You are on page 1of 113

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ( HCM)

ĐỀ 1: Nhận xét về Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng “Tuyên ngôn Độc
lập là một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại khẳng định “Tuyên ngôn Độc lập là một áng
văn chính luận mẫu mực”. Từ việc cảm nhận về giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập, anh/chị hãy
bình luận những ý kiến trên?
BÀI LÀM:
Nhắc đến chủ tịch Hồ Chí Minh, ta liên tưởng ngay tới một chân dung giản dị mà vĩ đại, một
lãnh tụ kiệt xuất mà gần gũi. Nhưng Người còn được nhắc đến với tư cách một nhà văn, một nhà
thơ. Như Hồ Chí Minh từng nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”, cuộc đời bảy mươi chín
xuân của Người từ khi là anh thanh niên Nguyễn Tất Thành bước đi trên bến Nhà Rồng
(05/06/1911) cho đến khi xuôi tay nhắm mắt (02/09/1969), không lúc nào trái tim vĩ đại ấy dừng
nghĩ cho đất nước, dân tộc. Về sự nghiệp sáng tác, Người để lại cho kho tàng văn học dân tộc
nhiều tác phNm giá trị, phong phú về thể loại. Trong đó, đặc sắc phải kể đến là những áng văn
chính luận. Phong cách sáng tác trong văn chính luận: Ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ lí lẽ
đanh thép. Là một văn kiện lịch sử quan trọng, Tuyên ngôn độc lập đã tổng kết một thời kỳ đau
thương nhưng vô cùng anh dũng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và khẳng định mạnh mẽ
quyền độc lập, tự do của nước Việt Nam mới.
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước bước vào kỷ nguyên của độc lập, tự
do nhưng vẫn phải đứng trước những thách thức của cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” khi bọn đế
quốc và thực dân lợi dụng danh nghĩa quân Đồng minh âm mưu cưóp nước ta một lần nữa.
Chính trong thời điểm ấy, ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên Quảng Trường Ba Đình lịch sử, Chủ
tịch Hồ Chí Minh độc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Đây là bản tuyên ngôn viết cho nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới và công luận Quốc tế.
Nhận xét về Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng “Tuyên ngôn độc lập là
một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại khẳng định “Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn
chính luận mẫu mực”.
Hai ý kiến đưa ra những cái nhìn và cách đánh giá khác nhau về Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí
Minh, ý kiến thứ nhất làm nổi bật giá trị lịch sử, giá trị pháp lý mà Tuyên ngôn đã làm được.
Tuyên ngôn Độc lập là bản “Thiên cổ hùng văn”, kết tinh truyền thống lịch sử kiên cường, bất
khuất của dân tộc ta, góp phần làm phong phú về quyền tự quyết của các dân tộc trên thế giới –
quyền độc lập, tự do. Tuyên ngôn Độc lập đã kết thúc với một quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy”.
Bản Tuyên ngôn chính thức chỉ ra một chính quyền cách mạng mới của nhân dân Việt Nam được
xây dựng và trưởng thành theo đúng ý nguyện của mọi tầng lớp nhân dân và cả dân tộc Việt
Nam. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết
lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện “Không có
gì quý hơn độc lập, tự do”.
Tuyên ngôn Độc lập là sản phNm của sự kết hợp các giá trị của truyền thống anh hùng, bất khuất
và ý chí độc lập dân tộc của Việt Nam với sứ mệnh cao cả của giai cấp vô sản được đề cập trong
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Nó thể hiện rõ nét cách mạng Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của
cách mạng thế giới và giai cấp vô sản Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời của giai cấp
vô sản thế giới, có sứ mệnh lịch sử cao cả và vĩ đại là giải phóng dân tộc và nhân loại.
So với bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất (Nam quốc sơn hà - Lí Thường Kiệt) và bản Tuyên
ngôn Độc lập lần thứ hai (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi) thì bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ
Chí Minh đã vươn lên một tầm cao mới, vượt hơn ở tầm vóc hướng ra thế giới trên tinh thần dân
chủ, tự do có kết hợp với truyền thống yêu nước và tư tưởng nhân đạo của dân tộc.
Ý kiến thứ hai, nhấn mạnh hơn vào giá trị nghệ thuật của tác phNm, vào văn phong, cách thức lập
luận, vào bản lĩnh, tư duy của một bậc thầy chính luận khi đặt bút. Toàn văn bản Tuyên ngôn
Độc lập không quá dài mà rất súc tích, cô đọng, hàm ý sâu xa. Hồ Chí Minh dùng những lí lẽ
đanh thép, những lập luận chặt chẽ, những bằng chứng không thể chối cãi được để viết nên áng
văn chính luận mẫu mực. Không chỉ vậy, văn kiện này còn là tấm lòng yêu nước nồng nàn, niềm
tự hào dân tộc mãnh liệt, sự khao khát độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ tự do, độc lập của
nhân dân Việt Nam ở Người.
Bản Tuyên ngôn chia làm ba phần rõ rệt, mỗi phần một ý, liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong phần
một, Hồ Chí Minh đã nêu lên những chân lí về nhân quyền và dân quyền để làm cơ sở pháp lí
cho bản Tuyên ngôn. Việc dẫn hai bản tuyên ngôn này, Bác đã đặt bản Tuyên ngôn Độc lập của
ta ngang hàng với các bản Tuyên ngôn của các nước lớn như Pháp và Mĩ. Từ đó khẳng định
quyền thiêng liêng của mỗi con người. Không những thế, Bác đã nâng lên thành quyền thiêng
liêng của mỗi dân tộc: “suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh
ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Bằng phép so
sánh tương đồng, hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã là cơ sở pháp lý vô cùng chắc chắn để
dân tộc Việt Nam nêu cao quyền độc lập.
Phần thứ nhất đã làm nền cho phần thứ hai của bản Tuyên ngôn. Nếu trong phần thứ nhất Bác
khẳng định quyền thiêng liêng của mỗi con người, của mỗi dân tộc là quyền được sống, được tự
do, được độc lập và mưu cầu hạnh phúc thì trong phần thứ hai của bản Tuyên ngôn, Bác đã vạch
rõ tội ác của thực dân Pháp đã gây ra cho đất nước ta, nhân dân ta. Hành động của chúng thật dã
man, vô nhân đạo, đi ngược lại tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
cách mạng Pháp, vạch rõ bản chất gian xảo của bọn thực dân Pháp. Trong phần này Bác lại nêu
rõ tinh thần nhân đạo, yêu độc lập lự do và tinh thần quyết tâm giành và bảo vệ độc lập của dân
tộc ta. Đến phần thứ ba (phần cuối) Bác lại nói về kết quả của tinh thần yêu nước, yêu độc lập tự
do của dân tộc ta và tuyên bố trịnh trọng với thế giới rằng “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do độc lập”.
Như vậy, ta thấy bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có một kết cấu, bố cục khá chặt chẽ.
Hơn nữa, lời lẽ của bản Tuyên ngôn hùng hồn, nhịp điệu câu văn khá dồn dập, sắc cạnh. Có
những câu văn thật ngắn gọn nhưng lại diễn đạt một ý nghĩa vô cùng phong phú như câu “Pháp
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Câu văn chỉ có chín từ thôi nhưng lại diễn đạt được bao
biến động của thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập này Bác đã sử dụng rất thành công các biện pháp tu từ:
điệp từ, điệp ngữ, phép liệt kê để nhấn mạnh, vạch rõ tội ác của kẻ thù đã gieo rắc cho nhân dân
ta, đất nước ta trên nhiều lĩnh vực từ chính trị đến văn hóa, kinh tế... Trong bản Tuyên ngôn Độc
lập, Bác còn dùng phép tăng cấp: “...tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xóa bỏ hết
những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất
nước Việt Nam”. Với phép tăng cấp này, Bác đã thể hiện cao độ tinh thần độc lập tự chủ của cả
dân tộc. Qua những điều trình bày trên, ta thấy rõ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh có một
giá trị văn chương lớn.
Tóm lại, có thể thấy, cả hai ý kiến đều đúng, tuy có nội dung khác nhau tưởng như đối lập,
mâu thuẫn nhưng thực chất là bổ sung cho nhau cùng khẳng định giá trị to lớn của bản tuyên
ngôn. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa lịch sử chính trị và văn chương nghệ thuật. Tuyên ngân Độc
lập là một văn kiện lịch sử vô giá, là áng văn chính luận mẫu mực; là văn bản pháp lý, văn hoá
của muôn đời; là hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Hồ Chí Minh cũng như của toàn dân tộc
Việt Nam – Bản Tuyên ngôn xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn”.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đối mới. ”
Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một thời đại mới, vẻ vang, cũng đồng thời kết tinh trong đó giá trị
lịch sử, giá trị thời đại và chắc chắn sẽ trường tồn bất diệt!
ĐỀ 2: Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết:
Hỡi đồng bào cả nước.
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc".
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu
ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi.”
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
(Trích SGK Ngữ văn 12 tập 1- NXB Giáo dục Việt Nam 2016)
Anh chị hãy phân tích đoạn trích trên. Từ đó liên hệ tới phần mở đầu của Đại cáo bình Ngô
(Nguyễn Trãi) để nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.
HƯỚNG DẪN:
* Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phNm, đoạn trích
* Phân tích đoạn trích mở đầu Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh).
Thí sinh có thể cảm nhận theo nhiều cách nhưng cần đáp ứng các yêu cầu sau:
- Nội dung: đoạn trích đã khẳng định những quyền thiêng liêng cao cả của con người không ai có
thể xâm phạm. Mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền sung
sướng, quyền tự do…
+ Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ hai bản tuyên ngôn của người
Pháp và người Mĩ.
+ Dùng phép suy luận tương đồng, sau khi trích Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Người còn “Suy
rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
+ Rồi cuối cùng khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”.
- Nghệ thuật lập luận: Cách lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích, vừa khéo léo vừa
kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức thuyết phục.
+ Khéo léo: Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất
hủ của người Mĩ, người Pháp…
+ Kiên quyết: một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh báo nếu thực
dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của
mình, làm nhơ bNn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ
đã dành được
+ Lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo: lời suy rộng ra của Người mang tư tưởng lớn của
nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên (thành) quyền tự quyết, quyền
bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đây là một đóng góp riêng của tác giả và cũng là của
dân tộc ta vào một trong những trào lưu tư tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang
ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.
* Từ đó liên hệ tới phần mở đầu của Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) để nhận xét về cách xác
lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.
- Phần đầu Bình Ngô đại cáo: Nªu luËn ®Ò chÝnh nghÜa.
+ NguyÔn Tr•i ch¾t läc lÊy h¹t nh©n c¬ b¶n cña t tëng nh©n nghÜa và ®em ®Õn néi
dung míi: nh©n nghÜa lµ yªn d©n trõ b¹o.
+ Ch©n lÝ vÒ sù tån t¹i ®éc lËp, cã chñ quyÒn cña níc §¹i ViÖt: C¬ng vùc l•nh thæ,
nÒn v¨n hiÕn, phong tôc, lÞch sö riªng, chÕ ®é riªng, hµo kiÖt...
+ Giäng ®iÖu: trang träng, hµo hïng mang tÝnh chÊt cña mét lêi tuyªn ng«n.
- Nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.
+ Giống nhau: Cả hai tác phNm đều mang giá trị văn học -nhân văn sâu sắc. Cả hai đoạn
trích đều xác lập cơ sở pháp lí cho mỗi tuyên ngôn.
+ Khác nhau: Mỗi tác giả đều sáng tạo với vẻ đẹp độc đáo riêng. Bình Ngô đại cáo của
Nguyễn Trãi dựa trên lập trường "Nhân nghĩa" của dân tộc Việt Nam (yên dân, trừ bạo) còn
Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đứng trên lập trường quyền bình đẳng, quyền độc lập, tự
do của các dân tộc. Bình Ngô đại cáo có phạm vi nội bộ trong nước Đại Việt còn Tuyên ngôn
độc lập ngoài việc tuyên bố trước toàn thể dân tộc Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập kế thừa và đưa
lên tầm cao mới tư tưởng độc lập dân tộc. Tác phNm của Nguyễn Trãi theo thể cáo khi văn sử bất
phân còn tác phNm của Hồ Chí Minh theo thể tuyên ngôn…
- Lí giải (khuyến khích HS)
+ Giống: bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa
dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.
+ Khác: bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu biết và tài
năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc, Hồ Chủ tịch còn tiếp thu
cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc…

TÂY TIẾN ( Quang Dũng)


ĐỀ 1: Cho đoạn thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mưởng Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
(Quang Dũng, Tây Tiến, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr. 88)
Anh/chị hãy cảm nhận bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính qua
đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về bút pháp tài hoa lãng mạn của nhà thơ.
BÀI LÀM:
Nói về Quang Dũng là nói về một người chiến sĩ mang tâm hồn nghệ sĩ. Bạn bè đồng chí
thường trầm trồ thán phục trước tài năng nhiều mặt của ông. Không chỉ hát hay, đàn giỏi
mà ông còn sáng tác nhạc, vẽ tranh và viết kịch. Đặc biệt, trong những giây phút thăng hoa
của tâm hồn, Quang Dũng cũng có những bài thơ để đời như “Tây Tiến”, “Đôi mắt người
Sơn Tây”, “Đôi bờ” và nhiều tác phẩm truyện, kí khác…Chính bởi sự đa tài ấy mà hồn thơ
Quang Dũng cũng mang nét riêng độc đáo. Đó là một tâm hồn thơ bay bổng lãng mạn,
phóng túng và tài hoa. Đọc thơ của Quang Dũng , ta như vừa nghe giai điệu ngân vang của
một nhạc phẩm, vừa tưởng thấy sắc màu và đường nét của một bức họa. Lại vừa cảm cái
chân tình, sâu sắc của đời lính. Tất cả quyện hòa nhuần nhuyễn mà tự nhiên, sinh động mà
sâu lắng. Đặc biệt, ở những bài thơ viết về người lính của ông. Tây Tiến là bài thơ nổi tiếng
nhất của ông, cũng là một trong những sáng tác hay nhất viết về người lính thời chống
Pháp của văn học dân tộc. Chúng ta cùng tìm hiểu đoạn đầu bài thơ: Nỗi nhớ về những
chặng đường hành quân qua miền Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, gian nan vất nhưng không
kém phần thơ mộng mà ấm áp tình người.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mưởng Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Với cảm xúc nhớ nhung, hoài niệm chân thành mà sâu sắc,những hình ảnh thơ gợi
về từ miền kí ức không xa với đoàn binh Tây Tiến, một đơn vị quân đội chống Pháp ở biên
giới Việt Lào, nơi ông từng gắn bó gần hai năm vào sinh ra tử, và với tâm hồn lãng mạn
hào hoa, Quang Dũng đã viết nên bài thơ “ Nhớ Tây Tiến” , Sau đổi thành “Tây Tiến”. Bài
thơ in trong tập thơ “Mây đầu ô”.
Cả bài thơ gồm có 4 đoạn thơ, mạch cảm xúc là nỗi nhớ của nhà thơ về “Tây Tiến”
từ những chặng đường hành quân gian khổ đến những lúc dừng chân nghỉ ngơi và cả khi
đau đớn tột cùng trước những hi sinh mất mát của đồng đội mình, và kết lại bài thơ là lời
thề gắn bó với mảnh đất thiêng liêng Tây Bắc.
Bài thơ được viết năm 1948 khi Quang Dũng đã rời xa đoàn quân Tây Tiến, một đơn
vị quân đội chiến đấu chống Pháp ở biên giới Việt Lào, nơi mà ông đã gắn bó hai năm trên
cương vị đại đội trưởng. Mới chỉ rời đơn vị không lâu, ngồi tại Phù Lưu Chanh, nỗi nhớ về
Tây Tiến, về mảnh đất và con người nơi ấy đã thôi thúc nhà thơ cầm bút viết lên những
vần thơ đầy xúc động.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Dòng hồi tưởng đưa Quang Dũng trở về với những kí ức xa xưa: về những cung đường
chiến đấu, về đồng đội của mình… Mỗi kí ức là một mảng ghép tạo thành bức tranh đa sắc
màu về miền nhớ “Tây Tiến” thân thương. Khởi đầu của nỗi nhớ là hình ảnh sông Mã
hiện ra vừa thơ mộng, trữ tình nhưng cũng vừa ẩn chứa nét hoang sơ, dữ dội, một dòng
sông gắn liền với chặng đường hành quân của người lính, trở thành chứng nhân lịch sử,
thành kỉ niệm trường tồn của những ngày tháng chiến đấu và hi sinh. Nhớ về sông Mã là
nhớ về đoàn quân Tây Tiến, hai tiếng thân thương ấy vang lên đầy tha thiết trong dòng
cảm xúc nhớ nhung đầy tiếc nuối! Các từ “rồi”, “ơi” đặt cuối mỗi cái tên được xướng lên
nghe như da diết ngân vang, xúc động lòng người.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ về núi rừng hoang sơ, địa bàn hoạt động của đoàn binh. Nhà
thơ điệp lại hai lần từ “nhớ” trong một câu thơ như tô đậm cảm xúc bao trùm toàn bài
thơ. Và đặc biệt, Quang dũng đã diễn tả thật chính xác cảm giác nhớ nhung trong lòng
mình. Không phải là cái nhớ đến cồn cào da diết trong tình yêu, cũng không phải là cái nhớ
thương khắc khoải của người vợ ngóng chồng nơi biên ải, cũng chẳng phải cái nhớ bồn
chồn, bâng khuâng trong tình quân dân son sắt. dó là nỗi nhớ chơi vơi. Một nỗi nhớ dàn
trải miên man, lan tỏa qua không gian, thời gian, làm chênh chao lòng người và ám ảnh
tâm trí. Dường như không gian mênh mông quá, lòng người trống trải quá mà nỗi nhớ tan
hòa khó chế ngự đến vậy. Theo dòng kí ức còn tươi màu thời gian ấy, những cái tên gắn
liền với chặng đường hành quân của những chiến binh tây Tiến hiện ra: Sài Khao, Mường
Lát, Mường Hịch, Pha Luông …Đó từng là những địa danh xa lạ, đầy bí hiểm của chốn
rừng thiêng nước độc đối với những chành trai Hà thành giờ đã trở thành một phần kỉ
niệm không thể nào quên:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Con đường hành quân hiện lên với đầy thử thách, hiểm nguy. Đó là kỉ niệm về những
ngày hành quân xuyên qua sương mù giăng kín lối, những đêm ngang qua bản Mường Lát
hoang sơ, huyền ảo “hoa về trong đêm hơi”. Và dấu chân người lính đã in trên cả những
sườn đèo dốc núi nhiều hiểm nguy mà không kém phần thơ mộng:
Dốc lê khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ được tạo bởi những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” rồi các từ ngữ
đối lập “ngàn thước lên cao” và “ ngàn thước xuống ” như những nét vẽ đầy gân guốc tái
hiện chân thực sự hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Càng thấu hiểu những gian khổ hiểm
nguy trên đường hành quân ta càng thấy cảm phục ý chí kiên cường của những chàng lính
trẻ Hà Thành, họ luôn dũng cảm vượt núi băng rừng với “bước chân nát đá” tiến lên phía
trước tiêu diệt quân thù.
Không chỉ cứng cỏi bản lĩnh mà giữa không gian thơ mộng của núi rừng với “heo hút
cồn mây”, mưa“mưa xa khơi”, những chàng trai hào hoa ấy luôn mở lòng đón nhận và say
mê thưởng ngoạn. Vượt qua được trăm suối nghìn đèo là phút giây tân hưởng cảm giác
được chế ngự thên nhiên, đứng trên đỉnh cao và thả hồn bay bổng cùng trời mây. “Súng
ngửi trời” – mũi súng chạm đến mây xanh, một hình ảnh thơ thật độc đáo, vừa gợi được
thế đứng trên cao của người lính, như chiếm lĩnh không gian, vừa gợi đến cách nhìn hóm
hỉnh, lạc quan của tâm hồn người lính. Như hình ảnh “đầu súng trăng treo” đầy ấn tượng
trong thơ Chính Hữu. Tâm hồn người lính cụ Hồ là như thế, coi thường mọi gian nguy, và
luôn lãng mạn yêu đời.

Trong hai cặp câu thơ trên, tác giả đã sử dụng nghệ thuật hài thanh thật điêu luyện.
Những câu thơ nhiều thanh trắc diễn tả cái hiểm trở của địa hình được đan xen khéo léo
đầy ý nghĩa với những câu thơ có nhiều thanh bằng, miêu tả không gian lãng mạn, huyền
ảo của núi rừng Tây Bắc. Người đọc như đang cảm thấy rõ lắm cái vị mặn của mồ hôi, của
nước mắt, của máu đã thấm trên từng dãy đá tai bèo sắc nhọn, trên từng đèo dốc treo leo.
Người đọc cũng như đang cảm thấy rõ lắm tiếng thở phào nhẹ nhõm, thảnh thơi hòa vào
gió ngàn heo hút, hình dung rõ lắm ánh mắt ngỡ ngàng thích thú của những chiến sĩ khi
chạm tới mây trời và ngắm “nhà ai” ẩn hiện trong làn mưa xa khơi. Thật sinh động vô
cùng.

Trong lá thư của Đại Tướng Võ Ngyên Giáp gửi các chiến sĩ Tây Tiến trước khi
lên đường có đoạn: “Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng
xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một người… Chỉ
một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hy sinh, cái lòng kiên nghị
của các đồng chí. Các đồng chí biết rằng trên mặt trận này phải đương đầu với nhiều hiểm
nghèo, khổ sở. Nhưng sự hiểm nghèo, khổ sở có bao giờ chinh phục được lòng anh dũng
của những thanh niên hăng hái, có bao giờ chinh phục được chí hướng của một dân tộc...".
Quang Dũng cũng đã diễn tả những hiểm nguy, gian khổ bằng những câu thơ đầy ám ảnh:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chốn thâm sơn cùng cốc ấy, “Chiều chiều...” rồi “đêm đêm” luôn có những âm thanh ghê
rợn, đó là tiếng thác gầm thét, tiếng bước chân, tiếng gầm của những con thú khát máu.
Chỉ mới nghĩ đến thôi đã đủ khiến lòng người hoang mang, sợ hãi.
Những khó khăn, hiểm nguy bủa vây, dọa dẫm, trêu ngươi suốt ngày đêm. Vậy mà,
lính Tây Tiến vẫn kiên cường đối mặt để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Dẫu còn nhiều hi
sinh mất mát.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời...
Câu thơ gợi lên cái mệt mỏi của những bước chân hành quân bởi âm điệu kéo dài của các
từ “dãi dầu”, “nữa”. Đó là hiện thực đau đớn của chiến trường miền Tây. Chiến đấu trong
môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thiếu thốn đủ bề, thậm chí có những lúc phải nhịn đói cả
ngày dài thì sự hi sinh là không tránh khỏi. Nhưng, cách Quang Dũng nói về cái chết của
đồng đội mình “gục lên súng mũ bỏ quên đời” khiến ta ngỡ như đó chỉ là một phút nghỉ
ngơi lấy lại sức thôi, vẫn trong hàng ngũ, vẫn súng mũ bên mình. Đọc đến câu thơ này,
nhiều cựu chiến binh Tây Tiến đã không thể cầm lòng, bởi thực tế, có những đồng đội hi
sinh không thể chôn cất bởi địa bàn xung quanh toàn núi đá tai bèo. Mỗi chiến sĩ đi qua
chỗ đồng đội nằm lại chỉ kịp đặt xuống một viên đá để che thân cho bạn. Họ bị ám ảnh bởi
những cái chết lặng thầm đơn độc. vì họ hiểu hơn ai hết về sự hi sinh của đồng đội mình.
Cái chết đến nhẹ nhàng, thầm lặng mà sao nghe nhói lòng!
Với bao nhiêu kí ức hiện về, Cảm xúc thơ Quang Dũng lại một lần nữa tuôn trào thành
tiếng gọi “Tây Tiến” thiết tha, trìu mến:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Đối lập với thiên nhiên khắc nghiệt hiểm trở là một không gian yên bình ấm áp của những
bản làng đọng lại trong nỗi nhớ của nhà thơ. Đó là cơm lên khói, là “thơm nếp xôi” tỏa lan
khắp không gian, hương vị của sự đủ đầy, ấm no trong mái ấm gia đình, nó như an ủi,
động viên, như tiếp thêm sức mạnh cho những người lính trẻ xa nhà. Hương vị của Tây
Bắc cũng là sự thơm thảo của lòng người nơi ấy, nó hiện về trong nỗi nhớ của bất kì ai đã
từng lên với Tây Bắc: Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch /Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi
hương. (Chế Lan Viên)
Câu thơ cuối có kết hợp từ thật lạ. “Mùa em” Phải chăng đó không chỉ là mùa của
xôi nếp mới, mùa của sự đủ đầy vật chất, mà đó còn là mùa của yêu thương, lãng mạn,
mùa của sự sẻ chia tình nghĩa. Có thể, “Mùa em” đã trở thành một mùa đặc biệt được
mong đợi nhất đối với những chàng lính hào hoa, nhiều mơ mộng ấy. Bằng nỗi nhớ và tình
yêu chân thành mà sâu sắc với Tây Bắc, Quang Dũng đã thi vị hóa những kỉ niệm, khiến
chúng trở nên đẹp đẽ lung linh lạ thường!
Đọc thơ Quang Dũng, ngay những dòng đầu, độc giả đã thấy toát lên phong vị của
cái tài hoa lãng mạn. Thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở, khoang sơ đến rùng mình nhưng qua
ngòi bút của chàng trai có tâm hồn lãng mạn, nhiều mộng mơ bỗng trở nên lung linh huyền
ảo. Núi rừng Tây Bắc được khắc họa bởi những nét vẽ vừa gân guốc cứng cỏi, vừa mềm
mại uyển chuyển của nhà thơ tạo nên nét riêng thật độc đáo. Không phải chỉ bởi Quang
Dũng vốn đa tài, có năng khiếu hội họa, âm nhạc mà còn bởi tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu
mảnh đất hùng thiêng của một con người đã từng gắn bó máu thịt với nơi ấy đã quyện hòa
làm nên phong cách tài hoa lãng mạn ấy.
Tóm lại, qua mười bốn câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến, tác giả đã phác họa thành công
bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc
quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh...”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là ở
sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Gần một thế kỉ đã
trôi qua mà bài thơ vẫn giữ được giá trị trường tồn trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

ĐỀ 2: Trong bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng viết:


Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi,

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
(“Tây Tiến”, Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2011, tr. 87-89)
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ trên, từ đó chỉ ra sự biến đổi về cảm xúc và bút
pháp miêu tả của tác giả.
BÀI LÀM
I. Mở bài
- Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Quang Dũng: Cuộc đời, con người và phong
cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thơ.
- Nêu khái quát chung về tác phẩm “Tây tiến”: Hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị nội dung,
giá trị nghệ thuật.
- Khái quát nội dung của đoạn trích: Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc, vừa hùng vĩ dữ dội vừa
trữ tình tạo nên sự biến đổi về cảm xúc và bút pháp miêu tả của tác giả.
II. Thân bài
1. Đoạn thơ thứ nhất – Vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc:
- Ấn tượng đầu tiên được tác giả tập trung bút lực để khắc họa là núi cao vực sâu, là đèo
dốc điệp trùng: Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây súng ngửi trời/ Ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống.
+ Những câu thơ chủ yếu dùng thanh trắc tạo nên những nét vẽ gân guốc, mạnh mẽ, chạm
nổi trước mắt người đọc cái hùng vĩ và dữ dội của thiên nhiên.
+ Nhịp ngắt 4/3 quen thuộc của thể thơ 7 chữ như bẻ gẫy câu chữ để tạo độ cao dựng đứng
giữa hai triền dốc núi. Nhịp ngắt đã trở thành giao điểm phân định rạch ròi hai hướng lên
xuống của vô vàn con dốc tạo thành các cung đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến,
gợi ra những dãy núi xếp theo hình nan quạt trải dài khắp miền Tây Bắc. Người đọc hình
dung ra hình ảnh dốc rồi lại dốc nối tiếp nhau, khúc khuỷu gập ghềnh đường lên, rồi lại
thăm thẳm hun hút đường xuống.
+ Những từ láy giàu sức tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút được đặt liên tiếp nhau
để đặc tả sự gian nan trùng điệp. Dốc khúc khuỷu vì quanh co, hiểm trở, gập ghềnh khó
đi, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế gấp khúc nối tiếp nhau. Thăm thẳm không chỉ đo
chiều cao mà còn gợi ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm mắt người, không biết đâu
là giới hạn cuối cùng. Heo hút gợi ra sự vắng vẻ, quạnh hiu của chốn rừng thiêng nước
độc. Từ láy cũng mang đến cho người đọc cảm tưởng rằng người lính Tây Tiến đã vượt
qua vô vàn những đèo dốc để chinh phục đỉnh núi cao nhất
2. Đoạn thơ thứ hai – Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng.
- Cảnh thơ mộng trữ tình của sông nước miền Tây được nhà thơ diễn tả qua những chi
tiết: trên sông, chiều sương giăng mắc mênh mang kì ảo, dòng sông trôi lặng tờ mang đậm
sắc màu cổ tích, có dáng người mềm mại, uyển chuyển đang lướt trên con thuyền độc mộc,
hoa đôi bờ đong đưa theo dòng nước như vẫy chào tạm biệt người ra đi…
- Cảnh đẹp như mộng lại như tranh, chỉ vài nét chấm phá mà tinh tế, tài hoa: Quang Dũng
không tả mà chỉ gợi, cảnh thiên nhiên không phải là vô tri vô giác, mà phảng phất trong
gió trong cây như có hồn người: "Có thấy hồn lau nẻo bến bờ".
- "Hồn lau" trong thơ của Quang Dũng cũng là "hồn lau" của biệt li phảng phất một chút
buồn nhưng không xao xác, xé rách, lãng quên mà đầy nỗi nhớ thương, lưu luyến. Nỗi nhớ
thương, lưu luyến đó đã được nhà thơ thể hiện trong những từ ngữ như "có nhớ", "có
thấy". Tình yêu đối với cỏ cây, hoa lá, dòng sông, dáng người… đã làm cho cuộc sống đầy
hi sinh, gian khổ của những người lính có thêm nhựa sống. Bốn câu thơ làm hiện lên bức
tranh thủy mặc nhưng lại không tĩnh tại mà sống động, thiêng liêng.
3. Sự biến đổi về cảm xúc và bút pháp miêu tả của tác giả.
- Nhà thơ đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật tô đậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh về
cái hùng vĩ, dữ dội cũng như cái tuyệt mĩ, thơ mộng. Một trong những thủ pháp nghệ
thuật được sử dụng đắc địa nhất là thủ pháp đối lập. Đối lập giữa cái hùng vĩ, dữ dội với
cái tuyệt mĩ, thơ mộng, đối lập giữa gian khổ, vất vả với anh hùng, bất khuất, đối lập giữa
cái bi và cái hùng...
III. Kết bài:
- Vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc.
- Phong cách nghệ thuật hào hoa, lãng mạn của Quang Dũng.

ĐỀ 3: Phân tích vẻ đẹp hình tượng thiên nhiên Tây Bắc trong thi phẩm Tây Tiến của nhà
thơ Quang Dũng, qua hai đoạn thơ dưới đây:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Và:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
BÀI LÀM:
Tây Tiến là thi phẩm của nỗi nhớ mẽnh mang, chơi vơi giữa bộn bề những hoài niệm. Bao
mảnh ký ức ập vào, cồn cào đã dội về trong trí nhớ của người đại đội trưởng về đất, về
người chốn Tây Bắc, giờ lui vào quá khứ. Và chắc chắn rằng, một phần ký ức không thể
nào quên của không chỉ người đại đội trưởng, mà tất cả những người lính đã từng chiến
đấu dọc biên giới Việt – Lào, đó chính là thiên nhiên đầy heo hút, hoang sơ của chốn miền
Tây. Làm sao có thể quên được, một thiên nhiên thật dữ dội:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Mà cũng nên thơ trữ tình đến thế:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 
Nhắc đến Quang Dũng là nhắc đến một trong những thế hệ nhà thơ được tôi luyện
và trưởng thành trong bom lửa thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ông tên thật là Bùi Đình
Diệm (1921 – 1988), quê ở Hà Tây, nay thuộc về Hà Nội. Là một người đa tài, có thể vẽ
tranh, sáng tác nhạc, nhưng vẫn nổi tiếng và được nhiều người biết đến với tư cách một
nhà thơ. Phong cách thơ Quang Dũng nổi bật lên chất phóng khoáng, hào hoa đầy lãng
mạn. Bài thơ Tây Tiến là một bài thơ đem lại dấu ấn đậm nét, khắc ghi Quang Dũng vào
sâu tâm trí độc giả. Ban đầu bài thơ lấy nhan đề: Nhớ Tây Tiến, nhưng sau khi in trong tập
Mây đầu ô, tác giả đổi lại thành Tây Tiến.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bốn câu thơ mà dựng lên trước mắt ta cái độ cao đến rợn người của chiến trường
Tây Tiến. Đất nước ta với đặc điểm địa hình 3/4 là núi đồi, nhưng qua những lời thơ đậm
chất tạo hình của Quang Dũng, tưởng chừng như bao dãy đồi, ngọn núi đều đã “đổ bộ” hết
lên vùng miền Tây này, phủ đặc trên những cung đường của binh đoàn Tây Tiến. Điệp từ
"dốc" vừa gợi sự liên tiếp, chồng chất của những con dốc, dốc này chưa qua dốc khác đã
phủ hiện trước mặt. Hơn thế nữa những từ láy đi kèm còn gợi cả cái khốc liệt của những
con dốc. “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” vẽ cho ta một hình dung về sự hoang sơ,
kỳ vĩ, xa xôi, trúc trắc, mấp mô, hun hút rợn người. Ngỡ như các anh đang đi trong mây,
đang cưỡi trên mây (“cồn mây”) để lên đến đỉnh trời. Và khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao
nhất thì “súng” các anh đã “ngửi trời”! Có một tiếng cười, thú vị mà tinh nghịch của người
lính hào hoa Hà Nội khi đã chiếm lĩnh được đỉnh cao nhất. Không phải “súng chạm trời”
mà là “súng ngửi trời”. Khẩu súng được nhân hóa như con người (chính là các anh đó
thôi!) đã khiến câu thơ trở nên hóm hỉnh, tinh nghịch, nhưng không kém hào hoa của
những chàng trai đất kinh thành hoa lệ lên đánh giặc ở miền Tây. Câu trên nặng nhọc, gấp
gáp; câu dưới nhẹ nhàng, thơ mộng trong sự tự hào của người chiến thắng. Ta hiểu đây
không chỉ là đỉnh cao của thiên nhiên mặt đất mà chính là đỉnh cao trong sự chiến thắng
của tinh thần, nghị lực người chiến sĩ.
Nhưng đặc biệt hơn, bằng thủ pháp đối lập, sự kinh hoàng, hiểm trở của những con
dốc nơi đây mới hiện lên đầy đủ: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. Đó là một sự
gãy gập đột ngột, bất ngờ. Không hề thoai thoải dễ đi như những vùng miền khác, dốc nơi
này dựng cao chót vót, nổi lên, vươn lên thẳng đứng chạm cả mây trời. Nhưng khi chạm
đỉnh dốc rồi, sa chân bước hụt có thể rơi ngay xuống chân dốc sâu thăm thẳm. Nếu câu thơ
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” là câu thơ đã tạo nên được những liên tưởng thật kỳ
thú, rợn ngợp, kích thích vì sự phối hợp các thanh trắc đem lại cái hiểm trở, trúc trắc, thì
câu thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại được kết tạo bởi những thanh bằng liên tiếp,
gợi sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu
đời. Có thế nói, bằng cách phối họp thanh điệu với sự đối lập cao, khổ thơ như khúc nhạc
trầm bổng phiêu linh, làm say mê, quyến rũ độc giả. Sự đối lập của thanh điệu, nhịp điệu
câu thơ đem đến sự đối lập của cảnh và tình trong hai câu thơ và đấy chính là nét tài hoa
của thi sĩ. Xưa, Tản Đà cũng có câu thơ như vậy:
“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương” 
Nhưng câu thơ của Tản Đà chủ yếu là gợi tình, còn câu thơ của Quang Dũng chủ yếu
lại là vẽ cảnh. Tất nhiên trong cảnh có tình. Trên đường hành quân ra trận, hình ảnh một
mái nhà thấp thoáng trong màn mưa mỏng nơi lưng chừng núi thì ấm lòng chiến sĩ, gợi
nhớ tình người biết bao! Mặt khác, trên đường hành quân cheo leo vách núi dựng đứng,
mà vẫn không bỏ qua một mái nhà thơ mộng như vậy, thì đó chính là tâm hồn hào hoa
nghệ sĩ của người lính Tây Tiến - những chàng trai kinh thành “đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm”. Tâm hồn các anh phải phong phú, cao đẹp, lãng mạn như thế nào thì mới cảm nhận
được cảnh đẹp như vậy. Và chỉ một khổ thơ nhớ lại bước đường hành quân trên núi cao
Tây Tiến của các anh mà đã bộc lộ rõ nét tài hoa ấy. Đó là khẩu khí Quang Dũng đã thổi
hồn vào ngôn ngữ thi ca để làm nên khổ thơ tuyệt bút mang đậm chất thơ Tây Tiến này.
Chỉ bằng mấy dòng thơ, Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây
được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc.
Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa
cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Chính điều đó
tạo nên một xúc cảm mạnh mẽ trong lòng người đọc, không chỉ bởi sự heo hút, rợn ngợp
của thiên nhiên, còn bật lên trong ta lòng ngưỡng mộ về tinh thần người lính, thiên nhiên
càng ghê gớm, thì ý chí con người càng mạnh mẽ, băng vượt qua mọi chông gai, nẻo
đường.
Đến với khổ thơ thứ hai, thiên nhiên Tây Bắc đã phủ lên một hơi thở bồng bềnh, của
chốn phiêu linh, hiu hắt chiều sương, không còn cái rợn ngợp, trúc trắc như ở khổ một
nữa. Cả đoạn thơ nhuốm một vẻ buồn của tâm trạng, nếu như ở những khổ thơ trên trong
bài người ta thấy một giọng thơ lãng mạn trẻ trung và tươi tắn của anh lính trẻ Tây Tiến
thì đến đây, tâm trạng như có phần trùng xuống. Phải chăng giữa mênh mang nỗi nhớ
niềm yêu, giữa những hồi ức đẹp đẽ gian khổ mà hào hùng, anh dũng mà tài hoa, lòng
Quang Dũng bỗng dưng cảm thấy cô đơn, buồn bã khi chợt hiểu ra rằng tất cả đều đã
chìm sâu trong quá khứ.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” 
Đoạn thơ mở đầu bằng hình ảnh “người đi Châu Mộc” trong “chiều sương ấy ”. Giữa
một không gian mờ mờ, ảo ảo, hư hư, thực thực, tác giả đã đẩy người đọc về một điểm thời
gian xa xôi vô định ở đâu đó trong nỗi nhớ của mình. Hình ảnh “người đi” trong “chiều
sương ấy” là một ý thơ độc đáo vô cùng. Độc đáo bởi chiều sương ấy cho ta hiểu là khung
cảnh của quá khứ. Cùng cảnh sông nước, tưởng như, người đi ấy đang chèo thuyền ngược
dòng ký ức để trở về bờ Châu Mộc hoài niệm. Nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có
dãy núi Pha Luông cao gần hai nghìn mét. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của
miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh hồn của bao
người. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh
mang. Khi sương nhòa vào dòng nước khiến sương thêm bồng bềnh, khiến dòng nước càng
bảng lảng. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên
nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”.
Cần chú ý điệp ngữ: “có thấy”, “có nhớ”. Thấy và nhớ là ấn tượng đập mạnh vào thị
giác, cảm giác, vào chiều sâu tâm hồn. Thấy và nhớ như khắc sâu thêm ấn tượng về miền
Tây Bắc. Từ thấy và nhớ, ba hình ảnh đã trôi về lung linh, huyền hoặc. Trước hết là thấy
lau ở nẻo bến bờ. Hồn lau là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu
nơi bờ sông bờ suối. Thân lau vốn mềm, khẽ lay trong gió, tựa như sinh thể vô tri ấy được
thổi hồn khiến cái xào xạc càng thêm miên man, lay động. Và trong chia phôi còn có nhớ,
nhớ cảnh rồi nhớ đến người: con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc, hình
ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ. Ý thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” lạ mà đầy
sức gợi, cũng thật đa tình. “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng
nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng,
uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Có lẽ là cả hai, cả
thiên nhiên và con người đều là những bông hoa kỷ niệm tuyệt đẹp, luôn bung nở hương
sắc trong trí nhớ người lính ấy. Những dòng thơ mà đong đầy bao nỗi nhớ, bao hoài niệm
về một vùng đất ẩn hiện trong sương chiều, hiu hắt lau sậy... đem đến cho ta cái nhìn khác
về thiên nhiên Tây Bắc, đâu chỉ có nguy hiểm chết người, còn đẹp đến lạ lùng, đẹp nên thơ
nên mộng.
Có thể nói, thiên nhiên Tây Bắc đã hiện lên qua hai nét tương phản cực kỳ đối lập.
Nguy hiểm đến chết chóc, mà thơ mộng đến nao lòng. Nhưng điểm chung vẫn là vẻ đẹp,
đẹp trong cái kỳ vĩ hoang sơ, hiếm nơi nào có được. Đó là vẻ đẹp để thương và để nhớ!
Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã tạc dựng nên hình tượng thiên nhiên Tây Tiến
thật độc đáo, Quang Dũng không chỉ là nhà thơ, ông còn là họa sĩ, những vần thơ ông như
ẩn hiện nét bút cọ, thi trung hữu họa, những cái gồ ghề, nhấp nhô, tròng trành, thăm thẳm
đã như tạc vào trong tâm trí người đọc. Và qua thủ pháp của ngòi bút lãng mạn, cái hùng
vĩ càng hiện lên sừng sững hơn, to lớn hơn, cái bồng bềnh càng hư ảo, miên man hơn. Có
thể nói, Quang Dũng đã góp thêm một bức tranh tuyệt đẹp về những miền đất tổ quốc. Với
hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ vô cùng mà cũng bay bổng, gợi cảm vô cùng.
Tây Tiến là bản tình ca về nỗi nhớ, qua ngòi bút bay bổng và hết mực tài hoa, tác giả
đã tạc dựng lại vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc: dữ dội, mà cũng đầy trữ
tình. Qua đó ta thấy được sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người – biểu hiện
của một tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu
thương với những người đồng đội, đồng chí – mà nhà thơ luôn khắc cốt ghi tâm.

