm dâu gạt nợ
của nhà thống lí, Mị tha thiết xin được ở nhà cuốc nương, trồng ngô trả nợ thay cho cha mẹ,
Mị khóc xin cha “đừng bán con cho nhà giàu” – cô muốn tự quyết định số phận của mình mà
không chấp nhận biến mình thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu. Mị vốn là cô gái có trái
tim vị tha, nhân hậu. Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con rất hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự
nguyện làm việc trả nợ thay cho bố mẹ. Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí,
không chịu nổi kiếp sống đọa đầy đau khổ Mị muốn tự giải thoát bằng cái chết, vậy mà vì
thương cha, Mị lại gạt nước mắt, chấp nhận quay về nhà thống lí, chấp nhận sống tiếp cuộc
đời nô lệ nhọc nhằn, khổ ải, cuộc sống đáng sợ hơn cả cái chết.

Là con dâu trong nhà thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về tinh
thần nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ cơ hội
là trỗi dậy mạnh mẽ. Sức sống tiềm tàng của Mị được ví như một mầm cây bị vùi trong cát

77
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

bỏng, chỉ đợi cơn mưa đi ngang qua sẽ bung nở thành cây đời xanh tươi. Và cây đời đó đã
thực sự nảy mầm trong đêm tình mùa xuân. Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả
sâu sắc và tinh tế. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa
xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất
công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Mùa xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với màu sắc, âm thanh: tiếng
sáo, tiếng khèn,… Không khí nồng nàn, vui tươi của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa
rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ,… Năm nay, nghe được tiếng lòng
của những người ham sống, nên có lẽ đất trời đã có những biến chuyển khác thường. Mùa
xuân đến sớm, gió rét dữ dội, khung cảnh trước mặt vừa sôi động, vừa bình yên. Mị cảm
nhận được mùa xuân đang về, nhưng những cảm nhận ấy còn mơ hồ. Mị nghe thấy tiếng sáo
xa xa, những đêm tình mùa xuân đã tới. Đột nhiên, Mị nhẩm theo lời bài hát của người đang
thổi. Sau bao nhiêu năm câm lặng, Mị đã cất lên những lời thì thầm mùa xuân đầu tiên.

“Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị đang
sống trong một trạng thái khác thường. Men rượu làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn
cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ực từng bát” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố
uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã qua. Hơi men của rượu đã đưa tâm hồn Mị
đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái,… Người ta thường
uống rượu để say, nhưng Mị uống rượu để nhớ. Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra
khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như
những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy
lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.

Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật: “Nếu có
nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch
lí trên cho thấy khi niềm khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung
đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là
biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt.

Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về
khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính
là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu.
Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn
tiếng sáo.

78
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào
phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát.
Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô
chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà
Thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình.
Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập
phũ phàng nhất. A Sử đi chơi về, thấy Mị có ý định đi chơi xuân liền đánh Mị và trói đứng
Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, nghiêng đầu được. Sau đó thổi tắt ngọn đèn và đóng
sầm cửa lại. Thằng A Sử nó muốn dìm Mị vào trong bóng tối, muốn dập tắt mong muốn hồi
sinh của Mị. Thế nhưng, A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn
của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn
Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “vùng bước đi” thì mới
biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “lúc mê,
lúc tỉnh”. Những ký ức tươi đẹp, những đau đớn của hiện tại. Mị khóc mà nước mắt chẳng
thể lau. Cứ thế đến hết đêm cho đến khi trời tang tảng sáng lúc nào cũng không biết. Mị bàng
hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu chuyện
mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, ngày xưa có một người vợ chết vì bị chồng trói
trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã
chết. Đây là một trong những chi tiết thể hiện lòng ham sống mãnh liệt của người con gái này
dù trong cảnh đói khổ, lay lắt, nhục nhã.

Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh tình huống đầy bi kịch: khát vọng sống
mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng dữ dội hơn. Nhà văn muốn
khẳng định con người có sức sống mãnh liệt cho dù bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào. Từ nay,
có lẽ Mị sẽ không thể yên ổn với những suy nghĩ buông xuôi, cam chịu của mình để tiếp tục
sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc, khát vọng tình yêu trong tuổi trẻ đã
hồi sinh, đã bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai.

Sau đêm tình mùa xuân năm ấy, thái độ và dáng vẻ bên ngoài của Mị dường như quay
về với con người cũ, nhẫn nhục và vô cảm. Tuy nhiên, sức sống vẫn âm ỉ tiềm tàng đâu đó
trong lòng Mị, đó là điều mà thậm chí chính Mị cũng chưa tự nhận ra. Có lẽ cô vẫn nghĩ lòng
mình đã chết hẳn và không thể ngờ sức sống mãnh liệt ấy sẽ trở về với cô trong một đêm
đông lạnh lẽo ở Hồng Ngài. Sự vô cảm với nỗi đau của cả người khác và chính mình được

79
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

thể hiện trong những chi tiết miêu tả thái độ, tâm tư của Mị khi hàng đêm ra sưởi lửa, hơ tay
gần nơi A Phủ bị trói đứng. Có tới mấy đêm, Mị thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người
con trai bị trói, bị đói và rét đang chờ chết bên cạnh mình. Mị cũng ý thức được sự vô cảm
của mình khi thản nhiên thổi lửa, hơ tay bên cạnh một người sắp chết, thậm chí cô còn nghĩ
rằng nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Thật ra cô không chỉ thờ ơ với nỗi
khổ của A Phủ mà bản thân mình bị A Sử đánh ngã xuống cửa, cô còn dửng dưng, không
thấy bất bình, chẳng hề sợ hãi, đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước.

Nhưng một cái gì đó chưa chết hẳn trong lòng Mị. Đó là đêm Mị quay sang và nhìn
thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Một người con
trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với hai hõm má đã xám đen khi bị trói
đứng chờ chết. Một người con trai ngang tàng mạnh mẽ bây giờ phải lặng lẽ khóc, dòng nước
mắt không thể kiềm chế vì quá cay đắng, không thể che dấu vì không thể tự lau đi được.
Cảnh tượng ấy làm Mị nhớ lại cảnh mình cũng từng bị trói, cũng từng khóc cay đắng, nước
mắt cũng chảy xuống miệng, xuống cổ, không thể lau đi được. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A
Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại
người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức
được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước
đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ. Đó là sự trỗi dậy ý thức
về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong
rừng. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân
phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A
Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.
Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã
le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến
hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.

Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi
cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy...”, rất
có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương
người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt
nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm
lí của Mị trong đêm mùa đông này. Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản
kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy.

80
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời
đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A
Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn
đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị
lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo
tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy
trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập
tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý
niệm.

Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời
cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng
tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái
vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái
chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi.
Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến
đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây
thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên
đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực
Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát
sống trong Mị. Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại.
Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa
biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.

Thành công của Tô Hoài khi khắc họa nhân vật Mị là nghệ thuật xây dựng nhân vật,
đặc biệt là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Những trang văn đầy chất thơ khi thể hiện
những rung cảm của nhà văn trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người, đồng thời
có khả năng truyền được cảm xúc ấy đến người đọc. Nghệ thuật trần thuật của Tô Hoài mang
tính truyền thống nhưng cũng rất uyển chuyển, sáng tạo từ cách giới thiệu nhân vật đặc biệt
ấn tượng với cốt truyện vừa liền mạch theo trình tự thời gian vừa đan xen những hồi ức, pha
trộn giữa quá khứ và hiện tại, giữa những mơ hồ của tiềm thức với những lộn xộn chồng chéo
của tâm tư…, nhờ thế mà mạch truyện biến đổi sinh động hấp dẫn mà vẫn mạch lạc. Ngôn
ngữ của Tô Hoài giản dị, phong phú, đầy sáng tạo, lời văn mượt mà, sâu lắng, trữ tình, giàu
tính tạo hình và sức truyền cảm sâu sắc. Ngôn ngữ vừa có sự vận dụng cách nói hồn nhiên,
giàu hình ảnh của người miền núi, vừa giữ được tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học. Tất

81
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

cả đã đem đến một cô gái người Mông với cuộc đời khổ cực mà luôn tiềm tàng sức sống
mạnh mẽ.

Những hành động bất ngờ, quyết liệt cho thấy Mị đã cắt đứt sợi dây trói hữu hình
đang giam cầm A Phủ để giải cứu cho đồng loại, đồng thời cũng cắt đứt sợi dây vô hình của
thần quyền để giải phóng cho chính mình. Nếu như đêm tình mùa xuân gắn với khát vọng
hạnh phúc, thì đêm đông cứu A Phủ lại gắn liền với khát vọng tự do trong Mị - một con
người tưởng như đã bị nô lệ hóa hoàn toàn. Lần thứ nhất sức sống tiềm tàng trỗi dậy, Mị nhận
được sự tác động theo chiều hướng tích cực từ ngoại cảnh, bản thân Mị chỉ định giải thoát
trong chốc lát. Lần thứ hai vào đêm mùa đông, không có sự hỗ trợ từ ngoại cảnh, sự trỗi dậy
đã mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Mị đã giải thoát mình khỏi sự giằng buộc của cả cường quyền
lẫn thần quyền. Với hành động này Mị đã chiến thắng số phận. Xưa, nàng Kiều bị xô đẩy vào
cuộc sống thanh lâu ô nhục, đã bao lần cố sức vùng vẫy thoát ra, và tấm lòng nhớ cha mẹ,
nhớ người yêu vẫn tha thiết đau đớn suốt ngần ấy năm trời lưu lạc. Nhân vật Tám Bính của
Nguyên Hồng, sống cuộc đời một “Bỉ vỏ” dưới đáy xã hội, bị khinh bị nhưng vẫn không
nguôi khát khao một cuộc sống thiện lương trong sạch. Chỉ có điều, những tác giả văn học
quá khứ đã không tìm ra con đường giải thoát cho những nạn nhân đau khổ ấy, còn cô Mị -
cũng như nhiều nhân vật khác trong tác phẩm văn học cách mạng hiện đại thì đã tìm thấy con
đường giải phóng thực sự, tìm thấy sự thực hiện những ước vọng chân chính của mình trong
quá trình đến với cách mạng, dưới ánh sáng của Đảng. Điều đó cũng làm nên chất hiện thực
và giá trị nhân đạo cho các tác phẩm.

Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc
cảm đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm mùa đông cởi trói
cho A Phủ đã cởi nút thắt cho bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời
tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt.
Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát
đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong
phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự
trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận
đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu)

ĐÁP ÁN ĐỀ 09

Phần Câu Nội dung Điểm

82
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phương thức nghị luận 0.5

Câu 2 Quan niệm ngày nay cho rằng vẻ đẹp bề ngoài quan trọng 0.5
không kém nội dung. Trong khi quan niệm ngày xưa cho rằng
“tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, vẻ đẹp nội dung, bên trong quan
trọng hơn bên ngoài.

Câu 3 Vẻ đẹp ngoại hình không phải là tất cả vì: 1.0


- Vẫn còn những yếu tố quan trọng khác để làm nên một
con người như học vấn, tri thức, tài năng, lòng nhân ái,
óc hài hước…
- Vẻ đẹp ngoại hình bị tàn phai bởi thời gian, ta không
thể mãi sở hữu vẻ đẹp đó.
- Vẻ đẹp thực sự nên là sự cân bằng giữa nội dung và
hình thức.

Câu 4 Thí sinh bày tỏ quan điểm đồng tình hoặc không đồng tình và 1.0
đưa ra lí giải phù hợp.

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết 01 2.0
đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn luận về tầm quan trọng
của vẻ đẹp ngoại hình trong cuộc sống ngày nay.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tầm quan trọng của vẻ 0.25
đẹp ngoại hình trong cuộc sống ngày nay.

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:
- Giải thích: Vẻ đẹp ngoại hình là vẻ đẹp về diện mạo, là dáng

83
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

vẻ bên ngoài của con người. Vẻ đẹp ngoại hình có thể đến từ
nhan sắc, vóc dáng hay thần thái tự tin, lịch sự.
- Bàn luận: tầm quan trọng của vẻ đẹp ngoại hình:
+ Trong bối cảnh hiện nay, khi điều kiện về vật chất tốt
hơn, người ta không còn chỉ quan tâm làm sao để “ăn
no mặc ấm” mà quan trọng hơn bây giờ là “ăn ngon
mặc đẹp”, đồng nghĩa với việc vẻ bề ngoài đang ngày
càng được chú trọng.
+ Vẻ bề ngoài xinh đẹp, tự tin giúp ta tạo được thiện cảm
đối với mọi người ngay trong lần gặp đầu tiên.
+ Vẻ đẹp ngoại hình giúp ta tự tin hơn, tạo tiền đề thuận
lợi để bộc lộ cá tính, tính cách cũng như sự thông
minh, tài năng của mình. Vẻ đẹp ngoại hình là yếu tố
quan trọng làm nên phong cách của mỗi người.
+ Vẻ đẹp ngoại hình là chiếc chìa khóa hữu ích trong các
mối quan hệ xã hội và trong công việc. Không thể phủ
nhận nhiều ngành nghề hiện nay đưa ra những yêu cầu
riêng về ngoại hình, điều đó cho thấy vẻ đẹp ngoại hình
có vai trò rất quan trọng.
+ Đưa ra dẫn chứng phù hợp.
– Lật lại vấn đề: Chúng ta quan tâm tới việc làm đẹp ngoại
hình nhưng cũng cần chú trọng làm giàu vẻ đẹp tâm hồn, vẻ
đẹp trí tuệ để trở thành một người toàn thiện, toàn mỹ.
– Liên hệ bản thân và cuộc sống

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Phân tích hai đoạn thơ trong thi phẩm “Việt Bắc” của Tố 5.0

Hữu. Từ đó anh/chị hãy nêu cảm nhận về quá trình sống,


chiến đấu và làm nên chiến công vang dội của quân và dân

84
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ta thời kì kháng chiến chống Pháp.