ĐỀ 4: Cảm nhận vẻ đẹp thi trung hữu hoạ trong đoạn thơ dưới đây:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi
(Tây Tiến - Quang Dũng)
BÀI LÀM:
Một nhà phê bình đã từng quả quyết rằng nếu xét muời tác giả tiêu biểu thời kháng chiến
chống Pháp, sẽ không có Quang Dũng, nhưng nếu xét mười thi phẩm xuất sắc nhất của
thời bom lửa ấy thì không thể không có Tây Tiến. Quả là như vậy, Tây Tiến như bức tượng
đài sừng sững thách thức cả khốc liệt của chiến tranh, sự tàn phá của thời gian để ngày
càng toả sáng trong kho tàng văn chương đất Việt. Đặc biệt không thể không nhắc đến bút
pháp thi trung hữu hoạ - sức tạo hình, điêu khắc ngôn từ của người nghệ sĩ Quang Dũng,
đặc biệt trong những vần thơ dưới đây:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thảm thắm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Quang Dũng nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, nhà thơ của những vần thơ lãng mạn,
bay bổng, đậm nét hào hoa. Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dấu ấn
không thế phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu
nước, môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân dân ta.
Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người
lính. Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến
quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lóp thanh niên từ khắp phố phường Hà Nội.
Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lóp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà
trường để tham gia vào cuộc chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí
tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không
hẹn ngày trở về chiến đấu với mục đích “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.” Tư tưởng ấy là
hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
“Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có xá chi đâu ngày trở về.”
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những thanh niên
trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố phường, chiến lũy Hà Nội,
mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, thấp thoáng xuất hiện một khuôn mặt:
Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang
Dũng cũng háo hức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một
chút lãng mạn của những người thanh niên “nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ
ngâm:
“Dã nhà đeo bức chiến bào”
hay
“Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.”
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận mọi
gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng
cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác.
Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về
những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con
đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua.
Quang Dũng không chỉ là nhà thơ, ông còn là hoạ sĩ, là nhạc sĩ, cho nên những vần
thơ của ông đậm tính nhạc, tính hoạ. Thơ là một hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể
hiện cảm xúc thông qua tổ chức ngôn từ đặc biệt, giàu nhạc tính, giàu hình ảnh và gợi cảm.
Thi trung hữu họa: trong thơ có hoạ (có tranh, có cảnh), tức là nói đến đặc trưng của thơ
trữ tình là giàu hình ảnh, giàu tính chất tạo hình, đọc thơ mà tưởng thấy cả khung cảnh
hiện ra ở trước mắt.
Tính hoạ được tạo nên trong nỗi nhớ chơi vơi, nỗi nhớ chông chênh giữa hai bờ thực
ảo:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi ”
Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết, ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, gọi tên
con sông vùng Tây Bắc: sông Mã mà thân thiết, dạt dào cảm tình như gọi tên những người
thân thương trong cuộc đời mình. Phải chăng trung đoàn Tây Tiến, núi rừng Tây Bắc gần
gũi, thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến trở thành một “mảnh tâm
hồn” của tác giả. “Nhớ chơi vơi gợi lên dài rộng về không gian, gợi nên cái xa cách về thời
gian. Nhớ chơi vơi! Hai tiếng "chơi vơi" dùng ở đây thật là đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ
không có hình, không có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm
trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
hoặc:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than. ”
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của
mình, thật là chi tiết đắt giá! Nhưng tất cả đã lùi về quá khứ. Quang Dũng cất lên tiếng gọi
như sự níu kéo mọi ký ức quay trở lại.
Tính hoạ được gợi lên qua những địa danh và thời tiết khắt nghiệt xứ sở miền Tây:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Sài Khao, Mường Lát” là hai địa danh được nhắc đến. Những cái tên như có sức
tạo hình, nó gợi những nơi chốn hoang sơ, thưa vắng, heo hút. Những cái tên như những
địa chỉ in hằn dấu chân người lính. Và cũng chính nơi hoang vu đó, ký ức đập về màn
sương lạnh trắng phủ kín lối đi, che lấp cả đoàn quân mỏi mệt. Sương bồng bềnh, giá buốt
làm trơn ướt những con đường, làm tê lạnh da người. Mỗi địa danh đều gợi lên trong
người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một
tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay.
Một hình ảnh rất gợi là: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Đêm hơi là đêm đẫm
hơi sương, là đêm lạnh. Tiếp tục gợi sự khắc nghiệt của khí hậu. Nhưng từ “hoa về”, lại
đem đến nhiều cách hiểu. Có thể hiểu hoa theo nghĩa thực, những bông hoa rừng nở, mùi
hương quyện trong đêm hơi. Nhưng cũng có thể hiểu, khi chiến sĩ hành quân đêm, những
bó đuốc họ mang, giống như những bông hoa lửa, phá đi giá lạnh và đêm tối.
Tính hoạ được thể hiện đặc sắc qua hình ảnh những con dốc Tây Tiến:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đất nước ta với đặc điểm địa hình 3/4 là núi đồi, nhưng qua những lời thơ đậm chất
tạo hình của Quang Dũng, tưởng chừng như bao dãy đồi, ngọn núi đều đã “đổ bộ” hết lên
vùng miền Tây này, phủ đặc trên những cung đường của binh đoàn Tây Tiến. Điệp từ
"dốc" vừa gợi sự liên tiếp, chồng chất của những con dốc, dốc này chưa qua dốc khác đã
phủ hiện trước mặt. Hơn thế nữa những từ láy đi kèm còn gợi cả cái khốc liệt của những
con dốc. “Khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” vẽ cho ta một hình dung về sự hoang sơ,
kỳ vĩ, xa xôi, trúc trắc, mấp mô, hun hút rợn người. Nhưng đặc biệt hơn, bằng thủ pháp
đối lập, sự kinh hoàng, hiểm trở của những con dốc nơi đây mới hiện lên đầy đủ: “Ngàn
thước lên cao ngàn thước xuống”. Đó là một sự gãy gập đột ngột, bất ngờ. Không hề thoai
thoải dễ đi như những vùng miền khác, dốc nơi này dựng cao chót vót, nổi lên, vươn lên
thẳng đứng chạm cả mây trời. Nhưng khi chạm đỉnh dốc rồi, sa chân bước hụt có thể rơi
ngay xuống chân dốc sâu thăm thẳm. Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc
nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên
trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đoạn
thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như con đường
xa thẳm khấp khểnh.
Nếu câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” tới 5 thanh trắc trong 1 câu thơ
đã tạo nên được những liên tưởng thật kỳ thú, rợn ngợp, kích thích, thì câu thơ: “Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi” lại lập lại cân bình, câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên
tiếp gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc
quan yêu đời. Nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi
của người lính. Trong màn mưa rừng, tất cả nhạt nhòa, bao mệt nhọc cũng tan biến, chỉ
còn lại cảnh bồng bềnh, thi vị.
Quang Dũng không chỉ được biết đến với tư cách là một nhà thơ, ông là một nghệ sĩ
đa tài, có thể vẽ tranh và sáng tác nhạc. Cho nên, chính tài năng nhiều mặt đó đã bổ trợ
tương hỗ nhau, để Quang Dũng dựng tạc nên những nét vẽ thật ấn tượng về thiên nhiên
miền Tây. Có nhà phê bình đã từng cho rằng, những vần thơ viết về dốc Tây Tiến là những
vần thơ tuyệt bút, có lẽ bởi tính hoạ đậm nét đã làm nên điểm sáng cho cả bài thơ, làm nên
ấn tượng lâu bền trong lòng người đọc.
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao
mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng
thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hình tượng thiên nhiên Tây
Bắc hùng vĩ dữ dội mà nên thơ nên hoạ. Những kết hợp tương khắc đó làm nên một Tây
Tiến lạ và lệch, có sức sống lâu bền trong trái tim bạn đọc dù bao thế hệ đi nữa.

ĐỀ 5: Trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có đoạn:
Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Mộc Châu chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét riêng trong phong cách sáng
tác của nhà thơ.
BÀI LÀM:
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
MĨ, ông là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công
nhất là thơ. Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một nhà thơ “xứ Đoài mây trắng”, Quang
Dũng đã sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “Tây Tiến”, “Đôi mắt
người Sơn Tây”, “Đôi bờ”, Mây đầu ô, Quán bên đường…Trong đó tiêu biểu nhất là bài
thơ “Tây Tiến”. Tác phẩm hấp dẫn người đọc không chỉ ở cảm xúc thơ chân thực sâu lắng
của tình đồng chí đồng đội, mà nó còn gợi về trong tâm trí độc giả hình ảnh một miền đất
xa xôi, hoang dại nhưng thơ mộng vô cùng, nơi ấy lưu dấu những kỉ niệm không thể nào
quên của một đoàn quân đã trở thành huyền thoại:
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Mộc Châu chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Cất chân ra đi từ mảnh đất Hà Thành, nơi phố thị phồn hoa, những chàng trai vừa
đủ tuổi trưởng thành vốn chỉ quen với đèn sách bút nghiên, đã vượt cả trăm cây số lên bảo
vệ biên giới miền Tây Bắc của Tổ quốc. Những chặng đường hành quân qua vực sâu núi
thẳm, băng qua mưa bom bão đạn kẻ thù, và cả khi đối diện với thiếu thốn, với bệnh tật…
tất cả đều đó không làm vơi đi ý chí, nghị lực phi thường của những chiến binh vệ trọc .
Các anh vẫn giữ được tâm hồn lạc quan yêu đời, vẫn luôn mở lòng đón nhận những rung
động đẹp đẽ từ những khoảnh khắc đầm ấm vui tươi trong những đêm hội dã chiến, hay
cảnh sông nước yên bình, lãng mạn ở chốn thâm sơn cùng cốc ấy.
Không nhớ sao được những phút giây sôi nổi cùng nhau trong đêm liên hoan ngập
tràn ánh đuốc:
“Doanh trại bùng lên hội đuốc hoa”
Câu thơ như làm bừng sáng cả không gian, xua đi cái u uất, tịch mịch của núi rừng,
xóa tan cái mệt mỏi dãi dầu trong mỗi bước hành quân của người lính. Động từ “bừng”
trong câu thơ đầu đoạn không chỉ diễn tả sự vận động nhanh, rộng khắp và đầy bất ngờ
của ánh sáng, mà còn gợi được cái háo hức của lòng người, gợi những ánh mắt lấp lánh
niềm vui với nụ cười rạng rỡ. Đêm hội liên hoan được tổ chức, không phải tiệc rượu tưng
bừng, không có đèn xanh pháo đỏ nhưng cũng đủ làm lòng người náo nhiệt bởi ánh sáng
của đuốc, sắc màu rực rỡ của những bông hoa vừa được chọn hái giữa rừng. Chỉ một nét
phác họa mà gợi cả hình, cả tiếng, cả cái rộn ràng háo hức của lòng người, đủ cho thấy
chất tài hoa nghệ sĩ của Quang Dũng!
Trong không khí vui tươi ấy, ta mường tượng như đang được chứng kiến từ giây
phút đầu tiên khi ánh đèn sân khấu bừng lên, những diễn viên bất ngờ xuất hiện với xiêm y
lộng lẫy:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
Các cô gái Tây Bắc với trang phục biểu diễn rực rỡ như những bông hoa tươi tắn
của núi rừng bước ra sân khấu mang đến hương sắc ngọt ngào, say đắm lan tỏa khắp nơi
khiến những chàng lính trẻ Hà Thành khôi khỏi ngỡ ngàng, háo hức “Kìa em”.
Những chàng lính đi từ ngỡ ngàng này đến ngạc nhiên khác, họ bị cuốn hút bởi giai
điệu man dại của tiếng khèn vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, của
chim kêu, vượn hót.
“Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Khèn là nhạc cụ dân tộc ở núi rừng Tây Bắc, thường người Tây Bắc sẽ sử dụng loại
nhạc cụ này trong các dịp lễ hội, đó là tiết mục văn nghệ đặc sắc mang nét riêng trong đời
sống tinh thần của người dân Tây Bắc.
“ Vang vọng núi rừng tiếng khèn gọi bạn
Điệu múa khèn nghiêng ngả tán ô đen”
Cùng với sự khỏe khoắn, dũng mãnh của những chàng trai trong điệu múa khèn là
hình ảnh những cô gái yểu điệu dịu dàng, e ấp duyên dáng trong điệu múa xòe ô khiến
người xem ngây ngất, đắm say. Không khí đó đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của
đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ để tiếp tục chặng đường
đầy khó khăn phía trước. Phải chăng, bởi vậy mà câu thơ cuối khổ đọc lên nhẹ nhàng bay
bổng làm sao: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”. Dường như tâm hồn chiến sĩ như đã cất
cánh - thăng hoa.
Nhớ về những phút giây yên bình lãng mạn không thể không nhớ đến cảnh sông
nước hữu tình vùng Tây Bắc xa xôi.
“Người đi Mộc Châu chiều sương ấy”
Hình ảnh buổi chiều sương lãng mạn, nhẹ nhàng, thơ mộng khác với sự hùng vĩ dữ dội ở
khúc thượng nguồn sông Mã. Một thế giới khác của thiên nhiên Tây Bắc được mở ra,
không còn cái gân guốc, hiểm trở của sườn đèo dốc đá mà cảnh vật trở nên thơ mộng trữ
tình biết mấy. Cả không gian núi rừng Châu Mộc được bao phủ bởi làn sương mỏng manh
lãng đãng, khiến cảnh sắc thêm lung linh huyền ảo, vừa như thực vừa như mơ, gợi nỗi
buồn man mác, nỗi lưu luyến của người ra đi. Xuân Diệu cũng đã từng bị cái không gian
sương khói ấy làm cho thẩn thơ: “Sương nương theo trăng ngừng lưng trời – Tương tư
nâng lòng lên chơi vơi”.
Trong buổi chiều sương trên vùng sông nước Mộc Châu tâm hồn người chiến sĩ còn
nặng tình vương vấn với “hồn lau nẻo bến bờ”. Vạn vật như hữu linh, lòng người sao nỡ
vô tình!
Hai câu thơ cuối là nỗi nhớ về hình bóng con người hòa quyện cùng thiên nhiên thơ
mộng:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Bóng dáng người trên độc mộc với dáng vẻ vững trãi mà duyên dáng,thướt tha hài hòa
trong vẻ đẹp của sông nước mênh mông. Trên dòng sông ấy, những cánh hoa không bị dập
vùi mà nương theo dòng nước lũ, đong đưa như làm duyên làm dáng, bồng bềnh
Điệp ngữ "có nhớ- có thấy" làm tăng thêm xúc cảm, nỗi nhớ da diết, nồng nàn của
tác giả dành cho nơi đây. Hình ảnh đối lập giữa dòng nước lũ và hoa đong đưa, dòng lũ
cuộn trào mạnh mẽ với cành hoa nhẹ nhàng lung lay, hai hình ảnh như đối lập hoàn toàn
nhưng lại hài hòa, nên thơ.Bút pháp gợi mà không tả với những nét vẽ cách điệu đã tạo
nên bức tranh đậm đà chất hội họa hòa với chất thi vị trữ tình lôi cuốn người đọc, đưa ta
vào một thế giới hoang sơ, cổ tích.
Khi bàn về nét riêng trong phong cách sáng tác của Quang Dũng qua “Tây Tiến”,
Giáo sư Hà Minh Đức có nhận xét, “Bài thơ được viết ra với những màu sắc thẩm mỹ
phong phú. Có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở, và vẻ đẹp bình dị nên thơ của
cuộc sống nơi bản làng quê hương, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ
nhàng mềm mại trong thơ. Đặc biệt Tây Tiến là bài thơ giàu nhạc điệu, nhạc điệu của cuộc
sống và của tâm hồn. Mỗi đoạn thơ mang một nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ, vừa uyển
chuyển khi đưa người đọc về với những kỉ niệm xa nên thơ và gợi cảm”. Và, độc giả dễ
dàng nhận thấy một nhạc điệu du dương, tình tứ ngân vang, trải dài khắp không gian nỗi
nhớ từ đêm hội liên hoan đến cảnh sông nước miền Tây thơ mộng ấy. Nét riêng đầy lãng
mạn hào hoa ấy ít thấy trong nhiều bài thơ viết về người lính cùng thời như Đồng chí
(Chính Hữu), “Cá nước” (Tố Hữu)…
Có thể nói, qua tám câu thơ đậm đà chất thơ, chất họa, chất nhạc, người nghệ sĩ tài
hoa Quang Dũng đã khắc họa thật đẹp những kỉ niệm buổi sinh hoạt văn nghệ đầm ấm và
cảnh sông nước hữu tình khiến lòng người mê đắm. Qua đoạn thơ, ta không chỉ thấy vẻ
đẹp tâm hồn lãng mạn, lạc quan yêu đời của những chàng vệ trọc mà còn thấy được cái
tình trong từng nét vẽ, câu thơ của Quang Dũng. Quả thực nhà thơ luôn ngưỡng mộ và yêu
tha thiết những kỉ niệm gắn bó cùng đoàn quân Tây Tiến. Độc giả cũng trân trọng hơn
những rung cảm đẹp đẽ của hồn thơ Quang Dũng và yêu thêm mảnh đất và con người Tây
Bắc kiên cường.

ĐỀ 6: Cho đoạn thơ:


“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)
Anh/chị hãy cảm nhận vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét
về sự quyện hòa giữa chất hiện thực và lãng mạn trong thơ Quang Dũng.
BÀI LÀM:
Quang Dũng là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông là
một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành công nhất là thơ.
Với tâm hồn lãng mạn, tài hoa của một người con “xứ Đoài mây trắng”, Quang Dũng đã
sáng tác những bài thơ giàu chất nhạc, chất họa, như: “ Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang
Dũng”… Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ không là dòng cảm xúc nhớ
nhung của Quang Dũng về mảnh đất Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội với biết bao kỉ
niệm gắn bó. Ấn tượng sâu đậm nhất trong dòng cảm xúc ấy là hình ảnh những người lính
Tây Tiến thật oai phong lẫm liệt, thật sang trọng hào hoa:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt –Lào. Chiến sĩ Tây
Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, những chàng trai hào hoa thanh
lịch, lãng mạn yêu đời. Lên với chiến trường Tây Bắc, họ phải đối mặt với bao khó khăn
thử thách, nhưng vẫn luôn ngời sáng một ý chí, một tinh thần chiến đấu dũng cảm kiên
cường. Quang Dũng gắn bó cùng đoàn quân Tây Tiến từ những ngày đầu thành lập trên
cương vị Đại đội trưởng, anh yêu thương và cảm phục sâu sắc những chiến sĩ trẻ đầy quả
cảm của đoàn quân. Cuối năm 1948, khi rời đơn vị cũ chưa lâu, tại Phù Lưu Chanh, vì rất
nhớ đoàn quân, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến, sau đổi tên thành “Tây Tiến”
(in trong tập thơ “Mây đầu ô”).
Hai tiếng thân thương “Tây Tiến” được nhắc đến trong bài với thật nhiều cảm xúc,
khi thì đầy nuối tiếc, luyến lưu “Tây Tiến ơi!”, lúc lại da diết cồn cào: “nhớ ôi Tây Tiến”,
và cái tên “Tây Tiến” lúc này được gọi lên đầy kiêu hãnh tự hào:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Những vần thơ ngồn ngộn chất hiện thực, nửa thế kỷ sau mà người đọc vẫn cảm thấy
trong khói lửa, trong âm vang của tiếng súng, những gương mặt kiêu hùng của đoàn dũng
sĩ Tây Tiến. “ Đoàn binh không mọc tóc”, “ Quân xanh màu lá”, tương phản với “ dữ oai
hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những “ Vệ túm”, “Vệ trọc” một thời gian
khổ đươc nói đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu
không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “
dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía “ Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” là hình
ảnh các tráng sĩ “ Sát Thát”, đời Trần. “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” là chí khí lẫm liệt
hiên ngang của anh bộ đội cụ hồ trong chín năm kháng chiến chống Pháp.
Gian khổ và ác liệt thế, nhưng họ vẫn mộng vẫn mơ.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Lí tưởng sống của những chàng lính thật đẹp. Họ luôn biết dung hòa giữa mộng và
mơ. Mộng giết giặc, đánh tan lũ xâm lăng để giữ bình yên cho xóm làng. Tâm thế luôn sẵn
sàng chiến đấu và lập công, “ mắt trừng” . Còn mỗi đêm khuya, lại đắm mình trong những
ước mơ thật đẹp :“Hà Nội dáng kiều thơm”. Ba chữ “ dáng kiều thơm” đã diễn tả thật “
đắt” cái phong độ hào hoa, đa tình của những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai của
đất nghìn năm văn hiến, giữa khói lửa chiến trường vẫn mơ, vẫn nhớ về một mái trường
xưa, một góc phố cũ, một tà áo trắng, một “dáng kiều thơm”. Ngòi bút của Quang Dũng
biến hoá, lúc bình dị mộc mạc, lúc lại mộng ảo nên thơ, và đó chính là vẻ đẹp vừa hào hùng
vừa hào hoa của một hồn thơ chiến sĩ.
Bốn câu thơ tiếp theo ở cuối phần 3, một lần nữa nhà thơ nói về sự hy sinh tráng liệt
của những anh hùng vô danh trong đoàn quân Tây Tiến.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Có biết bao chiến sĩ đã ngã xuống nơi góc rừng, bên bờ dốc vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Đó là những cái chết lặng thầm, đơn độc và lạnh lẽo vô cùng. Bởi đồng đội vẫn tiếp tục
hành quân, còn các anh nằm lại nơi biên cương, miền viễn xứ - đất khách quê người. Cả
câu thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt khiến giọng điệu thơ trang trọng cổ kính, khiến những
nấm mồ hoang dại, đơn độc trở nên thiêng liêng, nhưng cũng không tránh khỏi nỗi xót xa,
thương cảm trong lòng người đọc.
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh “áo bào” xuất hiện trong câu thơ khiến cái chết của các anh trở nên oai
hùng, bi tráng lạ thường, tưởng như đó là phút sa cơ của người dũng tướng của một thời
hào khí Đông A. Nhưng sự thật đau lòng là khi nằm xuống, tấm quần manh áo còn không
lành lặn huống chi là áo bào. Quấn thân các anh có thể chỉ là tấm vải dù che mưa che gió.
Các anh đã “về đất” một cách thanh thản, bình dị; yên nghỉ trong lòng Mẹ, giấc ngủ nghìn
thu. Sự ra đi thật nhẹ nhàng mà lòng người ở lại trĩu nặng nỗi xót xa.
Cả đoàn quân lặng đi, chỉ còn nghe thác sông Mã thay tiếng của hồn thiêng sông núi,
tiếng của đồng bào, của Tổ quốc “gầm lên” như một loạt đại bác nổ xé trời, vừa đau đớn
vừa uất nghẹn căm hờn. “Khúc độc hành” vừa là khúc hát tiễn đưa hồn tử sĩ, vừa là khúc
hát lên đường đầy thiêng liêng, bi tráng .
Có người cho rằng, Quang Dũng là một trong những nhà thơ đầu tiên của nền thơ ca
kháng chiến nói rất cảm động về sự hy sinh anh dũng của các chiến sĩ vô danh. Quả thực
vậy, nếu Chính Hữu, qua bài “Đồng Chí” đã nói rất hay về người nông dân mặc áo lính, thì
Quang Dũng, với bài thơ “Tây Tiến” đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ uy nghiêm và đầy
bi tráng về những chàng trai Hà Nội “mang gươm đi mở cõi” dũng cảm, can trường, trong
gian khổ chiến đấu hy sinh vẫn lạc quan yêu đời. Đó là vẻ đẹp riêng độc đáo làm nên huyền
thoại về một đoàn binh không mọc tóc thủa nào! Trong thơ Quang Dũng, hiện thực khốc
liệt của chiến tranh được nói đến thẳng thắn, không hề né tránh, nhưng cách mà nhà thơ
nhìn nhận và biểu đạt trong từng câu thơ dù có đau thương chết chóc nhưng không khiến
người đọc cảm thấy bi quan, buồn chán, mà trái lại, hiện thực chỉ càng thổi bùng lên ý thức
đấu tranh đòi sự sống, cùng tình yêu và sự tôn vinh đẹp đẽ hào hùng. Bởi vậy mà hình
tượng tập thể anh hùng Tây Tiến hiện lên trong trang thơ của Quang Dũng mang vẻ đẹp
hào hùng, bi tráng, khơi gợi cảm xúc ngưỡng mộ, tự hào nhiều hơn là cảm xúc xót đau,
thương cảm.
Nhìn chung, đoạn thơ trên đã thể hiện thật rõ nét cốt cách và bút pháp lãng mạn,
hồn thơ tài hoa của Quang Dũng. Nếu “thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách
cao đẹp” thì đoạn thơ đã cho ta cảm nhận về ấn tượng ấy. “Tây Tiến” đã mang vẻ đẹp độc
đáo của một bài thơ viết về người lính – anh bộ đội cụ Hồ những năm đầu kháng chiến
chống Pháp. Bài thơ hội tụ mọi vẻ đẹp và bản sắc của thơ ca kháng chiến ca ngợi chủ nghĩa
yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
VIỆT BẮC ( Tố Hữu)
ĐỀ 1: Cho đoạn thơ sau:
• Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?
• Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về chất trữ tình – chính trị trong
ngòi bút thơ Tố Hữu.

BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang
tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những
sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó
được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh
dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt
Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dòng kí ức về giờ phút chia tay đầy bịn rịn lưu luyến
của kẻ ở người đi:
• Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?
• Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến dịch
Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan trung ương
chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm gắn bó. Trong giờ
phút chia tay đầy lưu luyến bịn rịn, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ tuôn trào theo
dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và con người Việt
Bắc mà khởi nguồn là giây phút chia li thật xúc động nghẹn ngào.
Chúng ta đã từng có những áng văn chương lớn nói về những cuộc chia ly làm não
lòng nhiều thế hệ người đọc Việt Nam. Đó là giọt nước mắt chia li của người chinh phụ tiễn
chồng ra biên ải (Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn); đó là phút tử biệt “một giã gia đình
một rửng rưng” của người chiến sĩ bước vào khói lửa đạn bom (Tống biệt hành – Thâm
tâm); hay đó là cuộc chia li “chói ngời sắc đỏ” của người vợ xa chồng trong khánh chiến
chống Mĩ...Thế nhưng, có một cuộc chia li không thấm đẫm nước mắt, không nhuốm màu
tử biệt đã đi vào lịch sử, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của dân tộc. Không phải là
cuộc chia li chồng vợ hay của đôi trai gái chung tình, mà buổi tiễn chân bộ đội miền xuôi về
với thủ đô vẫn nghe sao thật tình tứ, mặn nồng.
• Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, người ở lại đã cất lên tiếng lòng đầy băn khoăn trăn trở về tình
cảm của người ra đi. Thật dễ hiểu, bởi trong mỗi cuộc chia li thì người ở lại luôn có tâm
trạng nặng nề hơn, vừa phải đối diện với một không gian trống trải, thiếu vắng bóng
người, vừa luyến tiếc những năm tháng gắn bó, liệu người đi rồi có còn nhớ ta chăng?
Câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao “mình về có nhớ ta chăng? – Ta về ta nhớ hàm
răng mình cười”, với lối xưng hô “mình – ta” ngọt ngào, đằm thắm như đôi trai gái yêu
nhau đã khơi gợi tình cảm gần gũi, tha thiết nhớ thương của người về xuôi: Người về
chốn thị thành phồn hoa, có còn nhớ đến ta?
Vừa khơi gợi cảm xúc, câu hỏi tu từ vừa như nhắc nhớ về khoảng thời gian gắn bó mười
lăm năm, kể từ những ngày đầu mới xây dựng căn cứ địa Việt Bắc. Chỉ nhắc đến khoảng
thời gian đằng đẵng ấy thôi cũng đủ khơi dậy biết bao kỉ niệm về những gian khổ, thiếu
thốn “ta” và “mình” đã trải qua. Nó “ thiết tha, mặn nồng” bền chặt, keo sơn và luôn in
dấu trong lòng người ở lại.
Kỉ niệm không chỉ được nhắc nhớ qua thời gian “mười lăm năm” mà còn được nhắc
nhớ qua không gian núi rừng Việt Bắc qua cấu trúc câu hỏi được lặp lại:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sống nhớ nguồn?”
Câu thơ vẽ lên không gian đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, không gian đã từng gắn bó
một thời gian khổ hào hùng của người đi kẻ ở, giờ đây đã trở thành không gian của nỗi
nhớ. Nhà thơ đã sử dụng hai điệp từ lặp đi lặp lại ở hai vế “nhìn – nhớ” để nhấn mạnh và
khắc sâu những diễn biến sẽ có trong tâm trí người ra đi. Núi rừng, sông suối nơi Việt bắc
sẽ trở thành một phần kí ức của bộ đội miền xuôi, để khi về lại thủ đô, mỗi lần nhìn “cây”
nhìn “sông” ở nơi ấy sẽ gợi nhắc về không gian “núi”, “nguồn” chốn thượng ngàn. Câu thơ
bộc lộ sự thấu hiểu tâm trạng người đi và ngâm ẩn một lời nhắc nhớ ngườ đi gìn giữ tấm
chân tình: đừng vì hoàn cảnh sống thay đổi mà quên những ngày tháng đồng cam cộng khổ
ở Việt Bắc thân thương.
Qua hai cặp câu hỏi tu từ giãi bày nỗi lòng nhớ nhung, trăn trở của người ở lại, ta
không chỉ thấy được tình cảm đậm đà sâu sắc của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ miền
xuôi, mà còn thấy được sự trân trọng, nâng niu những kỉ niệm buồn vui suốt mười lăm
năm gắn bó của họ.
Để đáp lại những băn khoăn trăn trở của người ở lại, người ra đi đã khẳng định tình
cảm của mình bằng những câu thơ đầy xúc động:
• Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Nếu như Việt Bắc băn khoăn “mình về mình có nhớ…” thì đây chính là lời khẳng định
chắc chắn về nỗi nhớ, về tình cảm của người đi dành cho Việt Bắc trong sự đồng điệu tâm
hồn. Người đi không chỉ nhớ mà còn khắc ghi sâu đậm trong tâm khảm “tiếng” và “hình”
của người ở lại. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến đối tượng của nỗi nhớ trở nên bao quát hơn và
thi vị hơn, bởi nó khiến câu thơ mang dáng dấp những câu dân ca ngọt ngào, tình tứ: “
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”. Bởi đã gắn bó rất lâu nên tiếng
nói của người Việt Bắc đã trở thành đối tượng sâu đậm đầu tiên của nỗi nhớ. Thứ thanh
âm “tha thiết” quen thuộc mang đặc trưng của vùng miền đã gieo vào lòng người đi nỗi
“bâng khuâng” vừa buồn vui, vừa luyến nhớ, khiến bước chân trở nên “bồn chồn”, bởi
lòng ngổn ngang nỗi nhớ, chùng chình nửa ở nửa đi! Trong hai câu thơ lục bát, tác giả sử
dụng đến ba từ láy “tha thiết”, bâng khuâng”, “bồn chồn” để diễn tả trạng thái cảm xúc
đang trào dân và luôn thường trực của người ra đi. Lời đáp phải chăng đã giải đáp thỏa
đáng nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc?
Tiếp theo trong lời đáp ấy, nhịp thơ thay đổi, khiến câu thơ như bẻ đôi, chia li, cách
biệt:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. “
Từ nhớ tiếng sang nhớ hình. Một nét ấn tượng nữa trong tâm trí người đi đó lại là hình
ảnh của chiếc áo chàm quen thuộc, đặc trưng cho lối ăn mặc của người Việt Bắc. Mượn
hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ người dân Việt Bắc, người ra đi đã bộc lộ một nỗi niềm
thương nhớ và yêu mến cái chất phác, giản dị toát ra từ cái sắc trầm bền bỉ, sắc son ấy.
Cùng với hình ảnh đồng bào Việt Bắc, hành động “cầm tay” cũng để lại ấn tượng thật sâu
sắc. cái nắm tay thật giản đơn, mộc mạc thôi mà chất chứa bao ân tình, hơn ngàn vạn lời
nói. Qua cái nắm tay, người đi cảm nhận được hơi ấm, niềm tin yêu, cảm nhận được tâm
tư, tình cảm của người ra đi. Cách ngắt nhịp 3/3/2 của câu thơ và dấu chấm lửng cuối dòng
đã tạo nên những khoảng lặng trong cảm xúc người ở kẻ đi. Đó là những giây phút nghẹn
ngào không nói nên lời, chỉ biết nắm tay nhau thật chặt để níu lại những thương yêu. Thật
xúc động biết bao!
Bốn câu thơ đáp lời người ở lại của cán bộ miền xuôi bằng tình cảm chân thành và
sâu nặng đã thực sự làm yên lòng người ở lại. Dù không dùng đến một từ “nhớ”, nhưng nỗi
nhớ tràn ngập bốn dòng thơ và xâm lấn trong tâm hồn, trong chiều sâu cảm xúc của người
ra đi. Tình cảm ấy cũng thủy chung son sắt, đậm đà tha thiết lắm thay!
Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng thơ Tố Hữu là thơ của thứ tình cảm lớn, niềm
vui lớn, cảm xúc thơ luôn gắn liền với những sự kiện chính trị quan trọng có ý nghĩa cộng
đồng. Nhưng phải nhận thấy một điều rằng, dù là đề cập đến nội dung chính trị nhưng rất
gần gũi, giàu cảm xúc mà không hề khô khan giáo điều. Đoạn thơ nói tái hiện khung cảnh
chia tay trong thời khắc lịch sử quan trọng của đất nước giữa đồng bào Việt Bắc và bộ đội
miền xuôi mà nghe như cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn của đôi trai gái yêu nhau vậy.
Thật lãng mạn và thắm thiết tình người.
Qua tám câu thơ đầu, bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”- “mình”,
kết hợp với việc sử dụng những ngôn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà mộc mạc
chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật khung cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa bộ đội miền
xuôi và Việt Bắc. Đoạn thơ cũng góp phần ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt
Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó. Bằng việc sử dụng khéo léo, tài tình
ngôn ngữ dân tộc, Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ chính trị, khiến tình quân dân trở
nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần làm nên thành công của tác phẩm và đem
đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc.

ĐỀ 2:
• Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi với ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hui lau xám, đậm đà long son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang
tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những
sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó
được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh
dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng thể hiện một tấm lòng tri ân sâu nặng về nghĩa tình cách
mạng của nhà thơ nói riêng, của bộ đội miền xuôi nói chung với mảnh đất và con người
Việt Bắc. Lịch sử đã sang trang, mà mỗi lần đọc lại đều rưng rưng rưng xúc động:
• Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi với ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hui lau xám, đậm đà long son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
1. Mười lăm năm đi hết cuộc đời trai trẻ, mười lăm năm gắn bó với thượng ngàn heo
hút, biết bao kỉ niệm vơi đầy, người thi sĩ - chiến sĩ ấy làm sao không lưu luyến khi rời
xa? “ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Tháng 10 năm 1954, nhà
thơ theo cơ quan trung ương, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau
khoảng thời gian dài đã đồng cam cộng khổ cùng mảnh đất và con người Việt Bắc,
trong giây phút chia tay đầy lưu luyến và dạt dào xúc cảm, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt
Bắc. Những kỉ niệm cứ ùa về như dòng thượng nguồn tuôn chảy qua lời đối đáp ngọt
ngào đằm thắm của kẻ ở - người đi mà khởi nguồn là phút nắm tay giã biệt bịn rịn đầy
lưu luyến. Nối tiếp là những lời gợi nhắc của người ở lại về những kỉ niệm không thể
nào quên.
2. Vẫn trong cấu trúc đối đáp “ta – mình” như lời giao duyên tình tứ gợi về không gian
văn hóa làng Việt gần gũi thân thương, từng câu hỏi của người ở lại như xoáy sâu vào
tâm trí người đi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Nhớ về Việt Bắc là nhớ về những ngày tháng cùng chung sống với những cơn mưa đầu
nguồn xối xả, với lũ suối thành sông, với âm u núi rừng mây mù giăng khắp. Thời tiết khắc
nghiệt mang đặc trưng của thiên nhiên nơi đây đã tôi luyện ý chí, nghị lực và tinh thần
thép cho những người chiến sĩ đến từ miền xuôi. Cách nói nhấn mạnh “những mây cùng
mù” càng tô đậm những khó khăn gian khổ đã trở thành quen thuộc, đã trở thành một
phần cuộc sống suốt 15 năm ròng gắn bó. Người ở lại gợi nhắc đầy trăn trở: liệu rằng
người về xuôi có còn nhớ chăng?
“Mình về có nhớ chiến khu,
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?”
Vẫn là “mình” đó mà lúc lại là “mình đi”, lúc lại là “mình về”, dường như cảm xúc
của người ở lại chộn rộn quá, như chống chếnh, như chơi vơi, vừa nhớ tiếc, vừa luyến lưu.
Không chỉ nhớ về khung cảnh mưa lũ mây mù, có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất
trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ của thiên nhiên, mà người ở lại còn gợi nhớ
về cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu với “miếng cơm chấm muối” đạm bạc mà nghĩa tình.
Câu thơ có vế sóng đôi “mối thù nặng vai” diễn tả ý chí quyết tâm một lòng của quân và
dân Việt Bắc. Những khó khắn thiếu thốn ấy càng thổi bùng lên ngọn lửa hờn căm, càng
nhắc nhở về mối thù quân xâm lược đang kết hình kết khối đè nặng lên vai. Câu thơ cũng
bộc lộ niềm tự hào của những con người đã từng trải qua những ngày tháng gian khổ, kiên
trì đấu tranh để giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm
no.
Phút chia tay thật nhiều điều muốn nói! Những câu hỏi như khơi sâu người ở bộc lộ
nỗi trống trải, thiếu hụt trong lòng bằng hình ảnh nhân hóa:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Người về với thị thành tấp nập, để lại khoảng trống khó lấp đầy của không gian. Núi rừng
cũng như bần thần nhớ “ai”. Những món ăn đặc sản núi rừng “trám bùi”, “măng mai”
cũng để rụng, để già, không còn người thu hái. Tất cả trở về với nguyên sơ, với sự tĩnh lặng
hiu hắt khi bộ đội về xuôi. Không buồn nhớ sao được!
Vẫn với tâm trạng băn khoăn luyến nhớ, người ở lại hỏi người ra đi:
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son?”
Hai câu thơ có hình ảnh tượng trưng và tương phản đầy ấn tượng. Những ngôi nhà sàn
thấp thoáng sau những vạt lau sậy hắt hiu, hoang vắng, đó là mái ấm của những con người
Việt bắc chân chất mộc mạc. Đó cũng là nơi nuôi dưỡng những tấm lòng son sắt thủy
chung với cách mạng trường kì. Vẫn trong mạch cảm xúc băn khoăn trăn trở, đồng bào
gợi nhớ những hình ảnh thân thương ấy bằng một niềm kiêu hãnh về phẩm chất cách
mạng của mình. Sự tương phản hình ảnh “hắt hiu lau xám” và “đậm đà lòng son”, một
hình ảnh ẩn dụ rất đẹp ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung, càng khắc sâu ấn tượng về
những con người tuy còn nghèo khổ, thiếu thốn nhưng giàu tình yêu nước, gắn bó thủy
chung với cách mạng và kháng chiến.
Nhớ về Việt Bắc, không thể không nhớ đến những ngày tháng đấu tranh gian khổ:
3. “Mình về, còn nhớ núi non
4. Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
5. Mình đi, mình có nhớ mình
6. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
1. Cùng với những hình ảnh đặc trưng cho vùng cao Việt Bắc của quê hương, đại từ mình
xuất hiện đều đặn, nhịp nhàng và biến hóa linh hoạt suốt khổ thơ đã tạo nên sắc điệu
trữ tình thắm thiết, đậm đà tính dân tộc. Nếu đại từ “mình” được dùng để chỉ những
người bộ đội miền xuôi, người ra đi trong cuộc chia tay ấy thì sang đến câu thơ cuối
khổ, “mình” được điệp lại ba lần với ý nghĩa khác nhau mà lại quyện hòa, gắn bó không
thể rạch ròi phân định. Đó là cách xưng hô ân tình, đằm thắm như lời lẽ tình tứ của đôi
trai gái xưa “ Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”. Mình có trong ta
mà ta cũng luôn hiện hữu trong trái tim mình.
7. Với tình cảm gắn bó tha thiết ấy, người ra đi hãy đừng quên những tháng ngày cùng
nhau chiến đấu “khi kháng Nhật – thủa còn Việt Minh”, và đừng quên những cái tên thân
thuộc Tân Trào, Hồng Thái, nơi khởi nguồn của những chiến công; đừng vội phai nhòa
những kí ức thiêng liêng về buổi lễ xuất quân dưới gốc đa cổ thụ bên mái đình Tân Trào
năm ấy.
Câu thơ cuối cùng có sự đổi chỗ thú vị: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được hoán
vị thành “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” vừa nhấn mạnh cái tên đã đi vào lịch sử
vừa tạo nên tính chất mới mẻ, độc đáo cho câu thơ lục bát. Người Việt Bắc luôn mong
muốn người ra đi hãy khắc ghi và luôn gìn giữ những phẩm chất cách mạng vốn có vẹn
nguyên như những ngày đầu!
Nói đên sự đóng góp của Tố Hữu trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, không thể không
nói đến đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, tinh thần dân
tộc trong thơ. Thơ Tố Hữu bài nào cũng vậy, đều đậm đà sâu sắc phong vị quê hương,
từ ngôn từ giản dị, mộc mạc, cách xưng hô ‘mình- ta” thân tình ấm áp; hình ảnh của
dưa cà mắm muối, của sân đình gốc đa, của dáng mẹ, dáng chị, dáng anh quen thuộc,
chân quê đến cách cảm, cách nghĩ và một tâm hồn dào dạt nghĩa tình trong thơ. Tất cả
điều đó đã làm nên nét rất riêng trong phong cách sáng tác của nhà thơ. Đó cũng là lí do
khiến thơ của Tố Hữu chyển tải những điều lớn lao mà rất tự nhiên thấm sâu vào lòng
người đọc nhiều thế hệ, làm nên sức sống lâu bền.
1. Với mười hai câu thơ lục bát Tố Hữu đã tạo thành sáu câu hỏi với kết cấu trùng
điệp như khắc sâu vào kỉ niệm người đi về một miền đất hoang sơ mà nghĩa tình. Mỗi
câu đều gợi lại nét tiêu biểu trong chuỗi kỉ niệm về Việt Bắc: Việt Bắc gian khổ thiếu
thốn, Việt Bắc nghĩa tình sâu đậm, Việt Bắc gắn liền với những sự kiện lịch sử trọng đại
của cách mạng Việt Nam. Đọc đoạn thơ ta như thấy ngân vang khúc nhạc tình yêu êm
ái dịu dàng. Những câu hỏi là nỗi niềm băn khoăn của đồng bào Việt Bắc đấy nhưng
thực chất lại chính là những lời tự dặn lòng mình của nhà thơ: trở về xuôi rồi đừng
quên những năm tháng cơ hàn khốn khó ở Việt Bắc, đừng quên những con người mộc
mạc mà ân nghĩa thủy chung. Ta nhận thấy một tấm lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ
với Việt Bắc, thấy yêu mến và trân trọng hơn sự cống hiến của nhân dân mọi miền cho
độc lập hôm nay. Tôi chợt hỏi mình “ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay?”
ĐỀ 3 : Cho đoạn thơ:
• Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa trong thơ
Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Nói về sức hấp dẫn trong thơ Tố Hữu, Xuân Diệu đã từng nhận xét rằng đó là những vần
thơ “từ trái tim vọt ra” vừa lãng mạn vừa tràn đầy “máu huyết”. Quả nhiên là thế! Thơ Tố Hữu
được khơi dẫn bởi mạch nguồn của tinh thần và ý chí cách mạng, của lí tưởng đẹp đẽ và tình yêu
đất nước sâu sắc. Đọc mỗi dòng thơ của ông, ta đều thấy chất chính trị quyện hòa nhuần nhuyễn
với chất trữ tình đằm thắm ngọt ngào. “ Việt Bắc” là một minh chứng tiêu biểu cho nét phong
cách sáng tác đó của nhà thơ. Trong tác phNm, tình cảm nhớ nhung lưu luyến giữa đồng bào Việt
Bắc với bộ đội miền xuôi được Tố Hữu diễn đạt bằng những câu thơ tình tứ vô cùng:
• Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Nếu ai đó không biết rằng “Việt Bắc” là lời giã biệt, lời tri ân của cán bộ, bộ đội miền xuôi
với đồng bào Việt Bắc sau mười lăm năm gắn bó làm nên thắng lợi của trận Điện Biên Phủ lừng
lẫy thì hẳn sẽ nghĩ đó là những câu hát giao duyên tình tứ của những bậc liền anh liền chị ở một
xứ Kinh Bắc nào. Sự kiện lịch sử quan trọng ấy được ghi khắc không chỉ trong trí nhớ mà còn
khắc sâu trong trái tim của bao người yêu thơ. Đó là sức mạnh của “một tiếng nói yêu thương
luôn luôn chan hòa ánh sáng” (Hoài Thanh) trong ngòi bút trữ tình - chính trị của Tố Hữu.
Có nhà phê bình từng nhận định “Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng
ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Tâm hồn của một thi sĩ làm cách mạng đã khiến cho
những điều khô khan, cứng nhắc cũng trở nên mềm mại trong thơ. Chẳng thế mà,Tố Hữu đã thi
vị hóa mối quan hệ quân - dân trở nên gần gũi, cởi mở và chân thành biết mấy. Vốn dĩ, cách
xưng hô “mình – ta” đã rất quen thuộc trong đời sống người dân lao động xưa, trong đối đáp
giao duyên hay trong thơ ca dân gian. Ta dễ dàng bắt gặp những câu ca dao ngọt ngào say đắm: “
Mình về ta chẳng cho về - ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”. Hay “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về
ta nhớ hàm răng mình cười”. Ở đây, Tố Hữu thay lời bộ đội miền xuôi thân mật xưng hô “ta-
mình” với đồng bào Việt Bắc, khiến tình cảm quân dân càng thêm khăng khít, mặn nồng.
Đoạn thơ là lời đáp lại tình cảm của người đi với người ở lại. Đồng bào Việt Bắc vì nhớ
nhung, lo lắng mà gặng hỏi người về xuôi có còn nhớ những ngày “ Mưa nguồn suối lũ những
mây cùng mù?”. Đáp lại tình cảm sâu nặng ấy, người ra đi đã bộc lộ sự thủy chung son sắt như
một lời thề :
• Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Câu thơ điệp lại theo cấu trúc vòng tròn: “ta với mình” rồi lại “mình với ta” tạo nên sự gắn
bó quyện hòa như không thể tách rời, không gì chia cắt. Lại thêm câu khẳng định tấm lòng, tình
cảm trước sau như một của người ra đi, vẫn luôn “mặn mà đinh ninh”, không bao giờ phai nhạt.
Đọc câu thơ, ta ngỡ như đó là lời thề non hẹn biển của đôi trai gái yêu nhau: “Thuyền về có nhớ
bến chăng – Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Hẳn rằng lời khẳng định chân thành ấy
của bộ đội miền xuôi đã làm ấm lòng người ở lại.
Dường như ngần ấy chưa đủ để nói hết những lưu luyến nhớ nhung của người ra đi dành
cho mảnh đất và con người Việt Bắc. Mười lăm năm gắn bó chứ đâu phải một sớm một chiều, tất
cả như còn vẹn nguyên trong tâm trí người ra đi:
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Lúc này đại từ “mình” được sử dụng để chỉ cho cả hai đối tượng, “mình” là bộ đội miền
xuôi hay “mình” cũng chính là người Việt Bắc. Dường như cảm xúc nhớ nhung dâng trào đến độ
“ta – mình” đã hòa vào một, ta là mình và mình là ta. Đến đây, độc giả lại bắt gặp một tứ trong
ca dao xưa “Qua đình ngả nón trông đình – Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Cách
ví von “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa thân thuộc vừa mang đặc trưng lối nói
của người vùng cao Việt Bắc : tình nghĩa con người được ví với nước trong nguồn – một biểu
tượng của thiên nhiên vô tận, vĩnh hằng. Câu thơ vừa thể hiện nỗi nhớ, đồng thời cũng thể hiện
tấm lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ miền xuôi đối với Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi
dưỡng cách mạng từ trong trứng nước!
Nỗi nhớ được cụ thể hóa qua không gian, thời gian:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của
người chiến sĩ miền xuôi với đồng bào Việt Bắc. Đó không phải là nỗi nhớ của ý thức, của lí trí
lạnh lùng mà là nỗi nhớ hằn in trong trái tim của người ra đi như nỗi nhớ “người yêu” – một nỗi
nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt. Câu thơ có từ để hỏi “nhớ gì” vừa thể hiện sự ngỡ ngàng về một
hiện thực trong trái tim mình, dường như bản thân người đi cũng thực sự bất ngờ bởi nỗi nhớ
đằm sâu mãnh liệt đến thế, vừa như khẳng định sự hiện hữu một tình cảm đặc biệt dành cho Việt
Bắc trong trái tim mình. Thật đáng trân trọng!
Trong xúc cảm của một tình yêu nồng nàn, khung cảnh thiên nhiên lãng mạn mở ra “
Trăng lên đầu núi – nắng chiều lưng nương.” Một câu thơ phác họa hai thời điểm khác nhau: vế
đầu là hình ảnh gợi tả không gian hò hẹn lãng mạn với ánh trăng vừa hé lộ dịu dàng e ấp, tình tứ;
vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy, những tia nắng còn
trải vàng trên lưng chừng núi. Dường như, những khoảnh khắc đẹp như tranh vẽ ấy đã lí giải tại
sao nỗi nhớ đồng bào trong lòng người đi lại như nỗi nhớ “người yêu”. Thiên nhiên và hình ảnh
cuộc sống lao động của con người nơi đây thật khiến lòng người xao xuyến, đắm say!
Và như một cuốn phim quay chậm, những hình ảnh thân thuộc hiện về nguyên vẹn trong
tâm trí người đi:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng lứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi rừng Việt Bắc. Những kỷ niệm
chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra rõ mồn một trong tâm trí của người đi “từng bản
khói cùng sương”, “từng rừng nứa bờ tre”... Nghệ thuật điệp từ “nhớ” nằm trong cấu trúc điệp
“nhớ từng”, kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê những hình ảnh về không gian sinh sống của đồng
bào, nơi đi về ấm áp trong tình cảm gia đình, những địa danh lịch sử người cán bộ đã từng đặt
chân “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…” làm cho những kỷ niệm thân thương về những tháng
ngày gian khổ mà kiên cường đấu tranh chống giặc hiện lên tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này,
đến hình ảnh khác như suối nguồn không bao giờ vơi cạn.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng nói “Thơ Tố Hữu là thơ cách mạng, chứ không phải thơ tình
yêu, nhưng thơ anh là của một tình nhân, anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say
đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của Tố Hữu là quả tim anh”. Điều này dễ nhận thấy ở bài thơ Việt
Bắc từ việc sử dụng thể thơ lục bát, ở cách đối đáp giao duyện ngọt ngào thiết tha đến việc sử
dụng linh hoạt, tài tình cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” nhịp nhàng sánh đôi để nói về tình cảm
gắn bó giữa cán bộ với nhân dân. Chính lý tưởng cộng sản là ngọn nguồn của mọi cảm hứng
sáng tạo trong thơ Tố Hữu. Thơ ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình cảm yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội thuần túy với một tình cảm cá nhân đằm thắm nhất. Nhờ thế, nhà thơ đã
sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật độc đáo của thơ trữ tình chính trị, mang đậm đà bản sắc
dân tộc và nâng nó lên một trình độ mới.
Tóm lại, qua những lời thơ thủ thỉ tâm tình chân thành đằm thắm của người ra đi với
người ở lại trong đoạn thơ trên, ta không chỉ thấy những hồi ức đẹp đẽ về một Việt Bắc thơ
mộng nghĩa tình mà người đọc còn cảm nhận một tình cảm cách mạng thiết tha, sâu đậm trong
tình quân dân cá nước. Đoạn thơ cũng tiêu biểu cho phong cách trữ tình - chính trị của Tố Hữu,
để lại dấu ấn khó phai trong lòng độc giả. Những vần thơ cũng góp phần nhắc nhớ con người về
lối sống ân nghĩa thủy chung, có được những ngày bình yên hạnh phúc, đừng vội quên những
tháng ngày gian khổ đã qua! Phải chăng vì thế mà thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, nó trở thành
cách nhìn, thành nếp sống phổ biến của những con người thời đại mới!”