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn
đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp nội dung, nghệ 0.25
thuật của hai đoạn thơ. Từ đó cảm nhận về quá trình sống,
chiến đấu và sự chiến thắng của quân và dân thời kì chống
Pháp.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5

LĐ 2: Phân tích 2 đoạn thơ 2.0


* Đoạn 1: Cuộc sống của quân và dân tại chiến khu Việt Bắc
- Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm
sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
- Nhớ đến nghĩa tình: người mẹ địu con bẻ từng bắp ngô.
Người mẹ - một biểu tượng đẹp đẽ cho quê hương, cho
nghĩa tình nhân dân. Đồng bào Việt Bắc chịu thương
chịu khó, lam lũ, tần tảo, chắt chiu tất cả cho cách
mạng.
- Nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả
nhưng vẫn lạc quan, vui tươi, phấn khởi: Nhớ sao ...
núi đèo.
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức
vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ ... suối xa
=> Đoạn thơ gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản
làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm
kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí,
tâm tình. Tình quân dân luôn là sức mạnh tinh thần làm nên
chiến thắng.

85
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

* Đoạn 2: Việt Bắc ra trận


- Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ra trận được thể hiện
trong 4 câu thơ đầu.
+ Biện pháp so sánh, điệp từ, cùng nhịp thơ
nhanh, mạnh như bước chân hành quân và
chiến đấu của quân ta -> khắc họa khung cảnh
và khí thế của đoàn quân ra trận: mạnh mẽ,
quyết chiến, quyết thắng.
+ Đặc biệt hình ảnh "Ánh sao đầu súng / bạn cùng
mũ nan" càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người
lính - một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa
mang tính hiện thực sâu sắc.
+ Hình ảnh “Ánh sao đầu súng" có thể là hình ảnh
ánh sao trời treo trên đầu súng của những người
lính trong mỗi đêm hành quân như "Đầu súng
trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu; “ánh sao đầu súng" ấy cũng có thể là ánh
sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của
người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi
cho người lính bước đi
- Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến
chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần
chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là những
“dân công đỏ đuốc từng đoàn" tải lương thực, súng đạn
để phục vụ cho chiến trường. Hình ảnh của họ cũng
thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém
những người lính. Bằng một cách nói cường điệu “dấu
chân nát đá ”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu
nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh
thắng quân thù của người nông dân lao động. Người
nông dân lao động (lực lượng nòng cốt của cách mạng)
là lực lượng góp phần rất lớn để đưa cuộc kháng chiến
chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này

86
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Niềm tin bất diệt vào chiến thắng được thể hiện qua
những câu thơ: “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày/ Đèn
pha bật sáng như ngày mai lên”. Hình ảnh so sánh chân
thực, khẳng định một niềm tin tất thắng vào lí tưởng và
cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta.
- Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại
những niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng
dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm
nức lòng quân và dân: “Tin vui chiến thắng trăm
miền...Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”. Điệp từ
“vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt
sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng
kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà
thơ, trong lòng quân dân cả nước.
=> Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, hình ảnh đồng
bào, nhân dân luôn đồng hành cùng bộ đội ta, đóng góp vật
chất và sức lực để làm nên chiến thắng lịch sử cho dân tộc.

LĐ 3: So sánh 0.75
- Tương đồng:
+ Đều là những gì gắn bó, thân thuộc, là chất keo
gắn người lính với mảnh đất Tây Bắc thân
thương- sự gắn bó quân và dân, trong sinh hoạt,
chiến đấu.
+ Đều nói lên sự gắn bó thân mật của quân và dân
- Khác biệt:
+ Giọng điệu một bên rất đỗi thân mật ấm áp diễn
tả tình quân dân nồng đượm, một bên giọng hào
hùng khí thế diễn tả hào khí quân dân ra trận
=> Hai đoạn thơ diễn tả sự gắn bó thân mật của quân dân, thể
hiện tình đoàn kết nồng đượm ân tình. Cả hai đoạn trích đều
nêu lên nghĩa tình gắn bó quân dân nhưng mỗi đoạn lại có màu
sắc riêng.

87
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

LĐ 4: Lí giải và nêu cảm nhận về quá trình sống, chiến đấu, 0.75
chiến thắng
- Quá trình sống chiến đấu của quân và dân rất đỗi thân
mật từ trong chiến đấu đến những ngày tháng sinh
hoạt. Hai đoạn thơ khắc họa vẻ đẹp trong thời chiến,
khắc họa bằng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn.
- Để làm nên chiến thắng vang dội năm châu, chấn động
địa cầu, quân và dân ta đã phải trải qua những năm
tháng gian lao, vất vả, nếm mật nằm gai. Trên tất cả,
tình quân dân, ý chí chiến đấu kiên cường, quyết tâm
đánh bại kẻ thù xâm lược đã đưa quân và dân ta đến
ngày chiến thắng. Chặng đường nhiều khó khăn nhưng
rất đỗi huy hoàng ấy đã được Tố Hữu khắc họa bằng
những vần thơ thiết tha, hào sảng và đậm ân tình.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là nghị luận.

=> Cách xác định:

+ Đoạn trích trên có dạng văn xuôi.

+ Đoạn trích trên có nêu vấn đề bàn luận, có quan điểm và lí lẽ của người viết.

Câu 2:

88
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Theo đoạn trích, quan niệm ngày ngay cho rằng vẻ đẹp bề ngoài quan trọng không
kém nội dung. Trong khi quan niệm ngày xưa cho rằng “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, vẻ đẹp nội
dung, bên trong quan trọng hơn vẻ bề ngoài.

=> Cách xác định: Đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi
tiết trong bài. Tìm và trả lời câu hỏi.

Câu 3:

Vẻ đẹp ngoại hình không phải là tất cả vì vẫn còn những yếu tố quan trọng khác để
làm nên một con người như học vấn, tri thức, tài năng, lòng nhân ái, óc hài hước… Bên cạnh
đó, vẻ đẹp ngoại hình còn bị tàn phai bởi thời gian, ta không thể mãi sở hữu vẻ đẹp đó. Như
vậy, vẻ đẹp thực sự nên là sự cân bằng giữa nội dung và hình thức, giữa ngoại hình và tâm
hồn bên trong.

=> Cách xác định: Đọc thật kỹ đoạn trích và bám vào từng câu văn để lí giải, kết hợp với
những trải nghiệm của bản thân và sắp xếp lại các ý sao cho phù hợp.

Câu 4:

Tôi đồng tình với quan điểm “Nếu không có ngoại hình phù hợp với nơi ta bước vào,
ta hãy chuẩn bị tinh thần ta sẽ bị nơi ấy từ khước”. Bởi những nơi mà ta bước vào là những
môi trường khác nhau, với những đặc điểm, mối quan hệ, lĩnh vực khác nhau. Để dễ dàng
hòa nhập và tự tin thể hiện bản thân, ta cần chuẩn bị cho mình vẻ bề ngoài phù hợp với mỗi
môi trường đó, nếu không, ta rất dễ nhận về những ánh nhìn không thiện cảm, người khác có
thể cho rằng ta không khéo léo và thiếu tinh tế. Bởi vậy, trước khi biến mỗi nơi mà ta bước
vào là một sân khấu để tự tin tỏa sáng, ta cần trở thành người phù hợp với nơi đó, bắt đầu từ
vẻ đẹp ngoại hình.

=> Cách làm:

B1: khẳng định quan điểm cá nhân: đồng tình hoặc không đồng tình hoặc vừa đồng tình vừa
không đồng tình

B2: khẳng định lại ý nghĩa của quan điểm đó và đưa ra những khía cạnh đúng đắn (hoặc
không đúng đắn hoặc những khía cạnh đối lập). Có thể chia tách quan điểm thành những vế
nhỏ để lần lượt lí giải.

89
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

B3: Liên hệ bản thân hoặc đưa ra bài học.

II. LÀM VĂN

Câu 1:

Người ta thường nói vẻ đẹp bề ngoài không quan trọng, vẻ đẹp bên trong mới là tất
cả. Nhưng đặt giữa cuộc sống hiện đại ngày nay, thì vẻ đẹp ngoại hình lại trở thành giá trị
không thể xem thường, có vai trò vô cùng quan trọng. Vẻ đẹp ngoại hình là vẻ đẹp về diện
mạo, là dáng vẻ bên ngoài của con người. Vẻ đẹp ngoại hình có thể đến từ nhan sắc, vóc dáng
hay thần thái tự tin, lịch sự. Trong bối cảnh hiện nay, khi điều kiện về vật chất tốt hơn, người
ta không còn chỉ quan tâm làm sao để “ăn no mặc ấm” mà quan trọng hơn bây giờ là “ăn
ngon mặc đẹp”, đồng nghĩa với việc vẻ bề ngoài đang ngày càng được chú trọng. Vẻ bề ngoài
xinh đẹp, tự tin giúp ta tạo được thiện cảm đối với mọi người ngay trong lần gặp đầu tiên. Vẻ
đẹp ngoại hình giúp ta tự tin hơn, tạo tiền đề thuận lợi để bộc lộ cá tính, tính cách cũng như
sự thông minh, tài năng của mình. Vẻ đẹp ngoại hình là yếu tố quan trọng làm nên phong
cách của mỗi người. Đó còn là chiếc chìa khóa hữu ích trong các mối quan hệ xã hội và trong
công việc. Không thể phủ nhận nhiều ngành nghề hiện nay đưa ra những yêu cầu riêng về
ngoại hình như ngành hàng không, ngành du lịch, giải trí... Điều đó cho thấy vẻ đẹp ngoại
hình giữ một vai trò đáng kể góp phần tạo dựng lên thành công của mỗi người. Nếu không
phải ngoại hình cuốn hút, gương mặt trẻ trung, xinh đẹp, thần thái tự tin tràn đầy năng lượng
thì Châu Bùi - một cô gái ít tuổi mới chập chững bước vào làng thời trang - có thể được nhiều
người quan tâm và mến mộ đến vậy? Chắc chắn thành công của Châu Bùi còn đến từ sự nỗ
lực và quyết tâm không ngừng nghỉ nhưng trong đó cũng có biết bao những cố gắng dành
thời gian chăm sóc, làm đẹp hơn vẻ bề ngoài để luôn luôn giữ được ấn tượng đẹp trong lòng
người hâm mộ và cả trong những đối tác khi làm việc. Vậy mới thấy vẻ đẹp ngoại hình có vai
trò thực sự quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta quan tâm tới việc làm đẹp ngoại hình nhưng cũng
cần chú trọng làm giàu vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp trí tuệ để trở thành một người toàn thiện, hoàn
mỹ. Hãy tự xây dựng cho mình một quan niệm thật đúng đắn về cái đẹp, sao cho cân bằng
giữa vẻ đẹp ngoại hình và cả vẻ đẹp nội tâm để thật tự tin làm chủ cuộc đời mình, lan tỏa giá
trị sống tích cực tới mọi người xung quanh và hãy luôn đảm bảo rằng vẻ bề ngoài của bạn là
sự phản ánh đẹp đẽ nhất tâm hồn bên trong bạn.