ĐỀ 3: Cho đoạn thơ


Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về sự kết hợp yếu tố nhạc và họa
trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM:
Tố Hữu là nhà thơ lớn, là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm của ông luôn in đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, mang
tính trữ tình chính trị và đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. “Việt Bắc” là một trong những
sáng tác hay nhất của đời thơ Tố Hữu, là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đó
được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ mà anh
dũng kiên cường. Cả bài thơ cũng là dòng chảy cảm xúc dạt dào, tha thiết về nỗi nhớ Việt
Bắc. Tiêu biểu trong bài thơ là những dòng kí ức về một bức tranh tứ bình Việt Bắc thơ
mộng, ân tình:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu viết Việt Bắc nhân một sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Sau chiến dịch
Điện Biên Phủ thắng lợi, tên giặc Pháp cuối cùng rời khỏi quê hương, cơ quan trung ương
chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản thủ đô sau mười lăm năm gắn bó. Trong giờ
phút chia tay đầy lưu luyến bịn rị, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Mạch thơ tuôn trào theo
dòng hồi tưởng của nhà thơ về những năm tháng gắn bó với mảnh đất và con người Việt
Bắc. Nhớ về Việt Bắc, không chỉ là nỗi nhớ về những hi sinh, gian khổ “bát cơm sẻ nửa,
chăn sui đắp cùng” mà còn là nỗi nhớ về một Việt Bắc đẹp như thơ, làm say đắm lòng
người.
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình
cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”
Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta - người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ
ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở
nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được
điệp đi điệp lại nhiều lần vừa nhấn mạnh chủ thể nỗi nhớ, vừa khẳng định một tình cảm
nhớ nhung đang chế ngự, tràn ngập trong tâm hồn người đi. Nỗi nhớ hướng về "những
hoa cùng người" hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết
tinh của hương sắc, còn "người" là bông hoa đẹp nhất giữa núi rừng. Xét cho cùng, "người
ta là hoa của đất". Hoa và người đồng hiện càng tôn lên vẻ đẹp cho nhau, khiến không
gian trở nên hài hòa, lãng mạn.
Nỗi nhớ hiện về trong tấm trí người đi theo mạch trình tự bốn mùa, mỗi mùa là một
bức tranh đẹp toàn bích, mà khởi đầu là bức tranh Việt Bắc trong mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Không gian mở ra trước mắt người đi không phải là cảnh rừng ảm đạm lạnh lẽo mà là một
cánh rừng xanh bạt ngàn vô tận. Trên tấm thảm xanh đầy sức sống ấy là sắc đỏ rực rỡ,
tươi tắn của những bông chuối rừng. Sự hài hòa giữa hai màu sắc tương phản “xanh-đỏ”
khiến lòng người cảm thấy ấm áp trước cái lạnh lẽo khắc nghiệt của thời tiết nơi rừng
thiêng nước độc ấy.
Giữa không gian hoang vu mà thơ mộng, xuất hiện hình ảnh những con người lao
động khỏe khoắn cheo leo trên những đỉnh đèo “nắng ánh” với “dao gài thắt lưng”. Những
ánh nắng rực rỡ của ngày mới chiếu rọi vào những chiếc dao gài ở thắt lưng tạo nên phản
quang lấp lánh làm đẹp thêm hình ảnh những con người Việt Bắc chủ động, tự tin giữa đại
ngàn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra cũng mang nét rất riêng của thiên nhiên nơi đây. Đó là
thời điểm mà cả cánh rừng mênh mông ngập tràn sắc trắng tinh khôi của hoa mơ nở rộ:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuối từng sợi giang”
Cách sử dụng kết hợp từ “mơ nở trắng rừng” khiến người đọc liên tưởng đến sự
chuyển biến của màu sắc, đồng loạt và nhất thể như nhuộn trắng cả không gian, khác với
sắc trắng điểm xuyết khiêm nhường trong những câu thơ miêu tả cảnh ngày xuân của đại
thi hào Nguyễn Du “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Xuân ở núi rừng Việt Bắc là
thế, thật riêng, thật ấn tượng.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn,
dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng
ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài
hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc
hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Nếu như bức tranh mùa đông và mùa xuân được nhà thơ cảm nhận bằng thị giác thì
sang đến bức tranh mùa hè các giác quan quan của nhà thơ được mở rộng để đón nhận
những điều thú vị tuyệt vời chỉ có ở Việt Bắc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Đó là thứ âm thanh quen thuộc của mùa hè.
Khi tiếng ve cất lên cả không gian như bừng thức, cả cánh rừng phách đột ngột “đổ vàng”.
Động từ “đổ” được sử dụng độc đáo, tạo liên tưởng thú vị về sự chuyển biến thật nhanh,
thật đột ngột của màu sắc khu rừng từ xuân sang hạ. Tưởng như tấm voan trắng tinh khôi
của mùa xuân vừa được trút bỏ thì lập tức bà mẹ thiên nhiên đã khoác lên cách rừng một
tấm hoàng bào lộng lẫy kiêu sa. Cảnh tượng thật kì vĩ và ấn tượng vô cùng. Câu thơ có nét
tương đồng với ý thơ "Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với
một câu thơ mà các tác giả đã gợi lên cả sự vận động của
thời gian, của cuộc sống.
Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho
bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một mình". Một
mình đấy nhưng không hề cô đơn. Dường như thiên nhiên và con người đã hòa làm một,
như bạn thân như tri kỉ, tôn lên vẻ đẹp của nhau thật hài hòa, thơ mộng: thiên nhiên đẹp
lộng lẫy, lung linh , và con người lao động thì thật dịu dàng, duyên dáng. Câu thơ khéo léo
bộc lộ tấm lòng yêu mến trân trọng lối sống giản dị, lặng thầm của những con người Việt
Bắc thân thương.
Khép lại đoạn thơ là bức tranh về mùa thu ở Việt Bắc:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Có lẽ ấn tượng nhất trong nỗi nhớ về hoa và người Việt Bắc đó là những đêm trăng
thu yên bình, lãng mạn. Bức tranh thu không có hoa rừng khoe sắc, mà đó là màu sắc dịu
dàng, êm ái ánh trăng thu chiếu tỏa. Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng
thanh bình soi chiếu khắp núi rừng chiến khu . Ánh trăng ấy không chỉ mang vẻ đẹp tự
nhiên mà nó còn gắn với niềm xúc động của những con người từng trải qua bao năm khốc
liệt , gian khổ của chiến tranh . Và trong giây phút sống trong hòa bình ấy, lòng người chợt
nhớ đến “tiếng hát ân tình” ngân vang, tha thiết .Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ ân
tình thuỷ chung , tình nghĩa của con người Việt Bắc với cách mạng, với bộ đội miền xuôi.
Tiếng hát cũng nhắc nhớ người ra đi đừng vội quên quá khứ nghĩa tình suốt mười lăm
năm gắn bó. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi
rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" ấy còn gợi cho người về và
cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Tố Hữu đã diễn tả nỗi nhớ gắn với hình ảnh của núi rừng và bốn mùa hoà chung sắc
màu đa dạng làm nên vẻ hấp dẫn cho bức tranh tứ bình bằng thơ có họa và nhạc về hoa và
người Việt Bắc. Đọc thơ ông, người đọc như được huy động tất cả các giác quan để cảm
nhận: Thị giác được chiêm ngưỡng những khoảnh khắc trong ngần của rừng mơ mùa
xuân, sự chói chang huy hoàng của rừng phách mùa hè, sự tươi tắn, ấm áp của hoa chuối
mùa đông. Thính giác lắng nghe âm thanh tiếng ve quen thuộc của mùa hè, lắng nghe tiếng
hát thân thương nghĩa tình của con người Việt Bắc và trái tim rung động biết bao! Đó là
thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. nhiên, tình người. Thời gian trong đoạn thơ được
diễn tả tuần tự bốn mùa bắt đầu từ mùa đông và khép lại là mùa thu lịch sử, mùa của
thắng lợi tròn đầy, mùa của bình yên lắng đọng, nhưng có một thứ bất biến, không hề đổi
thay, đó là nỗi nhớ, là tình yêu nhà thơ dành cho Việt Bắc. Thời gian trôi đi càng làm nỗi
nhớ thêm tha thiết, sâu lắng. Đó là tình yêu đích thực, rung động chân thành của trái tim
nhà thơ, cũng là mạch nguồn làm nên chất trữ tình chính trị sâu sắc và tính dân tộc đậm
đà ở mỗi vần thơ Tố Hữu.
Qua mười câu thơ tuyệt bút , bằng việc sử dụng cấu trúc đối đáp giao duyên “ta”- “mình”,
kết hợp với việc sử dụng những ngôn từ hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm mà mộc mạc
chân thành, nhà thơ đã làm nổi bật cảnh đẹp thiên nhiên bốn mùa ở núi rừng trong sự hài
hòa với cốt cách và tâm hồn người Việt Bắc. Qua đó, tác giả đặc biệt ngợi ca vẻ đẹp trong
tâm hồn con người Việt Bắc, ngợi ca tình nghĩa cách mạng thủy chung gắn bó bằng tấm
lòng trân trọng và biết ơn sâu nặng. Với việc sử dụng khéo léo, tài tình ngôn ngữ dân tộc,
Tố Hữu đã trữ tình hóa mối quan hệ chính trị,lãng mạn hóa không gian kháng chiến khiến
tình quân dân trở nên thi vị và đầy ấn tượng. Đoạn thơ góp phần làm nên thành công của
tác phẩm và đem đến cho người đọc ấn tượng thật đẹp về một thời kì đau thương nhưng vĩ
đại của dân tộc.

ĐỀ 4 :
Những đường Việt bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ cuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Bắc Việt, đèo De, núi Hồng
(Trích: Việt Bắc – Tố Hữu)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về tính sử thi trong thơ Tố Hữu.
BÀI LÀM :
Bài thơ Việt Bắc được nhà thơ Tố Hữu viết vào tháng 10 - 1954, tức sau chiến thắng Điện
Biên Phủ (5 - 1954), miền Bắc được giải phóng. Các cơ quan Trung ương của Đảng và Nhà nước
chuyển từ Việt Bắc (thủ đô của cuộc kháng chiến) về Hà Nội. Sự lưu luyến kẻ ở người về là
nguồn cảm xúc lớn cho Tố Hữu viết nên bài thơ này. Bài thơ Việt Bắc được trích trong tập thơ
Việt Bắc (1947 - 1954) của Tố Hữu. Cả bài thơ cũng là bức tranh nhiều màu sắc về mảnh đất và
con người Việt Bắc từ buổi đầu gian khổ gây dựng sự nghiệp cách mạng đến những đêm trường
cả Việt Bắc bừng bừng khí thế đấu tranh. Đó là khúc tráng ca – khúc ca hùng tráng về một giai
đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc.
Câu thơ đầu đoạn vang lên khỏe khoắn, hùng tráng, chứa chan niềm tự hào kiêu hãnh:
Những đường Việt bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Khắp các nẻo đường từ Việt Bắc tỏa đi muôn nơi đều là “của ta”: Hai tiếng “của ta” giản
dị mà vô cùng thiêng liêng. Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ cũng như niềm tự hào về sự bất
khả xâm phạm của vùng căn cứ. Có sống trong những ngày kháng chiến chống Pháp đầy gian
khổ khó khăn, ta mới thấm thía niềm tự hào kiêu hãnh ấy. Những con đường của ta nhưng đã
phải đổ biết bao xương máu mới giành lại được?
Hình ảnh thơ “Đêm đêm rầm rập như là đất rung” đặc tả sự lớn mạnh nhanh chóng, vượt
bậc và khí thế ra trận hào hùng, ngút trời của đoàn quân và dân ta. Không phải ngẫu nhiên mà
tác giả lại chọn thời điểm ban đêm. Trong cuộc sống, đêm là lúc yên bình, tĩnh mịch, vạn vật đã
chìm vào giấc ngủ say nông nhưng trong kháng chiến, đêm thường là điểm khởi đầu của những
hoạt động, chiến dịch chuNn bị cho ngày mai thắng lợi. Trong màn đêm bao la bao phủ, trùm
khắm, đoàn quân của ta ra trận rầm rập như vũ bão khiến đất rung, trời lở. Với những từ láy rắn
rỏi, hình ảnh so sánh, phóng đại, nhịp thơ đanh thép, chắc khỏe kết hợp với những phụ âm rung,
câu thơ bật lên âm hưởng khỏe khoắn hùng tráng góp phần tái hiện sống động cuộc diễu binh
hùng vĩ. Có thể nói, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí thế ra trận hào hùng của cha ông trong
suốit bồn nghìn năm dựng nước, giữ nước đã sống dậy trong ngày tháng ra trận.
Chúng ta từng tự hào trước các tráng sĩ thời Trần mang tinh thần Sát Thát, về nghĩa quân
Lam Sơn với sức mạnh Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim
muông. Và cho đến bây giờ, chúng ta lại càng tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời
đại cách mạng:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hai từ láy “điệp điệp" và “trùng trùng" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả đó, nó vừa gợi
lên hình ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn
quân. Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách
mạng, khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. Câu thơ thứ hai được ngắt theo nhịp 4/4:
"Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan" càng làm tăng thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp
vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu sắc. Hình ảnh “Ánh sao đầu súng" có thể là
hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những người lính trong mỗi đêm hành quân như
"Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; “ánh sao đầu súng" ấy cũng có thể
là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng
soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài Núi đôi đã viết: “Anh đi bộ đội sao
trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”.
Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta không chỉ có
bước chân thần tốc của những chiến binh tinh nhuệ mà còn có sự góp công góp sức của cả một
tập thể quần chúng nhân dân anh hùng:
Dân công đỏ cuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Họ như là những người chiến sĩ thực thụ, một lực lượng hùng hậu mang sức mạnh của
tinh thần đoàn kết. Với nhiệm vụ vận chuyển lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường,
họ cũng mang vẻ đẹp hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính.
Bằng một cách nói cường điệu “Bước chân nát đá ”, nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh của
tinh thần yêu nước, yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người
nông dân lao động. Những người nông dân đôn hậu, chất phác, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa ấy đã đi
vào cuộc kháng chiến với tất cả những tình cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi
sinh, gian khổ, chấp mưa bom bão đạn của quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi
của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói trong bài Đất
Nước: “Ôm đất nước những người áo vải /Đã đứng lên thành những anh hùng”.
Với bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay ấy, núi rừng như bừng thức. sự im lặng, tăm tối
bỗng bị xé toang bởi ánh sáng đèn pha:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hình ảnh so sánh trong câu: Đèn pha bật sáng như ngày mai lên đặt trong thế đối sánh tương
phản với tình cảnh nô lệ của đất nước “ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày”, thoạt nghe có vẻ
cường điệu nhưng phải so sánh như thế thì nhà thơ mới nói hết được niềm phấn chấn đang tràn
ngập lòng người trước sự lớn mạnh vượt bậc của quân đội ta khi cuộc kháng chiến đang bước
vào giai đoạn thắng lợi cuối cùng. Câu thơ cũng thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp đang
đến rất gần ngay trước mặt, khiến người người hân hoan vui sướng.
Khúc hùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn thắng về ta:
Tin vui thắng trận trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Điệp từ “vui” được điệp đi, điệp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh mạnh tạo nên âm
hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm vui từ, vui về, vui lên tạo nên không khí phấn chấn, vui
tươi, hồ hởi. Từ Việt Bắc, tốc độ của chiến thắng bùng lên, chiến thắng nối tiếp chiến thắng,
niềm vui gọi niềm vui. Điểm đáng chú ý trong đoạn thơ là việc liệt kê hàng loạt các địa danh mà
không làm mất đi sự hấp dẫn của đoạn thơ. Nếu ở Tây Tiến, những địa danh của Quang Dũng
xuất hiện với niềm thương nỗi nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên những địa danh lừng lẫy chiến công
với niềm vui sướng, tự hào như lan tỏa ra mênh mông. Có thể nói, đây là điểm độc đáo, làm nên
giọng điệu hào sảng trong thơ Tố Hữu.

Việt Bắc trong kháng chiến là đoạn trích tái hiện không khí đấu tranh hào hùng,
oanh liệt của quân và dân Việt Bắc trong trận chiến Điện Biên Phủ lừng lẫy tiếng tăm. Người
đọc cảm nhận được chất sử thi qua không gian trải dài của những con đường Việt Bắc, của núi
rừng trùng điệp, không gian của tụ họp trong tình nghĩa quân dân, qua thời gian lịch sử được đo
dếm bằng số từ “nghìn đêm”, diễn tả một quá trình lâu dài trong thăm thẳm sương dày, đấu tranh
kiên cường để bảo vệ đất nước của quân và dân. Khác với giọng thơ trữ tình mềm mại ở những
đoạn thơ trên, đoạn trích mang giọng điệu khỏe khoắn, hùng tráng, khơi gợi cảm xúc tự hào,
ngưỡng mộ của độc giả.
Hình tượng nhân vật được xây dựng trong đoạn trích đó là tập thể đoàn quân “điệp điệp
trùng trùng” cùng với “dân công đỏ đuốc từng đoàn. Đó là tập thể quân và dân mang sức mạnh
quật cường “ bước chân nát đá muôn tàn lửa bay” đạp bằng mọi thử thách gian lao, tiến về phía
trước bằng sức mạnh của ý chí, của tinh thần đoàn kết đấu tranh. Tất cả hòa làm một tạo nên
bức tượng đài sừng sững về tập thể dân tộc anh hùng Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống xâm
lược.
Trong đoạn trích, ta dễ dàng thấy được chất sử thi qua hàng loạt các từ láy tượng thanh,
từ láy tượng hình, những từ ngữ vốn có khả năng khơi gợi những rung cảm mạnh mẽ như “rầm
rập”, “điệp điệp, trùng trùng”, “ thăm thẳm” kết hợp với lối so sánh ví von “đêm đêm rầm rập
như là đất rung”, “đèn pha bật sáng như ngày mai lên” cả cách nói khoa trương phóng đại “
bước chân nát đá” và hàng loạt các từ ngữ cực tả không khí khNn trương, gấp gáp ào ào như thác
lũ của cuộc tổng tiến công chống kẻ thù xâm lược “nghìn đêm, muôn tàn lửa bay, trăm miền…
Tất cả đều góp phần làm ổi bật khí thế đấu tranh của bộ đội và nhân dân Việt Bắc, mang hào khí
của những trận chiến sát thát của nghìn năm trước.
Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào
hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật khí thế đấu tranh quật
cường của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, làm sống lại một thời
đại hào hùng mang tinh thần của cuộc chiến chống giặc Mông Nguyên thủa nào. Đồng thời,
đoạn thơ còn thể hiện niềm lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên
những chiến thắng vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Những dòng thơ mang đậm chất sử
thi đã gieo vào lòng người đọc niềm tự hào về sức mạnh dân tộc, làm thức dậy tình yêu quê
hương đất nước và lối sống trách nhiệm với quê hương ở thế hệ trẻ hôm nay và mãi mai sau.

ĐỀ 6: Người lính là đề tài quen thuộc, thế nhưng mỗi nhà thơ lại có cách khám phá và thể hiện
riêng. Trong bài Tây Tiến, Quang Dũng viết: 
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Trong thi phẩm Việt Bắc, Tố Hữu viết:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cũng mũ nan
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng người lính được khắc hoạ qua hai đoạn thơ trên.
BÀI LÀM
Lịch sử dân tộc là lịch sử được vẽ bằng thanh gươm và giọt máu. Chính những cuộc trường
chinh, vệ quốc đã khắc tạc trong ta những hình ảnh quen thuộc mà lẫm liệt về người lính. Đó là
người lính với sức mạnh át cả ngưu đNu trong Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, người lính với sức
mạnh kỳ vĩ: “đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông” trong
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Người lính nông dân “miệng cười buốt giá, chân không
giày” trong Đồng chí của Chính Hữu. Và chắc chắn không thể thiếu hình tượng người lính dữ
oai hùm trong Tây Tiến của Quang Dũng, đoàn quân điệp trùng ánh sao trong Việt Bắc của Tố
Hữu.
Quang Dũng và Tố Hữu đều là những nhà thơ lớn, cùng trải qua những đau thương và
khốc liệt trong chiến tranh, cho nên, điểm giao thoa giữa họ là khắc tạc những hình tượng nghệ
thuật về người lính, về nhà thơ Quang Dũng, ông không chỉ được biết tới với tư cách là một nhà
thơ, mà còn là người nghệ sĩ đa tài. Gắn mình với cuộc kháng chiến chống Pháp và tự bản thân
lớn lên trong cuộc chiến tranh vệ quốc khốc liệt đó, Quang Dũng đã cho ra đời những tác phNm
hay nhất đời mình. Quang Dũng mang hồn thơ bay bổng, phóng khoáng, hào hoa đầy lãng mạn,
tha thiết tình cảm dành cho bạn bè, cho quê hương xứ sở. Thơ Quang Dũng nằm giữa biên giới
của thật và mơ, như khói như mây mờ mờ ảo ảo, như tiếng vọng từ chân trời nào xa vắng... Tây
Tiến - một bài thơ nói về vùng đất phía tây tổ quốc hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng, cùng một
đoàn binh có lắm nét khác thường từ thành phần tham gia đến nhiệm vụ được giao và những
nếm trải suốt dọc hành trình. Viết Tây Tiến chính là viết về một đoạn đời của thi nhân. Hay nói
cách khác, mảnh ký ức, kỉ niệm của Quang Dũng cũng là của đất nước, lịch sử - một giai đoạn
gian khó hào hùng không thể nào quên.
Còn nói đến Tố Hữu là nhắc đến nhà thơ lớn của dân tộc, cánh chim đầu đàn của nền thơ
ca cách mạng Việt Nam. Về phong cách nghệ thuật: Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thể hiện
nồng nhiệt tự hào lý tưởng cách mạng, đời sống cách mạng của Nhân dân ta. Thơ Tố Hữu chủ
yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, màu sắc lịch sử được diễn tả bằng bút
pháp lãng mạn, hình tượng thơ kì vĩ, tráng lệ. Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu
riêng. Thơ liền mạch, nhất khí tự nhiên, giọng tâm tình, ngọt ngào tha thiết. Thi phNm Việt Bắc
được viết nhân một sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử. Tháng 10 - 1954 Trung ương Đảng và
Chính phủ rời Việt Bắc (thủ đô kháng chiến) về thủ đô Hà Nội. Sau bao nhiêu năm chung sống ở
mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm ấy thế mà nay những người
chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Cảm xúc cũng như những ưu tư chính là xuất phát điểm để bài
thơ được ra đời.
Tây Tiến của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội, chính vì
thế Quang Dũng đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như
tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào
tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức
tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ
“Tây Tiến đoàn bỉnh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Hai câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Hình ảnh đoàn quân “không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến
tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “xanh màu lá” tương phản với nét
“dữ oai hùm”. Bằng bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả
cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ. “Dữ oai hùm” là hình
ảnh Nn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến, tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề
yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa
chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy, xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong,
khí phách. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi
trong câu: “Sài Khao sưong lấp đoàn quân mỏi”, nay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong
đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da
xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống
gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Vẻ ngoài dường như rất tiều tụy, nhưng thế giới tinh
thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng
cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang
Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào
hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” với những thanh trắc
rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc”. Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng
của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” âm Hán
Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ “Tây Tiến” mở
đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu
không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng
sử dụng ở câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh
thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ
muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn “động vật hoá”
người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen
thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: 
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hố khí thôn ngưu”
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong Đăng sơn cũng viết:
“Nghĩa binh tráng khí thôn Ngưu Đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân”
Có thế nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu
thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng
của hào khí ngút trời Đông A.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời: biên giới và Hà Nội, biên
giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,...
Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là
những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc đế
thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa
chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội, mơ về Hà Nội. Hình ảnh
“dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị, đặc tả được chất
lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc. Đã một thời, với cái
nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính
có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con
người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con người
chiến đấư kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đời sống tâm hồn phong
phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà
còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ
về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa.
Nguyễn Đình Thi từng nói, đại ý, trọn đời, Tố Hữu là nhà thơ và làm thơ về cách mạng, và
thơ Tố Hữu luôn thiết tha, dịu dàng với quê hương đất nước và con người của đất nước quê
hương. Ngày Tố Hữu ra đi, Nguyễn Đình Thi từng nói vậy, và ta cảm thấy thật xúc động, tự hào
vì điều đó. Ngay cả trong những vần thơ nói về khí thế ra trận, miêu tả cảnh hùng hồn, hào hùng
của dân tộc, ta vẫn luôn cảm thấy chút dịu dàng rất Huế ông gửi gắm vào người Việt Nam mình.
Và thật đặc biệt khi ta tìm ra điều đó được viết trong khổ thơ đặc tả khung cảnh ra trận trong bài
thơ Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Chỉ vài nét phác họa khung cảnh hùng tráng của cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, Tố Hữu đã
cho người đọc cảm nhận được khí thế hào hùng, mạnh mẽ của khối đoàn kết toàn dân toàn diện,
sự hoà quyện gắn bó giữa thiên nhiên với con người – tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng
lên chiến đấu vì độc lập, tự do, vì hạnh phúc, tương lai của dân tộc. Đêm đêm, những bước chân
hành quân “rầm rập”, làm rung chuyển cả đất trời, bước chân của những người khổng lồ đội trời
đạp đất, làm nên những kì tích anh hùng. Khí thế bừng bừng của quân ta được miêu tả hết sức
sinh động: Các từ láy có giá trị tượng thanh, tượng hình: “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng
trùng”, biện pháp so sánh “như là đất rung” diễn tả được không khí hồ hởi, sôi sục trong những
ngày hành quân ra mặt trận, làm nổi bật được sức mạnh cuộn như thác lũ của quân ta. Tưởng
chừng như nơi đây đang diễn ra một cơn địa chấn làm long trời lở đất báo hiệu những đòn sấm
sét sắp giáng xuống đầu kẻ thù. Khí thế càng được thể hiện rõ nét hơn, từ “điệp trùng” được
tách ra thành “điệp điệp ” “trùng trùng” thể hiện một số lượng rất lớn đoàn dân công đang tiến
quân ra trận. Có thể nói, chỉ hai câu mà tạo nên bức phù điêu điệp trùng, hùng vĩ của Việt Bắc
kháng chiến. Không khí kháng chiến, không khí lịch sử được tái hiện qua màu sắc thần kì sử thi.
Đoàn quân ra trận đông đảo, người người lớp lớp, như sóng cuộn “điệp điệp trùng trùng”. Có
“ánh sao đầu súng” soi chiếu lý tưởng, đó là đội quân bất khả chiến bại. Hình ảnh hoán dụ “ánh
sao đầu súng” thật giống với hình ảnh “đầu súng trăng treo” của Chính Hữu. Một hình ảnh lãng
mạn, tráng lệ, tuyệt đẹp. Đó là những người chiến sĩ giải phóng quân đang ngày đêm ra trận,
hình ảnh họ không chỉ kiêu hùng, mà còn thật lãng mạn. “Ánh sao đầu súng” sóng đôi cùng
“bạn cùng mũ nan” có thể là mũ của những người dân công hỏa tuyến, họ đang sát cánh cùng
nhau ra trận, những hình ảnh này đặt cạnh nhau đột nhiên ta thấy thật nên thơ. Càng tô điểm
thêm khối sức mạnh vĩ đại của toàn dân tộc.
Cùng nhìn lại hai hình tượng người lính được khắc tạc qua hai thi phNm, có thể thấy họ có
những điểm chung và riêng. Trước tiên họ đều hiện lên trong sức mạnh của ý chí phi thường, sức
mạnh của niềm tin tưởng. Những người chiến sĩ đều bật lên vẻ đẹp của lý tưởng, về sự ý thức và
trách nhiệm. Họ là những con người gánh vác đại nghiệp, là người tiên phong, là sức mạnh mũi
nhọn chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Tuy nhiên, lính Tây Tiến được hiện lên trong cái nhìn
cận cảnh, cụ thể, được hiện lên qua sự trần trụi đến tàn khốc của chiến tranh, nhưng Nn sau vẻ bề
ngoài thô ráp là tâm hồn lãng mạn và hết sức hào hoa. Còn trong Việt Bắc, nhà thơ không tả cận
mà tả ở cấp độ khái quát, cho nên, hình ảnh đoàn quân hiện lên trùng điệp như núi non, thác lũ.
Sức mạnh nơi họ là sức mạnh của khối đoàn kết to lớn, của lý tưởng mạnh mẽ, tầm vóc vũ trụ.
Với Quang Dũng, ông khắc hoạ người lính qua bút pháp lãng mạn, đầy bay bổng, tạo nên chất
riêng của người lính trẻ Hà thành. Với Tố Hữu, ông sử dụng bút pháp của sử thi, tạc dựng nên
bức tượng đài kỳ vĩ, sức mạnh lớn lao trong không gian rộng lớn của núi rừng. Nó phù hợp với
không khí ra trận những ngày tháng hào hùng, chói lọi.
Cùng biểu hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà thơ rất khác
nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện lên trong hai đoạn thơ vừa có
điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho người đọc những ấn tượng khó phai nhòa.

ĐẤT NƯỚC ( Nguyễn Khoa Điềm)


ĐỀ 1:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét độc đáo trong ngòi bút thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
BÀI LÀM:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê Hương, Đất Nước , hai tiếng giản đơn thân thuộc mà luôn chạm vào đáy sâu
tâm hồn con người mỗi khi nhắc đến. Mỗi vần thơ ngợi ca đất nước – quê hương đều khiến
trái tim ta ngân lên những giai điệu tự hào, phấn chấn. Đó là một đất nước mang « hình tia
chớp » trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước bền gang bất khuất « rũ bùn đứng dậy
sáng lòa » trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước « Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng
sững - Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa » trong cái nhìn của Huy Cận. Có thể nói rằng ,
muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung
động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển... Mà
trên hết, đó là một tình yêu chân thật, nồng nàn và một ý thức tự tôn dân tộc, gắn sứ mệnh
của mình với vận mệnh của non sông. Cùng viết về đề tài này, ở đoạn thơ “Đất
Nước” (trích trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”), Nguyễn Khoa Điềm đã
chọn một lối đi riêng đem đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ, độc đáo trong
cách lí giải về đất nước. Điều đó thể hiện rõ nét qua đoạn thơ sau :
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác phẩm được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến
khu Trị - Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang ở giai đoạn cam go, ác
liệt nhất. Với giọng thơ thủ thỉ tâm tình vừa nồng nàn tha thiết vừa suy tư sâu lắng, thi sĩ
đã lí giải về Đất Nước thật giản dị, mộc mạc, gần gũi mà thú vị, đầy bất ngờ. Từng dòng
thơ như thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về tinh thần yêu nước, sẵn sàng đứng
dậy đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.
Nếu hai tiếng « quê hương » gợi trong ta những xúc cảm dịu dàng, gợi về miền nhớ
miền thương với sự gần gũi quê mùa như những câu thơ đậm chất đồng nội của nhà thơ
Đỗ Trung Quân : Quê hương là chùm khế ngọt, Quê hương là vàng hoa bí/ Là hồng tím
giậu mồng tơi/ Là đỏ đôi bờ dâm bụt… thì hai từ Đất Nước lại gợi ra cái thâm nghiêm, kì
vĩ, cái hoành tráng , kiêu hùng trong lòng người. Nhưng thật lạ kì khi ta bắt gặp những vần
thơ trong « Đất Nước » của Nguyễn Khoa Điềm, cái cảm giác gần gũi thân thuộc của mùi
rơm rạ, của sắc áo nông dân, của bờ tre giếng nước quê hương cứ ăm ắp đầy lên, mơn man
và dịu ngọt biết mấy.
Bằng giọng thơ thủ thỉ trò chuyện trong vai trò của lớp người anh đi trước, Nguyễn
Khoa Điềm đã khéo léo « giác ngộ » cho người em về ý thức trách nhiệm với Đất Nước.
Từng lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như lời ăn tiếng nói thường ngày mà gợi nhiều suy
tư sâu lắng. Hẳn người em sẽ không cảm thấy nặng nề khó hiểu :
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Có lẽ em chưa hiểu rằng đất nước có từ bao giờ, hoặc cũng có thể câu hỏi đó là điểm
xuất phát mà Nguyễn Khoa Điềm chọn để bắt đầu cho một câu chuyện dài về Đất Nước.
Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì : Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh
hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này
sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả
và Tác phẩm). Cách nói ấy đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất
nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở
dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Hiểu Đất Nước phải đi từ cội nguồn của bốn nghìn năm
trước. Nhưng khác với tư duy thông thường, câu trả lời của nhà thơ không phải là một
mốc thời gian cụ thể nào mà đưa em vào không gian cổ xưa huyền thoại, để rồi tự em sẽ
cảm nhận được cả chiều dài lịch sử và bề dày của văn hóa quê hương :
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Các mốc thời gian hình thành nên Đất Nước như thời điểm ra đời, bắt đầu xây dựng
và lớn lên, tất cả đều được nhà thơ hình ảnh hóa, cổ tích hóa bởi những thứ thật gần gũi,
thân thương. Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để giải thích sự ra đời của Đất
Nước bằng một cách diễn đạt thật lạ. “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ
thường hay kể”. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa”
của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có từ trước khi những
câu chuyện cổ ra đời và hiện hữu ngay trong những câu chuyện cổ tích mà em đã thuộc
nằm lòng. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn
sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn nhân hậu, bao dung của con người nước Việt. Thật
đáng trân trọng biết bao !
Đất Nước cũng có những ngày đầu phát triển bình dị và tự nhiên như « miếng trầu
bây giờ bà ăn »- một miếng trầu nhỏ bé đơn sơ thôi nhưng gọi về cả nền văn hóa bốn nghìn
năm của lịch sử dân tộc. Miếng trầu là hiện thân của lịch sử, hiện thân của những giá trị
văn hóa đẹp đẽ còn tồn tại đến ngày nay. Đó là minh chứng cho tục ăn trầu từ nghìn đời
« miếng trầu là đầu câu chuyện » « Miếng trầu nên dâu nhà người », là minh chứng cho
tấm lòng thủy chung son sắt, trọng tình trọng nghĩa của hai anh em họ Cao và nàng Lưu
thị trong « Sự tích trầu cau ». Quả thật, chỉ một hình ảnh giản dị là thế mà sức gợi vô
cùng!
Cách dùng từ giản đơn « Đất Nước lớn lên » khiến ta có cảm giác Đất Nước như một
cơ thể sống, được nuôi dưỡng bằng nền văn hóa phong phú đẹp đẽ, nhưng cũng trải qua
bao thử thách : ‘Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn
chập chờn’ (Nguyễn Việt Chiến). Và Đất Nước ấy vẫn lớn lên theo kinh nghiệm « trồng tre
mà đánh giặc, chủ động, cảnh giác trước quân thù. Cách nói gợi liên tưởng sâu sắc đến
chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc, nhắc người em nhớ đến truyền thống đánh giặc của
quê hương với hình ảnh vị Phù Đổng Thiên vương nhổ tre làm vũ khí quét sạch bóng quân
thù. Rồi Tre mọc bạt ngàn trên khắp quê hương như thành như lũy vây chắn bước chân
giặc ngoại xâm. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt
Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên
cường bất khuất trong tranh đấu. Hình ảnh thân thương mà thể hiện ý chí bền gan, bất
khuất ấy đã trường tồn cùng Đất Nước từ thủa sơ khai đã chạm đến trái tim của người em,
làm sống dậy một lòng yêu nước và tự hào về truyền thống văn hóa, truyền thống đánh
giặc của quê hương.
Ai đó đã từng nói « Quê hương là nơi chân ta có thể rời đi nhưng tim ta vẫn mãi ở
đó ». Thật vậy, bởi đó là mảnh đất êm dịu dung dưỡng tâm hồn ta, nhắc ta nhớ về nguồn
cội, giống nòi. Ở đó có mẹ cha ta, có những kỉ niệm tuổi thơ ta ngọt ngào, sâu lắng :
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Còn gì thân thiết hơn, cảm xúc hơn hình ảnh người mẹ trong tim ta. Nét đẹp bình dị
chân quê, không phấn son điểm trang, không trau chuốt lụa là, mà chỉ đơn giản trong
chiếc áo bà ba đã ngả màu, ống quần luôn xắn lên cao, còn mái tóc lúc nào cũng búi lên gọn
gàng sau đầu khi làm việc... hình ảnh đó dẫu đơn sơ nhưng lại trở thành biểu tượng văn
hóa Việt, nét đẹp Việt, khiến lòng ta ngập tràn thương mến.
Nét đằm thắm dịu dàng cùng tấm lòng thủy chung son sắt trong nghĩa vợ tình chồng
đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo
tôn lên vẻ đẹp ấy chỉ với vài nét chấm phá, chọn lọc tinh tường bằng một giọng thơ vừa
khẳng định đinh ninh, vừa tự hào sâu sắc. Câu thơ cũng đưa ta về miền văn hóa Kinh Bắc
xưa với những câu ca đậm tình đậm nghĩa như thế :
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ
nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời.
Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật
trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong
đầy.
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc
cho người đọc nhớ đến tục dựng nhà của người Việt xưa. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo
cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Cái
kèo, cái cột bởi thế cũng trở thành quen thuộc, gắn bó với mỗi thành viên trong gia đình,
thậm chí, nó còn trở thành những cái tên mộc mạc, giản đơn đi suốt cuộc đời một con
người.
Không chỉ đằm thắm thủy chung trong tình cảm gia đình, người dân ta cũng còn
mang những vẻ đẹp tuyệt vời trong lao động, tăng gia sản xuất :
Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng…
Câu thơ sử dụng hàng loạt các động từ chỉ hoạt động lao động làm ra hạt lúa của
người nông dân « xay, giã, dần, sàng », kết hợp với thành ngữ « một nắng hai sương » đã
làm nổi bật sự sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày đầu của nền văn minh lúa
nước, khi nông nghiệp còn lạc hậu, nghèo nàn. « Cày đồng đang buổi ban trưa/Mồ hôi
thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn
phần. »
Đất Nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao » đã hiện hữu trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm thật giản dị, dễ hiểu. Khép lại dòng cảm hứng lí giải Đất Nước có từ bao giờ là một
câu khẳng định thật tự nhiên :
« Đất Nước có từ ngày đó… ».
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày bắt đầu của những
truyền thống, phong tục tập quán, ngày bắt đầu của nền văn hiến, ngày bắt đầu của những
truyền thống, đạo lí mang bản sắc quê hương….Câu thơ ngắn gọn, kết đọng dòng cảm xúc
đang tuôn chảy theo chiều dài lịch sử, găm vào lòng người đọc biết bao suy tưởng !
Trong 9 câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, độc đáo chất liệu dân
gian : ca dao dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích… không chỉ tạo cảm giác gần gũi quen
thuộc mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và lặp
lại 5 lần thể hiện sự thành kính, nâng niu, trân trọng của nhà thơ. Với câu từ giản dị, đời
thường, không có một từ pha tạp, vay mượn, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần
thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi
vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ: tổng -
phân - hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa chính luận và trữ tình, giữa trí tuệ và cảm xúc
bay bổng đã làm nên nét riêng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm giữa rừng thơ
Đất Nước.