Câu 2: Tham khảo đề 6 trong Bộ 20 bài văn mẫu

ĐÁP ÁN ĐỀ 10

90
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Phần Câu Nội dung Điểm

I ĐỌC HIỂU 3.0

Câu 1 Phong cách ngôn ngữ: Báo chí 0.5

Câu 2 Theo tác giả, “fake news” nghĩa là tin giả hoặc gọi nôm na là 0.5
tin vịt, tin đồn nhảm, tin đặt điều bịa chuyện.

Câu 3 Nghĩa của câu “một lời nói dối, sám hối bảy ngày” là: một lời 1.0
nói dối khiến con người ta phải ăn năn hối lỗi trong thời gian
dài.
Câu nói cho thấy tác hại nghiêm trọng của việc nói dối và
khuyên con người không nên nói dối

Câu 4 - Học sinh có thể trình bày suy nghĩ theo nhiều cách khác 1.0
nhau: đồng ý/ không đồng ý/ đồng ý một phần (0,25 đ)
- Lí giải hợp lí, thuyết phục. (0,75 đ)
Gợi ý: Đồng tình với ý kiến trên.
Lí giải: Khi nói dối, sẽ khiến người khác nhìn nhận, đánh giá
không tốt về giá trị và nhân cách của người nói. Do đó, người
bị tổn thương trước chính là bản thân người nói, là nhân cách
của người nói. Sau đó mới đến nạn nhân của lời nói dối…

II LÀM VĂN 7.0

Câu 1 Qua đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn 2.0
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về tác
hại của tin giả.

a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận 0.25


Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng – phân – hợp, móc xích hoă ̣c song hành.

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: tác hại của tin giả 0.25

c. Triển khai vấn đề nghị luận: Thí sinh lựa chọn các thao tác 1.0
lập luận phù hợp để triển khai vấn đề theo nhiều cách nhưng
cần làm rõ suy nghĩ của mình về vấn đề nghị luận, có thể theo
hướng sau:

91
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

- Giải thích khái niệm: Tin giả gọi nôm na là tin vịt, tin
đồn nhảm, tin đặt điều bịa chuyện, là những tin phản
ánh không đúng sự thật hoặc không hoàn toàn đúng sự
thật
=> Tin giả vẫn tồn tại từ rất lâu trong cuộc sống thường
ngày, người ta hay dựng chuyện, lấy “câu chuyện làm
quà” không cần biết câu chuyện đó đúng sai thế nào.
Ngày nay, mạng xã hội bùng nổ, tin giả càng xuất hiện
nhiều hơn.
- Bàn luận về tác hại của tin giả:
+ Tin giả nhưng hệ quả thật
+ Ảnh hưởng chính bản thân người đưa tin
+ Ảnh hưởng thậm chí hủy hoại nạn nhân của lời
nói dối
+ Đôi khi ảnh hưởng tới cả cộng đồng xã hội, gây
hoang mang dư luận…
+ Đặc biệt, trong mùa dịch, tin giả xuất hiện càng
nhiều thì ảnh hưởng càng nghiêm trọng tới toàn
xã hội
+ Dẫn chứng xác thực.
- Bài học nhận thức hành động, liên hệ bản thân

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

Câu 2 Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ đầu trong đoạn trích 5.0

Đất Nước, trích trường ca Mặt đường khát vọng của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận 0.25


Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn
đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn

92
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

đề.

b. Xác định đúng vấn đề nghị luận: cảm nhận về đoạn thơ đầu 0.25
bài “Đất Nước”

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự
cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể như sau:

LĐ 1: Khái quát tác giả, tác phẩm 0.5

LĐ 2: Cảm nhận đoạn thơ 3.0


– Nô ̣i dung:
+ Câu thơ đầu tiên: Lời khẳng định chắc chắn như một lẽ
tự nhiên về cội nguồn của đất nước - “Khi ta lớn lên
Đất Nước đã có rồi”
● Hình thức câu khẳng định chắc chắn như một lẽ
tự nhiên, thường tình.
● Đại từ “ta” – sự thân mật, gần gũi giữa “anh” và
“em” về đất nước. Cách xưng hô khiến vấn đề
trừu tượng, lớn lao như đất nước nay trở nên
gần gũi, rõ ràng, cụ thể.
● Ba chữ: “đã có rồi”: Lời khẳng định này thể
hiện sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của
đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử.
+ 7 câu thơ tiếp: cội nguồn đất nước gắn liền với đời
sống văn hóa tâm linh, truyền thống lâu đời, phong tục
tập quán gần gũi, giản dị.
● “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày
xưa...” mẹ thường hay kể”: đất nước đã có từ
rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết cổ
tích xa xưa mà mỗi chúng ta đều được nghe kể
trong suốt thời thơ ấu, đất nước được quan sát ở
muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà
thân thuộc.
● “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà

93
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

ăn”: “bắt đầu” => cội nguồn “khai sinh” của đất
nước, một nét sống giản dị trở thành phong tục
tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đó là phong
tục ăn trầu. Câu thơ gợi nhắc về truyện cổ tích:
“Sự tích trầu cau” được xem là câu chuyện xưa
nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của
người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện
này.
● “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc”: “lớn lên” => sự trưởng thành
của đất nước. Hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé
vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre bên đường
diệt giặc n khỏi bờ cõi Việt. Truyền thống đánh
giặc giữ nước vẻ vang đã đi theo suốt chặng
đường lịch sử dân tộc.
● “Tóc mẹ thì bới sau đầu / Cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn / Cái kèo, cái cột
thành tên / Hạt gạo phải một nắng hai sương
xay, giã, giần, sàng”: Đất nước đã có từ rất lâu
đời gắn liền với những thuần phong mĩ tục.
● Lối sống coi trọng nghĩa tình, hôn nhân đâ ̣m
bền khi trải qua những thử thách “gừng cay
muối mă ̣n”.
● Đất nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát
triển của cuô ̣c sống đời thường như dựng nhà
cửa hay nền văn minh nông nghiê ̣p. Thành ngữ
“một nắng hai sương” kết hợp với một loạt
động từ “xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ
thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi
vất vả, cực nhọc. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi
ngày đó là một quá trình đầy vất vả. Thấm vào
trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là
những nhọc nhằn của những người nông dân

94
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng


thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai
sương như thế.
+ Câu thơ cuối: Lời khẳng định chan chứa niềm tự hào:
“Đất Nước có từ ngày đó”
● “Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định
về thời gian, khẳng định đất nước đã có từ rất
lâu rồi.
● Lời tổng kết giản dị mà thấm thía trong câu trả
lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ?”
– Nghê ̣ thuâ ̣t:
+ Vận dụng chất liệu văn hóa, văn học dân gian
+ Giọng thơ thâm trầm trang nghiêm
+ Kết cấu theo lối tăng cấp: Đất nước đã có; Đất Nước
bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho
người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên,
trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ
của con người Việt Nam qua bao thế hệ.

LĐ 3: Đánh giá 0.5


- Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá
dân gian với hình thức thơ trữ tình- chính luận. Qua đó,
đất nước hiện lên rất bình dị, gần gũi và đầy niềm yêu
mến, tự hào.
- Đoạn thơ cũng góp phần khẳng định tư tưởng mới mẻ
của Nguyễn Khoa Điềm khi lí giải cội nguồn của đất
nước.

d. Sáng tạo 0.25


Sáng tạo trong diễn đạt, trong cách nhìn nhận, đánh giá về vấn
đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu 0.25


Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.

95
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

HƯỚNG DẪN CHI TIẾT

PHẦN I. ĐỌC HIỂU

Câu 1: Phong cách ngôn ngữ: Báo chí

=> Cách xác định:

- Đề cập đến thông tin thời sự cập nhật, truyền bá những tin tức nóng hổi hằng ngày
trên mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội: “fake news” - tin vịt, tin đồn nhảm, tin đặt
điều bịa chuyện.
- Lối văn ngắn gọn, lượng thông tin cao. Chỉ sử dụng một câu mà người đọc có thể nắm
bắt được thông tin cần thiết.