Tóm lại, qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng
như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hoá, sinh hoạt Nguyễn
Khoa Điềm đã có một phát hiện mới mẻ, độc đáo, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất
Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt
từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ,
qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá... Đó là một Đất Nước không trừu
tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niêm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm
hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiên lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống,
trong lao động và trong chiến đấu.. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm
nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng
máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

ĐỀ 2 :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…
(Trích: Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Anh/chị hãy phân tích đoạn thơ trên. Từ đó liên hệ đến trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày
nay đối với đất nước.
BÀI LÀM:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam mà trường ca Mặt đường
khát vọng là một sáng tác tiêu biểu. Được ra đời trong cuộc chiến chống MĨ các liệt tại
chiến trường Trị – Thiên năm 1971, những dòng thơ đã truyền đến người đọc bao xúc
động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong đó, đoạn thơ “Đất Nước” đã bộc lộ những
suy nghĩ về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước thật độc đáo và ấn tượng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
(…)
Làm nên đất nước muôn đời…

Trong chương V trường ca Mặt đường khát vọng, hai từ “đất nước” và “nhân dân” đều
được viết hoa, trở thành “mĩ từ” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ
cảm xúc yêu mến, tự hào về đất nước và nhân dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng
điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào về sự ra đời, quá trình trưởng thành và
phát triển suốt bốn nghìn năm của đất nước. Từ sự lí giải ở chiều rộng không gian, chiều
dài thời gian và ở bề dày văn hóa, nhà thơ khéo léo khơi gợi ý thức trách nhiệm của thế hệ
trẻ với đất nước qua đoạn thơ 13 câu trữ tình sâu lắng và đầy sức thuyết phục.
Hai câu thơ mở đoạn là lời của chủ thể trữ tình “anh” nói với em về sự tồn tại hiển
nhiên đến bất ngờ của đất nước trong mỗi con người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, Tổ quốc, dân tộc...
luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh
khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Khác với nhiều nhà thơ thường
cảm nhận đất nước từ điểm nhìn hướng ngoại, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn
hướng nội để thấy đất nước ở trong “anh” và trong “em”, đất nước tồn tại trong mỗi con
người chứ không ở ngoài ta. Đó là một nhận thức mới mẻ và sâu sắc về đất nước.

Tứ thơ được phát triển theo mạch mở rộng từ cá nhân “anh” và “em” đến sự gắn kết
khi “hai đứa” cầm tay, cử chỉ yêu thương đã góp phần tô thắm cho Đất Nước:
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Quả thực, Đất Nước được hình thành từ những mái ấm gia đình. Có những con người yêu
thương gắn bó trong tình nghĩa mặn nồng thì đâtý nước từ đó mới phát triển. Và “khi hai
đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần”
của đất nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hoà, nồng thắm”
với tình yêu quê hương đất nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại
mới. ta cũng bắt gặp ý thơ này trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Anh yêu em như anh
yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”

Khi chúng ta cầm tay mọi người


Đất nước vẹn tròn, to lớn
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên,
là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng
bào,.. Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất
nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hoà,
nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc
và đất nước. Đất nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi
nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong
một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất nước vẹn
tròn, to lớn”.
Bốn dòng thơ nhưng thực chất là hai câu thơ có quan hệ điều kiện – kết quả: “Khi...
thì ..”. Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay
diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ
chỉ mức độ “hài hòa”, “nồng thắm”, “vẹn tròn”, “to lớn”. Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải
là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những
câu thơ còn gợi ngầm ẩn một thông điệp rằng đất nước không phải là một khái niệm trừu
tượng, càng không phải là một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự
sống ấy ra sao còn phụ thuộc vào hành động của những cá nhân trong đất nước đó.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước
trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân
dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài
trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và
em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt
ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…
“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về đất nước: “Đất nước là máu
xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi
xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời.
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là những biểu hiện của tình
yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải
biết hoá thân…” thì mới có thể “Làm nên đất nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như
một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, tác động cả vào lí trí và
tình cảm con người. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng
bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn
bó”, “san sẻ”, “hoá thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng được
hi sinh hết mình cho tổ quốc của nhà thơ.
Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự
tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng có nghĩa là dâng
hiến. Thời bình, người ta dâng hiên sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng
hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là cuộc hóa thân.
Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương, xứ sở, đất nước. Không có sự hóa
thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được Đất nước muôn đời! Cảm hứng ấy
cũng dạt dào trong thơ Chế Lan Viên
Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông
Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình thống nhất, tình yêu đất nước vẫn luôn gắn liền với ý
thức trách nhiệm dựng xây và bảo vệ thành quả của cách mạng. Không chỉ ở thái độ tu dưỡng
đạo đức, học tập nghiêm túc, trau dồi kiến thức để bắt kịp với sự phát triển của thời đại, mỗi
người dân cần nâng cao ý thức cảnh giác trước mọi biểu hiện diễn biến hòa bình của các thế lực
thù địch trên thế giới. Và khi cần, cùng phải biết « hóa thân » cho dáng hình xứ sở trên mọi mặt
trận, phải biết hi sinh khi Tổ quốc cần. Đó mới là lí tưởng sống đẹp đẽ của thanh niên dù ở bất
cứ thời đại nào !
Bởi thông điệp ý nghĩa mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm, đoạn trích thực sự đã có
giá trị thức tỉnh thế hệ trẻ về trách nhiệm của bản thân với cộng đồng, với đất nước. Bằng việc sử
dụng thể thơ tự do, cùng với ngôn từ rất mộc mạc, giản dị nhưng lại giàu chất triết lý, độc giả
còn thấy ở nhà thơ những suy tư trăn trở của một con người sống có trách nhiệm với đất nước .
Đoạn thơ cũng góp phần thể hiện rõ nhất nét riêng trong phong cách viết thơ của Nguyễn Khoa
Điềm. Có lẽ vì thế mà đoạn trích “Đất nước” gây nhiều xúc cảm, và luôn được yêu mến trong
lòng bạn đọc nhiều thế hệ.

ĐỀ 3 : Phân tích tư tưởng Đất nước của nhân dân được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện
qua đoạn thơ sau :
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
(……..)
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
( Trích : Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm)
BÀI LÀM :
a. Yêu cầu hình thức:

- Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận: Mở bài giới thiệu vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề,
kết bài khái quát được vấn đề.

- Đảm bảo chuNn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt. b. Yêu cầu nội dung:

- Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: Tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

- Triển khai vấn đề:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Khoa Điềm và đoạn trích "Đất Nước".

- Giới thiệu vấn đề.

* Thân bài:

- Hoàn cảnh sáng tác: Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu
Trị Thiên năm 1971 giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra vô cùng ác liệt.

Đoạn trích "Đất Nước" được viết nhằm thức tỉnh tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam ý
thức về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình mà xuống đường đấu tranh hòa nhịp với
cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Vị trí, kết cấu đoạn trích, đoạn thơ:

+ Đoạn trích "Đất Nước" thuộc phần đầu chương V của trường ca, là một trong những đoạn thơ
hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.

+ Đoạn trích gồm 2 phần:

Phần 1: Tác giả khẳng định nguồn gốc lâu đời của đất nước.

Phần 2: Tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

+ Đoạn thơ trên nằm ở phần hai đoạn trích, khẳng định tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

- Phân tích đoạn trích:

+ Ba câu đầu: Thể hiện cái nhìn khái quát về chiều dài thời gian lịch sử của "Đất Nước". Câu mở
đầu "Em ơi em" là lời gọi tha thiết khiến những câu thơ chính luận mang đậm cảm xúc trữ tình.

Hai câu sau vừa là lời mời gọi, vừa là lời khẳng định lịch sử đầy vẻ vang của dân tộc: Cụm từ
"bốn nghìn năm" khẳng định đầy tự hào về truyền thống lịch sử hàng ngàn năm dựng nước, giữ
nước của dân tộc.

+ 15 câu tiếp: Nhân dân làm nên dòng chảy lịch sử cho "Đất Nước".

Các danh từ chung như "người người", "lớp lớp", "con gái", "con trai" để đem đến ấn tượng về
sự đông đảo vô cùng của nhân dân. Mỗi lớp người là một thế hệ, bốn nghìn lớp người cũng là
bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con gái, con trai. Tất cả đều trẻ trung nối tiếp nhau hết
thời này đến thời khác.

Cụm từ "năm tháng nào" kết hợp với phó từ "cũng" nhấn mạnh ở bất cứ thời điểm nào của lịch
sử đều có sự đóng góp của nhân dân.

Nhân dân "cần cù làm lụng" trong thời bình như khi đất nước có giặc họ sẵn sàng ra trận. Ở cuộc
chiến đấu đó, không chỉ có những người con trai anh dũng, mà còn có biết bao người phụ nữ anh
hùng, bất khuất vừa "nuôi cái cùng con", vừa "giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh".

Đặc biệt, tác giả còn nhấn mạnh sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ của nhân dân ở cách sống, cách
nghĩ "giản dị và bình tâm".

+ Bảy câu tiếp theo: Nhân dân làm nên giá trị văn hóa cho "Đất Nước".

Đại từ "họ" được điệp lại nhiều lần khẳng định sự đông đảo, sự đóng góp vô danh thầm lặng của
Nhân dân.

Cặp động từ "giữ… truyền" hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ nhấn mạnh sứ mệnh thiêng liêng
của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là gánh vác việc thế hệ
trước giao phó, duy trì phát triển rồi dặn dò, truyền lại cho con cháu tiếp nối.

Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được tiếp nối, tôn
tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ được thể hiện:

++ Họ giữ và truyền "hạt lúa", "ngọn lửa", thể hiện sự gieo mầm, nuôi dưỡng sự sống kết nối.
Đó là hành động bảo tồn, phát huy những kinh nghiệm canh tác của nền văn minh lúa nước.
Hành động "truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi" thể hiện lối sống nghĩa tình của
nhân dân.

++ "Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói" thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Ngôn ngữ là
thước đo của nền văn minh, ngôn ngữ tồn tại là vì nhân dân nhưng cũng vì nhân dân và cũng nhờ
nhân dân lưu giữ bản sắc, tiếng nói của dân tộc để đất nước được trường tồn bất diệt.

++ "Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân" gợi đến những cuộc chinh phục đất
đai, mở mang bờ cõi. Những người dân vô danh đã lấy tên mảnh đất quê hương xứ sở của mình
để đặt cho những miền đất mới. Vì thế, trên suốt chiều dài đất nước hình chữ S này có biết bao
tên làng, tên xã trùng nhau. Mỗi mảnh đất đều trở nên thiêng liêng gắn bó.

++ "Họ đắp đập be bờ để người đời sau trồng cây hái trái" khắc họa hình ảnh nhân dân vừa gieo
trồng vừa gặt hái để lại những giá trị vật chất và tinh thần cho đời sau.

. Nhân dân vô danh còn tạo nên truyền thống bất khuất anh hùng cho đất nước: "Có ngoại xâm
thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại".

Trong đoạn thơ, đại từ "họ" được điệp lại năm lần, được đặt ở đầu đoạn thơ thể hiện thái độ ngợi
ca, tôn trọng nhân dân. Nhà thơ còn sử dụng một hệ thống động từ "giữ, truyền, gánh, đắp, be"
làm nổi bật một hình tượng thật lực lưỡng. Quá trình hình thành văn hóa của đất nước giống như
một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân dân qua các thế hệ.

+ Hai câu cuối đoạn: Lời tổng kết cho tư tưởng "Đất Nước" của Nhân dân.

Những khái niệm "Đất Nước", Nhân Dân được viết hoa trang trọng, lặp lại nhiều lần cho thấy sự
gắn bó không thể tách rời của nhân dân và đất nước. Cụm danh từ "Đất Nước của Nhân Dân"
khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bởi Nhân dân chính là người dựng xây, gìn giữ,
kiến tạo và bảo vệ Đất Nước nên Đất Nước phải thuộc về Nhân dân.

Câu thơ "Đất Nước của ca dao thần thoại": Hình ảnh ca dao thần thoại là hình ảnh hoán dụ cho
văn hóa dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Nhân dân. Văn học dân
gian do nhân dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống của nhân dân, đến với văn học dân gian
cũng là đến với Nhân dân.

** Đánh giá

+ Đoạn thơ thể hiện đặc điểm tiêu biểu của trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa
Điềm: Chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự, ngôn ngữ, hình ảnh đẹp, giàu sức
liên tưởng.

+ Đoạn trích thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân. Những nhận thức mới về vai trò của
nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp đất nước ở góc độ lịch sử, văn hóa càng gợi lên lòng yêu
nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi con người.

* Kết bài

- Khẳng định nét riêng của Nguyễn Khoa Điềm khi viết về "Đất Nước".

- Đoạn thơ khẳng định chính Nhân dân làm nên những giá trị lâu bền cho "Đất Nước".

ĐỀ 4: Bàn về đoạn trích Đất Nước, có ý kiến cho rằng: Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng thể hiện
hình ảnh Đất nước gần gũi, giản dị. Đó là cách để đi vào lòng người, cũng là cách nhà thơ đi
cong đường riêng của mình không lặp lại người khác. Phân tích 9 câu thơ đầu đoạn trích để làm
sáng tỏ.
BÀI LÀM:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con
người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân
ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt
gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ
Nguyễn Đình Thi, đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng cầm. Nhưng trong Đất
Nước trích Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn
toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Hành trình của
chương V là hành trình đi làm rõ ngọn ngành về hai tiếng “Đất
nước” thiêng liêng. Đặc biệt trong 9 câu thơ đầu, nhà thơ đã lý giải về cội nguồn của hai tiếng
thiêng liêng ấy.
Trong số các nhà thơ trẻ của nền thơ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt tiêu biểu.
Với Đất ngoại ô (1972) và Mặt đường khát vọng (1974), Nguyễn Khoa Điềm là một trong những
gương mặt tiêu biểu của văn học chống Mỹ nói riêng và thơ ca dân tộc nói chung. Có nhà nghiên
cứu đã gọi Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ của phong vị dân gian, là bởi thơ ca Nguyễn Khoa
Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hoá dân gian. Câu thơ dù ở thể thơ truyền thống
hay thơ tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm
thấm đẫm chất triết luận xuất phát từ vốn tri thức uyên bác và bề sâu văn hoá trong mối liên
tưởng vừa sắc sảo triết lý lại vừa huyền ảo thấp thoáng bóng dáng văn hoá cổ xưa của hồn dân
tộc. Đất Nước được trích từ phần đầu chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm - bản trường ca được sáng tác tại chiến khu Trị - Thiên năm 1971 và gửi ra
Bắc in lần đầu năm 1974.
Đề tài Đất nước không phải là xa lạ, mới mẻ trong văn chương. Nhưng với Nguyễn Khoa
Điềm, ông không nhìn Đất nước như một hình tượng trừu tượng mà giản dị, gần gũi, thân quen
vô cùng. Như vậy, với nhà thơ, Đất nước là một phần cuộc sống, là mọi thứ quanh ta, ta có thể
cầm, nắm, cảm nhận rõ ràng, cụ thể. Đất nước đó là hai tiếng đầy giản dị, chứ không hề xa lạ,
ngưỡng vọng.
Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ khi chiến trường miền Nam sôi sục, máu lửa. Nguyễn Khoa
Điềm đã mở đầu không phải bằng triều đại, con số, mà vô cùng giản dị, dễ hiểu, tác giả đã hình
dung về một Đất nước như thế này:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Đất nước luôn có trước mỗi người. “Ta” là con dân đất Việt, mang trong mình máu đỏ, da
vàng, là anh, là em, là quá khứ, hiện tại, tương lai, là tất cả chúng ta. Khi ta sinh ra, Đất nước đã
có rồi. Đã có sẵn để chở che con dân đất Việt. Đất nước là không gian tồn tại của bao thế hệ, là
không gian sinh tồn, nuôi lớn ta để rồi từ ấu nhi đến khi thành cát bụi, lớp lớp bao thế hệ tổ tiên,
con cháu. Đất nước thật giản dị, luôn hiện hữu, và mang cho ta cảm giác được yên bình, được an
toàn. Cách nói “Đất Nước đã có rồi”: là cách nói phỏng đoán, nhưng diễn đạt một điều chân lý:
Đất nước có trước tất cả mỗi chúng ta. Đất nước có từ rất lâu đời.
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Đất nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể”, “ngày xửa ngày xưa”
cụm từ ấy gợi cho con trẻ bao niềm thích thú, bao háo hức, và cũng bao quen thuộc, bởi nó dẫn
lối vào những câu chuyện rất xa xưa, rất xa với thời điểm hiện tại, đã lâu lắm rồi, nơi đó có thế
giới của cổ tích, của những buổi khai thiên lập địa. Cho nên, câu thơ cất lên, thân thuộc mà gợi
cả chiều dài lịch sử của Đất nước.
Trong mạch cảm xúc, nhà thơ đã tiếp tục lý giải về quá trình hình thành của Đất nước. Với
giọng thủ thỉ, tâm tình nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng, thiêng liêng.
“Đất nước bắt đầu với miếng trâu bây giờ bà ăn”
Hình ảnh “miếng trầu” nhỏ bé, bình dị, thậm chí chẳng gì là sang, vậy nhưng sự vật nhỏ bé
đó mang chở truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc, chở trong mình nó lịch sử ngàn năm, Đất
nước cũng xuất phát từ những điều bé nhỏ, bình dị mà sâu sắc, bắt đầu từ văn hoá phong tục đó.
Như vậy, Nguyễn Khoa Điềm đã có những cái nhìn rất sâu sắc về sự hình thành của Đất nước,
không phải bằng những triều đại, những con số cụ thể, mà bằng cách gọi tên, gợi ra những điều
gắn bó quen thuộc. Đất nước có từ rất xưa, từ buổi hồng hoang của lịch sử, trở thành không gian
sinh tồn của con ngưòi. Như vậy, để có Đất nước, yếu tố đầu tiên là không gian địa lý. Nhưng
Đất nước chỉ được gọi là Đất nước khi nó bắt đầu có văn hoá, phong tục. Hình ảnh Đất nước bắt
đầu bằng miếng trầu chính là cách nói giản dị mà sâu sắc đó.
Quá trình lớn lên của Đất Nước được diễn đạt trong ý thơ:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Cụm từ “biết trồng tre mà đánh giặc” gợi cho người đọc nhớ tới truyền thuyết Thánh Gióng.
Cậu bé vươn vai trở thành tráng sĩ, nhổ tre đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Từ đây ta có thế hiểu ý thơ
của Nguyễn Khoa Điềm ở chữ “lớn lên” nhà thơ muốn nói đến sự vươn mình của dân tộc. Đánh
dấu sức mạnh quật khởi của “Đất Nước lớn lên”. Như vậy, Đất nước lớn lên qua đấu tranh, qua
xây dựng, gìn giữ. Lớn lên ở đây vừa nói quy mô, vừa nói về văn hoá, truyền thống, bản sắc...
Đất nước cũng là một sinh thể sống động, có đời sống, có tâm hồn. Và trên cơ thể ấy, từng lớp
lớp người hình thành nên những phong tục, hình thành nên văn hoá qua suốt mấy ngàn năm, làm
nên hồn cốt của dân tộc.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Ý thơ gợi lên hình ảnh dung dị mà đẹp đẽ của người phụ nữ, hình ảnh ấy cho thấy một thói
quen, gợi lên cả một nền văn minh lúa nước, khi những người nông dân lao động: “Bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời”.
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Gừng cay muối mặn” đó là những gia vị đậm đà, qua thời gian, gừng càng thêm cay, muối
càng thêm mặn. Đó là tình nghĩa, là ân tình thủy chung trong đời sống tình cảm, đặc biệt là tình
cảm vợ chồng. Vợ chồng gắn bó với nhau không chỉ có tình, còn là ân nghĩa, cho nên, trải qua
thời gian, càng thêm gắn bó. Thương nhau bằng gừng cay muối mặn, đó là thuần phong mỹ tục,
là truyền thống tốt đẹp của ông cha bao đời.
“Cái kèo, cái cột thành tên”
Ở đây nhà thơ đã lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ của dân tộc để nói về nguồn gốc
lâu đời của đất nước. Ý thơ cho ta hiểu, những thân cây, khúc gỗ vô tri trên rừng, bỗng có tên,
hoá tuổi, khi chúng gắn bó với đời sống con người. Nhưng cách hiểu thứ hai, với đời sống xưa,
ông cha thường đặt tên cho con cháu bằng những sự vật xung quanh. Và tiếng Việt đã phong
phú, giàu có, và mang linh hồn Việt từ những điều như thế.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Nhân dân ta đã sáng tạo ra nền văn minh lúa nước, nhưng nhọc công thay, hạt gạo được tạo ra
từ biết bao công đoạn: xay, giã, giần, sàng. Cho nên, ý thơ gợi cho ta bài ca dao: “Ai ơi bưng bát
cơm đầy/ Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Và từ tất cả những điều trên, Nguyễn Khoa Điềm đã tong kết: “Đất Nước có từ ngày đó”.
Cụm từ “ngày đó”, đã khái quát lại toàn bộ ý thơ của chín câu thơ đầu. Ngày đó, Đất nước đã
sinh thành qua không gian, đã hình thành văn hoá phong tục qua thời gian. Ngày xa xưa ấy, Đất
nước đã có, để cho ta bây giờ được sinh ra, lớn lên, được bao bọc và nuôi dưỡng từ thể chất đến
tinh thần trong vòng tay Đất nước.
Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết
bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Nhưng qua cảm
nhận của các nhà thơ, đất nước là một hình tượng thiêng liêng và cao quý, đẹp đẽ vô cùng, đó là
đất nước được nhìn qua các triều đại, bằng những vị anh hùng, một đất nước linh thiêng, trừu
tượng. Chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm, mới chú trọng đi tìm nguồn cội của Đất nước, tức là thời
điểm ra đời của Đất nước. Nhưng cách ông nói về nguồn cội ấy cũng hết sức độc đáo: “Khi ta
lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Và sau một loạt những diễn

giải, ta không bắt gặp một con số hay triều đại cụ thể nào như ta vẫn quen hình dung về Đất
nước, mà Nguyễn Khoa Điềm cho ta cảm nhận mới mẻ: Đất nước được sinh thành, lớn lên trong
đời sống nhân dân, Đất nước có khi hình thành phong tục, Đất nước phát triển cùng với ngôn
ngữ, với văn hoá... Để làm nên Đất nước vẹn toàn như hôm nay.
Qua chín câu thơ đầu của chương V, Đất Nước đã khơi lên khúc ca thật thân thuộc và
gần gũi, sâu xa và thấm thìa, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao
la. c
Nguyễn Khoa Điềm đã biến đất nước vô hình trở thành hữu hình, đất nước tưởng xa mà hoá
gần, tưởng mênh mông mà trở nên ấm áp, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm nói về Đất nước có từ
“ngày xửa, ngày xưa” mà ta thấy bao thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa Đất nước từ trời
cao thượng đế, từ ngai vàng chúa xuống miếng trầu của bà ăn, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng
hai sương gây xúc động sâu sắc cho bạn độc, dù là hôm nay hay cả mai sau!

SÓNG ( Xuân Quỳnh)


ĐỀ 1 : Phân tích nét đẹp truyền thống và hiện đại của hình tượng Em trong đoạn thơ dưới đây:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Sóng - Xuân Quỳnh)
BÀI LÀM:
Xuân Quỳnh là bà hoàng thơ tình trong lòng độc giả thi ca Việt. Xuân Quỳnh luôn đem đến
cho độc giả những cái nhìn sâu sắc về tình yêu, nhà thơ thổn thức những lời thơ chân thành, có
chút hồn nhiên, da diết của một trái tim khao khát yêu đương. Bài thơ Sóng không chỉ thành
công trong cách truyền đạt ngôn ngữ mà còn ở việc nhà thơ tạo nên nhịp điệu riêng để thơ đi vào
lòng người đọc một cách thú vị. Một người phụ nữ luôn da diết yêu và được yêu được nhà thơ
mượn hình tượng sóng cùng nhịp điệu của sóng để nói về tiếng lòng mình:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ hiện đại hiếm hoi xuất hiện nổi bật trên thi đàn văn
học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Xuân Quỳnh được xem là nữ thi sĩ nối tiếng với nhiều bài
thơ tình được nhiều người biết đến như Thuyền và Biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà
trưa... Thơ chị luôn ăm ắp những cảm xúc, những cung bậc tình cảm, nhiều lo âu và luôn da diết
cho những khát vọng đời thường như chính tính cách con người chị vậy. Và Sóng, có lẽ cũng
được viết ra trong những ăm ắp của cung bậc cảm xúc như thế. Thi phNm được sáng tác tại cửa
biển Diêm Điềm, khi nhà thơ đã từng trải qua những đau đớn, đố vỡ trong tình yêu. Bài thơ là
một trong những thi phấm tiêu biếu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nữ sĩ, được in trong tập
thơ Hoa dọc chiến hào.
Ngay lời thơ mở đầu, là một sự phát hiện, khám phá về bản chất, trạng thái của sóng, về sự
muôn dạng của sóng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Với phép liệt kê, tương phản, có thể thấy, những đặc điểm tưởng như đối lập lại thống nhất
với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thế là sóng. Sóng phức tạp, đa dạng về hình thức, khó
hiểu về bản chất. Sự phức tạp của sóng cũng chính là đặc tính đa dạng khó giải thích của người
con gái khi yêu. Người con gái trong tình yêu cũng luôn chứa đựng nhiều những đối cực, những
mâu thuẫn và khó đoán. Có khi yêu mãnh liệt, rào rạt, khi lại sâu lắng, diết da; lúc sôi nổi cuồng
nhiệt, khi lại dửng dưng, lạnh lùng...
Sông và bể là không gian của sóng. Nếu sông chật hẹp, sông đem đến sự tù túng, bó buộc vào
những giới hạn của khoảng cách, bù lại sông an toàn và yên bình; thì bể lại là không gian mênh
mông, cao rộng, bể đại diện cho cái tự do, nhưng ở bể luôn đầy bão tố, luôn chứa đựng cái hiểm
nguy khó lường. Vậy sự lựa chọn của sóng là gì? Sóng bỏ sông ra bể. Bỏ nơi chật hẹp, kìm kẹp
những bản tính của sóng để tìm đến nơi sóng được vẫy vùng, được “dữ dội”, được “ồn ào”. Ở
sông tuy an toàn, nhưng sóng chẳng thể khám phá hết mình, chẳng thể hiểu nổi mình. Sóng chỉ
như dòng chảy lặng lẽ “dịu êm”, “lặng lẽ”. Cho nên, sóng quyết từ bỏ nơi an toàn, chấp nhận
thử thách gian lao, chấp nhận những bão tố ngoài bể, để tìm được bản ngã.
Hành trình của sóng tìm đến bể là hành trình từ bỏ cái chật hẹp để đến với cái lớn lao, cao
rộng. Trái tim người con gái đang yêu cũng như sóng, không chấp nhận sự tầm thường nhỏ hẹp,
luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình. Cụm từ “ra tận” cho ta thấy
quyết tâm mạnh mẽ của sóng, dù vượt trùng dương xa xôi, sóng vẫn quyết không bỏ cuộc, quyết
tìm đến đích của cuộc hành trình. Và đó cũng là quyết tâm và sự mạnh mẽ của em, sự chủ động
của em trong tình yêu, chủ động làm kiếm tìm và làm chủ số phận cuộc đời mình.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Khổ 2 mở đầu bằng thán từ “ôi”, vừa như thể hiện sự xúc động, vừa thể hiện những phát hiện
của thi sĩ về sóng qua lăng kính thời gian. Qua chiều dài của dòng chảy thời gian bất tận, từ quá
khứ ngàn xưa, buổi khai thiên lập địa, cho đến tận bây giờ hay là ngàn năm sau nữa, con sóng
vẫn thế. Nghệ thuật đối lập “ngày xưa” – “ngày sau” đã khẳng định sự trường tồn của con sóng.
Dù thời gian có nghiệt ngã, có làm hoán đối, xoay vần rất nhiều điều, thì “con sóng vẫn thế”.
Lời thơ như khẳng định vào sự vĩnh hằng của bản tính sóng: lúc ồn ào, khi lặng lẽ, nhưng chẳng
bao giờ đứng yên. Sự trường tồn muôn đời của sóng, bản tính sóng, một thực thể tự nhiên, cũng
là sự trường tồn muôn đời của tình yêu, của bản tính của người phụ nữ khi yêu. Dù là ngày xưa
(quá khứ), ngày sau (tương lai) thì con người vẫn luôn khát vọng tình yêu. Soi chiếu bằng điểm
nhìn thời gian, Xuân Quỳnh đã nói lên quy luật của cảm xúc mà nhân loại ai cũng sẽ trải, ai cũng
luôn khao khát.
Có lần, thi sĩ Xuân Diệu cũng từng viết: “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ,
không thương một kẻ nào”. Khi còn con người tồn tại trên cõi trần, khi đó tình yêu vẫn còn được
nhắc đến, còn được ngợi ca. Ý thơ: “Nổi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ ” khiến ta
cảm nhận được sức mạnh, sự mãnh liệt tình yêu mang đến cho trái tim mỗi người, dù là thanh
xuân hay tóc bạc, tình yêu vẫn khiến trái tim thật trẻ trung và thổn thức, bởi tình yêu đâu phân
biệt lứa tuổi.
Thông qua khổ 1 và 2, Xuân Quỳnh đồng thời cũng gửi gắm vào đó những quan niệm về tình
yêu mang cả nét truyền thống và hiện đại. Vẻ đẹp hiện đại đó là cuộc hành trình kỳ công đi tìm
tình yêu đích thực. Người con gái không còn cam chịu, chấp nhận mà đầy chủ động đi tìm tình
yêu của cuộc đời mình, luôn mãnh liệt chủ động, sống hết mình, vượt qua tất cả để có được tình
yêu cho mình, vẻ đẹp truyền thống được biếu hiện ở những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống
nhất trong trái tim người con gái đang yêu. Trong tình yêu, tâm hồn người phụ nữ không hề bình
lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm,
lúc hờn ghen, điều đó làm nên sức hấp dẫn, sự quyến
rũ đầy nữ tính của người phụ nữ.
“Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm sung sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh.”
(Chỉ có sóng và em – Xuân Quỳnh)
Bằng hình tượng sóng đầy đặc sắc, Xuân Quỳnh đã mang đến hơi thở đầy mới mẻ cho thơ
tình Việt Nam, tình cảm nhẹ nhàng đầy nữ tính trong sóng cũng như bông hoa dọc chiến hào có
thể làm dịu đi cái khốc liệt của chiến tranh, làm đắm say độc giả bao thế hệ.

ĐỀ 2: Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét
về nét truyền thống và hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể


Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau .
(Trích “Sóng”, Xuân Quỳnh, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
BÀI LÀM:
Có những tác phNm văn chương đi vào tiết học một cách khiên cưỡng, gò ép bởi trò chưa
sẵn sàng để tiếp nhận hoặc chưa thể hiểu thấu hết những giá trị lớn lao mà nó mang lại. Tuy
nhiên, mỗi tiết học bài “Sóng” của nữ thi sĩ Xuân Quỳnh lại luôn được các cô cậu hoc trò lớp 12
đón nhận đầy hào hứng. Đó không phải chỉ bởi chủ đề tình yêu là chủ đề gần gũi, hấp dẫn mà
còn bởi từng dòng thơ của Xuân Quỳnh đã chạm tới tâm hồn nhạy cảm của nhiều bạn trẻ đang
chập chững bước vào yêu. Thơ Xuân Quỳnh không cầu kì, trau chuốt như những vần thơ của Ta
– gor, cũng không mạnh bạo, cuồng si như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Đọc bài thơ “Sóng”
của chị ta bắt gặp một cảm xúc tình yêu vừa đằm thắm dịu dàng mà vừa nồng nàn, mãnh liệt của
tâm hồn người phụ nữ trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Điều đó thể hiện rõ nét ngay qua
những khổ đầu của bài thơ:
Dữ dội và dịu êm

Khi nào ta yêu nhau

Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam go ác liệt. Trong hoàn
cảnh ấy, nhiều nhà thơ, nhà văn đi tìm kiếm và phản ánh hiện thực lịch sử gắn liền với cuộc đấu
tranh vĩ đại của dân tộc, tôn vinh cái đẹp tập thể mang chất hào hùng, rất ít các nhà thơ, nhà văn
tự bứt ra khỏi không khí chung để tìm vào cái riêng tư, sâu kín của những khát vọng rất đỗi đời
thường trong tâm hồn con người. Xuân Quỳnh đã chọn cho mình lối đi riêng khác với các nhà
thơ cùng thời. Bởi chiến tranh dù có khốc liệt đến đâu cũng không thể khiến con người thôi mơ
ước, thôi khát vọng, nhất là đối với một nữ thi sĩ có tâm hồn bay bổng lãng mạn và giàu lòng
trắc Nn như Xuân Quỳnh.
Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”, một hình tượng tưởng như đã quá quen thuộc
trong thơ ca viết về tình yêu. Nhưng “sóng” trong thơ của nữ thi sĩ lại mang một diện mạo mới
độc đáo, đầy sáng tạo. Không chỉ là biểu tượng cho tâm hồn người con gái đang yêu đầy rạo rực,
đam mê mà sóng còn là sự hóa thân, sự phân thân của cái tôi trữ tình “em. Với hình tượng
“sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng
cho bài thơ.
Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã nêu lên đặc điểm của những con sóng:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”.
Mở ra trước mắt người đọc là một không gian mênh mông của sóng nước, mà nhân vật
trung tâm là những con sóng khi “ồn ào”, “dữ dội”, lúc lại “dịu êm”, “lặng lẽ”. Hai cặp tính từ
chỉ trạng thái đối nghịch được sử dụng đăng đối, song đôi trong quan hệ đồng thời “và” càng
khắc sâu cái phức tạp, khó nắm bắt khó lí giải trong hình tượng sóng. Những trạng thái phức tạp
ấy của sóng quả thực rất đồng điệu với tâm hồn người con gái đang yêu. Người ta thường ví rằng
tình yêu là một bông hoa kì diệu! hay tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản nhạc tình,
có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương. Ở
đây, cảm xúc trong tình yêu của nhân vật trữ tình cũng biến thiên phức tạp và khó hiểu như
những con sóng ngoài biển khơi: khi sôi nổi,ồn ào, lúc lại lặng thầm sâu lắng.
Vì trong sóng luôn tồn tại những xúc cảm đối nghịch đầy phức tạp nên vấn đề mà sóng
gặp phải là “không hiểu nổi mình”. Cũng chính bởi sự băn khoăn, trăn trở “đi tìm lẽ yêu đời” ấy
mà sóng quyết định thực hiện một cuộc hành trình gian khó từ sông ra biển. Phải chăng, sóng
nghĩ rằng nơi biển rộng mênh mông, nơi trời nước bao la ấy sẽ giúp cho sóng có thể hiểu được
mình.
Hình ảnh Nn dụ “ Sóng” được nhân cách hóa trở thành một sinh thể tràn đầy khát khao, mơ
ước. Con sóng hay chính nỗi lòng người con gái say đắm trong tình yêu đang cố gắng vượt thoát
khỏi cái tù túng, chật chôi của lòng sông để tìm đến với biển cả bao la, cao thượng. Câu thơ có
cấu trúc phủ định “Sông không hiểu nổi mình”, kết hợp với phó từ “tận” trong “tìm ra tận bể”
góp phần nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng và đầy táo bạo trên hành trình khám phá
bản thân, khám phá những điều đẹp đẽ trong tình yêu, trong cuộc đời.
Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể làm nên đời sóng,
sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Tất cả các khía
cạnh tương phản dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ tạo nên một cái nhìn bao quát về sóng. Mạch
sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao. Hành
trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đỉnh của chính
mình.

Tuy tâm trạng luôn biến động nhưng con sóng cũng như tấm lòng người con gái khi yêu
vẫn luôn như thế, không biến đổi, nó càng mãnh liệt hơn:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Thoát khỏi cái không gian chật hẹp tù túng của dòng sông, đối diện với biển lớn, sóng chiêm
nghiệm về một tình yêu vĩnh cửu, muôn đời. Vẫn trong mạch đối sánh tương đồng giữa sóng và
tình yêu, thi sĩ khẳng định một chân lí muôn đời bằng một cảm xúc đắm say, sôi nổi “Ôi con
sóng ngày xưa/ Và ngày sau vẫn thế”. Con sóng dù của ngày xưa, hay ngày sau, quá khứ hay
hiện tại thì vẫn luôn ào ạt vỗ vào bờ và mãi rì rào hát khúc tình ca của biển cũng như tình yêu
con người - dù trải qua nhiều thế hệ, dù thời gian có làm phai màu tóc, thì trái tim yêu đương vẫn
đập rộn ràng một nhịp đập tình yêu nồng nàn, tha thiết.
Xuân Diệu đã từng nói: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo, hãy để tuổi trẻ nói hộ tình
yêu" Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ. Tuổi trẻ là trái tim dào dạt, đa cảm và rạo rực niềm yêu
thương cuộc sống. Chính vì thế mà cái “khát vọng tình yêu” cứ “bồi hồi trong ngực trẻ”, nó cứ
thôi thúc tuổi trẻ đi tìm chân lí yêu đương, cũng như con sóng "ngày xưa và ngày sau vẫn thế'' –
mãi đắm say và mãnh liệt bất kể thời gian, bất kể thời đại.
Nhà phê bình văn học người Nga V. Biêlinxki đã từng nói “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau
đó mới là nghệ thuật”. Quả đúng như vậy, những vần thơ rạo rực tình yêu ấy xuất phát từ một
trái tim đa cảm, luôn sống hết mình và yêu hết mình của Xuân Quỳnh. Dù đã từng trải qua đổ vỡ
trong tình yêu, nhưng nữ thi sĩ luôn tin tưởng đến một ngày, từ dòng sông nhỏ bé, sóng sẽ tìm ra
được biển cả mênh mông; hạnh phúc tròn đầy, trọn vẹn sẽ đến với những con người luôn khao
khát nó.
Cũng có nhà phê bình từng nhận xét: "Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại ở
mức độ yêu buổi đNu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hạnh phúc, tình yêu
gắn bó với cuộc sống chung với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm,với nhiều chứng minh của
thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm". Chính vì thế nên tình yêu của người "Em" ở đây có
thể nói không còn bồng bột mà khá chín chắn, có sự can thiệp của lí trí, có ý thức về mặt tình
cảm. Yêu thương cháy bỏng, nồng say là thế nhưng cũng đầy suy tư, trăn trở:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Em đã đến đích của hành trình từ sông ra bể, nhưng trong tâm thế của một người con gái
đã qua tuổi bồng bột dại khờ, em không vồ vập, không hối hả trước những điều thú vị của biển
khơi mà lại lắng lòng chiêm nghiệm về “anh, em” về tình yêu của chúng mình. Cấu trúc điệp
“em nghĩ về” càng nhấn mạnh sự suy tư, dè dặt khi bước vào cánh cửa hạnh phúc của người con
gái ấy.
Sự băn khoăn là điều dễ hiểu, bởi trong tình yêu, người con gái luôn có khao khát được
hiểu đến tận cùng tình yêu, muốn chiếm trọn trái tim của người mình yêu: “ Đôi mắt băn khoăn
của em buồn / Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm tưởng anh/Như trăng kia muốn vào sâu biển
cả” (R.Đ. Tago). Mong ước chính đáng đó luôn thôi thúc người phụ nữ đi tìm câu trả lời cho
những câu hỏi đặt ra: “Từ nơi nào sóng lên?” “Từ nơi nào tình yêu bắt đầu?”
Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng, thật khó mà trả lời cho
chính xác. Song vẫn có thể nói: “Sóng bắt đầu từ gió”.
Một câu hỏi được giải đáp thì lập tức câu hỏi khác theo mạch mà hình thành:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau ! »
Sẽ không bao giờ thỏa nguyện được khát vọng tìm hiểu tận cùng tình yêu của người con gái
ngay cả khi người đó là người đàn ông chân thành nhất. Xuân Diệu cũng từng lắc đầu “Làm sao
cắt nghĩa được tình yêu/ có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng
mây nhè nhẹ gió hiu hiu”. Quả đúng như vậy, tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ, cũng
giống như sóng biển và gió trời, nó đến và đi tự nhiên, bí Nn không tuân theo lí trí của con người.
Soi vào “sóng”, người phụ nữ nghĩ về tình yêu của mình và đi tìm lời đáp cho sự khởi
nguồn đẹp đẽ ấy, nhưng câu trả lời chỉ là cái lắc đầu nhẹ nhàng, ý vị: “Em cũng không biết nữa/
Khi nào ta yêu nhau”. Nhịp thơ thay đổi linh hoạt, khi thì 3/2, lúc lại là 2/3 như diễn tả sự khúc
mắc, bất an, bất ổn trong lòng người con gái đang yêu. Càng khao khát được khám phá thì dường
như càng rơi vào bế tắc. Một câu hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào,
nũng nịu vẫn được đặt ra sau một câu trả lời « em cũng không biết nữa ». Dường như người con
gái cá tính ấy vẫn chưa chịu dừng lại trong những suy tư trăn trở dù đã lắc đầu bất lực.
Ta thấy ở thơ Xuân Quỳnh một vẻ đẹp vừa mang nét truyền thống vừa mang nét hiện đại.
Đó là vẻ đẹp của sự khỏe khoắn trong tâm hồn, là cái khát khao mãnh liệt trong những ước muốn
được khám phá đến tận cùng tình yêu, muốn đi đến tận cùng cái cao cả, mênh mông hòa quyện
tinh tế với vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm đầy nữ tính trong những suy tư sâu lắng, những ngọt ngào
đắm say quyến rũ. Đối với chị « Thơ là cái thật, cái đẹp của tâm hồn được chắt lọc, gọt giũa
bằng nghệ thuật ngôn từ ». Bằng tài hoa và lăng kính nghệ thuật Xuân Quỳnh đã « biến ngôn
ngữ đời sống thành ngôn ngữ văn học ». Bởi thế mà đọc giả đọc thơ chị như bát gặp tâm hồn
mình được soi chiếu, chân thực và sâu sắc vô cùng.
Đại văn hào Lamáctin từng nói“Thơ ca là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của
con tim, thiêng liêng nhất của tâm hồn con người”. Quả đúng như vậy. Có thể nói, qua những
dòng thơ năm chữ đều đặn, nhịp nhàng, sự sáng tạo trong xây dựng hình tượng, hình ảnh sóng
đôi, sự khéo léo trong việc vận dụng các thủ pháp nghệ thuật Nn dụ, nhân hóa, ta luôn thấy lấp
lánh vẻ đẹp tâm hồn nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, người phụ nữ vừa đằm thắm thiết tha vừa mãnh liệt
cháy bỏng trong khát vọng tình yêu trong sáng. Thơ Xuân Quỳnh vẫn khiến ta cảm nhận thấy
nét dịu dàng truyền thống trong cái mạnh mẽ, táo bạo vừa đủ để khơi dậy những xúc cảm thNm
mĩ đẹp đẽ, những ước vọng đầy thi vị trong lòng độc giả nhiều thế hệ!

ĐỀ 3: Cho đoạn thơ sau:


“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con song nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Hướng về anh một phương”
(Trích: Sóng – Xuân Quỳnh)
Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét
truyền thống và hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh.
BÀI LÀM:
Bạn hãy thử tưởng tượng nếu không có tình yêu thì thế giới này sẽ ra sao? Hẳn sẽ chỉ như
một hoang mạc khô cằn, không hoa thơm quả ngọt, không hương sắc mặn nồng. Nó thật tẻ nhạt
biết bao! Tình yêu đã khiến thế giới trở nên lung linh đẹp đẽ hơn, cũng như nó biến tâm hồn ta
trở thành một thế giới diệu kì đầy bí Nn mà đôi khi, chính bản thân ta cũng không ngờ tới. Tình
yêu cũng làm ngân lên trong tâm hồn con người những xúc cảm mãnh liệt và đầy thi vị làm tan
chảy trái tim của hết thảy con người trong vũ trụ. Nó trở thành nguồn cảm hứng bất tận và
không lặp lại trong tâm hồn những thi nhân. Ta bắt gặp một tình yêu đầy triết lý trong thơ Tago,
một tình yêu chân thành mà mãnh liệt trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực đến vội vàng
cuống quýt trong thơ Xuân Diệu. Và đến với bài thơ “Sóng” ta nhận ra một Xuân Quỳnh vừa
đằm thắm dịu dàng đầy nữ tính mà cũng vừa nồng nàn, mãnh liệt giữa biển tình yêu mênh
mông, cao cả. Đọc những dòng thơ tình yêu của chị mà lòng độc giả xốn xang vô cùng:
“Con sóng dưới lòng sâu

Hướng về anh một phương”
Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam go ác liệt. Bài thơ như
một bông hoa dịu dàng mà kiêu hãnh khoe sắc tỏa hương dọc chiến hào hành quân gian khổ.
Được xem là một trong những người viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau Cách
mạng, “với giọng điệu hết sức thơ, hết sức tự nhiên, Xuân Quỳnh đã bộc lộ những xúc cảm tình
yêu nhiều cung bậc trong sự đối sánh với cung bậc tình yêu của sóng với biển khơi vô tận – một
hình tượng vừa gợi sự quen thuộc vừa giàu liên tưởng. Hòa trong mạch cảm xúc sôi nổi, đắm
say của “sóng” và “em” ở những khổ thơ đầu, Xuân Quỳnh đã diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu
bằng một khổ thơ dài sáu dòng thật độc đáo:
“Con sóng dưới lòng sâu

Cả trong mơ còn thức”
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong bài thơ không chỉ ở độ dài mà ở
đó hình tượng sóng và em hiện lên trong quan hệ đối sánh hài hòa, soi chiếu. Dù cho thi sĩ không
sử dụng bất kì một từ so sánh nào suốt bài thơ nhưng người đọc dễ dàng nhận ra sóng chính là
biểu tượng cho những cảm xúc mãnh liệt của người con gái khi yêu. Nếu sóng của thiên nhiên
luôn ào ạt vỗ bờ không ngơi không nghỉ, thì em cũng tha thiết yêu anh mãnh liệt như tình yêu
của sóng với bờ vậy. “Sóng” được diễn tả rất tự nhiên và đầy bất ngờ khơi gợi những liên tưởng
thật thú vị cho độc giả. Sóng và “em” có khi tách biệt để chiêm nghiệm, để soi chiếu vào nhau,
có lúc lại quyện hòa trong một chỉnh thể thống nhất: sóng là em mà em cũng là sóng.
Câu thơ mở ra không gian hai chiều “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước”, đó là không gian
vẫy vùng của sóng cũng chính là không gian mênh mông hun hút của nỗi nhớ, của tình yêu. Điệp
từ “con sóng” được nhắc lại hai lần ở đầu mỗi câu thơ như nhấn mạnh chủ thể của nỗi nhớ, đồng
thời diễn tả sự dày vò trong tâm can của sóng, dù ở đâu, bất cứ nơi nào thì con sóng cũng luôn
cồn cào da diết một nỗi nhớ bờ:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Dường như khát vọng được bộc lộ xúc cảm nhớ nhung đã bật lên thành lời giãi bày gan
ruột “ Ôi con sóng nhớ bờ”. Thẳng thắn và chân thành. Sóng bộc lộ nỗi lòng nhớ nhung khắc
khoải với bờ, Nỗi nhớ không chỉ vượt qua không gian mênh mông, bất tận của biển cả mà còn
trải dài qua thời gian miên man, thay đổi nhịp sinh học của sóng “ngày đêm không ngủ được”.
Những tưởng mạch thơ bị hẫng hụt thiếu lôgic mà trái lại, hai câu thơ tiếp theo đã tạo liên
tưởng bất ngờ, thú vị cho người yêu thơ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Một lời bộc bạch tâm tình vừa chân thành vừa táo bạo đã thể hiện hết cái cốt cách rất riêng của
Xuân Quỳnh. Chị không chấp nhận cái gì là hời hợt nửa vời, đã yêu thương phải tìm đến cái tận
cùng của cao cả, phải như con sóng cuộn xoáy đến tận đáy vực biển sâu. Người con gái đang yêu
ấy không e ngại khi bộc lộ xúc cảm mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim mình, trong tấm lòng
mình mà hãnh diện phô khoe đầy chân thành và tha thiết: “Lòng em nhớ đến anh”. Đó là thứ tình
cảm thiêng liêng xuất phát từ nơi sâu kín nhất trong tâm hồn mà người phụ nữ luôn có nhu cầu
được bộc lộ, được sẻ chia và thấu hiểu. Như nhà phê bình văn học Võ Văn Trực từng nhận xét:
“Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật, rất thành thật, thành
thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị không quanh co không giấu diếm một
điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần
qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”. Quả thực, thơ
chị nồng đậm hơi thở cuộc đời!
Yêu thương mãnh liệt thì nỗi nhớ sẽ cồn cào da diết. Nỗi nhớ trong lòng thi sĩ cũng như
con sóng dàn trải miên man, vượt qua không gian, thời gian và xâm lấn cả vào tiềm thức của trái
tim đang yêu “cả trong mơ còn thức”.
Câu thơ với những từ ngữ đối lập “mơ-thức” tưởng như phi lí mà thực sự có lí khi nói về
nỗi nhớ trong tình yêu. Khoảng cách về không gian địa lí chỉ khiến tình yêu thêm nồng nàn, bởi
hình ảnh người mình yêu luôn hiện hữu trong tâm trí, nó choáng ngợp và chi phối cả lí trí của
con người “Nhớ ai ra ngNn vào ngơ – Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” (ca dao).
Không dừng lại ở sự nhớ nhung khắc khoải, tình yêu còn đẹp đẽ bởi tấm lòng thủy chung
son sắt: Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam


Đọc những vần thơ của Xuân Quỳnh, ta như luôn thấy cái suy nghĩ của một người phụ nữ
truyền thống, “rất đồng nội, quê kiểng, nó gắn với sự duy nhất, sự chung tình, với tổ ấm, với mái
nhà, với hạnh phúc của hôn nhân, nó đòi tuyệt đối, nó dứt khoát không chấp nhận mọi ngập
ngừng trù trừ, láu cá, nó không chịu bị xẻ chia, bị vay mượn, dẫu là tạm thời, là thường tình, nó
xoè tất cả lông cánh, móng vuốt ra để giữ gìn tình yêu trước mọi sự xâm phạm tự phía ngoài.
(Lại Nguyên Ân). Bởi thế mà ý thơ, nhịp thơ mang sự quả quyết, dứt khoát như một lời thề
nguyện “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” trong mối tình Kim – Kiều năm xưa. Qua điệp
từ “dẫu”, điệp cấu trúc: “Dẫu xuôi về…Dẫu ngược về…” được diễn đạt trong một cách nói
không thuận chiều (đúng ra phải là xuôi Nam – ngược Bắc) ta thấy cái tất bật của dòng đời xô
đNy, của con tạo xoay vần, của khó khăn chồng chất. Và đằng sau đó là một người phụ nữ kiên
định, thủy chung:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
“Nơi nào” – “cũng nghĩ” là cách diễn tả một cảm xúc thường trực, bao trùm, một cảm xúc được
định hướng, được soi đường bởi lí trí của một người phụ nữ chín chắn và luôn biết trân trọng
tình yêu. Còn “hướng về anh” là sự toàn tâm toàn ý. Lại thêm dấu gạch nối ở giữa và chữ “một
phương” ở cuối câu thơ càng chắc chắn thêm cho sự khẳng định hướng về anh là “tâm nguyện
suốt đời” của em. Người ta cho rằng “Thơ là những xúc động đặc biệt được diễn tả bằng một
ngôn ngữ đặc biệt của một sinh linh có năng khiếu đặc biệt mệnh danh là thi sĩ”. Vậy mà đọc
những vần thơ của thi sĩ Xuân Quỳnh, ta vẫn cảm thấy cái gần gũi mộc mạc như chính tính cách
thẳng thắn trong cuộc sống đời thường của chị, nghĩ sao thì nói vậy. Và khi đã yêu thì nhất thiết
phải là yêu hết mình và dành trọn trái tim cho người mình yêu, cả tâm trí bị chi phối bởi phương
anh - không phải chỉ bởi vì đó là nơi tình yêu rực cháy, mà còn bởi lí trí mách bảo chị phải
hướng về.
Xuân Quỳnh viết những dòng thơ tình yêu mãnh liệt khi vừa trải qua đổ vỡ trong tình
yêu. Bằng trực cảm của một người phụ nữ chín chắn và sâu sắc, hơn ai hết, chị hiểu được giá trị
của một tình yêu đích thực, một tình yêu cao cả, bền lâu. Càng yêu thương hết mình chị càng
khao khát một sự thủy chung mãi mãi. Đó là ước muốn chính đáng và đẹp đẽ, góp phần làm nên
nét đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại trong tâm hồn Xuân Quỳnh, trong thơ Xuân Quỳnh.
Có thể nói, bằng lối viết chân thật, giàu xúc cảm, cách sử dụng ngôn từ, hình tượng độc
đáo giàu sức gợi, hai khổ thơ đã đủ cho ta thấy sự mãnh liệt, hết mình trong tình yêu, một tấm
lòng thủy chung son sắt của thi sĩ Xuân Quỳnh. Đọc thơ chị, ta càng hiểu hơn vẻ đẹp tâm hồn
người con gái đang yêu, càng trân trong hơn những cảm xúc đẹp đẽ trong tình yêu. Trái tim sinh
học của thi sĩ đã ngừng đập nhưng những vần thơ tình yêu có hương vị cổ truyền, có cả cay
đắng, ngọt ngào, hờn giận, xót xa, những tiếng lòng khao khát hiến dâng, được trường tồn cùng
thời gian sẽ không dễ lìa xa cuộc sống chúng ta, con người chúng ta, văn học chúng ta cũng như
những vần thơ tự hát còn ngân vang mãi:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh ngay cả khi chết đi rồi!

ĐỀ 4: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua đoạn trích:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Trích Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, Tập một, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2019)

a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ giàu yêu thương,
khát khao hạnh phúc đời thường.
- Giới thiệu tác phNm Sóng: Là một tác phNm đặc sắc của Xuân Quỳnh khi viết về đề tài tình
yêu. Tác phNm được trích trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”
- Nêu luận đề: Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
b. Thân bài:
- Vẻ đẹp người phụ nữ được thể hiện qua nỗi nhớ nhung trong tình yêu. (khổ 5)
+ Đây là đoạn thơ có số lượng câu thơ trong một khổ đột nhiên tăng lên từ bốn câu thành sáu
câu. Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”,
“trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: ‘”ngày” – “đêm”, thêm vào đó việc sử dụng biện
pháp điệp cấu trúc ở câu thơ 1 và 2, phép lặp từ “con sóng” và phép đối “dưới lòng sâu – trên
mặt nước” đã thể hiện những dạng thức khác nhau của sóng. Sóng trên mặt đại dương, sóng
trong lòng biển cả. Con sóng như đang được nhân hóa sóng là em, em là sóng nên sóng cũng
biết nhớ nhung da diết.
+ “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Con sóng nhớ bờ luôn xao động ở mọi
không gian trên mặt biển, dưới lòng sâu và mọi thời gian từ ngày tới đêm khiến sóng không lúc
nào ngủ yên. Xuân Quỳnh mượn trạng thái của sóng để diễn tả tâm lý của người con gái trong
tình yêu. Nỗi nhớ đến đây đã trở thành một quy luật do vậy nỗi nhớ ấy đã trở nên vĩnh hằng.
Nhưng dường như ngần ấy thôi là chưa đủ. Hai câu thơ tiếp nhân vật trữ tình “em” đã tách bạch
ra khỏi “sóng” để trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ cả khi ở dưới lòng sâu đến
khi trên mặt nước cả đêm lẫn ngày thì em cũng nhớ anh mọi lúc mọi nơi. Nếu sóng vì nhớ bờ
mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong mơ. Hình ảnh của người yêu
đã ám ảnh trong tâm trí người con gái, trở thành một phần máu thịt của họ và dù trong vô thức
hay trong tiềm thức thì hình ảnh đó vẫn hiện lên rõ ràng, chân thực. Chi tiết “trong mơ còn
thức” ngoài việc thể hiện nỗi nhớ sâu sắc còn thể hiện một dự cảm lo âu. Người con gái lo sợ
rằng tình yêu sẽ vuột mất khỏi tầm tay bất cứ lúc nào nên cả trong mơ người con gái vẫn thức
để canh giữ tình yêu.
+ Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến
anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức,
thường trực trong suy nghĩ.
- Vẻ đẹp người phụ nữ thông qua sự thủy chung của họ trong tình yêu. (khổ 6)
+ Sóng luôn tìm về với bờ cũng như em luôn hướng về nơi có anh. Đó là lòng chung thủy của
người con gái trong tình yêu.
+ Nếu phương Bắc, phương Nam gợi sự xa xôi cách trở thì hai động từ “xuôi”, “ngược” lại thể
hiện sự gian nan vất vả. Tuy vậy, từ “dẫu” đứng đầu câu lại thể hiện bản lĩnh kiên cường của
người phụ nữ. Một khi đã yêu nhau thì đôi lứa nói chung và người phụ nữ nói riêng cũng bất
chấp tất cả mọi khó khăn để đến được với nhau.
+ Câu thơ cuối cùng mang một ý nghĩa vô cùng độc đáo. Nếu những con sóng có thể hướng về
bốn phương Đông – Tây – Nam – Bắc thì người con gái chỉ hướng về một nơi duy nhất, ấy là
nơi anh. Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nói “Xuôi Nam, ngược Bắc” giờ đây Xuân
Quỳnh lại nói “Xuôi Bắc, ngược Nam” là cách nói ngược. Phải chăng tình yêu đã làm cho con
người bị đảo lộn phương hướng ? Nhưng có một phương mà em không thể nào lẫn lộn, không
thể nào nguôi nhớ đó là phương anh. Giữa cuộc đời này, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để
em hướng về. Nơi nào có anh thì ấm áp, đẹp đẽ tươi vui, nơi nào không anh thì tất cả đều trở
nên u buồn, lạnh lẽo. Đó cũng chính là tấm lòng thủy chung son sắc của người con gái trong
tình yêu mà Xuân Quỳnh muốn thể hiện.
- Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ thông qua khát khao về tình yêu vĩnh cửu. (còn lại)
+) Khổ 7: khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “con nào chẳng tới bờ ... Dù muôn vời
cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.
+ Trăm ngàn con sóng là cụm từ chỉ số lượng. Dù có muôn vàn con sóng ở ngoài kia thì chúng
cũng đều tuân theo một quy luật bất di bất dịch là tìm đến với bờ dù có xa xôi cách trở bao
nhiêu.
+ Mượn hình ảnh con sóng, Xuân Quỳnh như muốn khẳng định một điều rằng trái tim người phụ
nữ luôn hướng về người mình yêu. Đó không còn là cảm xúc nhất thời mà nó đã trở thành quy
luật mà đã là quy luật thì cho dù có bao nhiêu năm tháng đi qua lòng chung thủy ấy cũng không
bao giờ biến đổi. Để rồi sau bao nhiêu khó khăn, gian nan thử thách chính lòng chung thủy sẽ
giúp con sóng tới được bến bờ mà nó thổn thức nhớ mong đến nỗi không ngủ yên cũng như đưa
em đến bên anh sau tháng ngày xa xôi cách trở.
+ Câu thơ như tiếng lòng hay nói đúng hơn là niềm tin mãnh liệt vào một cái kết đầy viên mãn
cho một tình yêu vĩnh cửu.
+) Khổ 8:
+ Cuộc đời chỉ quỹ thời gian ngắn ngủi của một kiếp người, năm tháng chỉ dòng thời gian vô
thủy vô chung. Biển cả chỉ giới hạn không gian trật hẹp trong khi đó mây trời lại chỉ không gian
rộng lớn của vũ trụ. Cuộc đời tuy dài nhưng so với dòng chảy vô tận của thời gian nó chỉ là một
cái chớp mắt. Tương tự với đó, biển kia tuy rộng nhưng nếu đem so sánh với mây trời thì nó thật
nhỏ bé biết bao. Đem đặt cái hữu hạn cạnh cái vô hạn Xuân Quỳnh đã thể hiện nỗi lo ấu trước sự
phù du của kiếp người. Rồi một ngày nào đó, anh và em sẽ không còn nữa đồng nghĩa với với
việc chúng ta sẽ không thể yêu nhau.
+ Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của
mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu
thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách
trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua
thử thách đến với bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm tháng sẽ đi qua thời gian
dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng để bay về xa.
+ Một loạt hình ảnh thơ Nn dụ được bố trí thành một hệ thống tương phản, đối lập để nói lên dự
cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào sức mạnh của tình yêu. Yêu
thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng
nhỏ của mình vào biển lớn tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình
yêu, để tình yêu riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thủa.
+) Khổ 9:
+ Câu thơ “Làm sao được tan ra” là một câu thơ mang cấu trúc cầu khiến, nghi vấn thể hiện
niềm mong ước da diết và hiện thực. Tan ra là hi sinh, là dâng hiến, là mong được hóa thân. Tan
ra thành trăm con sóng là mong ước biến cái hữu hạn thành cái vô hạn. Xuân Quỳnh muốn vượt
qua cái hữu hạn của đời người giống như con sóng kia ngàn năm còn vỗ giữa biển lới tình yêu.
Đó là tiếng lòng của một tâm hồn giàu đức hi sinh và lòng cao thượng.
+ Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con
sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng
không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ, cô đơn và ích kỷ sóng là sự tổng hòa
những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Song song với đó như một lẽ thường tình cái tôi
ích kỷ nhỏ bé trật hẹp sẽ không thể tạo nên một tình yêu đẹp. Chỉ có lòng bao dung và trái tim
yêu thương vượt lên trên mọi ích kỷ tầm thường để tạo ra một tình yêu vĩnh cửu. Nhà thơ đã
thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm con sóng để hòa mình vào đại dương bao la,
hòa mình vào biển lớn tình yêu để một đời vỗ muôn điệu yêu thương “Người yêu người, sống
để yêu nhau” (Tố Hữu)..
c. Kết bài:
Khái quát lại nội dung, nghệ thuật.

ĐỀ 5:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Trích: Sóng – Xuân Quỳnh)
Cảm nhận về vẻ đẹp tâm hồn người con gái khi yêu qua đoạn thơ trên. Từ đó nhận xét về nét
riêng độc đáo trong thơ Xuân Quỳnh.
BÀI LÀM:
Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu cho phong trào thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Thơ chị
là tiếng lòng của tâm hồn người phụ nữ nhiều trắc Nn vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm
thắm và luôn da diết trong những khát vọng bình dị, đời thường. Sóng là một tác phNm tiêu biểu
cho hồn thơ ấy. Bài thơ là lời giãi bày chân thật, hồn nhiên mà đầy sâu lắng của về khát vọng
tình yêu, hạnh phúc vĩnh hằng của thi sĩ. Vẻ đẹp tâm hồn của người con gái khi yêu được thể
hiện thật ấn tượng qua đoạn thơ sau:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Xuân Quỳnh viết “Sóng” năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình) giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang ở giai đoạn cam go ác liệt. Những tưởng
trong hoàn cảnh khói bom khốc liệt ấy chỉ khiến lòng người trào lên nỗi căm hờn quân xâm
lược, nỗi quặn thắt trước những mất mát hi sinh và cả niềm tự hào về một thời đại “ Xẻ dọc
trường Sơn đi cứu nước”. Vậy nhưng, đến với “Sóng” ta vẫn thấy những vần thơ lãng mạn dạt
dào cảm xúc, như những bông hoa thơm ngát trên con đường ra trận địa. Bằng ngòi bút lãng
mạn bay bổng, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm được khám phá thế
giới tâm hồn nhiều cung bậc cảm xúc của người con gái đang yêu, trong sự đồng điệu với hình
tượng “sóng” – một hình ảnh tưởng như đã quen thuộc trong thơ ca. Sóng ở đây xuất hiện như
một nhân vật trữ tình, một chủ thể trữ tình chứ không chỉ đứng riêng rẽ, không chỉ là hình ảnh
đối sánh. Sóng có khi tách rời sóng đôi để soi chiếu, để chiêm nghiệm, có khi lại hòa hợp đồng
nhất, tôn lên vẻ đẹp tâm hồn người con gái đang yêu.

Nếu hình tượng nghệ thuật là bức tranh vừa cụ thể vừa khái quát về cuộc sống thì hình
tượng sóng chính là tấm gương phản chiếu tâm hồn nhiều suy tư trăn trở mà đầy khát khao của
người nữ thi sĩ ấy:

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Trong cuộc hành trình vạn dặm từ sông ra bể, sóng - người con gái kiên định bản lĩnh ấy không
chỉ bộc lộ một tình yêu chân thành luôn “bồi hồi trong ngực trẻ”, một nỗi nhớ da diết đến “cả
trong mơ còn thức” và một lời khẳng định đầy giá trị “Nơi nào em cũng nghĩ – Hướng về anh -
một phương” mà người con gái chín chắn ấy còn hiểu rằng: đến được với tình yêu đã khó, gìn
giữ được tình cảm thiêng liêng ấy bền lâu mãi mãi lại khó hơn nhiều. Để cập được bến bờ hạnh
phúc, con sóng lại phải thực hiện tiếp cuộc hành trình vượt đại dương, qua “muôn vời cách trở”.
Với sự từng trải từ thực tế cuộc đời, từ một mối tình vừa đổ vỡ, người con gái ấy có
những nhận thức chín chắn về những khó khăn trắc trở luôn gặp phải trong tình yêu. Trăm nghìn
con sóng dù sinh ra từ lòng biển sâu hay trên mặt nước cũng đều hướng đến đích cuối cùng là
lến bờ bình yên. Trong cuộc đời con người cũng vậy, cứ chân thành và mãnh liệt với tình yêu thì
con người cũng được đền đáp xứng đáng mà thôi.
Để khẳng định một niềm tin mãnh liệt vào những điều tốt đẹp đang chờ đón ở phía trước,
thi sĩ đã sử dụng những hình ảnh diễn tả không gian mênh mông “đại dương”, “con sóng”, “bến
bờ” kết hợp với những từ ngữ chỉ số lượng lớn “trăm, nghìn”, “muôn vời” bằng một giọng thơ
đầy quả quyết “Con nào chẳng tới bờ - Dù muôn vời cách trở”. Yêu thương hết mình và luôn tin
tưởng vào những điều tốt đẹp sẽ đến, đó là cốt cách và bản lĩnh cần có trong tình yêu. Nhưng, ta
vẫn thấy cái lắng lo, trăn trở trong cách kết thúc câu khẳng định bằng “muôn vời cách trở”. Điều
đó làm nên giọng thơ Xuân Quỳnh, mãnh liệt đấy, đắm say đấy mà vẫn có gì như dè dặt, như
băn khoăn.
Và căn nguyên của những băn khoăn trăn trở là đây:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Giọng thơ từ sôi nổi đắm say bỗng trùng xuống đầy suy tư! Tình yêu thì mãnh liệt có thể
vượt qua mọi không gian thời gian, vượt qua mọi thử thách, nhưng có một điều đáng buồn là
con người không thể sống mãi để yêu. Trong trăm năm cuộc đời, tưởng như dài thế, mà thời
gian có đợi chờ ai, “năm tháng vẫn đi qua” vô tình, không gì níu kéo được. Xuân Quỳnh diễn tả
điều đó bằng một hình ảnh so sánh ví von khơi gợi nỗi buồn dàn trải miên man: “Như biển kia
dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”. Biển dẫu rộng thế cũng chẳng thể giữ mây làm mát tâm hồn.
Đó là quy luật khắc nghiệt của thời gian , con người cũng chẳng thể thay đổi nó, chỉ biết than
trách, hờn giận với tạo hóa: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần
thắm lại – Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi – Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời” (Xuân
Diệu). Quả thực, càng mến yêu, trân quý cuộc sống bao nhiêu, con người càng ý thức về sự hữu
hạn của nó và càng trăn trở đi tìm phương cách để níu kéo thời gian. Bài thơ nào của nữ thi sĩ
cũng có những dòng thơ vò xé, day dứt tâm can như thế. Phải chăng, nó còn mang những dự
cảm không lành về cuộc đời ngắn ngủi của nhà thơ?

Khác với quan niệm tình yêu của Xuân Diệu. Khi nhận thức sự hữu hạn của cuộc đời con
người, Ông hoàng thơ tình muốn biến từng phút giây của cuộc sống, của tuổi trẻ trở nên có giá
trị, có ý nghĩa. Xuân Diệu có những ước mơ đầy táo bạo và phi lí, muốn “tắt nắng”, “buộc gió”
để níu giữ lấy thời gian, níu giữ lấy màu sắc và hương vị của cuộc sống, muốn tận hưởng đến
cuống quýt, say mê cuộc đời. Xuân Quỳnh lại trăn trở đi tìm cách hóa thân bất tử cùng tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Khổ thơ bắt đầu bằng một câu hỏi “làm sao được tan ra”, hỏi đấy nhưng thực chất là giãi bày
tâm sự, giãi bày ước muốn phi lí trong lòng mình. Câu thơ cũng thể hiện một tâm trạng bế tắc
của một con người luôn khao khát yêu hết mình nhưng không tìm được phương cách nào để níu
giữ tình yêu mãi mãi khi cuộc đời con người thì ngắn ngủi.
Dường như, đối với Xuân Quỳnh, yêu trong vòng một trăm năm cuộc đời là không đủ, chị
phải quyết hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ”, sống cuộc đời của sóng để được hòa vào “biển
lớn tình yêu” và “ngàn năm” rì rào hát khúc tình ca của biển. Đứng giữa không gian kì vĩ mênh
mông của biển cả, người con gái ấy ước muốn được “tan ra” - ước muốn tự nguyện được dâng
hiến cái tôi nhỏ bé của mình hòa vào cái chung lớn lao cao cả, ước nguyện được sống vĩnh hằng
trong tình yêu, bất tử hóa cùng tình yêu. Biết rằng, đó là ước mơ phi lí, nhưng nó thật đúng với
suy nghĩ, đúng với con người chị trong đời thường: luôn yêu hết mình và sống hết mình. Ước
vọng lớn lao như thế thường phải xuất phát từ tâm hồn của những con người lãng mạn, đắm say
và sẵn sàng hi sinh cho người mình yêu, như Ta –go cũng từng viết: “Nếu đời anh chỉ là viên
ngọc quý anh sẽ đập nó ra làm trăm mảnh xâu thành chuỗi quàng vào cổ em.” Những ước vọng
thật đẹp đẽ, thật nhân văn!
Ở vào thời đại của thi sĩ Xuân Quỳnh, những vần thơ cháy bỏng khát vọng tình yêu ấy như
một luồng gió mới mẻ mát lành, thổi vào cánh đồng thơ ca nhiều hương sắc. Thơ Xuân Quỳnh
là tiếng lòng của người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn vừa đằm thắm thiết tha, thủy chung son sắt lại
vừa mãnh liệt táo bạo trong những đam mê và dâng hiến. Hai nét đẹp truyền thống và hiện đại
hòa quyện trong tâm hồn thi sĩ làm nên nét riêng độc đáo trong phong cách thơ Xuân Quỳnh
khiến độc giả không thể nào quên
Trong âm hưởng dạt dào của những con sóng, ta như nghe ngân vang lời “tự hát” của
Xuân Quỳnh – người nữ thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh: “Em trở về đúng nghĩa trái tim em – Là
máu thịt đời thường ai chẳng có – Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa – Nhưng biết
yêu anh ngay cả khi chết đi rồi.” Ba khổ thơ cuối khép lại bài thơ với tiếng sóng biển vỗ ào ạt
ngàn năm như nhắc nhớ một tâm hồn mang khát vọng tình yêu vĩnh hằng. Những dư ba ấy còn
nhắc nhở con người hãy biết sống ân nghĩa thủy chung và hãy biết trân quý những phút giây
hạnh phúc mình đang có! Hãy yêu thương thật nhiều để từng phút giây trong cuộc đời hữu hạn
trở thành bất tử.
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (Nguyễn Tuân)
ĐỀ 1:
“..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông
Đà như một cái yết hầu. Đứng bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con
nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa
hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung
cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò
Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng con
thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước giống
như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn.
Không thuyền nào muốn men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để lướt
qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vứt qua một quãng đường mượn cạp
ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng
sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những
cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới
thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, T.186)
Cảm nhận nét cá tính hung bạo của dòng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về bút
pháp tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông từng được mệnh danh là đại thụ trong rừng đầu nguồn văn học nước nhà thế kỉ XX. Không
chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, sau cách mạng, nhà văn còn gây tiếng vang lớn với tập tùy
bút “Sông Đà”. Nhắc đến tập tùy bút, không thể không nhắc đến tác phNm “ Người lái đò sông
Đà” – một sự khám phá mang đầy nét phóng túng, tài hoa của Nguyễn Tuân về dòng sông Đà và
con người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Người đọc sẽ luôn nhớ một sông Đà thật sống động với
đầy đủ diện mạo, tính cách như một cơ thể sống: vừa hung bạo đến hãi hùng lại vừa lãng mạn trữ
tình đến say đắm. Đoạn thơ sau đã khắc họa thật ấn tượng nét cá tính hung bạo của dòng sông,
đem đến những xúc cảm mạnh mẽ trong lòng người đọc: “..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ
có thác đá…đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc năm 1958, với ý thức đi tìm kiếm chất vàng
mười đã qua thử lửa của thiên nhiên và con người nơi đây, Nguyễn Tuân đã có dịp được khám
phá những vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của dòng sông Đà, một con sông độc đáo và đầy cá tính. Sự
gặp gỡ thú vị giữa một người nghệ sĩ khao khát đi tìm kiếm cái đẹp tuyệt đỉnh với thực thể sông
Đà – một viên kim cương xù xì của hoang sơ, nguyên thủy đã kết tinh thành thiên tùy bút “
Người lái đò sông Đà”. Sông Đà đã đáp ứng mọi tiêu chí khắt khe trong quan niệm về cái đẹp
hoàn hảo của Nguyễn Tuân, để rồi, như rồng gặp hội gió mưa, ngòi bút tài hoa, điêu luyện của
nhà văn cứ thế điều khiển đội quân chữ nghĩa nhào lộn, biến ảo thần tình. Không để độc giả tò
mò chờ đợi, ngay từ đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã khuấy động những xúc cảm mạnh mẽ ở
người đọc bởi liên tiếp những câu văn khắc họa sự hùng vĩ của dòng sông.
“..Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá.” Bằng một câu văn ngắn gọn chắc
khỏe, Nguyễn Tuân đã báo trước cho độc giả chuNn bị thưởng ngoạn một cảnh sắc dòng sông ở
một góc nhìn khác, một yếu tố khác không kém phần sống động như thác đá vừa giới thiệu ở
trên. Đó là “những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có
mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu.” Mở ra trước mắt người đọc
là một công trình kiến tạo của tự nhiên, sự sắp đặt của đá hai bên bờ sông. Không phải như sông
Hồng, sông Đáy, chảy qua miền quê yên ả với đôi bờ là phù sa màu mỡ mà Sông Đà ở khúc
thượng nguồn Tây Bắc mang đặc trưng của địa hình hiểm trở, khắp nơi đều trở thành địa hạt của
đá. Đọc những câu văn miêu tả cụ thể sự hiện hữu của đá hai bên bờ sông mà người đọc ngỡ như
Sông Đà nứt ra từ lòng núi, nó khiến con người có cảm giác choáng ngợp khi hình dung sự lấn
át, chiếm lĩnh của đá, như vây kín, như “chẹt” lấy lòng sông làm cho nó hẹp đến mức “Đứng
bên bờ này nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ
này sang bờ kia.” Lũ đá hai bên bờ sông khiến dòng nước bị ức chế, bị bóp nghẹt đến cuồng nộ.
Có lẽ chính vì thế mà Đà giang càng trở nên bí hiểm và thực sự mang tính cách của một thứ kẻ
thù số một của con người.
Ngòi bút của Nguyễn Tuân không chỉ miêu tả sống động cảnh vật khiến độc giả như đang
nhìn thấy tận mắt mà nhất thiết phải khiến độc giả rùng mình, rợn tóc gáy về những cảnh tượng
đó mới thỏa lòng. Đó là cái cảm giác ớn lạnh đến xương sống của một người dám mạo hiểm
ngồi trong khoang đò qua quãng sông đá thắt cổ chai mà hai bên bờ là đá dựng vách thành ấy.
“Đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.”Hình ảnh so sánh
sống động trong vai trò một nghệ sĩ nhiếp ảnh, tác giả vừa khắc sâu sự kì bí, hùng vĩ của sông
Đà vừa cho thấy khả năng tái hiện hình ảnh bằng ngôn từ bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Người “ phu chữ” tài ba ấy đã lôi cuốn người đọc vào một cuộc vượt thác ngôn từ trên
dòng sông văn chương lấp lánh. Từng câu văn của Nguyễn Tuân dài như con sông Đà quãng
ghềnh Hát Loóng. Sóng chữ xô đNy nhau hối hả, như muốn chồm lên mặt giấy, như muốn làm
mỏi ý chí người đọc. Ngồi trên khoang đò của người cầm lái cừ khôi, độc giả nín thở, tay bấu
chặt lấy thuyền khi vượt qua ghềnh thác. Tại đoạn ghềnh Hát Loóng ấy, “dài hàng cây số, nước
xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy”. Sự bạo liệt của hình ảnh sông Đà được
cộng hưởng bởi nước, đá, sóng, gió, thêm vào đó là sự thanh viện của những luồng gió ‘gùn ghè
suốt năm” đã trở thành nỗi ngán ngNm của bất kể tay lái dày dặn kinh nghiệm nào. ‘Quãng này
mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng con thuyền ra.” Sông Đà lúc này không chỉ còn là
một con sông thiên nhiên mà nó thực sự đã trở thành một con thủy quái sống dậy trong nỗi oán
hận vô cơ với loài người.
Nhà nghiên cứu phê bình Tạ Tỵ đã nhận xét “Nguyễn Tuân viết mà giống như nhà điêu
khắc cần cù chạm trổ vào mặt đá quý những hình nét trác tuyệt.” Quả đúng như vậy, đọc từng
dòng miêu tả sông Đà hung bạo ở quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La, độc giả đều dễ dàng hình
dung bởi thứ ngôn từ giàu tính tạo hình ấy. Không miêu tả sự ác liệt của đá, sóng, gió như quãng
ghềnh Hát Loóng, nhà văn tập trung khắc họa sự nguy hiểm của những cái hút nước ”xoáy tít
đáy”. Nó xuất hiện đột ngột, ngoài tầm kiểm soát của con người. Tác giả dùng hình ảnh so sánh
tương đồng về hình dáng“những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuNn bị làm móng cầu.” Và sự so sánh tương đồng về âm thanh “nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc.” Qua miêu tả, người đọc không chỉ thấy cái kì vĩ, bí hiểm của những hút nước
mà còn như nghe được âm thanh và cảm giác bị cuốn vào cái lỗ hổng đáng sợ ấy như những
cánh quạ yếu ớt sắp sửa bị nó nuốt chửng cả đàn vậy.
Sông Đà không hiện lên trong trạng thái tĩnh tại của một bức điêu khắc mà Nguyễn Tuân
muốn nó hiện lên trong những cảm giác phong phú của người đọc. Độc giả được cùng xuống
thuyền trải nghiệm giây phút vượt qua những hút nước ấy, được mở rộng các giác quan để tận
mắt nhìn thấy cái kích thước khổng lồ khi ở men cái hút nước, để lắng nghe tiếng ‘nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào”,và sống trong sự sợ hãi khi đứng giữa bờ vực của sinh tử “Nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Để rồi, khi “chèo
nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu” ấy, ta mới thấy hết được tận cùng ý
nghĩa của cuộc sống, mới đi đến tận cùng cảm giác chiến thắng của một người chế ngự được nỗi
sợ hãi của bản thân, chế ngự được con thủy quái Sông Đà.
Độc giả yêu thơ từng biết đến sự hùng vĩ và hung bạo của dòng Sông Đà qua tiếng thác
nước gầm réo trong câu thơ của Quang Dũng “Chiều chiều oai linh thác gầm thét”. Nhưng phải
đến những trang văn tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân ta mới thấy hết cái diện mạo và tâm địa
ghê gớm của Đà giang. Nó độc nhất vô nhị trong cái nhìn độc đáo cuả nhà văn. Nó không chỉ
sinh động có hồn như những dòng sông trong bao tác phNm thơ ca khác mà là dòng sông biết
tương tác, biết giao tiếp với con người bằng cá tính riêng của nó. Bởi thế mà Nguyễn Tuân cũng
được coi là nhà văn của những cảm xúc tuyệt đối. Sông Đà ở khúc thượng nguồn ấy đạt tới cái
hùng vĩ cái hung bạo đến tột cùng, vậy mà nó có thể uốn mình theo những cánh đồng miền trung
du để rồi trở nên trữ tình thơ mộng đến đắm say tột đỉnh. Điều đó chỉ có thể là cái nhìn độc đáo
đầy tài hoa của một con người suốt đời đi tìm cái đẹp và ngợi ca cái đẹp như Nguyễn Tuân.
“Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đó là thứ ngôn ngữ có hình, có khối, có nhạc, và đương nhiên là có hồn
- cái hồn được truyền lại từ cha ông và cái hồn của người viết phả vào, bởi tài năng vận dụng,
khai thác hết công suất của nó” (Tạ Tỵ). Quả đúng như vậy, Chỉ một đoạn tùy bút nhỏ cũng đủ
thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của nhà văn. Hơn nữa, qua đoạn trích, độc giả không
chỉ thấy được một góc nhìn về sông Đà hùng vĩ, hung bạo, mà còn thấy ở Nguyễn Tuân cái chất
kiêu bạc, phóng túng trong nhãn quan,nhưng lại hết sức nghiêm túc trong nghề viết. Đọc đoạn
trích nói riêng, cả thiên tùy bút nói chung, ta thêm hiểu biết và yêu quý hơn những cảnh sắc quê
hương và trân trọng hơn những người lao động nghệ thuật nghiêm túc và cống hiến hết mình để
có những trang viết hay để lại cho hậu thế như Nguyễn Tuân – một người “phu chữ” lão luyện
trong nền văn chương hiện đại Việt Nam .

ĐỀ 2: Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà (Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân) trong hai
đoạn trích dưới đây:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa
thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ
như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về.
Và:
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần
đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên
mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ
tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổỉ xưa.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ - suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp. Tác phNm của ông
là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. Người láỉ đò
Sông Đà là tác phNm tiêu biểu cho khuynh huớng thNm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của
ông, Sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất
dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc. Đặc biệt là hai đoạn văn tả lại cảnh sông Đà ở
hạ nguồn - một vẻ đẹp khiến người ta đắm đuối: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài... bực bội gì
mỗi độ thu về.” và “Thuyền tôi trôi trên sông Đà... một nỗi niềm cổ tích cổ xưa.”
Nguyễn Tuân là một trong chín tác giả lớn của văn học nước nhà. Chữ “ngông” chính là từ
dùng khi người ta nhắc về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Cái ngông trong nghệ thuật thể
hiện ở sự tài hoa và uyên bác trong trang văn, trong cách sử dụng Tiếng Việt, mới, lạ, không
giống ai trong hệ thống đề tài. Mỗi một nhà văn vẽ lại thế giới theo cách riêng của mình, Nguyễn
Tuân là nhà văn tô điểm cho thế giới bằng cái đẹp. Đối với Nguyễn Tuân, văn phải đẹp, phải trau
chuốt. Cả một đời người nghệ sĩ ấy say mê và truy tìm cái đẹp, cái thật, làm phát lộ nó dưới ngòi
bút tài hoa của mình. Người lái đò Sông Đà là một tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà
1960, đó là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những
năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của
thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra thứ “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con
người miền Tây Bắc.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một
dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát
Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào
thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh... Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp
trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống với
điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn
bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núỉ Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh Sông Đà như một áng tóc kết
hợp với điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng
sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ
của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước
vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường
gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ
“ẩn hiện” càng tăng lên sự bí Nn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của
người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết
hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như
được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói
mùa xuân.
Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo. Chính vẻ đẹp của mây
trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn Tuân phát hiện ra vẻ đẹp
của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không
xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh
sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời.
Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đỉ vì rượu bữa, lừ lừ cái màu
đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của
sắc nước sông Đà. Cách miêu tả sắc đỏ mùa thu sông Đà của Nguyễn Tuân cũng thật độc đáo.
Đỏ bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang trong mình chút hồng hào, pha vào đó sắc phù sa,
lại không đục ngầu, màu sắc ấy còn mang dáng hình của kẻ say, hay là vì người đã quá say dòng
sông, quá mê đắm cảnh sông nước Tây Bắc.
Sông Đà qua góc nhìn của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu lại trở thành niềm say
sưa, sự thích thú trước vẻ đẹp của chốn hoang sơ, thoát hẳn khỏi xã hội hiện đại ngoài kia. Bằng
cảm quan góc của người đi ròng và của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu, tức là điểm nhìn
cận cảnh, dòng sông Đà đã hiện lên trong tầm mắt một vẻ đẹp hoang sơ, với hai bờ đúng như tác
giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổỉ xưa”. Đó là vẻ đẹp của ngàn năm kiến tạo còn vẹn nguyên đến tận bây giờ. Tưởng như,
thế giới ngoài kia đã bỏ quên chốn này, nơi đây, vẫn giữ cho nó khối hình, dáng vóc của hoang
sơ nguyên thủy. Trôi thuyền trên sông quãng này, quá khứ còn vọng dư âm bởi sự tĩnh lặng, im
ắng, tưởng như Thời Lí, Trần, Lê... quãng sông cũng chỉ im ắng như vậy.
Qua cái nhìn đầy say mê và thưởng thức, hai bên bờ sông Đà đã hiện lên một vẻ đẹp đầy
sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy vừa mang trong nó một sức sống căng tràn, đó là
màu xanh của nương ngô, của cỏ gianh mới nhú, màu xanh của trù phú, mỡ màng, non trẻ, thanh
khiết vô cùng. Là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngNng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chẳng sợ sệt
ông khách Sông Đà. Là đàn cá dầm xanh quẫy đuôi để lộ cái bụng trắng như bạc thoi. Tất cả tạo
cho Sông Đà ở hạ nguồn nét hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích, chẳng lưu mang hơi thở hiện
đại.
Trước cái tĩnh lặng của Sông Đà, tác giả bỗng thèm nghe một tiếng còi xúp - lê, tiếng còi
ấy là tiếng còi của tương lai, của nhịp sống, hơi thở hiện đại. Tiếng còi sẽ phá đi sự tĩnh lặng,
báo hiệu những đoàn tàu sẽ lên Tây Bắc để xây dựng quê hương.
Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy
nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Con sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi
thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn
dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một
cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” đế trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của
mình. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp
thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”,
gợi biết bao thi vị. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên từng nhận định: Nguyễn Tuân là “nhà thơ bị
đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi”, ý nói rằng những trang văn Nguyễn Tuân thấm đẫm
chất trữ tình, thấm đẫm chất thơ, hơi thở của không gian thơ. Và với hai đoạn văn trên, ta cảm
nhận chất thơ thấm vào từng câu chữ.
Sông Đà là dòng sông của miền non tản Tây Bắc. Đó cũng là một dòng sông hiểm nguy
rình rập với “trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”. Nhưng đó cũng là một dòng sông lai láng
chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công
trình nghệ thuật, một tác phNm hội họa mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá
dòng sông ở phương diện thNm mỹ thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà
dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích.