Câu 2: Theo tác giả, “fake news” nghĩa là tin giả hoặc gọi nôm na là tin vịt, tin đồn nhảm, tin
đặt điều bịa chuyện.

=> Cách xác định: đọc kỹ câu hỏi để phát hiện ra đây thuộc dạng câu hỏi tìm thông tin chi tiết
trong bài. Tìm trong bài và trích dẫn đặt trong dấu “...”

Câu 3:

Nghĩa của câu “một lời nói dối, sám hối bảy ngày” là: một lời nói dối khiến con người
ta phải ăn năn hối lỗi trong thời gian dài. Câu nói cho thấy tác hại nghiêm trọng của việc nói
dối. Từ đó khuyên con người không nên nói dối.

=>Cách xác định: đọc thật kỹ câu nói và bám vào ngữ cảnh của đoạn văn bản, có thể giải
thích từng cụm từ để tường minh hơn nhưng với câu nói đã rõ ràng thì chỉ cần khái quát ý
nghĩa câu nói là đạt yêu cầu.

Câu 4:

Tôi đồng tình với quan điểm: “Điều bị bào mòn và huỷ hoại trước tiên không phải là
những nạn nhân của lời nói dối, nhưng chính là nhân cách của người nói dối”. Bởi khi nói
dối, sẽ khiến người khác nhìn nhận, đánh giá không tốt về giá trị và nhân cách của người nói.
Do đó, người bị tổn thương trước chính là bản thân, là nhân cách người nói, sau đó mới đến
nạn nhân của lời nói dối. Từ đó ta hiểu được rằng, nếu không muốn bị xa lánh và đánh giá
không tốt về mình thì chúng ta không nên nói dối.

PHẦN II. LÀM VĂN

Câu 1:

96
HỌC VĂN CHỊ HIÊN
Khoá học 10 ngày “chạy” Văn cùng chị Hiên

Tin giả từ lâu vẫn tồn tại trong cuộc sống thường ngày, người ta hay dựng chuyện, lấy
“câu chuyện làm quà” không cần biết câu chuyện đó đúng sai thế nào. Nhưng ngày nay,
mạng xã hội bùng nổ, tin giả càng xuất hiện nhiều hơn và thậm chí trở thành "vũ khí cảm
xúc" được dùng để tác động, làm mất uy tín, phủ định vai trò của báo chí chính thống. Tin là
giả nhưng hậu quả là thật. Tin giả có thể gây ảnh hưởng tới chính bản thân người đưa tin và
có ảnh hưởng xấu, thậm chí hủy hoại nạn nhân của lời nói dối. Không ai mong muốn người
khác nghĩ sai lệch về mình, càng không muốn số đông hiểu lầm chỉ vì những thông tin không
có thật, vô căn cứ. Tin giả tràn lan còn gây ảnh hưởng xấu tới cả cộng đồng xã hội, gây hoang
mang dư luận, nghiêm trọng hơn là dẫn đến những tư tưởng lệch lạc, hành vi sai trái… Ví
như trong mùa dịch, tin giả xuất hiện càng nhiều lại càng ảnh hưởng nghiêm trọng tới cộng
đồng. Tính đến ngày 23/3/2020, đã có gần 300.000 tin, bài đăng trên các trang thông tin điện
tử, blog, diễn đàn; gần 600.000 tin, bài, clip liên quan đến dịch bệnh Covid-19 đăng trên
mạng xã hội. “Covid-19 phát tán qua mạng 5G”, “Sử dụng đồ uống có cồn giúp phòng chống
lây nhiễm Covid-19”, “Ăn tỏi để không bị nhiễm Covid-19”… Đó một vài tin trong rất nhiều
thông tin sai lệch về dịch Covid-19 xuất hiện tràn, gây hoang mang dư luận, khiến cho cuộc
chiến chống Covid vốn đã rất khó khăn nay lại càng thêm trở ngại bởi nhiều người đã tin và
làm theo. Để sống sót trong “thời kỳ đen tối”, mỗi người cần có trách nhiệm tự lọc những gì
mình đọc và chia sẻ, bên cạnh trách nhiệm kiểm soát của các công ty thông tin, công nghệ.
Với bản thân, khi tiếp nhận bất kỳ thông tin nào về dịch trên mạng xã hội, tôi luôn bình tĩnh
và chờ thông tin từ những tờ báo có uy tín để chắc chắn rằng đó là thông tin đúng sự thật.
Đừng trở thành kẻ tiếp tay cho tin giả thâm nhập sâu hơn vào cộng đồng, bởi khi đó là ta
đang nói dối, và “Điều bị bào mòn và huỷ hoại trước tiên không phải là những nạn nhân của
lời nói dối, nhưng chính là nhân cách của người nói dối”!

Câu 2: Tham khảo đề 8 trong bộ 20 bài văn mẫu

97

You might also like