ĐỀ 3:Cảm nhận hình tượng sông Đà qua đoạn trích sau:


“Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần,…rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay
đấy”
(Trích: Người lái đò sông Đà – SGK Ngữ văn 12 – Tr.190 - 191)
Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của dòng sông Đà qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ngòi bút
tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông từng được mệnh danh là đại thụ trong rừng đầu nguồn văn học nước nhà thế kỉ XX. Không
chỉ thành công ở thể hoại truyện ngắn, sau cách mạng, nhà văn còn gây tiếng vang lớn với tập
tùy bút “Sông Đà”. Nhắc đến tập tùy bút, không thể không nhắc đến tác phNm “ Người lái đò
sông Đà” – một sự khám phá mang đầy nét phóng túng, tài hoa, của Nguyễn Tuân về dòng sông
Đà và con người lao động ở vùng cao Tây Bắc. Người đọc không thể quên một sông Đà thật
sống động với đầy đủ diện mạo, tính cách như một cơ thể sống: vừa hung bạo đến hãi hùng lại
vừa lãng mạn trữ tình đến say đắm. Đoạn thơ sau đã khắc họa thật ấn tượng vẻ đẹp trữ tình mềm
mại của dòng sông : “Trích dẫn đoạn VB:”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc những năm 1958-1960, với ý thức đi tìm
kiếm chất vàng mười đã qua thử lửa của thiên nhiên và con người nơi đây, Nguyễn Tuân đã có
dịp được khám phá những vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ của dòng sông Đà, một con sông độc đáo và
đầy cá tính. Nếu ở khúc thượng nguồn, dòng sông hùng hổ, bạo ngược như một con thủy quái –
kẻ thù số một của con người thì xuôi về hạ lưu, dòng sông trở nên dịu dàng, quyến rũ, đầy chất
thơ.
Cũng như sự chuyển dòng êm ái của Đà giang ở khúc hạ lưu, những câu văn của Nguyễn
Tuân như giãn ra mềm mại uyển chuyển khi miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông. Vẻ đẹp ấy
được tác giả khám phá ở những điểm nhìn khác nhau, đã cho người đọc những trải nghiệm thú vị
về một dòng sông đa tính cách, đa diện mạo và khơi gợi thật nhiều cảm xúc. Ở góc nhìn từ trên
tàu bay, sông Đà hiện ra trước mắt du khách thật kiều diễm trong dáng hình của nó. Đó không
phải là cái dây thừng ngoằn ngoèo vắt qua các ghềnh thác như khúc đầu nguồn mà nó trở nên dịu
dàng, quyến rũ như mái tóc bồng bềnh của một thiếu nữ vùng cao: “ Con Sông Đà tuôn dài tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc Nn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban
hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân. Hình ảnh so sánh khiến độc
giả liên tưởng đến một dòng sông trôi giữa bồng bềnh mây khói vùng cao, trôi giữa sắc màu tinh
khôi, tươi mới của hoa ban, hoa gạo, giữa cái chói lọi của màu đỏ hoa đỗ quyên rừng. Quả thực,
nét trữ tình ấy đã khiến du khách ngỡ ngàng thích thú.
Cũng ở góc nhìn ấy, tác giả đã quan sát được sự thay đổi màu nước của dòng sông trong
hai thời điểm khác nhau. Ông đã tận mắt nhìn thấy những điều thật thú vị: “Mùa xuân dòng xanh
ngọc bích”, một sắc nước trong trẻo, thanh bình. Và “ Mùa thu, nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người đã bầm đi vì rượu bữa.” Lối so sánh ví von gợi hình gợi cảm của Nguyễn
Tuân luôn kích thích trí tưởng tượng của độc giả, khiến ta như có cảm giác đang được tận mắt
chứng kiến sự biến ảo diệu kì của mặt nước dòng sông, như chứng kiến từ cái giây phút làm
mình làm mNy mỗi độ thu về đến cái sắc xuân ngọc ngà, quyến rũ của của Đà giang.
Với Nguyễn Tuân, đi tìm kiếm và khám phá cái đẹp, phải khám phá đến tận cùng tuyệt mĩ
của nó. Khám phá sông Đà cũng vậy, chỉ một góc nhìn trên cao mà con người nghệ sĩ ấy đã phải
bay qua bay lại mấy lần cho tường tận. Hơn nữa, ông còn khám phá sông Đà ở những góc nhìn
độc đáo khác. Bởi vậy mà người đọc luôn ngạc nhiên và thú vị trước vẻ đẹp đa dạng của dòng
sông miền Tây Bắc ấy.
Với điểm nhìn mang đầy tâm trạng của một người đi rừng lâu ngày ra chợt bắt gặp sông
Đà ngay trước mắt, sông Đà lại hiện lên thật ấn tượng.
Trước hết đó là cái ấn tượng mạnh đến giật mình của sự lấp lánh mặt nước lòng sông. Nó
sáng lóe lên niềm vui, như thức tỉnh, như bừng sáng. “Mặt nước loang loáng như trẻ con nghịch
chiếu gương vào mắt rồi bỏ chạy”. Hình ảnh so sánh sinh động khiến sông Đà hiện ra thật nhí
nhảnh hồn nhiên đến ngỡ ngàng. Nó khác hoàn toàn với cái vẻ độc dữ, tai ác của mặt nước sông
ở khúc thượng nguồn, lúc nào cũng gầm gừ, dọa nạt…
Cùng với sự trong trẻo hồn nhiên của mặt nước lòng sông là cảnh đẹp thơ mộng yên bình
ở hai bên bờ: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà. Chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà.” Không gian
của một miền hoang dại, mang hương đồng gió nội ấy như một phần thưởng ngọt ngào cho
những tay lái kiên cường vượt thác lũ. Không lãng mạn sao được khi cả dòng sông đã trở nên
thơ mộng trữ tình đến thế. Người lái đò không phải căng mắt, chắc tay trước những thủ đoạn
nham hiểm của Đà giang ở khúc thượng nguồn, mà lúc này, họ được thả hồn phiêu lưu êm ái
cùng sự yên ả của lòng sông.
Cảnh đẹp dòng sông đã khiến lòng người mê đắm. Nguyễn Tuân đã không ngần ngại
nhận định bằng một câu văn gọn gàng, quả quyết: “Con sông Đà gợi cảm”, và nó gợi cảm đến
mức nhà văn phải thốt lên:“ Chao ôi! Trông thấy con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì
mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.” Đã bao giờ dòng sông lại trở nên gợi cảm cho
con người đến thế. Đó không còn là cái cảm giác đắm say một thiên nhiên tươi đẹp mà đó còn là
niềm vui gặp gỡ để thỏa nỗi nhớ nhung, là cái cảm giác “đằm đằm ấm ấm” khi đứng trước một
cố nhân. Với những người đi từ rừng ra, sông Đà như một thế giới khác tươi đẹp tràn đầy ánh
sáng, xua tan cái âm u, lạnh lẽo chốn thâm sâu, đem đến những cảm xúc tích cực. Bằng những so
sánh liên tưởng thú vị, tác giả đã đem đến cho người đọc cái nhìn thật mới lạ về một dòng sông
xa xôi nơi thượng nguồn Tây Bắc.
Chỉ với đoạn tùy bút ngắn ngủi hẳn sẽ không thể thấy hết được chất tài hoa nghệ sĩ của
con người luôn đam mê tìm tòi sáng tạo ấy, nhưng quả thực Nguyễn Tuân đã cho người đọc thấy
vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Đà qua đôi mắt người nghệ sĩ đầy tài hoa, uyên bác mà phóng
túng đa tình. Một Sông Đà biến ảo đa tính cách, đem đến những cảm xúc phong phú và sâu sắc
cho người đọc. Quả thực, cái đẹp của Sông Đà là cái đẹp tuyệt đỉnh khiến lòng người say đắm và
khát khao khám phá.
Bằng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cảnh vật tài tình, sử dụng các thủ pháp so sánh, nhân
hóa sinh động, giàu hình ảnh, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp con sông Đà qua góc nhìn từ trên cao
đến đi từ rừng ra thật độc đáo, ấn tượng. Đoạn trích góp phần làm nên thành công của tùy bút,
ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ hoang sơ vừa thơ mộng trữ tình. Đọc những
dòng tùy bút của Nguyễn Tuân, ta vừa trân quý chất tài hoa nghệ sĩ của nhà thơ, vừa thêm yêu
mến những cảnh đẹp của mọi miền đất nước thân yêu.

ĐỀ 4:
Đọc đoạn văn bản sau:
…”Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chi ấy bóp
chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn
kẹp lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tia, đánh đòn
âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá
xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn
vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã cầm chắc binh pháp của thần sông thần đá.
Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ
hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang
hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy cái luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một
đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định
níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại
sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sống thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu
khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tỉu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng
thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa
hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng
đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi
tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác…
(Trích Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2015, tr 189 – 190)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về quan điểm
nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện qua đoạn trích trên.
BÀI LÀM
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn
Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Suốt cuộc đời sáng tác, Nguyễn Tuân luôn khát khao
tìm kiếm và khám phá cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ
bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc năm 1958 –
một hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc . Bằng
sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền
Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông
nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận
vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua
đoạn văn sau đây:
“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới [… ] thế là hết thác”

“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao
tướng dữ quân tợn, “Xưa nay chưa từng có” – cảnh tượng hiếm gặp, trước sau chưa có. Bằng
ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp – Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình
tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.
Ông khách sông Đà tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng cNm
thạch: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân
gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông “lêu nghêu” như cây sào, chân ông
“khuỳnh khuỳnh”; nhỡn giới ông “cao vời vợi”, giọng ông “ồ ồ” như tiếng thác nước mặt
ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy – Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con
người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.

Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa qua
tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng sông
Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá. Chính vì vậy trong trận
thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa.
Đoạn văn thứ nhất – Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên.
Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuNn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận địa với bốn
cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ,
oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước
khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: “reo hò”, “bệ
vệ”, “oai phong lẫm liệt”, “hất hàm hỏi”, “thách thức”… người đọc cảm nhận được không khí
trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của
Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn
đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích
“giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với
bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn
thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng
“đội cả thuyền lên”. Giáo viên Phan Danh Hiếu – Một loạt động từ được Nguyễn Tuân huy
động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo
của thiên nhiên: “ùa vào”, “bẻ gãy”, “đá trái”, “thúc gối”, “đội”,… Bị tấn công bất ngờ nhưng
người lái đò vẫn bình tĩnh.
Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ
mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng
đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay
xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy
bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa
bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”.
Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn
dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ
huy chiếc thuyền vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà thì ở
đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự thông minh,
linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò
chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập
đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó
khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường
sông nước, người lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật
phục kích của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi
luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng sông
Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò
đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở
đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo
từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí và tài
năng ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón
đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ
mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng
song toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít
cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu
vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải
đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến
chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng
thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa
trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa
tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”.
Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò:
“phóng”, “chọc thủng”, “xuyên qua”, “xuyên nhanh”, “lái được”, “lượn được”… sự thần tốc
trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi
thường. Quả là “Đọc “Người lái đò sông Đà”, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng,
của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái
thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục, khNu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến
mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”.
Trên con đường tác nghệ thuật của mình, Nguyễn Tuân luôn là người nghệ sĩ ưa tìm tòi
khám phá những vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Trước cách mạng, nhà văn hướng cây bút
của mình ngợi ca những vẻ đẹp mang nét văn hóa cổ xưa đã bị mai một với những nhân vật
truyện là người anh hùng thất thế. Ông quay lưng với thực tại, trốn vào quá khứ để được đắm
mình trong những cái đẹp đã mất… Nhưng, sau cách mạng, văn của Nguyễn Tuân đã có nhiều
đổi mới trong quan điểm nghệ thuật. Ông giúp con người hiểu rằng, cái đẹp có thể tồn tại ở cả
những điều tưởng chừng bình thường nhất. Ông lái đò là một người lao động vô danh, ở chốn
hoang sơ đã được nhà văn khám phá và tôn vinh như một người anh hùng, người nghệ sĩ trên
sông nước Đà giang, đó là một cái nhìn đầy mới mẻ và tích cực trong ngòi bút của nhà văn. Phải
chăng, chính vì thế mà bút lực của Nguyễn Tuân sau cách mạng càng trở nên dồi dào ở những
tác phNm kí chăng?
Qua đoạn trích, ông lái đò hiện lên là một con người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có
phong thái ung dung, nhàn nhã mà đầy trí tuệ. Ông chính là hình tượng con người lao động là
biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Qua đó, ta thấy
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao
động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong
tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác
của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa
nay chưa từng có”.

ĐỀ 5: Trong tuỳ bút Ngườỉ lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân đã hai lần miêu tả hình ảnh người lái
đò. Đó là
“Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục lách
của lũ đá nơi ải nước hiếm trở này”.
Và:
Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá
dầm xanh [...] Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ảỉ
nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi.
Phân tích hình ảnh ông lái đò trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, hãy làm nổi bật vẻ đẹp của
nhân vật này và làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng: “Nguyễn
Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách để kiếm tìm và
phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình sáng tạo. Tuỳ bút Người
lái đò Sàng Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và
con nguời Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể
mờ phai về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp
của một chiến binh sông nuớc với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một nguời
nghệ sĩ trên mặt trận vuợt thác leo ghềnh, nhưng đó cũng là lão đò thật dung dị trong cuộc sống
thuờng nhật
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại, ông có nhiều những thành tựu nghệ
thuật xuất sắc. Đặc biệt, ông tạo lập đuợc cho mình đuợc một phong cách nghệ thuật độc đáo:
văn chuơng tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá
thế giới ở bình diện văn hóa, thNm mỹ, luôn miêu tả con nguời trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Người láỉ đò Sông Đà - tùy bút xuất sắc đuợc in trong tập Sông Đà (1960) là thành quả của một
chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã
thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc.
Và như Nguyễn Tuân từng nói, ông đã tìm thấy chất vàng nơi thiên nhiên, nhưng với con
người đó là thứ “vàng mười”, chất vàng không pha lẫn, lấp lánh trong đất trời Tây Bắc hùng vĩ.
Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà đã làm bật lên ánh sáng lấp lánh đó, mà đại diện cho người lao
động nơi đây là lão đò tóc bạc. Trong thiên tuỳ bút, hai lần nhà văn mô tả ông lái đò trong hai
góc nhìn rất khác nhau, khi là: “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã
thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Lúc thì: “Đêm ấy nhà đò đốt lửa
trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ cá dầm xanh... Cũng chả thấy ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa
rồi”.
Vị trí 2 trích đoạn nằm ở các phần khác nhau của tác phNm, trích đoạn một đã miêu tả hình
ảnh ông lái đò vượt trùng vi thạch trận số hai trên thác đá sông Đà, và đoạn hai là hình ảnh khi
ông đò đã vượt qua cửa ải nước, họ nhóm lửa trong hang đá và bàn về cá dầm xanh, cá anh vũ.
Nhưng trước khi hiểu sâu hơn về tay lái nở hoa qua hai góc nhìn rất khác về cùng hình tượng
ông lái, Nguyên Tuân đã có những trang văn vô cùng đặc săc mà tạc dựng lại bức chân dung lao
động tiêu biểu miền Tây này. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn
đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cNm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay
rắn chắc: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy
một cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Ngoại hình của người
lái đò còn được miêu tả gắn với những dấu tích trên thân thể và mỗi dấu tích là một thành tích,
một sự kiện lịch sử của cuộc đời ông lão đã âm thầm lặng lẽ lập lên. Trên ngực của ông nổi lên
một số “củ nâu” thương tích trên “chiến trường Sông Đà” - một “thứ chương lao động siêu
hạng”.
Khó có thể trộn lẫn nhân vật được miêu tả này với những người 70 tuổi khác, làm nghề
nghiệp khác. Một ngoại hình gắn với sức lực phi thường với cuộc sống chèo đò vượt thác đã
thấm vào trong máu thịt và thể hiện ra trong từng động tác ngay khi cuộc sống đang diễn ra bình
thường. Và đẹp nhất là lúc ông lái đò chinh phục con thuỷ quái Sông Đà. Lão đò sẵn sàng đối
mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, vượt qua trận thuỷ chiến với đá chìm, đá nổi,
với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua bằng những
hành động táo bạo và chuNn xác. Ông hiện lên như một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm: ở trùng
vây thứ nhất, sông Đà đã tung ra những cú đánh tới tấp, phủ đầu, bao gồm luôn cả những đòn
hiểm, và những kẻ “non tay” sẽ gục ngã ngay từ tuyến đầu này. Phải bằng chữ “Dũng”, sự quả
cảm, người lái đò mặc dù đau đớn và thương tích, ngay cả lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch
đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây thứ 2
này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Nhưng ông đò đã “nắm chắc quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi
chiến thuật theo, nhận ra cạm bẫy của bọn thuỷ quân nơi cửa ải nước này. Có thể nói ở trùng vi
này, chữ “Trí” chính là vũ khí mà ông đò dùng để khắc chế con thuỷ quái. Hãy đọc những dòng
văn tuỳ bút, mà ta cảm tưởng như được lạc vào thế giới của sử thi, truyền thuyết: “cưỡi lên thác
Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi,
ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết
một đường chéo vào cửa đá ấy”. Người lái đò tả xung, hữu đột như một chiến tướng dày dạn
kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua tập đoàn cửa tử
khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn nhưng bên phải bên trái đều là luồng chết cả, cửa
sinh lại nằm giữa lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước
mưu mô hiểm độc của bọn chúng, tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3. Ông
bằng đôi bàn tay tài hoa đã vượt qua cửa ải nước hiểm độc.
Thế nhưng, khi vượt qua gian nguy, sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ sông nước lại
thanh bình. “Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, và toàn bàn tán về cá
anh vũ, cá dầm xanh... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua.”
Đoạn viết về đêm hang đá tràn ngập chất trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời
thường ở quá khứ ở phía trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều
lãng mạn ngọt ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành con người ông lái.
Có thể thấy, ông lái đò hiện lên giản dị đời thường như bao người lao động giản dị trên miền Tây
Bắc, âm thầm làm việc và cống hiến, đó là vẻ đẹp của những con người khiêm nhưòng, xem
vượt thác sinh tử như một phần trong đời sống, nên không có gì mà phải đáng bàn.
Hình ảnh ông lái đò trong hai đoạn, tương đương với hai cảnh tưởng chừng như là hai con
người hoàn toàn khác nhau. Khi vượt thác, ông hiện lên như một anh hùng, một kỵ sĩ mà nắm
mọi bờm sóng sông Đà, vẻ đẹp của ông ánh lên chất sử thi, truyền thuyết. Còn trong đêm hang
đá, ông dung dị, khiêm nhường như bao người lao động vô danh lặng lẽ. Thế nhưng, đó là những
khía cạnh khác nhau của 1 bức chân dung lao động miền Tây Bắc, chất “vàng mười” đã qua thử
lửa mà Nguyễn Tuân tìm thấy trên vùng nắng gió của miền Tây.
Thể hiện hai khía cạnh tưởng chừng đối lập đó, là quan niệm của Nguyễn Tuân về người
nghệ sĩ tài hoa là người lao động rất đời thường mà vô cùng phi thường. Nguyễn Tuân đã bị
người lao động sông Đà mê hoặc. Nhà văn đã tung hết vốn chữ nghĩa của mình để miêu tả hình
ảnh người lái đò sông Đà đầy trí dũng chiến đấu với thác nước sông Đà hung hãn đầy mưu mô
xảo quyệt. Nhưng lại rất đỗi bình dị trong cuộc sống đời thường, chất riêng có đó khiến nhà văn
say mê. Nếu ví lái đò là một bộ môn nghệ thuật thì người lái đò chính là người nghệ sĩ trên mặt
trận vượt thác leo ghềnh, là tay lái ra hoa trên dòng sông Đà hùng vỹ, là anh hùng lao động trong
thời đại mới.

ĐỀ 6:
“…Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình mà đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám
mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ nước
Sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của nước Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước sông Đà
lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người
bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà là đen như thực dân
Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng cái tên Tây láo lếu, rồi cứ như thế
mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn
Sông Đà như nhìn một cố nhân. Chuyến ấy ở từng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ
thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc
núi, thấy trước mắt loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi
nhìn thấy cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu”. Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm Sông Đà. Chao ôi, trông
con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
dừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc
dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bắn tính
và gắt gỏng thác lũ ngay đấy…”
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân – SGK Ngữ Văn 12, Tập 1, NXBGD HN, 2016).
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng con Sông Đà, từ đó hãy nêu những nhận xét
khái quát về cái tôi của Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích. (vận dụng cao)
HƯỚNG DẪN:
* Giới thiệu tác giả, tác phNm
- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, là một nhà văn có cá tính độc
đáo, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.
- Nét nổi bật trong phong cách của Nguyễn Tuân là ở chỗ, Nguyễn Tuân luôn nhìn sự vật ở
phương diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phNm chất nghệ sĩ và tài hoa. Sáng tác của
Nguyễn Tuân thể hiện hài hòa màu sắc cổ điển và hiện đại. Đặc biệt, ông thường có cảm hứng
mãnh liệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.
- Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông
Đà nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng còn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc
đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm
giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả
năng làm lay động người đọc nhiều nhất.
* Phân tích hình tượng của con Sông Đà – con sông trữ tình
a) Góc nhìn từ trên cao (máy bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân
- Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và duyên dáng.
- Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc
mĩ miều.
* Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi
đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong
cách so sánh rất cụ thể:
- Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh
- Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái
màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
- Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân Pháp đã “đè
ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo Sông Đen.
* Góc nhìn từ bờ bãi sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”
- Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng
như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn nhiên và trong
sáng
- Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về
Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
- Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu vườn cổ tích “bờ sông
Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
-> nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời
gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
* Nhận xét về cái tôi của Nguyễn Tuân trong đoạn trích
+Cái tôi tài hoa nghệ sĩ – suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp
+Cái tôi luôn có cảm hứng mãnh liệt với những cái tuyệt mĩ
+Cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước
* Tổng kết

ĐỀ 7: Có ý kiến cho rằng: sông Đà nói chung và Người lái đò Sông Đà nói riêng tiêu biểu cho
phong cách của Nguyễn Tuân không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên
tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay
động người đọc nhiều nhất. Anh/chị hãy làm sáng tỏ qua đoạn trích dưới đây:
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi
lên. Tiếng nước thác nghe như là oản trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa no lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng. Tới cải thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả
một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhôm cả dậy để vồ lấy thuyền.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một trong chín tác gia lớn của văn học nuớc nhà. Nói đến tác gia văn học, ta
hiểu rằng nếu thiếu vắng đi họ, ta khó hình dung đuợc diện mạo của bức tranh văn học, và
Nguyễn Tuân chính là một góc cạnh, một màu sắc nổi bật của bức tranh đó. Sở truờng của
Nguyễn Tuân là tuỳ bút, là ông vua tuỳ bút mà chẳng ai có thể vuợt qua, đặc biệt khi độc giả đã
bị đóng đanh vào trí nhớ hình ảnh con Sông Đà, vuơn chảy từ mờ mịt chốn non cao Tây Bắc, mà
đổ vào trang văn Nguyễn Tuân đẹp kì vĩ, lạ lùng. Đặc biệt khi nhà văn đã dồn bao vốn liếng và
bút lực cho đoạn tả thác đá Sông Đà: “... Còn xa lắm... một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền”. Vì vậy mà có nhà nghiên cứu đã khẳng định: “Sông Đà nói chung và Người ỉảỉ đò
Sông Đà nói riêng tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân không quản nhọc nhằn để cố
gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa
xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất.”
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại, ông có nhiều những thành tựu nghệ
thuật xuất sắc. Đặc biệt, ông tạo lập đuợc cho mình đuợc một phong cách nghệ thuật độc đáo:
văn chuơng tài hoa, uyên bác. Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá
thế giới ở bình diện văn hóa, thNm mỹ, luôn miêu tả con nguời trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Người lái đò Sông Đà – tùy bút xuất sắc đuợc in trong tập Sông Đà (1960). Là thành quả của
một chuyến đi gian khổ nhung rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 – 1960. Chuyến đi
đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc,
tìm ra thứ “vàng muời” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc. Vị trí trích
đoạn nằm ở phần I của tác phNm – khắc hoạ nét tính cách hung bạo của con Sông Đà ở thượng
nguồn, mà nổi bật nhất là thác đá – khu tử địa hiểm hóc nhất người lái đò phải vượt qua.
Người lái đò Sông Đà tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân không quản nhọc nhằn để
cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề, nhằm tìm cho ra những chữ
nghĩa xác đáng nhất, có khả năng làm lay động người đọc nhiều nhất: Trước hết, cần khắng định
tuỳ bút Người lái đò Sông Đà rất tiêu biểu cho phong cách: uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân.
Cái uyên bác khi ông đã tung nhiều vốn liếng của nhiều ngành nghề khoa học mà dựng nên “kỳ
quan” Sông Đà. Cái tài hoa chính là khả năng truyền cảm hứng, gợi liên tưởng đầy những bất
ngờ, độc đáo, làm lay động người đọc nhiều nhất.
Để dựng lại cái thác đá hung hiểm, nhà văn đã biến đoạn này giống như một cuốn phim đầy
sinh động, đặc sắc để truyền lại cảm hứng chân thực, sống động nhất cho độc giả. Làm được như
vậy, nhà văn đã áp dụng kỹ thuật của nghệ thuật điện ảnh khi ông miêu tả: từ xa đến gần, từ âm
thanh đến hình ảnh, từ khái quát đến cận cảnh. Trước hết là cái thác đá khi còn ở xa, được cảm
nhận qua thính giác. Từ rất xa, những luồng âm thanh đã vọng lại: “van xin”, “khiêu khích”,
“gằn”, “chế nhạo”. Có thế nói, không như cách miêu tả âm thanh thông thường, với những từ
chỉ âm thanh để miêu tả tiếng nước thác như ầm ầm, rào rào... mà nhà văn lại sử dụng những từ
chỉ trạng thái, thái độ của con người để gán lên âm thanh tiếng nước thác. Với cách dịch chuyển
này, nhà văn đã đem lại cho người đọc cảm giác, ở xa kia, không còn là thác nước nữa, chờ đón
con thuyền chính là con quái vật hung hăng, đầy hiểm ác. Đặc biệt hơn, các từ này được tăng
dần lên theo cấp độ, từ van xin đến gằn và chế nhạo nghĩa là ngày một hung hãn hơn, tác dụng
thứ nhất của nó là làm cho độc giả như đang hình dung sự chuyển động của con thuyền, ngày
một đến gần hơn với con thác dữ, do đó mà âm thanh ngày một rõ, lớn hơn. Thứ hai, với sự tăng
tiến này, nhà văn đã gây cho người đọc sự hồi hộp, cái tò mò, kích thích ngày một cao.
Thác đá khi lại gần đã biến thành một tổ hợp trường đoạn âm thanh khủng khiếp chưa từng
thấy. Nó đem đến sự giật thột, cái bàng hoàng trước luồng âm thanh va đập, phóng thẳng vào
màng nhĩ. Đi bóc tách các luồng âm thanh này, ta sẽ thấy lần lượt hiện lên: là tiếng rống của
hàng ngàn con trâu mộng đang hoảng sợ: tiếng rống là âm thanh lớn, âm vực cao, nhưng không
phải một mà là hàng ngàn, sự cộng hưởng đông đảo đó làm cho âm thanh xé toang cả không
gian; là tiếng nổ của rừng vầu, tre, nứa bị cháy: với cấu tạo đặc biệt là rỗng ruột, khi cháy, vầu,
tre, nứa sẽ có tiếng nổ lớn; là tiếng xèo xèo của da trâu cháy và đặc biệt nhất đó là bước chân
chạy của những con trâu mộng đang hoảng sợ, giẫm đạp, phá tuông, hoảng loạn. Ta có thể hình
dung ra ngay khung cảnh hỗn loạn đó, với thân hình to lớn, đồ sộ, lại đông đảo, cùng chạy khỏi
rừng lửa, những bước chân trâu không chỉ làm nên âm thanh, nó còn làm chấn động, làm chòng
chành, rung chuyển cả không gian trên bờ, dưới mặt. Qua mô tả âm thanh, có thể nói, chưa cần
phải nhìn, ta đã cảm nhận được sự kỳ vĩ của thác đá Sông Đà. Và bằng nghệ thuật miêu tả độc
đáo: lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, Nguyễn Tuân đã cho ta thấy sức mạnh của ngòi bút tài
hoa, của trí tưởng tưởng tuyệt vời, của một bản lĩnh hiếm ai có.
Thác đá qua cảm nhận thị giác, khi diện kiến “đối thủ nặng ký” nhất với người lái đò, quả
thực là một cái thác vĩ đại. Chỉ bằng câu văn: “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đả” đã
giúp ta cảm nhận được cả độ cao của thác và tính chất lòng sông. Để sóng bọt tung trắng xóa cả
không gian, trước hết thác phải rất cao, thứ hai lòng sông phải toàn đá, có như vậy độ va đập khi
nước chạm lòng sông mới làm văng lên những bọt nước, mới trắng xóa, che lấp cả tầm nhìn gần.
Nhưng ấn tượng hơn là cụm từ “chân trời đá”. Cụm từ này nói lên hình ảnh thật kỳ vĩ, bằng
góc nhìn ra xa, lên cao, đến tận cuối chân trời, không nhìn thấy chân mây, hay mặt đất quen
thuộc, mà chỉ thấy lổm ngổm, ngổn ngang toàn đá là đá, đá vươn dài, bò đến tận chân trời. Đó là
thác đá, khúc ác hiểm nhất, là chiến trường mà người lái đò sẽ phải chiến đấu đế giành giật sự
sống.
Trong cái nhìn cận cảnh, nhà văn đã soi chiếu đến từng cảnh, thổi hồn vào từng hòn, từng thớ
đá. Đá ở đây ngàn năm mai phục, lũ đá Sông Đà chính là những binh tướng lão luyện, dạn dày
qua hàng trăm trận đánh, qua hàng nghìn năm tích lũy kinh nghiệm, do đó mà vô cùng dũng
mãnh. Sở trường của chúng là Nn nấp, mai phục. Thế đòn hiếm của đá là biết chồm cả dậy để vồ
lấy thuyền, vô cùng bất ngờ, đNy đối phương vào thế bị động. Cách miêu tả của nhà văn thật kỳ
thú, trong hình dung của ông, sự dập dềnh của sóng nước phủ lấy đá, làm đá lúc Nn, lúc chồi như
sự mai phục, như thể đá biết nhào, vồ những con thuyền.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tùng khẳng định: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người
nghệ sĩ”. Và rất nhiều ý kiến khác nói về sự nhọc công của ông trong công việc viết lách, mỗi
trang văn là một sự dụng công, một tinh thần trách nhiệm cao độ. Nguyễn Tuân đã huy động cả
nghệ thuật văn chương lẫn các hình thức nghệ thuật khác như hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân
khấu, vũ đạo, điện ảnh... Ông thường sử dụng nghệ thuật điện ảnh khiến cho những trang văn
như phập phồng, tạo sức gợi. Nguyễn Tuân còn vận dụng cả nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào
là “cửa sinh cửa tử”, “đánh khuýp vu hồi”, “đảnh du kích”, “phục lách”, “đánh giáp lá cà”,...
Cho nên nhà phê bình Lã Nguyên đã gọi ông là “nhà văn của những hình dung” hay nói cách
khác, đọc văn Nguyễn Tuân không chỉ thuần ngẫm về ý nghĩa, thấu cái hay của câu chữ. Đọc
văn Nguyễn Tuân, thấy bao hình ảnh ập đến, bao hình tượng nổi hình, tạo khối, va đập, bao xúc
cảm trào dâng chính bởi sự am hiểu nhiều ngành nghề, cách so sánh và liên tưởng độc đáo đã
thổi hồn cho chữ. Chất tài hoa của Nguyễn Tuân còn ở cách sử dụng và huy động vốn Tiếng Việt
thật tài tình. Không phải ngẫu nhiên mà Tố Hữu đã gọi Nguyễn Tuân là bậc “chuyên viên cao
cấp của Tiếng Việt”.
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái
hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi
sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên và là một
công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.

ĐỀ 8:
Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà ”, nhà văn Nguyễn Tuân có viết:
“…Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp
chặt bộ hạ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng
ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm
vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền
sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong
cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây
thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã
thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm
cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, của sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này
tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương
lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo
về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân của ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa
thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền.
Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc
dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa và đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái
thuyền đã đánh trúng vào của sinh nó trấn lấy. Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu về
của con thác. Cứ phóng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh
khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được…. ”
(Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét
về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
BÀI LÀM:
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn. Ông được mệnh danh là đại thụ
trong rừng đầu nguồn văn chương Việt Nam thế kỉ XX. Dù sáng tác ở thể loại truyện ngắn hay
tùy bút thì các tác phNm của ông đều hướng đến khám phá cái đẹp tuyệt đỉnh, siêu việt của thiên
nhiên và con người bằng ngòi bút tài hoa, phóng túng và uyên bác vô cùng. “Người lái đò sông
Đà” của ông là một thiên tùy bút tiêu biểu, một khúc ca đầy hào hứng về mảnh đất và con người
Tây Bắc. Cùng với hình tượng dòng Sông Đà hùng vĩ, thơ mộng, là hình ảnh người lái đò trên
sông nước đầy tráng kiện và tài hoa tuyệt đỉnh được nhà văn khắc họa thật dộc đáo. Đoạn trích
sau đã thể hiện tập trung nhất vẻ đẹp hình tượng ông lái đò Lai Châu mà tác giả đã có dịp tiếp
xúc: “…”
Trong chuyến đi thực tế lên vùng cao Tây Bắc những năm 1958 – 1960, Nguyễn Tuân
thực sự đã trở thành người giàu có khi ông đã khám phá ra những mỏ vàng, mỏ quặng không
phải chỉ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc mà đó là thứ “vàng trong tâm” con người nơi đây.
Giữa bao nhiêu của chìm của nổi ở mảnh đất hoang sơ ấy, nhà văn có cái nhìn đặc biệt trân trọng
và ngưỡng mộ những người lái đò trên sông Đà. Với ông, họ đều là những thỏi vàng nguyên
chất của một khối vàng xã hội chủ nghĩa đã qua thử lửa, “thứ lửa mà không một thoi vàng giả,
một cục vàng pha nào chịu nổi.” Hẳn rằng, trong tùy bút của mình, ông đang chứng minh cho
độc giả thấy chất vàng mười rắn rỏi, quý giá ở ông lái đò chở chè người Lai Châu. Từ đặc điểm
vóc dáng đến nét tài hoa trí dũng của ông đều khảm vào tâm trí người đọc như một bức phù điêu
sống động và hài hòa. Đó là ông lão tuổi đã gần bảy mươi với “cái đầu bạc quắc thước và thân
hình cao lớn, gọn quánh như chất sừng chất mun”. “Cánh tay ông dài lêu nghêu như cây sào”,
“chân khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Nhãn giới ông vòi vọi như
lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù”. Vẻ đẹp của thứ vàng trong tâm hồn
ông đò đã được tôi luyện qua “lò lửa” sông Đà và hiện lên đầy ấn tượng qua đoạn vượt ba trùng
vi thạch trận trên sông.
Trước hết, đó là vẻ đẹp của tình yêu lao động, lòng nhiệt huyết với nghề và dày dặn kinh
nghiệm sông nước của ông lái đò. Làm nghề lái đò chuyên chở hàng hóa dọc sông Đà vô cùng
vất vả, “người lúc nào cũng dựng đứng lên, phải luôn mắt, luôn tay, luôn chân, luôn gân và luôn
tim nữa”. Biết là thế nhưng ông đã từng gắn bó với nó suốt 10 năm liền. Ông từng ngược xuôi
hơn trăm lần, chính tay giữ lái cũng 6 chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sáu chèo.
Ông thuộc lòng sông Đà như thuộc bản trường ca đến từng dấu chấm, dấu phNy, dấu chấm than
và cả những đoạn xuống dòng. Ông nhớ như đóng đinh vào lòng những con thác, những mặt
ghềnh và thậm chí là bộ dạng ngỗ ngược của những hòn đá trên sông. Đặc biệt ở đoạn sông
nhiều thác ghềnh phía Sơn La, sông Đà dàn bày thạch trận với ba trùng vi, ông đò nắm rõ quy
luật phuc kích của chúng và nhớ mặt, nhớ vị trí của từng hòn, từng tảng. Sự chú ý, quan sát tỉ mỉ,
kĩ lưỡng và ghi nhớ chính xác từng đặc điểm dòng sông của ông đò vừa cho thấy sự nghiêm túc
với công việc vừa thấy lòng say mê, tâm huyết với nghề của ông.
Cuộc vượt thác sông Đà dưới ngòi bút miêu tả độc đáo của Nguyễn Tuân trở nên sống
động như một cuộc chiến đấu sinh tử, mà ở đó, ông đò Lai Châu hiện lên đẹp đẽ như một người
anh hùng trên sông nước. Giữa trận đồ bát quái, thiên la địa võng đang bủa vây các tay chèo, “
Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy
hạ bộ người lái đò”, thì ông đò vẫn “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt
méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”. Như
một chiến binh dũng cảm, ông đò vẫn kiên cường chiến đấu với quân liều mạng ấy dù cơ thể có
chịu nhiều thương tích. Khó khăn nguy hiểm đối với một người lái đò ưa mạo hiểm lại không
đáng sợ bằng những lúc “dại tay, dại chân và buồn ngủ” khi qua những khúc sông không có thác.
Dường như, sông Đà càng dữ tợn càng khiến người chèo đò phấn khích mà bộc lộ hết cái khí
chất anh hùng của mình: “Trên chiếc thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn
tỉnh táo của người cầm lái.” Đó là hình ảnh của một con người với sức khỏe phi thường và luôn
trong tâm thế chủ động, ngang tàng khi xung trận.
Người dũng tướng sông Đà ấy ở cái tuổi thất thập cổ lai hi vẫn còn dám thách thức các tay
đò đầy khNu khí: “tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà”
ông dám khẳng định mình còn đủ linh lợi để chở đoàn cán bộ khảo sát một vòng sông Đà. Cái
khNu khí ấy hẳn sẽ làm yên lòng du khách trong khoang thuyền khi cùng ông vượt qua ba trùng
vi thạch trận đầy hiểm hóc trên sông. Du khách chưa kịp định thần thì cái thuyền đã lọt qua trùng
vi thứ nhất trong tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác. “Trùng vi thứ nhất có năm cửa trận, bốn
của tử và một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”. Không một phút nghỉ tay, nghỉ
mắt, ông đò phải phá luôn các vòng vây tiếp theo của sông Đà. Thủy quái sông Đà đã đánh lừa
chiếc thuyền, đánh lừa trí não của người lái đò bằng cách bày bố các cửa sinh, cửa tử lắt léo
không theo quy luật nào: trùng vi thạch trận thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn sông. Và ở trùng vi thứ ba, ít cửa
hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sống lại nằm ở giữa, lập lờ cánh mở cánh
khép. Phải là người có cái đầu thép mới đủ tỉnh táo và sáng suốt để vượt qua những thử thách
đầy nguy hiểm của Đà giang. Càng dấn thân vào các trùng vi thạch trận, cơ hội sống càng ít ỏi,
chỉ cần một chút khinh suất tay lái thì cả người và thuyền sẽ tan xác. Nhưng ta thực sự ngỡ
ngàng và thán phục trước sự kiên cường dũng cảm của ông đò. Nhìn cái cách ông lái thuyền
băng qua các trùng vi thạch trận mà ngỡ như người kị sĩ đang thuần phục con mãnh thú bất
kham. Sóng sông Đà “hồng hộc tế mạnh như hùm beo”, đá trên sông như lũ hải tặc gớm giếc.
Ông lái đò vẫn hiên ngang, chủ động điều khiển chiếc thuyền đương đầu với thử thách trên sông
nước. Ta thấy thoáng hiện ở hình tượng ông lái đò vẻ đẹp hào hùng của vị Phù Đổng Thiên
vương cưỡi ngựa thần nhổ tre đánh giặc.
Bằng hàng loạt các động từ mạnh như: cưỡi lên thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì cương
lái, phóng nhanh, lái miết…,“rảo bơi chèo”, “đè sấn lên mà chặt đôi ra”, tác giả đã tái hiện thật
sinh động cuộc chiến đấu không cân sức giữa thiên nhiên hùng vĩ hung tợn sông Đà và ông lái
đò, mà trong cuộc chiến ấy, con người nhỏ bé, đơn độc vẫn giành phần thắng đầy vinh quang.
Người đọc như đang được xem một thước phim hành động gay cấn, với những cảnh quay ngoạn
mục, mạo hiểm đến thót tim: giữa những âm thanh gầm réo ghê rợn của thác, của sóng, giữa bao
nhiêu tướng dữ quân tợn đá lớn đá bé, ông lái đò vẫn không hề nao núng tinh thần: “Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó”, và đánh trúng vào cửa sinh mà thoát hiểm. Quả thực,
hình tượng người dũng tướng sông Đà không chỉ được xây dựng bằng những hiểu biết sâu sắc về
phNm chất những tay đò trên Tây Bắc của Nguyễn Tuân mà còn bằng cả niềm ưu ái đặc biệt của
ông dành cho họ - những con người lao động thầm lặng mà dũng cảm phi thường, họ trở thành
biểu tượng của cái đẹp trong quan niệm thNm mĩ tiến bộ của nhà văn.
Nhưng trên hết, trong cái nhìn của Nguyễn Tuân, ông đò Lai Châu mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh
không phải chỉ ở sự trí dũng vô song, mà còn là cái đẹp đạt tới trình độ nghệ thuật, cái đẹp toát
ra chất tài hoa nghệ sĩ. Đọc đoạn miêu tả cảnh ông đò vượt thác, ta vừa thấy cái cứng cỏi, bản
lĩnh của một chiến binh, nhưng cũng thấy ở ông hình ảnh của người nghệ sĩ xiếc đi mô tô bay,
chỉ khác là phương tiện biểu diễn của ông là chiếc thuyền đuôi én sáu bơi chèo, không có cần số,
không có tay phanh, không thể lùi được như ô tô, xe máy; nơi biểu diễn không phải là ánh đèn
sân khấu hào nhoáng mà ngay giữa thiên thiên hùng vĩ, giữa đời thường. Với tay chèo lão luyện,
ông điều khiển chiếc thuyền nhẹ tênh, lướt đi như không qua các chướng ngại vật trên sông. Lúc
nhu, lúc cương: lúc “đè sấn” lên đá mà chặt đôi ra, lúc lại tránh mà rảo bơi chèo”. Nhịp nhàng
và chính xác đến từng tích tắc khi đối diện với đội quân sóng hung hãn: “Vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên
vừa tự động lái được, lượn được.” Không hề căng thẳng, ông đò vẫn bình tĩnh, tỉnh táo và phong
thái kiêu bạc lạ thường. Dường như công việc chèo đò với ông không phải chỉ là nghề lao động
mà đó còn là một thú vui, một sở thích ăn vào máu của ông vậy.
Hình tượng ông lái đò người Lai Châu đã góp vào bộ sưu tập chân dung những con người
có vẻ đẹp siêu việt, toàn mĩ trong những trang văn của Nguyễn Tuân – một nhà văn luôn miệt
mài trên con đường tìm kiếm, khám phá và tôn vinh cái đẹp tuyệt đỉnh. Nếu như trước năm
1945, nhà văn duy mĩ ấy chỉ đi tìm cái đẹp trong quá khứ, bởi không tin vào thực tại thì sau thời
điểm này, “Cách mạng là sự đổi đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp
và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời” (Nguyễn Đình Thi). Cùng với chất ngông vốn có
Nguyễn Tuân đầy phấn khích khi khám phá ra giá trị cuộc sống ngay ở thực tại, chỉ việc xách ba
lô lên và đi. Mỗi chuyến đi ông đã nhặt về cho mình bao nhiêu quặng, bao nhiêu vàng, thứ vàng
lắng đọng trong tâm mình. Đó là niềm tin yêu tha thiết những con người lao động lặng thầm như
ông đò Lai Châu ấy. Người nghệ sĩ đam mê cái đẹp, cái tài lại gặp gỡ một ông lái đò tài hoa
nghệ sĩ thì sung sướng nào bằng. Bởi thế mà nhà văn cứ việc phóng bút mà ghi lại cái thăng
hoa trong cảm xúc của mình. Từ việc sử dụng ngôn từ độc đáo, những hình ảnh so sánh, nhân
hóa tạo liên tưởng thú vị, đến sự huy động kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực như thể thao, võ thuật,
quân sự, điện ảnh… tất cả đều hướng đến mục tiêu tôn vinh cái đẹp của người lao động giữa đời
thường. Với ông, hẳn rằng thước phim đẹp nhất, nghệ thuật nhất là thước phim cắt ra từ đời
thực, mà diễn viên chính phải là con người thực mang vẻ đẹp tuyệt đỉnh, siêu phàm. Đó cũng là
quan điểm nghệ thuật táo bạo và đầy nhân văn của Nguyễn Tuân.
Đoạn trích cảnh vượt ba trùng vi thạch trận trên sông Đà khép lại hành trình chinh phục
thiên nhiên ở khúc thượng nguồn của ông lái đò nhưng để lại thật nhiều xúc cảm đẹp đẽ trong
lòng người đọc. Ta không chỉ cảm thấy ngưỡng mộ tài năng, khí chất anh hùng, nghệ sĩ của ông
lái đò nói riêng, của những người lao động thầm lặng ở mọi miền Tổ quốc nói chung mà còn
thấy khâm phục tài năng sử dụng ngôn từ, xây dựng hình tượng của ngòi bút Nguyễn Tuân. Tác
phẩm “Người lái đò Sông Đà” đã góp phần ngợi ca con người mới, cuộc sống mới trong thời kì
đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đồng thời cũng góp phần thể hiện quan niệm thẩm mĩ
tiến bộ và thông điệp đầy chất nhân văn: Dù bất kể bạn là ai, bạn làm nghề gì, hãy cứ sống hết
mình, luôn tâm huyết với nghề nghiệp bạn chọn, bạn sẽ trở thành nghệ sĩ!

AI ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG


( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
ĐỀ 1: Có ý kiến cho rằng: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người
sáng tác phải có phong cách nôi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác
phẩm của mình”. Hãy làm sáng tỏ điều đó bằng cảm nhận của anh/chị về những đoạn văn sau:
[...] Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân... Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi
vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về...
(Nguyễn Tuân - Người lái đò Sông Đà)

[...] Từ tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản đế sac nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền
xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang
nhiều màu sắc trên nên trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người
Huế thường miêu tả ...
(Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ai đã đặt tên cho dòng sông?)
BÀI LÀM :
Nước ta được thiên nhiên ưu ái ban tặng cho hệ thống sông ngòi dày đặc. Có những dòng
sông “quê hương, yêu thương” đầy thơ mộng, kỳ vỹ và nó đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận
cho các nhà văn, nhà thơ viết lên những tác phNm văn học nghệ thuật xuất sắc. Tiêu biểu là tùy
bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân và bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng
Phủ Ngọc Tường. Thành công của hai tác phNm trên chính là việc xây dựng hình tượng hai con
sông là Đà giang và Hương giang. Ở hai con sông này, bên cạnh những nét khác biệt, chúng còn
có những nét tương đồng. Đây phải chăng là sự gặp gỡ của hai nhà văn lớn khi cùng miêu tả về
các con sông khác nhau trên mảnh đất Việt Nam. Đặc biệt với cảnh sông Đà từ góc nhìn trên tàu
bay trong Người lái đò Sông Đà và cảnh sông Hương ở ngoại vi thành phố trong Ai đã đặt tên
cho dòng sông?, ta đều thấy bật lên được sự tài hoa trong từng ngòi bút, như một nhà phê bình
đã từng nhận xét: “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đảo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác phải
có phong cách nối bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phẩm của
mình”
Nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhắc đến nhà văn có phong cách độc đáo và đặc biệt
sở trường về thể loại bút kí, tùy bút. Tác phNm của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chất trí tuệ và trữ tình; giữa nghị luận sắc bén với trình bày giàu chất thơ và sự vận dụng tống
hợp tri thức triết học, địa lí, lịch sử, văn hoá... Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc
Tường thường hướng nội, súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa. Bút kí Ai đã đặt tên cho dòng
sông? được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời
với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phNm được in trong tập bút kí cùng tên năm
1986. Ban đầu, tác giả đặt tên là: Hương ơi, e phải mày chăng? Vị trí trích đoạn thuộc phần đầu
của thiên tùy bút, là một trong những trích đoạn hay nhất khi nhà văn miêu tả con sông Hương ở
ngoại vi thành phố.
Còn nhắc đến Nguyễn Tuân, điều đầu tiên phải khẳng định, đó là nhà văn lớn của nền văn
học hiện đại. Nguyễn Tuân tạo lập được cho mình được một phong cách nghệ thuật độc đáo: văn
chương tài hoa, uyên bác. Ông là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình
diện văn hóa, thNm mỹ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Người lái đò Sông
Đà - tùy bút xuất sắc được in trong tập sông Đà 1960. Là thành quả của một chuyến đi gian khổ
nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 - 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát
khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra thứ “vàng mười”
đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc. Vị trí trích đoạn trích là khúc Nguyên
Tuân say sưa miêu tả Đà giang phía hạ nguồn, qua góc nhìn trên tàu bay.
Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi
bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong các tác phNm của mình. Có thể nói, nghệ
thuật nói chung, văn chương nói riêng là lĩnh vực của cái độc đáo, độc đáo trong việc đi tìm cái
đẹp của cuộc sống để tạo nên tác phNm, trong việc sáng tạo nên cái đẹp, cái riêng của tác giả ở
tác phNm. Tác phNm nghệ thuật nói chung, tác phNm văn chương nói riêng đòi hỏi sự sáng tạo,
mới lạ, độc đáo, thể hiện tài năng, dấu ấn cá nhân của tác giả. Nếu nhà văn không chịu tìm tòi,
không đào sâu, khám phá, khơi những nguồn chưa ai khơi, nhà văn đó sẽ là một bản sao của kẻ
khác. Trong làng văn, Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là cây đa cây đề, là
những kẻ tiên phong trên hành trình văn chương nhiều vinh dự mà cũng lắm cực nhọc.
Trước hết với Hoàng Phủ Ngọc Tường qua cái nhìn về dòng Hương giang ở ngoại vi
thành phố, có ai đã từng tưởng tượng về một dòng sông như thế này: “Từ tuần về đây, sông
Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc
Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành
quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta
luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng
con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả ...”
Sông Hương ở ngoại vi thành phố miêu tả lại thuỷ trình của dòng sông khi chảy về với
Huế, nhưng trong cảm quan nhà văn, đó là cuộc hành trình của người con gái Hương giang tìm
đến với người tình xứ Huế. Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp được tô điểm qua thử thách. Khi
chảy qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, giống như là một bể lọc lớn, để nước sông
Hương trở nên xanh thẳm, phải chăng giống như người con gái, sông Hương đang tự làm mới
mình. Khi trôi qua những dãy đồi sừng sững, sông Hương phải uốn dòng chảy, và qua hướng
chảy lắt léo đó, sông Hương đã phô ra được những đường cong quyến rũ của nó. Tại nơi đây,
sông Hương mềm đi như một dải lụa. Đặc biệt hơn, khi uốn mình qua hai dãy đồi sừng sững như
thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời
tây nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hay nói cách khác, những ngọn đồi ấy đã
tạo nên chiếc áo màu sắc để khoác lên mình người con gái Hương giang. Khiến cô gái ấy thêm
phần lộng lẫy và xinh đẹp.
Với Nguyễn Tuân, khi nhìn từ tàu bay, góc nhìn có thể bao quát hết sắc diện Đà giang,
những dòng liên tưởng và miêu tả phóng khoáng đã bung nở trên trang văn xuân sắc hơn bao giờ
hết: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương
xuân... Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gầm sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về...”
Từ trên cao nhìn xuống, quả là điểm quan sát thật lý tưởng để có thể thu vào tầm mắt dòng
chảy Sông Đà. Nguyễn Tuân đã đưa ra hai liên tưởng vô cùng mới mẻ, chưa từng thấy về hình
dáng con sông. Có lẽ, từ điểm nhìn rất cao, hình ảnh Sông Đà đã hóa thành sợi dây thừng ngoằn
ngoèo, và khi tàu bay hạ xuống, dòng sông đã hóa thành áng tóc trữ tình tuôn dài tuôn dài. Liên
tưởng dòng sông như mái tóc óng ả để buông lơi, chảy dài đến bất tận. Hoa ban trắng, hoa gạo
đỏ đôi bờ bung nở như nhánh xuân cài lên mái tóc, lại Nn hiện mờ ảo trong sương khói Tây Bắc,
đó là vẻ đẹp rất thơ, vẻ đẹp của người thiếu nữ bước ra từ cõi tiên, mà mái tóc nàng làm bừng
hương sắc, xao động đất trời. Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo.
Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn
Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà
xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc
bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của
nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi
vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng
phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung
được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Cách miêu tả sắc đỏ màu thu Sông Đà của Nguyễn
Tuân cũng thật độc đáo. Đỏ bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang trong mình chút hồng
hào, pha vào đó sắc phù sa, lại không đục ngầu, màu sắc ấy còn mang dáng hình của kẻ say, hay
là vì người đã quá say dòng sông, quá mê đắm cảnh sông nước Tây Bắc.
Điểm gặp nhau giữa Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường: là đi tìm cái đẹp và thể
hiện cái đẹp bằng ngòi bút tài hoa, độc đáo tạo được nét riêng, mới lạ qua hình ảnh dòng sông.
Qua những đoạn văn, hai tác giả thể hiện nét tài hoa, độc đáo trong phong cách nghệ thuật của
mình, sự tỉ mỉ, kỳ công khi khắc hoạ hình tượng. Tuy nhiên, như ý kiến bàn luận, mỗi nhà văn
đều tạo nên bầu khí quyển riêng trong hình tượng và phong cách. Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác
luôn nhìn sự vật, hiện tượng ở nhiều góc độ để khám phá, phát hiện; vận dụng kiến thức của
nhiều lĩnh vục, tổng hợp cảm nhận của các giác quan để khám phá đối tượng. Tất cả làm nên
phong cách Nguyễn Tuân vừa độc đáo vừa phong phú. Dưới ngòi bút tài hoa của cụ Nguyễn,
sông Đà như một công trình thNm mĩ, một kì công nghệ thuật mà thiên nhiên ban tặng con người
với hai đặc điểm: hung bạo, dữ dội và thơ mộng, trữ tình.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nn trong câu chữ biến hóa là vẻ đẹp lấp lánh ánh sáng trí
tuệ, tri thức và cả chất phong tình, tài hoa, lãng mạn từ tâm hồn nhà văn. Tất cả làm nên một
ngòi bút độc đáo, sâu sắc mà tràn đầy cảm xúc... Trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường là khám
phá của tác giả về vẻ đẹp vừa “phóng khoáng và man dại” vừa “dịu dàng và say đắm” của dòng
sông, là kết quả của trí tưởng tượng đầy tài hoa. Cảnh sông ở đây được khắc họa với những hình
ảnh đầy ấn tượng bằng năng lực quan sát tinh tế và sự phong phú về ngôn ngữ, phố là lối hành
văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa của sông Hương qua phép nhân hóa khi miêu tả dòng
chảy và cách đặc tả màu nước phản quang hai bên bờ và thay đổi trong ngày.
Có thể nói, bằng sự tinh tế, bằng sự khám phá và cái Tôi đầy trách nhiệm với nghiệp cầm
bút, hai nhà văn đã góp cho đất nước những cảnh đẹp không lặp lại, trở thành những tượng đài
ký khó có thể phai mờ.

ĐỀ 2: Trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả vẻ đẹp
của sông Hương:

• thượngnguồn: “Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của
rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác,
cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và
say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.”

Khi về đến thành phố Huế: “sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc
của vùng ngoại ô Kim Long”; “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến;
đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu”; “Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; “sông Hương đã trở thành một người
tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.”

Hãy phân tích những chi tiết trên để làm nổi bật nét đặc sắc trong hành trình của sông
Hương. Từ đó nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
BÀI LÀM:

* Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác phẩm Ai đã
đặt tên cho dòng sông và vấn đề nghị luận: vẻ đẹp của sông Hương qua
hai đoạn văn.
* Phân tích hai đoạn văn
- Sông Hương ở thượng nguồn:
+ Sông Hương là một bản trường ca của rừng già mang vẻ đẹp hùng vĩ với
sức sống mãnh liệt, sự hoang dã đầy ấn tượng.
+ Sông Hương mang một vẻ đẹp lãng mạn, dịu dàng, giàu sức quyến rũ và
bí Nn.
+ Sử dụng thủ pháp điệp cấu trúc với những động từ, tính từ giàu sức biểu
đạt đã tạo nên âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng của con sông trong mối
quan hệ với rừng già.
- Sông Hương khi về đến thành phố Huế:
+ Sự thay đổi trong cảm xúc của dòng sông khi đã tìm được đúng đường
về.
+ Sông Hương mang dáng điệu mềm mại trữ tình, tính cách dịu dàng, kín tuệ và giàu tính nghệ
thuật
đáo của người con gái Huế.
+ Sông Hương mang điệu chảy lững lờ, bởi tình cảm dành riêng cho Huế
quá sâu đậm.
+ Sông Hương gắn liền với văn hóa Huế, mang vẻ đẹp tâm hồn sâu sắc, trí
* So sánh hai đoạn văn và nhận xét về nghệ thuật miêu tả của Hoàng Phủ
Ngọc Tường.
- Giống nhau: hai đoạn văn đều nói đến vẻ đẹp của sông Hương, đặc biệt
đều chú ý khắc họa vẻ đẹp nữ tính của dòng sông.
- Khác nhau: + Ở thượng nguồn: khám phá phần đời bí mật, hoang dại
+ Ở thành phố Huế: khám phá vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
- Nhận xét về nghệ thuật miêu tả:
+ Lựa chọn những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu, đắt giá để miêu tả vẻ đẹp
của sông Hương.
+ Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu.
+ Khả năng quan sát tinh tế, trí tưởng tượng phong phú.
+ Vốn hiểu biết sâu rộng cùng cới sự say mê vẻ đẹp sông Hương của
Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Đánh giá, khái quát lại vấn đề
- Khẳng đinh vẻ đẹp độc đáo của hình tượng sông Hương, dòng sông
hoang dã vừa trữ tình.
- Khẳng định sự độc đáo, tài hoa trong phong cách nghệ thuật của Hoàng
Phủ Ngọc Tường.

VỢ CHỒNG A PHỦ ( Tô Hoài )


ĐỀ 1: Cảm nhận chi tiết nghệ thuật giọt nước mắt A phủ trong đêm mùa đông ở Hồng Ngài, để
từ đó làm nổi bật bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo mà nhà văn Tô Hoài gửi gắm trong Vợ
chồng A phủ.
BÀI LÀM:
Nếu chỉ dừng lại ở tác phNm Dế mèn phiêu lưu ký, nhà văn Tô Hoài đã rất nổi tiếng, đã
làm được cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “để đời” đối với nghiệp cầm bút. Thế nhưng,
nhà văn Tô Hoài không dừng lại chú “dế mèn” mà còn đi xa hơn. Chặng đường văn chương đã
dẫn ông đến với nhiều miền đất xa xôi, nhưng hiếm có mảnh đất nào để thương, để nhớ cho Tô
Hoài nhiều như Tây Bắc. Vợ chồng A phủ chính là kết quả của niềm thương, nỗi nhớ đó. Đặc
biệt, đọc truyện ta không thể nào quên chi tiết giọt nước mắt lấp lánh của A Phủ trong đêm mùa
đông - giọt nước mắt trong đêm lạnh buốt nhưng làm ấm lại một trái tim băng giá.
Tô Hoài - nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nguyễn Sen là tên khai
sinh của ông, là người con của mảnh đất Hà Thành văn hiến nhưng ông lại được sinh ra và có
tuổi thơ gắn với làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông chính là quê ngoại của Tô Hoài.
Là nhà văn giỏi về phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong tục tập
quán, tác phNm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi
vốn từ vựng giàu có. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết
về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phNm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A
Phủ in trong tập Truyện Tầy Bắc (1954) là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ
đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phNm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực,
tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiếu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong
kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
Chi tiết văn học hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là những biểu hiện, những tình tiết
góp phần xây dựng lên cốt truyện, đồng thời thể hiện được tư tưởng chủ đề của truyện. Đối với
những tình tiết đặc sắc trong tác phNm còn có thể chứa đựng được những cảm xúc lớn lao, những
tư tưởng sâu sắc mà tác giả muốn truyền tải trong tác phNm của mình. Giọt nước mắt A Phủ là
một trong những chi tiết đặc sắc nhất trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Giọt nước mắt của A
Phủ không chỉ thể hiện cảm xúc của nhân vật khi cái chết đang cận kề mà còn mang sức mạnh
của sự thức tỉnh bởi chính giọt nước mắt ấy đã đánh thức sức sống tiềm tàng, khả năng phản
kháng tưởng chừng đã ngủ quên bên trong con người của Mị.
A Phủ là chàng trai khỏe mạnh, một người lao động giỏi, chỉ vì đánh nhau với con trai
Thống lí mà A Phủ buộc phải trở thành người ở trừ nợ cho gia đình thống lí. Sống trong cuộc
sống của con trâu con ngựa nhưng A Phủ không bao giờ bi quan trước cuộc đời, anh vẫn nỗ lực
vươn lên, làm việc chăm chỉ để mang đến những lợi ích cho gia đình Thống lí. Tuy nhiên, do sơ
ý để hổ bắt mất một con bò của Thống lí mà A Phủ bị trói đứng ở giữa sân, bỏ mặc đói rét suốt
mấy ngày liền mà theo nhận thức của Mị thì chỉ đêm nay, đêm mai người kia sẽ chết, một cái
chết đầy đau đớn. Cũng giống như A Phủ, Mị là cô gái xinh đẹp nhưng gia cảnh nghèo hèn nên
đã phải trở thành con dâu trừ nợ cho gia đình thống lí. Xét về địa vị, Mị là con dâu của Thống lí
Pá Tra, vợ của A Sử nhưng trong thực tế Mị chỉ là một người ở đợ không hơn không kém, cô
phải làm việc quần quật ngày đêm như con trâu con ngựa, sống lâu trong sự đày đọa đã khiến Mị
mất đi khả năng phản kháng, sống cam chịu như con rùa nuôi trong xó cửa. Trong những ngày A
Phủ bị trói đứng ngoài sân, đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay, cũng chính hoàn cảnh này
đã làm cho Mị chứng kiến giọt nước mắt của A Phủ. Sống trong gia đình Thống lí, Mị thường
xuyên chứng kiến cảnh những con người bất hạnh bị trói đứng đến chết, do đó lúc đầu khi thấy
A Phủ phải trói đứng ở sân Mị chỉ dửng dưng, vô cảm. Sau mọi nỗ lực tự giải cứu mình nhưng
không thành, trong nỗi bất lực, tuyệt vọng đến cùng A Phủ đã khóc. Đúng lúc ấy Mị thức dậy
thổi lửa hơ tay và chứng kiến cảnh giọt nước mắt đang bò trên hõm má của A Phủ. Giọt nước
mắt ấy có sự tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Mị, mang đến những thay đổi lớn bên trong
người đàn bà bất hạnh ấy.
Dòng nước mắt của A Phủ được nhà văn miêu tả trong câu văn đầy sức gợi tả: “một dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Hãy đọc kỹ câu văn để
thấy nhà văn đã miêu tả về A Phủ, một chàng trai vốn sức vóc, khỏe mạnh, ngang tàng, hổ chẳng
biết sợ, dám đánh cả con quan. Ấy vậy mà giờ đây, sau nhiều đêm bị trói và bỏ đói, thân thể
cường tráng ấy giờ kiệt quệ đi, và lộ ra trên hai hõm má, làn da đã xám đen lại, như cái xác sắp
héo khô. A Phủ đã như một cái xác rồi, chỉ duy nhất một thứ để nhận ra A Phủ còn sống đó chính
là giọt nước mắt. Nhưng dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một
thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận, giọt nước mắt của sự đau đớn, khi nhận ra
mình đang bờ vực của sự sống, cái chết.
Giọt nước mắt của A Phủ, đó là niềm cảm thương trước số phận nô lệ rẻ rúng, và đó còn là
sự căm phẫn những thế lực cường quyền chà đạp con người. Mỗi chúng ta, khi đọc đến chi tiết
này hẳn rằng sẽ dấy lên cái căm phẫn. Không căm phẫn sao được khi mạng người bị rẻ rúng đến
vậy, sự hành hạ tra tấn sao tàn ác đến vậy. Thế nhưng ta rất cần quan tâm đến một nhân vật ở đây
chịu tác động mạnh mẽ, khi giọt nước mắt của chàng trai ngang tàng kia chảy xuống. Có thể nói,
nước mắt A Phủ đã chạm đến trái tim Mị, làm tan đi giá băng của trái tim Mị. Đã thức dậy trong
Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến
mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần
khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Lòng Mị dấy lên sự căm phẫn:
“Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết
người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó
thật độc ác”. Từ “chúng nó” ở đây, hiện lên trực tiếp những cái tên như Pá Tra, A Sử, đó là
những cái tên mang tính đại diện, nhưng sâu hơn, “chúng nó” chính là những kẻ thống trị, bọn
chúa đất miền núi đã đày đọa những kẻ như Mị, A Phủ. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết
ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược
dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại
ở đây.
Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Mị nghĩ đến thân
phận mình, là đàn bà, bị cúng trình ma, Mị có chết cũng là tất yếu, là lẽ vốn phải vậy, nhưng A
Phủ đâu bị kiếp như vậy, sao lại phải chết, sao bị ép đến chết, sao mạng người quý thế, lại chỉ
đánh đổi ngang giá với một con bò. Mị tự thương cảnh ngộ mình; thương A Phủ trên bờ vực
thẳm, khi tử thần đã gõ cửa: “Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói,
chết rét, phải chết”. Mị nghĩ về thân phận mình, tưởng như là cam chịu: “Ta là thân đàn bà, nó
đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi...” Thương người
cùng khổ, cùng cảnh ngộ. Mị đã đi đến hành động rất nhanh: cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng A
Phủ bỏ trốn. Hành động ấy là hành động đồng thời phản ánh quá trình thức tỉnh và đấu tranh của
Mị. Đấu tranh vì Mị đã dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đấu tranh để tìm đến tự
do, thoát khỏi địa ngục đọa đày.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, qua chi tiết giọt nước mắt A phủ, ta thấy được tài năng
trong tạo dựng tình huống, khắc hoạ chi tiết, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật của một ngòi bút
bậc thầy. Tô Hoài qua Vợ chồng A Phủ, qua những chi tiết đã cài trong tác phNm như: nắm lá
ngón, sợi dây trói, giọt nước mắt A Phủ đã phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị miền núi, mà ở đây
là thống lý Pá Tra và A Sử. Những tên chúa đất độc ác, tàn nhẫn, vô nhân tính. Chúng dùng sợi
dây thần quyền và cường quyền để trói chặt và hành hạ con người. Tác phNm cũng đã vẽ nên bức
tranh của người dân miền núi Tây Bắc trước cách mạng, đó là sự tối tăm, ngột ngạt. Nhưng qua
đó, tác giả cũng đã dựng nên quá trình đấu tranh của họ, vùng lên để giành tự do, giành quyền
được sống, giành quyền làm người. Và cuối cùng, đó là tiếng nói thương cảm, sự cảm thông sâu
sắc của nhà văn đối với số phận bất hạnh của người dân lao động miền núi. Phát hiện vẻ đẹp
trong tâm hồn của họ: lòng khát khao tự do, yêu đời, yêu người và tinh thần phản kháng.
Giọt nước mắt A Phủ chảy xuống, sáng lấp lánh trong ánh lửa bập bùng nơi non cao, đó là
giọt nước mắt vô cùng hiếm hoi mà ta tưởng như không thể ngờ tới. Giọt nước mắt của người
sắp chết đã đánh thức tâm hồn của một con người tưởng như đã chết. Trong cái chết, những
người dân lao động Tây Bắc càng bùng lên khát vọng sống mãnh liệt. Hành trình của Mị, của A
Phủ đã trải bao đau thương, giọt nước mắt họ đã chảy bao lần, để đến lúc này, gạt nước mắt đi,
họ đứng dậy giải phóng, phá tan xiềng xích thắt chặt để chạy đến với miền đất hứa.

ĐỀ 2: Đọc đoạn văn bản sau:


… “Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt
ngồi đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên
bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người
mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình
giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường. Mị từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.
Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nãy Mị thấy
phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ. Mị vẫn còn
trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị, không
có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho
chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi
A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi
bịt cái khăn trắng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người
con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói.
Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng.
Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị
với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử
nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.”
(Trích Vợ chồng A Phủ - Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 – Trang 7,8)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về ngòi bút
nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
BÀI LÀM:
Có một nhà văn mà mỗi lần đọc tác phNm của ông là một lần ta bước vào một thế giới đa
dang của cuộc sống, của ngôn từ của những xúc cảm chân thực, đời thường. Đó là nhà văn mang
bút danh Tô Hoài – một người nghệ sĩ có sức sáng tạo dồi dào, mãnh liệt. Nhà thơ Trần Đăng
Khoa đã từng nhận xét: “Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông như cuốn Bách
khoa toàn thư mà không Viện sĩ nào, không Học giả nào có thể sánh được.”Không chỉ là người
am hiểu về mảnh đất Hà Nội ngàn năm văn hiến, mà mỗi chuyến đi thực tế sáng tác còn là cơ hội
để nhà văn mở mang, làm dày thêm vốn hiểu biết về phong tục tập quán của nhiều vùng miền
đất nước. Và chuyến đi dài tám tháng lên với Tây Bắc xa xôi đã trở thành chuyến đi đáng nhớ
không chỉ trong cuộc đời tác giả mà đó còn là một “chuyến phiêu lưu” đầy ý nghĩa của độc giả
nhiều thế hệ theo bước chân Mị, bước chân A Phủ từ Hồng Ngài đến Phiềng Sa. Ai đã một lần
đọc “Vợ chồng A Phủ” – một truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài – hẳn sẽ không thể quên một cô
gái Tây Bắc có số phận bất hạnh mà luôn âm ỉ một sức sống tiềm tàng. Đoạn trích sau đã khắc
họa thật ấn tượng sự trỗi dậy sức sống trong tâm hồn Mị:
“Ngày tết, Mị cũng uống rượu…A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.”

Câu chuyện về cuộc đời Mị là câu chuyện mà người dân nghèo ở Hồng Ngài còn nhớ mãi.
Từ một cô gái trẻ trung xinh đẹp, yêu tự do và tràn đầy sức sống, Mị đã trở nên chai sạn, vô hồn,
cứ “lùi lũi như con rùa nuôi sau xó cửa” khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng
là con dâu nhưng Mị sống cuộc đời của một người ở không công, bị tước đoạt quyền tự do, bị
bóc lột sức lao động, bị chà đạp lên những ước mơ. Mị cũng từng khóc tới mấy tháng liền cho
bất hạnh của mình, từng sẵn sàng chết với nắm lá ngón trong tay, nhưng rồi vì thương cha mà Mị
chấp nhận sống kiếp đời trâu ngựa. Sức mạnh của cường quyền và thần quyền những tưởng sẽ
dập tắt được ngọn lửa của niềm ham sống trong người con gái nhỏ bé ấy. Nhưng không, trong
Mị vẫn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, một khát khao tự do đến cháy bỏng, chỉ cần có cơ hội,
nó có thể bùng lên mạnh mẽ và quyết liệt.
“Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội”.
Những tưởng gió rét sẽ làm lòng người thêm se sắt, sẽ chẳng còn nổi nhựa sống để yêu đời,
huống hồ là một người đã “quen cái khổ” như Mị. Nhưng đó lại là yếu tố đầu tiên tác động tới
tâm hồn Mị. Thời tiết khác lạ mà không khí đón xuân vẫn rộn ràng trước mắt Mị: những chiếc
váy hoa phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Tiếng trẻ con nô đùa. Và đặc biệt là tiếng
sáo ngoài đầu núi lấp ló vọng lại.
Các giác quan mở rộng, từ xúc giác đến thị giác rồi thính giác. Mị dường như đã hoàn
toàn thức tỉnh, như cái giây phút thức tỉnh đầy ý nghĩa của Chí Phèo sau những cơn say triền
miên vậy. Mị thấy thiết tha bổi hổi. Mị hát và lòng đầy xuân sắc.
Tiếng sáo, thứ âm thanh của tuổi trẻ, của tình yêu, của tự do đã ùa vào tâm hồn Mị, đánh
thức miền quá khứ đẹp đẽ một thời con gái trong Mị. Cảm nhận những cơn sóng lòng đang trỗi
dậy mạnh mẽ, “Mị lén lấy hũ rượu uống ực từng bát”. Uống cho thỏa cơn khát hay uống để chế
ngự những khát khao đang trào dâng? Hẳn là cách uống rất tâm trạng. Ta chợt nhớ cái cách Chí
Phèo uống rượu, hắn uống để quên đi sự đơn độc, uống để thấy mình mạnh mẽ hơn. Ở đây, rượu
đã khiến những khát khao của Mị trở nên mãnh liệt hơn, rượu đã đưa Mị vào thế giới khác với
cái thực tại ê chề, bế tắc cô đang sống. “Lòng Mị đang sống về ngày trước”, sống trong không
gian ngập tràn tiếng sáo.
Tiếng sáo ở hiện tại hòa vào tiếng sáo trong tâm tưởng. Tiếng sáo gọi bạn tình năm nào.
Mị không chỉ nhNm hát, mà mị còn uống rượu và thổi sáo. Dường như con người trẻ trung sôi
nổi đã trở về trong Mị, cô không còn lầm lũi, buồn bã nữa. Tô Hoài đã khéo léo trần thuật linh
hoạt, đan xen quá khứ hiện tại, với những câu văn ngắn gọn, tiết tấu nhanh tạo nên những mảnh
ghép tươi tắn chập chờn của hạnh phúc và những khát khao, của tự do và hi vọng…
Một con người khi không còn thiết tha với thực tại, họ thường hay tìm về quá khứ để vực
dậy những yêu thương. Tiếng sáo đã dẫn đường cho Mị trở về ngày trước, nơi đầy ắp những kỉ
niệm của tuổi trẻ, của tình yêu: “Mị thổi sáo rất giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. “Có biết bao
nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị nhớ những ngày xuân rạo rực ấy không phải
chỉ bởi Hồng Ngài đang ở những ngày xuân mà còn bởi đó là những ngày tháng đáng sống nhất
của Mị. Vượt lên trên sự cầm tù của cái nghèo cái đói, của món nợ truyền kiếp, Mị vẫn sống hết
mình với nguồn sinh lực tràn trề vốn có của tuổi trẻ. Tiếng sáo chính là nhịp cầu nối những mùa
xuân ngày trước với mùa xuân hiện tại, tiếng sáo thức tỉnh mùa xuân trong lòng Mị.
Mị vẫn cứ say, rồi Mị lịm mặt ngồi đấy cho đến khi “người về, người đi chơi đã vãn cả”,
lòng Mị vẫn sống về ngày trước. Vẫn cái vẻ ngoài lùi lũi như vô cảm, vô thức nhưng những tàn
lụi héo úa đang thực sự hồi sinh, những chai sạn đang dần dần tan chảy trong tâm hồn Mị. Mị
bước vào buồng, tiếng sáo vẫn theo Mị. Căn buồng có cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay lúc này
không cầm tù được những cảm xúc trong Mị. “Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng
đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước.” Sự thức tỉnh bất ngờ sau nhiều năm làm
dâu nhà thống lí khiến lòng Mị rạo rực, những xúc cảm chộn rộn của niềm vui sướng, sự hồi hộp
thổn thức lẫn cả những khát khao…
Hàng loạt những câu văn ngắn gọn được Tô Hoài sử dụng để diễn tả những suy nghĩ rất
sáng rõ của Mị “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Mị thực sự đã nhận thức
được giá trị của bản thân, nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống. Mị muốn bước ra khỏi căn
phòng như tù ngục để đến với không gian của yêu thương hò hẹn. Nhưng khi Mị vừa ý thức
quyền được vui chơi, quyền được tự do của mình thì cũng là lúc Mị nhận thức rất rõ tình cảnh éo
le của Mị: Mị đã thực sự bị cầm tù trong cái gia đình không biết đến yêu thương. Mị đau đớn và
muốn chấm dứt ngay cuộc sống không bằng chết ấy. “Giá có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị
sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa!”.
Quả thực, khi con người ở tận cùng nỗi đau, tận cùng sự tuyệt vọng, con người muốn được giải
thoát đến một nơi mà họ tin rằng sẽ không thể khổ sử hơn thế. Bởi vậy mà lúc này với Mị, nghĩ
đến cái chết cũng là một biểu hiện đầy đớn đau của niềm ham sống một kiếp cho ra người.
Những cảm xúc đối lập, vừa vui sướng vừa đớn đau cứ trào dâng trong lòng Mị khiến cô
không thể ngồi yên. Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường, tiếng sáo vẫn rập rờn
trong đầu Mị, nó nhắc nhở, nó níu kéo Mị ở lại với cuộc đời này. Cùng với men say, nó khiến Mị
trở nên mạnh bạo hơn, quyết liệt hơn. Từ suy nghĩ “muốn đi chơi” đến hành động “đến góc nhà,
xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn rồi chuNn bị váy áo cho một chuyến đi chơi, tất cả đều là bản năng
trỗi dậy, là nhu cầu chính đáng của con người. Mị không quan tâm tới sự có mặt của A Sử,
không sợ kẻ vũ phu tàn ác ấy bởi trong Mị lúc này chỉ còn một ngọn lửa khao khát tự do đang
bùng lên mạnh mẽ, đang nung sôi từng mạch máu trong cơ thể Mị.
Xắn thêm mỡ vào đĩa đèn không phải chỉ để khơi sáng không gian mà đó còn là sự khơi sáng
chính tâm hồn Mị, tiếp thêm sức mạnh cho Mị bứt thoát khỏi sự tù túng bế tắc ấy. Sự chuNn bị kĩ
lưỡng và đàng hoàng của Mị từ việc cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo càng cho thấy sự
điềm tĩnh, chín chắn trong hành động, sự tin tưởng quyết tâm thực hiện mong muốn chính đáng
của Mị. Mặc dù, tất cả đều diễn ra trước mắt A Sử là một sự liều lĩnh. Không phải Mị không
đoán biết hậu quả của sự nổi dậy ấy, mà bởi Mị trân trọng và muốn nuôi dưỡng những cảm xúc
đẹp đẽ vừa trở lại trong mình. Mị muốn một lần được thực hiện những mong muốn của bản thân
dù có thể bị dập vùi đau đớn. Đó cũng là một hành động liều lĩnh như cái hành động nhặt vợ của
Tràng trong câu chuyện “Vợ nhặt” của Kim Lân vậy. Phải chăng, khi con người nhận thức được
giá trị của hạnh phúc thì không gì có thể cản ngăn họ tìm đến, không thế lực nào có thể dập tắt
được những khát khao, ngay cả thần chết.
Vẫn cái nhìn đầy nhân ái và giàu lòng trắc Nn, Tô Hoài viết về những phận người khổ cực
nơi vùng cao Tây Bắc bằng tấm lòng trân trọng nâng niu. Họ nghèo đói, họ lạc hậu, họ khổ sở
đến chai lì đấy nhưng họ yêu tự do, trong họ luôn tiềm tàng sức sống bền bỉ, mãnh liệt vô cùng.
Mị đã trở nên chai sạn đến thế mà khi nghe tiếng sáo mùa xuân là lòng Mị đột nhiên vui sướng
và phơi phới trở lại. Đó là niềm tin mãnh liệt của Tô Hoài vào khả năng tự thức tỉnh của Mị cũng
như của những người lao động cực khổ ở miền cao. Họ không cần đến sự giác ngộ bởi trong họ
luôn sẵn niềm khát khao yêu cuộc sống. Đêm tình mùa xuân là đêm trõi dậy mạnh mẽ và quyết
liệt của Mị. Chỉ tiếc rằng, A Sử đã dập tắt ngọn lửa vừa kịp bùng lên ấy. Cường quyền đã lại trói
buộc Mị với đớn đau tủi nhục. Chẳng có gì dễ dàng cả. Chỉ là, sau cái lần liều lĩnh ấy, độc giả tin
tưởng Mị sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Và quả thực, đêm tình xuân chính là tiền đề cho một cuộc nổi dậy quyết liệt và triệt để của
Mị sau này, khi dũng cảm cầm chiếc dao nhỏ cắt nút dây mây cởi trói cho A Phủ và bỏ trốn.
Cuộc đấu tranh đơn độc của Mị với hai thế lực khủng khiếp của chế độ phong kiến miền núi Tây
Bắc mang ý nghĩa to lớn. Đó là khởi đầu cho một cuộc cách mạng lớn đang đến rất gần. Nếu như
Ngô Tất Tố xúi người nông dân miền xuôi nổi loạn thì Tô Hoài cũng góp thêm tiếng nói đấu
tranh cho người lao động vùng cao tự giải phóng.
Với tài miêu tả tâm lí nhân vật vừa tỉ mỉ vừa chân thực, cùng vốn hiểu biết phong phú và
sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn con người Tây Bắc, Tô Hoài đã tái hiện thật thành công sức
sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đoạn trích đêm tình mùa xuân nói riêng, trong cả thiên
truyện nói chung. Qua đó, người đọc không chỉ có thêm những hiểu biết về nếp sống, nếp suy
nghĩ của con người nơi ấy mà còn cảm mến và trân trọng biết bao những con người trong khổ
cực áp bức vẫn luôn khao khát hướng đến ánh sáng tự do, đấu tranh để giành lấy hạnh phúc
trong cuộc đời.Câu chuyện về cuộc đời Mị vẫn còn đó những suy tư cho kiếp người: không đấu
tranh liệu hạnh phúc có tự đến với mình?

ĐỀ 3: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích sau để thấy được sức sống
mãnh liệt của con người trong đấu tranh tìm đến tự do:
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. ..Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao
chạy xuống dốc núi.”
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến
chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng, Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu, các chị em trong
nhà mới bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.Chỉ chợp mắt được từng lúc Mị lại thức sưởi
lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng
lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng. Mới biết A Phủ còn sống.
Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng
ở đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử
chợt về thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi
như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng
lên. Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại. Thấy tình cảnh thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước, A Sử trói
Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ,
không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi,
nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm
mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về
trình ma rồi, thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế.
A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị
lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con
thống lý sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái
cọc ấy. Nghĩ thế, nhưng làm sao Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng
như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ
thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ
thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ
bỗng khuỵu xuống không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức
vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy
xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Sách giáo khoa Ngữ văn 12 - Tập 2 )
BÀI LÀM:
Mùa xuân này, Mị muốn xúng xính trong váy hoa
Không đi làm sao biết ngoài kia một mai là sương hay nắng toả
Cơ hội này Mị sẽ nắm lấy, Mị chẳng cần một ai dắt tay!
Hẳn những ca từ này không còn xa lạ với mỗi chúng ta, đó là một đoạn rap trong lời bài hát “Để
Mị nói cho mà nghe của nhóm nhạc DTAP, Thịnh Kainz, Kata Trần. Ca khúc với âm điệu vui
tươi và ca từ sôi nổi cuốn hút đã đem đến cho người nghe sự thích thú và tràn đầy phấn khích.
Mị trong bài hát thật rực rỡ trẻ trung và rạng ngời hạnh phúc, nhưng có đọc “Vợ chồng A Phủ”
của nhà văn Tô Hoài ta mới thấu hiểu số phận cuộc đời khổ cực cùng những đấu tranh dai dẳng,
bền bỉ để vươn tới tự do của Mị. Hẳn người đọc vẫn còn nhớ cô Mị trong cái đêm định mệnh của
cuộc đời với diễn biến tâm lí vừa phức tạp vừa bất ngờ mà rất chân thực qua đoạn trích sau:
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. ..Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao
chạy xuống dốc núi.”
Trong chuyến đi thực tế kéo dài tám tháng lên vùng cao Tây Bắc năm 1952 của mình, Tô
Hoài có dịp tiếp xúc, tìm hiểu về cuộc sống và tâm hồn người dân. Cùng với chất liệu hiện thực
và một cái nhìn đầy yêu mến những con người Tây Bắc kiên cường, nhà văn đã xây dựng hình
tượng nhân vật Mị mang vẻ đẹp riêng độc đáo. Đó là một cô gái trẻ đẹp, có phNm chất tốt,
nhưng cuộc đời đầy cay đắng. Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ nhà
thống lí Pá – tra. Cuộc sống của Mị thống khổ hơn trâu ngựa, bị bóc lột về sức lao động, bị cầm
tù về tinh thần. Từ một cô gái yêu tự do, vô tư, hồn nhiên, Mị trở thành người đàn bà chai sạn,
vô cảm, băng giá. Nhưng trong sâu thẳm con người ấy luôn Nn chứa một sức sống tiềm tàng
mãnh liệt. Ngọn lửa của niềm ham sống, ham ánh sáng tự do ấy cứ âm ỉ, và từng bùng lên nhưng
rồi lại bị dập tắt, cho đến khi Mị gặp A Phủ, chàng trai tự do phóng khoáng của núi rừng bị
thống lí tước đoạt quyền sống chỉ vì để hổ bắt mất một con bò.
Ta thấy rằng, đoạn trích bắt đầu bằng đoạn kể về Mị trong những đêm mùa đông. Mị sưởi
lửa suốt đêm. “ Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng không biết bao nhiêu lần. Các từ
ngữ chỉ thời gian “những đêm mùa đông”, mỗi đêm, các từ này cho thấy những hành động lặp đi
lặp lại trong cảm giác buồn bã, tẻ nhạt. Mị thổi lửa hơ tay hơ lưng không phải chỉ để chống trọi
lại vơi cái gió rét dữ dội khắc nghiệt của thời tiết mà còn để giữ mình không bị “chết héo” vì
những đêm mùa đông dài và buồn ấy.
Hình ảnh ngọn lửa, hành động sưởi lửa được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong một đoạn văn ngắn
càng cho thấy vai trò to lớn của ngọn lửa với cuộc sống quNn quanh, bế tắc của Mị. Ngọn lửa
như là người bạn tâm tình, như một liều thuốc an thần, như cái cọc neo cuối cùng để Mị bám vào
mà sống. Dường như, chỉ có hơi nóng của ngọn lửa mới đủ khiến tâm hồn băng giá của Mị
không bị hoại tử. Càng nói nhiều đến ngọn lửa, và việc sưởi lửa, ta càng thấm thía cái cô đơn,
lạnh lẽo trong tâm hồn Mị.
Sau đêm mùa xuân nổi dậy không thành ấy, Mị lại trở về với trạng thái vô cảm vô hồn.
Ngoài ngọn lửa, chẳng gì có thể khiến Mị quan tâm gắn bó.
A Phủ đã bị trói đứng ở cột nhà mấy đêm liền, ngay chỗ Mị dậy thổi lửa hơ tay hơ lưng. Nhưng
người đàn bà chai sạn ấy không mảy may nghĩ ngợi gì. “ Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”.
Không hề rủ lòng thương hại, thậm chí “ Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Thế
mới biết, sức mạnh của cường quyền, thần quyền ghê gớm như thế nào. Nó triệt tiêu ý thức về
quyền sống của con người , triệt tiêu cả tính người. Sống lâu trong cái khổ Mị không còn biết
đến khổ mà buồn, cũng không còn biết đến lòng thương với đồng loại. Đó cũng là một bi kịch
đau đớn của người nghèo ở vùng cao Tây Bắc trước giải phóng. Họ không nhận thức được đâu là
bất hạnh, đâu là nỗi đau thì làm sao còn ý thức đấu tranh?
Người con gái vốn trẻ trung sôi nổi ấy giờ còn không biết đến cả cảm giác đau đớn về thể xác
và nỗi nhục nhã về tinh thần. Mị bị A Sử đánh ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng sau Mị vẫn ra
sưởi như đêm trước”. đó không phải là cái kiên cường bám trụ của một con người ý thức được
hành động mình đang làm mà Mị lúc ấy chỉ giống như một con vật lành bị ngược đãi mà không
bỏ được thói quen cũ. Không sưởi lửa, Mị sẽ chẳng biết làm gì cho qua đêm dài…
Tô Hoài càng đậm tô những biểu hiện của sự chai sạn cả về suy nghĩ, hành động và cảm
xúc của Mị thì độc giả sẽ càng ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước sự hồi sinh kì diệu của Mị
Không phải do tiếng sáo gọi bạn tình lấp ló ngoài đầu núi mà lại là “một dòng nước mắt lấp
lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ đã làm tan chảy khối băng trong tâm hồn
Mị. Vẫn là ngọn lửa quen thuộc “bập bùng sáng lên” soi cho Mị nhìn thấy A Phủ khóc – điều Mị
chưa từng tưởng tượng ra, nó tác động mạnh mẽ hơn cả khi nhìn thấy cái xác chết đứng đó. Phải
chăng, bởi đó là giọt nước mắt hiếm hoi của một người đàn ông, họ chỉ khóc khi ở tận cùng của
tuyệt vọng? A Phủ yêu tự do và luôn sống tự do, phóng túng, anh không tin rằng chỉ vì mất một
con bò mà thống lí có thể tước đoạt cả tự do, cả mạng sống của anh. Khi nhận ra đó là sự thật
đang đến rất gần mà bản thân không có cách nào giải thoát mình, A Phủ đã khóc. Khóc cho
những tháng ngày tự do không còn nữa, khóc cho một cuộc đời bị chấm dứt quá đỗi vô lí. Giọt
nước mắt của uất hận, tuyệt vọng, đớn đau.
Ai đó từng nói, nước mắt là miếng kính làm biến hình vũ trụ - quả thực, dòng nước mắt
của A Phủ đủ sức mạnh để đánh thức lòng trắc Nn trong người phụ nữ vô hồn kia. Mị “chợt nhớ”
mình đã từng rơi vào tình cảnh như A Phủ. Đau đớn nhất là “nước mắt chảy xuống miệng, xuống
cổ, không biết lau đi được”. A Phủ cũng vậy, anh không thể che giấu giọt nước mắt của mình bởi
anh cũng chẳng biết lau đi được. Thương thân mình là biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh trong
tâm hồn Mị. Cô cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau đớn và nhục nhã về thể xác của
mình trong suốt những năm tháng làm dâu khổ cực.
Lời kể từ gián tiếp đột ngột chuyển thành lời nửa trực tiếp với câu cảm thán đầy phẫn uất “
Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người
đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Một câu văn chất chứa cả những xúc cảm của người kể
và nhân vật, vạch trần sự tàn bạo có hệ thống, tác quái bao kiếp người của gia đình thống lí. Câu
nói cũng cho thấy sự tỉnh thức không phải chỉ ở cảm xúc mà còn ở nhận thức bản chất tội ác nhà
thống lí.
Mị nghĩ đến người đàn bà làm dâu năm xưa cũng chết ở cái nhà này. Và đó là kết cục mà
người đàn ông đáng thương kia phải gánh chịu, cũng như Mị, rồi sẽ “chết rũ xương” trong cực
khổ mà thôi. Tâm trí Mị được khai thông, Mị đã hiểu ra “chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra bản
chất của nhà thống lí và lên tiếng tố cáo bằng một sự căm giận đang dâng lên trong lòng. Sự thức
tỉnh của nhận thức sẽ là ngọn đuốc soi đường cho những hành động sau này của Mị.
Từ lòng đồng cảm sẻ chia và sự căm phẫn cái ác, cái xấu, Mị thấy thương A Phủ, cô hiểu
sự phi lí trong cái chết của anh khi so sánh với thân phận của mình. “Người kia việc gì mà phải
chết thế.” Mị nghĩ mình có thể bị chết thế vào chỗ của A Phủ nếu A Phủ bỏ trốn, “Nghĩ thế,
trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không sợ”. Bởi lúc này, tình yêu thương, lòng nhân ái
trong con người Mị lớn hơn sức mạnh của cường quyền, thần quyền.
Hành động cắt đứt dây cởi trói cho A Phủ trở thành một hành động phản kháng, quyết liệt.
Lỗ Tấn từng nói “ một tia lửa nhỏ hôm nay, báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Ai đó cũng từng
so sánh, nếu như coi đêm tình mùa xuân là một tia lửa nhỏ, thì đêm cởi trói cho A Phủ là đám
cháy lớn, đám cháy bùng lên của khát vọng tự do, giải phóng thân phận con người. Thật chí lí.
Mị lần trong bóng tối đến cắt dây cho A Phủ. “Lần lần đến lúc gỡ được hết dây trói ở
người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng.” Mị đã ý thức rất rõ về hậu quả việc làm của mình. Hoàn
toàn trái ngược với suy nghĩ trước đó rằng nếu phải chết thay cho A Phủ Mị cũng không sợ, lúc
này, lòng khao khát sống trỗi dậy, khiến Mị không còn cam tâm chịu chết nữa. Mị sợ cuộc đời
mình sẽ kết thúc vô nghĩa ở nơi tàn bạo này.
“Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn ngắn gọn được tách dòng như phân định ranh giới
giữa sự sống và cái chết. Trong Mị đang chơi vơi trong cuộc đấu tranh tâm lý rất gay gắt: đi hay
ở, sống hay chết, nô lệ hay tự do? Rồi tiếng gọi của tự do đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát
“Rồi Mị cũng vụt chạy ra”. Mị quyết liệt và dữ dội tìm đến với tự do “đuổi kịp”, lăn. Chạy, nói,
thở “A Phủ , cho tôi đi” “Ở đây thì chết mất”. Một lần nữa, nỗi sợ hãi cái chết lại đến với Mị. Đó
là biểu hiện cao nhất của lòng ham sống. Mị đã tự mình cắt đứt sợi dây thần quyền và cường
quyền trói buộc mình nhiều năm liền. Đó là sức sống tiềm tàng, sức phản kháng mãnh liệt của
người lao động, một phNm chất cao quý của con người giữa cuộc đời đầy giông bão.

“Đời thay đổi khi chúng ta thay đổi” , cuộc đời Mị sẽ vẫn sống những năm tháng tối tăm
và vô nghĩa nếu không vụt chạy theo A Phủ. Tô Hoài đã để cho Mị tự nhận thức, tự giác ngộ bởi
ông luôn tin tưởng ở khả năng tự giải phóng của Mị cũng như bao con người Tây Bắc chịu áp
bức, cường quyền khác. Đó không phải chỉ là quy luật tâm lí thông thường mà còn bởi tâm hồn
yêu tự do và luôn vươn lên trong cuộc sống như những cây xanh giữa đại ngàn của họ. Nếu như
trong “Tắt đèn” Ngô Tất Tố xúi người nông dân nổi loạn thì ở đây, Tô Hoài đã góp phần thức
tỉnh ý thức đấu tranh giành lấy tự do vốn có trong người lao động nghèo ở Tây Bắc. Họ như
những con chim tự tháo cũi xổ lồng tìm đến với bầu trời tự do bằng đôi cánh của chính mình. Đó
mới là cách mạng triệt để nhất, là hình ảnh đẹp đẽ nhất của khát vọng sống!
Tô Hoài đã từng phát biểu: “Muốn viết văn, điều quan trọng nhất là chi tiết . Mà chi tiết
thì không thể phịa ra được. Phải chịu khó quan sát, ghi chép, đọc và tiếp xúc càng nhiều càng
tốt”. Câu chuyện về sự trỗi dậy của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ nói riêng, cả thiên truyện
nói chung với những chi tiết giàu ý nghĩa là kết quả tốt đẹp của sự quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng và
nghiêm túc trong nghề nghiệp của nhà văn. Cùng với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tỉ mỉ,
chân thực và đầy tinh tế, sử dụng từ ngữ điêu luyện của mình, Tô Hoài đã cho độc giả thấy sức
sống mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Qua đoạn trích, tác giả cũng thể
hiện sự đồng cảm sâu sắc với nỗi khổ đau của nhân vật, tố cáo thế lực tàn bạo đã chà đạp lên con
người, đồng thời phát hiện, trân trọng, ngợi ca những phNm chất tốt đẹp của con người và niềm
tin vào khả năng tự giải phóng của người dân lao động được gửi gắm qua tác phNm. Đoạn trích
góp phần làm nên thành công cho truyện ngắn. Đọc tác phNm, người đọc cũng thêm yêu mến và
trân trọng tài năng cùng tấm lòng nhân ái của nhà văn, trân trọng những con người miền cao Tây
Bắc mộc mạc mà kiên cường.

ĐỀ 4: Có ý kiến cho rằng nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ là một thành công của nhà
văn Tô Hoài khi xây dựng con người thức tỉnh. Phân tích đoạn trích Vợ chồng A Phủ để làm
sáng tỏ nhận định trên.
BÀI LÀM:
Nếu ai từng một lần đến với Tây Bắc, đến với những bản làng hiền hòa chìm trong sương, đến
với những phong cảnh núi rừng hùng vĩ trữ tình, đến với cuộc sống tươi vui của những đứa con
nơi núi rừng hẳn không nghĩ rằng, những con người nơi đây từng khổ cực trăm bề. Cảnh đói
nghèo cơ cực cùng sức nặng cường quyền và thần quyền đè nặng lên đôi vai những số phận bé
nhỏ. Mị trong Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài là một số phận, một cuộc đời như thế. Cô
gái người Mèo chính là thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng con người thức tỉnh, con
người đứng dậy đấu tranh để giành lại tự do, công bình và hạnh phúc.
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, là nhà văn có hiểu biết sâu rộng và vốn sống phong phú
về phong tục, tập quán của nhiều dân tộc ở nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước. Tác phNm
của Tô Hoài luôn hấp dẫn nguời đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng
giàu có lạ thường. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về
đề tài Tây Bắc của ông. Tác phNm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ
in trong tập Truyện Tây Bắc (1954). Tác phNm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà
văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc. Tác phNm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống
cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và
phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
Con người thức tỉnh trong văn học là những nhân vật từng nếm trải nhiều cay đắng, tủi
nhục và đau khổ; trải qua những năm dài bị áp bức bóc lột, bị chà đạp, giày xéo mà trở thành con
người gần như vô cảm vô hồn, sống trong trạng thái nhẫn nhục, cam chịu cho thân phận mình.
Cuối cùng, con người thức tỉnh dần dần “hồi sinh”, tự ý thức về quyền sống và quyền làm người
của mình, phản kháng áp bức, bất công giành lấy tự do và hạnh phúc, xây dựng một cuộc sống
có ý nghĩa. Cùng với nhân vật A Phủ, ta thấy rõ nhân vật Mị là “con người thức tỉnh” giàu ý
nghĩa nhân văn.
Thành công đầu tiên phải kể đến là việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị trong tập truyện
ngắn này. Khi sinh ra Mị đã bị mặc định là một món nợ, một cái giá phải trả cho hạnh phúc gia
đình thiêng liêng mà cha mẹ Mị đã mượn của nhà Thống lí Pá Tra ngày trước. Quãng đời của
người con gái ấy ở Hồng Ngài quả thật là một chuỗi ngày đen tối ở chốn địa ngục trần gian khi
bị bắt làm “con dâu gạt nợ” cho nhà Thống lí.
Tưởng đâu đây sẽ là dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy, nhưng đằng sau
đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia lửa nhỏ của khát vọng sống, nói
đúng hơn là sự bừng tỉnh sau bao đêm ngủ mê của số phận oái ăm, nhất quyết không chấp nhận
thân kiếp tôi đòi, nô lệ.
Quá trình thức tỉnh của con người thức tỉnh là những năm dài đen tối, là những tháng ngày
tủi nhục đắng cay. Mị cũng vậy. Nơi Mị ở là một cái buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông bằng
bàn tay ra. Có lúc Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà ra “đến bao giờ chết
thì thôi”. Nhan sắc, tuổi xuân của Mị bị tước đoạt, bị giày xéo, bị chà đạp. Mị bị bóc lột tàn
nhẫn, phải làm quần quật quanh năm. Lên núi hái thuốc phiện, bẻ bắp, hái củi, bung ngô... lúc
nào cũng gài một bó đay trong tay để tước thành sợi. Có lúc lại thấy Mị quay sợi bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa. Bó đay ấy, tảng đá ấy như cái xiềng, cái xích, cái thòng lọng oan
nghiệt đối với Mị. Mị bị áp bức mà trở nên tê liệt dần. Không nghĩ đến việc ăn lá ngón tự tử nữa.
Mị “tưởng mình cũng là con trâu, cũng là con ngựa”. Mị “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Mị
cam chịu “ở lâu trong cái khố, Mị quen khổ rồi”. Gần như vô cảm vô hồn, lâu dần “Mị càng
không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thân phận Mị có khác nào cô gái Thái bị ép
duyên trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu: “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa/Bằng
con chẫu chuộc thôi...”
Cảm thấy kiếp mình, thân phận mình như con trâu, con ngựa, con rùa, con bọ ngựa, con
chẫu chuộc, có nghĩa là chén đắng cay của cuộc đời đã uống cạn, chỉ còn sống trong tê liệt, nhẫn
nhục và cam chịu. Chẳng phải đời Mị đã lụi tàn?
Con người thức tỉnh được hồi sinh không chỉ với ngoại cảnh mà còn tự tâm hồn mình, ý
thức mình. Mị đã thức tỉnh với những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài. Tiếng sáo lay gọi, thức
tỉnh tâm hồn Mị. Mị lén lấy hũ rượu, “cứ uống ừng ực từng bát”, uống cho tan nỗi hận! Uống
cho vơi đi bao đau khổ chứa chất trong lòng! Say “lịm mặt”, Mị “sống về ngày trước”. Mị nhớ
lại thời con gái, Mị thổi sáo bao người mê. Tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị "tai Mị
nghe văng vẳng tiếng sáo”. Mị đã thật sự hồi sinh và hồi xuân. Mị tự ý thức là “Mị trẻ lắm, Mị
vẫn trẻ”. Mị cảm thấy “phơi phới”, trong lòng “đột nhiên vui sướng” như những đêm Tết ngày
trước thời con gái. Mị muốn đi chơi Tết. Khao khát được sống trong tình yêu hạnh phúc như
ngọn lửa bùng cháy tâm hồn Mị.
Mị được thức tỉnh về cảnh ngộ. Mị thấy vô lí, bất công đến tàn nhẫn, đến cay đắng “bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết.”. Mị với A Sử “không có lòng với nhau mà vẫn
phải ở với nhau!”. Thật là trớ trêu! Mị muốn ăn lá ngón cho chết. Mị ứa nước mắt. Tiếng sáo gọi
bạn yêu đang “lửng lơ bay” ngoài đường. Đó là tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Tiếng
sáo lay tỉnh Mị đang “vùng vẫy” cố thoát cảnh ngộ đau khổ và tủi nhục!
Mị đã phản kháng, đã hành động. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng. Với tay lấy váy
hoa, rút thêm cái áo, quấn lại tóc. Mị sắp đi chơi. Hành động Mị ngang nhiên diễn ra trước mắt
thằng A Sử. Mị chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn: “Mày muốn đi chơi à?”. Mị đã bị thằng A
Sử trói vào cột buồng bằng cả một thúng sợi đay, làm cho Mị “không cúi, không nghiêng đầu
được nữa”. Mặc dù lúc mê lúc tỉnh, lúc khắp người “bị trói thít lại, đau nhức”, nhưng Mị vẫn
nồng nàn tha thiết nhớ, “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”.
Điều đó cho thấy, Mị được thức tỉnh về tình yêu, về hạnh phúc, lòng khao khát của Mị rất mãnh
liệt. Đêm tình mùa xuân cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí và hành động Mị, con người thức tỉnh
của Tô Hoài rất tinh tế, sâu sắc, trăng vàng thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả.
Mị có bị ngã gục trước số phận đen tối tủi nhục không? Lần thức tỉnh cuối cùng của Mị
chính là yếu tố quyết định của tác phNm. Khi một người đàn bà vô cảm, chai sạn cảm xúc như
Mị lại cảm thấy xót thương vô cùng cho A Phủ lúc nhìn thấy “dòng nước mắt bò xuống hai hõm
má đã đen xám lại của A Phủ”. Sự xâu xé của lương tâm và lí trí mỗi lúc một mãnh liệt hơn, rồi
Mị chợt thấy được bóng dáng của chính mình trong A Phủ để dẫn tới hành động cắt dây trói cho
A Phủ. Cắt được cái dây trói ấy, cũng như cắt được sợi dây vô hình trói buộc Mị với nhà Thống
lí, như xóa bỏ được áp lực thần quyền đè nén bấy lâu nay lên người Mị về con ma nhà Thông lí,
sự bừng tỉnh vỡ òa trong niềm hạnh phúc giải thoát bản thân. Chạy theo A Phủ là bước trỗi dậy
đầu tiên sau khi thức giấc đến tìm đến với cách mạng, đến với ánh sáng tự do, không còn kiếp nô
lệ đọa đày.
Hành động của con người thức tỉnh là hành động tự phủ định, hành động tự giải thoát. Mị
và A Phủ dìu nhau cùng chạy trốn đến Phiềng Sa khu du kích. Phiềng Sa là chốn nương thân cho
họ. Cách mạng và kháng chiến mới là đất hứa, đất thánh cho người thức tỉnh. Mị cắt dây trói A
Phủ cũng là tự cắt dây trói để giải thoát mình. Như con chim sổ lồng, Mị từ bóng tối vươn tới
ánh sáng, từ nô lệ tủi nhục mà giành được tự do, hạnh phúc, cùng với A Phủ nên vợ nên chồng,
rồi trở thành chiến sĩ du kích.
Tô Hoài đã phân tích tinh tế, sâu sắc mọi biến thái về tâm lí và hành động Mị trong quá
trình thức tỉnh với tất cả tình thương xót và đồng cảm sâu sắc. Mị là nhân vật thức tỉnh có sức
mạnh phản kháng và sức sống tiềm tàng. Nhân vật Mị đã góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của
truyện Vợ chông A Phủ.

ĐỀ 5: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài có hai lần nhắc đến hình ảnh sợi dây trói:
Lần thứ nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một tháng
sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị
không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài
áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép của buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết
mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn.
Lần thứ hai: Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt
trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này
chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã
bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì
mà phải chết thế.
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Từ việc phân tích hai đoạn trên, anh/chị hãy cho biết và đánh giá vấn đề nhân sinh nhà văn Tô
Hoài đã gửi gắm.
BÀI LÀM:
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những
con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những
con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào
con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai
để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phNm Vợ chồng A
Phủ, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình
tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực
nào có thể dập tắt được. Đặc biệt sức mạnh tiềm tàng của cô gái người Mèo bé nhỏ ấy được thể
hiện rất rõ qua chi tiết có tính biểu tượng cao độ: sợi dây trói. Không phải là vô cớ khi chi tiết ấy
xuất hiện nhiều lần trong tác phNm.
Tô Hoài – nhà văn xuất sắc trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Là nhà văn giỏi về phân
tích diễn biến tâm lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong tục tập quán, tác phNm của Tô
Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của
ông. Tác phNm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập
Truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất của giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam
1954 - 1955. Tác phNm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải
phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phNm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục
của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cùng
quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời.
Chi tiết sợi dây trói xuất hiện đầu tiên trong đêm tình mùa xuân, khi cô Mị đã thức tỉnh,
khao khát muốn đi chơi, khao khát được tự do, đi theo tiếng sáo gọi bạn mùa xuân. Nhưng: A Sử
bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị
vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không
nghiêng được đầu nữa. Trói xong vỢ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt
đèn, đi ra, khép cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị
trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Sợi dây trói xuất hiện trong đoạn này đã thể hiện được sức mạnh
của cường quyền và thần quyền thống trị. Khi Mị ấp ủ ý định đi chơi, khao khát tự do và hạnh
phúc thì A Sử về, dùng dây trói, là cưỡng bức lại ước muốn và khao khát của Mị, là chặn đứng
hành động muốn đi chơi của Mị. A Sử trói đứng Mị vào cột, hành động trói đứng người vợ của
mình, cuốn luôn cả tóc và cột, không cho cúi, nghiêng, làm cho Mị nước mắt rơi xuống cô không
lau đi được, hình phạt đó chẳng khác nào sự tra tân thời trung cổ. Sự tàn bạo đó, có lẽ đã giết
chết bao cô gái cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng A Sử không thể trói được tâm hồn Mị, Mị bị
trói nhưng Mị vẫn vùng bước đi. Cái vùng bước đi ấy, đó là cả một sức sống tiềm tàng trỗi dậy
mãnh liệt, dù lúc này nó chưa đủ sức phá tan dây trói, nhưng cái vùng bước đi ấy là một sự phản
kháng, chống lại.
Lần hai, chi tiết sợi dây trói xuất hiện trong đêm tình mùa xuân, khi Mị chứng kiến giọt
nước mắt A Phủ lăn dài: Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi,
nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ
chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn
bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia
việc gì mà phải chết thế.
Cần phải nói thêm, Mị sau đêm mùa xuân, sau những gì đã bùng cháy, nay trở lại với sự
thờ ơ vô cảm, chẳng đoái hoài những gì xảy ra xung quanh. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi
chuyện kể cả lúc ra sưởi lửa, bị “A Sử đánh ngã xuống của bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra
sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, Mị không đau đớn, cũng không
sợ hãi. Dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương mình rồi đến thương
người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy “một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Và từ sự đồng cảm đó, lòng Mị
dấy lên sự căm phẫn: “Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi,
nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nguyền rủa cha con nhà
thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Từ “chúng nó” ở đây, hiện lên trực tiếp những cái tên như Pá
Tra, A Sử, đó là những cái tên mang tính đại diện, nhưng sâu hơn, chúng nó” chính là những kẻ
thống trị, bọn chúa đất miền núi đã đày đọa những kẻ như Mỹ, A Phủ. Khi một kẻ đang trong
tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một
cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ
không dừng lại ở đây. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết.
Mị nghĩ đến thân phận mình, là đàn bà, bị cúng trình ma, Mị có chết cũng là tất yếu, là lẽ vốn
phải vậy, nhưng A Phủ đầu bị kiếp như vậy, sao lại phải chết, sao bị ép đến chết, sao mạng người
quý thế, lại chỉ đánh đổi ngang giá với một con bò.
Để đi đến hành động cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã phải trải cả một quá trình diễn biến
tâm lý đầy phức tạp, với những dòng độc thoại, những chiều suy nghĩ, nhận thức và đấu tranh
đầy mãnh liệt. Trong đó có cả nỗi sợ dấy lên, khi Mị tưởng tượng: A Phủ trốn đi được, Mị sẽ là
người thay thế A Phủ, bị trói đúng vào cột, và rồi sẽ chết. Nhưng tình thương A Phủ, sự đồng
cảm với kiếp người cùng khổ đầy khốn nạn, thêm cả lòng căm phẫn, và sự thúc bách về mặt thời
gian, cô gái đó đã có một hành động hết sức táo bạo, liều lĩnh: cắt dây trói để cứu A Phủ.
Hình ảnh sợi dây trói xuất hiện trong hai đoạn nhưng lại mang hai ý nghĩa khác nhau, nếu
đoạn 1 như sự hiện lên của uy quyền và sức mạnh thì đoạn 2, nó hiện lên như chướng ngại, với
bao lòng căm phẫn và phải được cắt bỏ. Nếu đoạn 1, Mị hiện lên trong sự cam chịu vì quyền uy
của sợi dây trói như chính sức mạnh thần quyền và cường quyền thì đoạn 2, Mị đã vùng lên giải
phóng, mà việc đầu tiên là cắt đi sợi dây trói buộc cuộc đời mình.
Qua việc khắc họa cuộc sống và số phận của những người nông dân miền núi, nhà văn Tô
Hoài đã mở ra bức tranh hiện thực tăm tối, ngột ngạt của người dân Tây Bắc dưới chế độ phong
kiến đen tối, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức, tước đoạt đi tự do, hạnh phúc và cả quyền
sống của những người dân nghèo vô tội. Quá trình vượt qua nghịch cảnh, giải phóng bản thân, đi
theo cách mạng của Mị, mà tiêu biểu là cắt được sợi dây trói đời mình cả theo nghĩa đen và
nghĩa bóng, chính là hành trình đi từ đau thương đến với tự do, quá trình giác ngộ cách mạng của
đồng bào dân tộc miền núi. Truyện ngắn không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của Tô Hoài khi
bênh vực, đồng cảm với số phận con người mà còn thể hiện niềm tin của tác giả vào cách mạng,
khẳng định chỉ có đi theo cách mạng con người mới có thể thực sự tìm thấy tự do, phá bỏ xiềng
xích áp bức để hướng đến cuộc sống hạnh phúc.

ĐỀ 6: Cảm nhận về hành động nhân vật Mị chạy theo A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) và
hành động theo Tràng của nhân vật người vợ nhặt (Vợ nhặt - Kim Lân) trong hai đoạn văn sau:
Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc
lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mi lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
(Trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài)
Ăn xong thì cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật.
(Trích Vợ nhặt của Kim Lân)
BÀI LÀM:
Người phụ nữ là đề tài quen thuộc trong nền văn học Việt Nam, nhất là những phụ nữ
phận nhỏ bé, chịu nhiều đắng cay, tủi nhục. Đặc biệt trong giai đoạn 1945 đến hết thế kỉ XX, đề
tài này đã được thể hiện khá đặc sắc qua nhiều nhân vật. Nổi trội hơn cả là hiện tượng Mị trong
Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, nhân vật người vợ nhặt trong tác phNm cùng tên của Kim Lân.
Mỗi nhân vật đều mang mỗi hoàn cảnh, số phận đáng thương nhưng ở họ vẫn toát lên những
phNm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Những nhà văn này đã góp lên tiếng nói chung
- tiếng nói nhân đạo đối với họ. Không những thể hiện sự quan tâm, thông cảm, đồng cảm với
những số phận bất hạnh này mà những nhà văn còn trân trọng, ngợi ca những phNm chất cao quý
của người phụ nữ. Đặc biệt, hai nhà văn đều làm nên những ấn tượng song trùng trong độc giả,
khi làm nên cảnh Mị chạy theo A Phủ, và cô Vợ nhặt theo Tràng về làm vợ.
Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một nhà văn có sự nghiệp trải dài hơn bảy thập niên. Tô
Hoài là bút danh, ông tên thật là Nguyễn Sen. Thời trẻ, ông kiếm sống bằng nhiều nghề, từ gia
sư, thư ký cho tới bán hàng, làm chân kế toán cho một hiệu buồn... Đây chính là quãng thời gian
ông bắt đầu khởi mạch cho vốn sống ngồn ngộn của mình tuôn trào trên những trang văn Tô
Hoài đi nhiều, trải nghiệm nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường
cộng vốn hiểu biết giàu có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên
vị trí không thể nhầm lẫn, khó có thể thay thế. Truyện Tây Bắc ra đời năm 1953 khơi mạch cho
một dòng chảy sáng tác khác, mang lại nhiều thành công hơn cho ông. Núi rừng Tây Bắc từ đấy
đã trở thành đề tài mà ông gắn bó lâu dài, nặng tình và nặng nghĩa. Vợ chồng A Phủ, một trong
ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có thể nói là một tác phNm thành công bậc nhất của nhà
văn Tô Hoài khi ông khơi ngòi vào mảnh đất văn chương các dân tộc miền núi.
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, chi tiết Mị chạy theo A Phủ nằm phần cuối của đoạn
trích, cũng là đoạn mở nút, cuộc đời nhân vật bước sang một trang khác. Hành động Mị chạy
theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. và
Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và
sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của
mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Thế
nhưng số phận bi kịch đã không buông tha cho Mị Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị
bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc
để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Cuộc đời A Phủ cũng như
vậy, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ
nô phong kiến miền núi.
Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối
thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì
tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ
nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A
Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng
sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục
âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày.
Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng
sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình,
xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn
phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một tháng sợi
đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”... Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay
mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời
mới, là con đường mới.
Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát
vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn
cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế
của cường quyền, khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, khoảnh khắc ấy, trong Mị trào
lên niềm khao khát sống. Lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo
A Phủ.
Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng
lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Ta hãy nhớ lại Mị
của trước kia, từng nhiều lần muốn tìm đến cái chết, thì giờ đây, Mị lại thèm được sống. Con ma
đã bất lực không thể giam giữ được Mị nữa, Mị đã thành người tự do, chính Mị chứ không phải
ai khác, tự quyết định vận mệnh cho cuộc đời mình. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ
áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa - vùng đất hứa hẹn niềm tin,
tự do và hạnh phúc.
Khi nói về Nhà văn Kim Lân, trong hình dung độc giả đó là một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại, là người đã viết những trang hay
nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn bó và trái tim hết mực chân thành. Ngòi bút
Kim Lân sâu lắng, cNn trọng, tỉ mNn, viết chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà
ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ – những con người gắn bó tha thiết với quê hương và
cách mạng. Trong tác phNm của Kim Lân ta vẫn thấy thấp thoáng cuộc sống và con người của
làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác mà thông minh,
hóm hỉnh. Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu
thuyết Xóm ngụ cư – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản
thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn
này.
Chi tiết cô vợ nhặt theo không Tràng về làm dâu, làm vợ của một anh xóm ngụ cư giữa
nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu nằm ngay đầu tác phNm, như một nút thắt làm bung nở những
mâu thuẫn, những đối nghịch, những trạng huống dở khóc, dở cười.
Thị là nhân vật không tên, cũng chẳng hề có quê quán, chẳng tài sản, không gia đình, cũng
không có nghề nghiệp. Thị như người trôi dạt giữa cơn lũ của nạn đói. Thật tội nghiệp. Cái đói
biến người phụ nữ ấy với ngoại hình chẳng mấy ưa nhìn: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Cái đói không chỉ tàn hại dung
nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phNm, điều đó được thể hiện từ lời nói đến hành
động. Trước hết là trong lời nói, vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa,
đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc
phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng
ăn lên trên nhân cách.
Trong cơn lũ của nạn đói, thị là người đang chết đuối, vớ được cái cọc là Tràng, thị đã bấu
víu lấy, bám lấy để duy trì sự sống. Thân phận người vợ thật rẻ rúng bởi chỉ bằng bốn bát bánh
đúc, một câu nói đùa, hai hào dầu... để làm vợ người ta. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để
được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ
về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của
Tràng. Nói đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Nhưng có lẽ bởi Thị
cảm được cái chân thật, cái tốt bụng của anh Tràng, Tràng có lẽ là duyên phận, xuất hiện như
chiếc phao cứu sinh với đời Thị. Cho nên hành động theo Tràng của thị, một mặt xuất phát từ
nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Nhưng ta còn thấy trong đó, một mong
muốn tựa nương, một bến bờ sau những trôi dạt của số phận.
Đều là những con người đáng thương, bị số phận đưa đNy vào chốn đường cùng. Mị và
người vợ nhặt cùng hiện lên là những người phụ nữ đầy chủ động, không chấp nhận thực tại,
bằng hành động mà thay đổi số phận mình. Tuy nhiên, hai nhân vật cũng có những điểm khác
biệt, hành động của Mị là hành động thuộc phần cuối đoạn trích, đó là hành động đấu tranh,
vùng lên giải phóng cuộc đời mình. Còn với cô vợ nhặt, hành động đó là hành động mang tính
khơi màn cho tác phNm, để bao hệ quả sau đó được đNy đưa đến, đó là hành động thể hiện khát
khao sống, bám lấy sự sống mãnh liệt.
Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách
mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo
hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ, Vợ nhặt, Tràng,...Thông qua hai tác
phNm, các tác giả đã khẳng định đề cao khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống,
đều mang tính phát hiện những vẻ đẹp của con người, những vẻ đẹp không thể bị bất cứ một
thực cảnh phũ phàng nào có thể làm tiêu mất đi, trái lại lại càng toả sáng hơn.
Có thể nói, nhân vật Mị và người vợ nhặt là hai nhân vật điển hình, tiêu biểu cho những
kiếp người cùng khổ, bị cuộc sống đày đọa, làm cho đổi thay. Thế nhưng, bên trong tâm hồn lúc
nào cũng tiềm Nn một nội lực sinh tồn, một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Có lúc nó chìm lắng
xuống và hiện thực quá khắc nghiệt, tàn nhẫn. Thế nhưng, chỉ cần có cơ hội là nó mạnh mẽ trỗi
dậy chiến thắng tất cả, đưa nhân vật đi lên, tìm về với sự sống đúng nghĩa. Qua hai nhân vật,
Kim Lân và Tô Hoài đã có những cống hiến lớn trong phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của cuộc
sống, tạo động lực thúc đNy con người không bao giờ dầu hàng trước số phận và nghịch cảnh.
Phải chăng, đó cũng là tiếng nói của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo đã tồn tại mấy nghìn
năm qua của dân tộc ta.

ĐỀ 7: Có ý kiến cho rằng: Hình tượng tượng tiếng sáo trong truyện ngắn Vợ chồng A phủ là một
sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác
phNm. Ý kiến khác lại cho rằng: Tiếng sáo góp phần tô đậm thêm những giá trị nhân đạo của tác
phNm. Hãy bình luận.
BÀI LÀM:
Lép Tôn-Xtôi đã từng nói rằng: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết nghệ thuật là những
mắt xích rất nhỏ trong tác phNm nhưng có tác động lớn đến diễn biến tâm lí, số phận nhân vật
thúc đNy cốt truyện phát triển. Nhà văn Tô Hoài với biệt tài xây dựng chi tiết nghệ thuật âm
thanh tiếng sáo đã tạo nên điểm nhấn, dấu ấn khó quên của tác phNm. Bàn về chi tiết đầy sức
nặng này, có ý kiến cho rằng: Hình tượng tiếng sáo trong truyện ngắn Vợ chồng A phủ là một
sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác
phNm. Ý kiến khác lại cho rằng: Tiếng sáo góp phần tô đậm thêm những giá trị nhân đạo của tác
phNm.
Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc, phong
phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng
giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình lay động lòng người. Ông đã viết thành công
tác phNm Truyện Tây Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã
phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo
kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Trong truyện, Tô Hoài không chỉ thành công ở
việc khắc họa chân dung các nhân vật mà nhà văn còn có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết
truyện rất đặc sắc. Trong đó, chi tiết tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân mang nhiều ý nghĩa.
Bàn về chi tiết này, ngoài những lời ngợi khen, còn là những đánh giá nhiều chiều làm nên
đời sống phong phú của tác phNm. Có ý kiến cho rằng: “Hình tượng tiếng sáo - hình tượng nghệ
thuật thể hiện sự khám phá độc đáo của nhà văn Tô Hoài”. Điều này có thể hiểu, trước hết tiếng
sáo là một chi tiết hết sức đặc sắc, trở đi trở lại nhiều lần trong tác phNm, có ý nghĩa như một
hình tượng nghệ thuật, chứa nhiều giá trị mang sức nặng. Có thể nói, từ một hình tượng quen
thuộc ngoài đời sống, thường xuất hiện trong các lễ hội mùa xuân, thì qua ngòi bút Tô Hoài đã
biến thành một chi tiết, một hình tượng thật đắt giá. Ý kiến khác lại cho rằng: “Hình tượng tiếng
sáo - hình tượng tô đậm giá trị nhân đạo của tác phNm”, nghĩa là không chỉ có sự phát hiện, tái
hiện hình tượng thành công, tiếng sáo còn cộng hưởng, làm gia tăng sức mạnh của tư tưởng nhân
đạo trong tác phNm. Đặc biệt khi nó nhấn mạnh vào những mộng tưởng, những thôi thúc của Mị
trong đêm tình mùa xuân.
Tiếng sáo xuất hiện trong đêm tình mùa xuân - đây là âm thanh quen thuộc, đặc trưng của
người Mèo ở vùng cao mỗi khi tết đến, xuân về. Đó là tiếng sáo gọi bạn yêu, là cầu nối cho các
đôi lứa, giúp các chàng trai tỏ tình và giãi bày yêu thương. Âm thanh ấy cũng chất chứa nhiều
khát vọng yêu thương cháy bỏng trong các nhịp đập trái tim trẻ. Tiếng sáo là một trong những
chi tiết được Tô Hoài dụng công miêu tả. Nó xuất hiện nhiều lần, trở đi trở lại với các mức độ và
sắc thái khác nhau. Lúc đầu là tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếp đến nó văng vẳng ở đầu làng,
“lửng lơ bay ngoài đường”. Và rồi giữa Mị và tiếng sáo không còn khoảng cách. Âm thanh ấy
len lỏi vào trong tâm trí của Mị. Không chỉ có tiếng sáo hiện tại cô nghe, mà Mị còn nhớ lại cả
tiếng sáo trong quá khứ, về khoảng thời gian tươi đẹp, kiêu hãnh của mình. Cuối cùng, tiếng sáo
trở thành động lực, dù tiếng sáo thực đã mất, nhưng tiếng sáo tâm tưởng - hay tiếng lòng khát
khao của Mị đã bừng tỉnh.
Nghệ thuật miêu tả tiếng sáo và tâm trạng nhân vật của nhà văn Tô Hoài rất tài hoa. Tám
lần ông nói tới tiếng sáo, kể về những cô gái, chàng trai thổi sáo, hát tình ca, nghe sáo, đi theo
tiếng sáo. Ba lần ông đặc tả tiếng sáo: “văng vẳng tiếng sáo”, “tiếng sáo lửng lơ bay”, “trong
đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Những từ tượng thanh, kết hợp nghệ thuật đảo âm tiết (không viết lơ
lửng mà viết lửng lơ), đảo từ (động từ văng vẳng trước danh từ tiếng sáo, tính từ lửng lơ trước
động từ bay, động từ rập rờn trước danh từ tiếng sáo) khiến cho những âm thanh của thứ nhạc cụ
dân dã ấy trở nên sống động, có hồn, ấn tượng xiết bao. Và nhờ đó, những cung bậc tâm trạng
của nhân vật Mị trở nên phong phú, trầm thăng, xốn xang, rung nhịp cùng tiếng sáo. Nhờ tiếng
sáo đêm tình mùa xuân đó mà nhà văn mở được cánh cửa tâm hồn nhân vật Mỵ đã im ỉm khóa
suốt bao nhiêu năm trời.
Tiếng sáo đã gọi dậy một tâm hồn chai sạn. Hay nói cách khác, nhờ tiếng sáo, nhà văn đã
đi sâu vào để phát hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo ấy. Đó là một sức sống mạnh
mẽ, đầy những khát khao. Tiếng sáo làm Mị thức dậy những ký ức xưa cũ, tiếng sáo là đại diện
cho miền ký ức tươi đẹp: có biết bao người ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, cái thời Mị là một cô
gái xinh đẹp, yêu tự do. Nhớ lại, Mị lại ứa nước mắt, mà tiếng sáo lại lửng lơ bay ngoài đường,
lúc này tiếng sáo như động lực, như thôi thúc Mị, đNy đưa Mị đến với những đêm tình mùa xuân.
Và tiếng sáo vẫn tiếp tục vang lên những giai điệu như tô đậm hơn những khát khao bung toả,
khát khao tự do, khát khao hạnh phúc của Mị mặc cho những nút thít của sợi dây đang siết chặt
tấm thân Mị.
Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn, cả hai ý kiến đều đã bổ sung để làm bật nên giá trị của
chi tiết tiếng sáo trong đêm mùa xuân. Đọc tác phNm, suy ngẫm về sức sống tiềm tàng của nhân
vật Mị, chúng ta không thể lướt qua hình tượng thNm mỹ tiếng sáo. Bởi vì đấy là một điểm sáng
nghệ thuật vừa hiện thực, vừa lãng mạn, đậm chất dân tộc và chất thơ. Bởi vì, đấy cũng là một
cung bậc tinh tế trong cảm hứng nhân đạo, nhân văn rất đáng trân trọng của ngòi bút Tô Hoài.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian ở nhà
thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng Nn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống
mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Đặc biệt bước chuyển biến lớn
lao có tác nhân mạnh mẽ của tiếng sáo gọi bạn. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một
cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đày, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt
lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh hệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa
sau này.

VỢ NHẶT ( Kim Lân)


ĐỀ 1: Phân tích bức tranh hiện thực và vẻ đẹp tình người thông qua chi tiết nồi cháo cám trong
truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân.
BÀI LÀM:
Thành công của một tác phNm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những
chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được
dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phNm đó. Trong truyện ngắn Vợ nhặt,
nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa vào một chi tiết đắt như thế: “nồi cháo cám” - hiện
thân của cái đói, của bức tranh hiện thực thê thảm, đồng thời cũng là nồi cháo của tình thân, của
vẻ đẹp nhân ái con người.
Kim Lân (01/08/1920 - 20/07/2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã
Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ học hết tiểu
học rồi vừa làm thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn. Năm 1944, Kim Lân tham
gia Hội Văn hóa cứu quốc, sau đó liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến và cách
mạng (viết văn, làm báo, diễn kịch, đóng phim). Kim Lân là một trong những tác giả tiêu biểu
của văn xuôi hiện đại, cây bút chuyên viết truyện ngắn, chuyên viết về nông thôn với những con
người nông thôn hiền hậu, chân chất.
Vợ nhặt là tác phNm nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này
là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc
bản thảo. Sau khi hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện
ngắn này. Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Vợ nhặt là bức tranh hiện thực thê thảm của Nhân dân ta thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám,
mà cụ thể là nạn đói năm 1945.
Chi tiết “nồi cháo cám” nếu như nó xuất hiện trong bữa ăn giữa nạn đói năm 1945 lại
dường như dễ hiểu, nhưng trong tác phNm nó lại được xuất hiện ngay sau buổi sáng hôm sau.
Buổi sáng mà nhà bà cụ Tứ có thêm người con dâu. Lễ ra mắt con dâu bình thường không có cao
lương mĩ vị thì cũng phải mâm cao cỗ đầy, nhưng trong tình thế đó đã khiến người ta không khỏi
nghẹn ngào. Bữa cơm trong ngày đói thật thê thảm, mà bất cứ ai nhìn vào cũng đều chạnh lòng.
Đó là cảnh “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”
nhưng ngạc nhiên thay là cả nhà đều ăn rất ngon lành. Tất cả đều vui vẻ, không khí thật đầm ấm,
và bao viễn cảnh được vẽ ra. Cho đến khi nồi cháo loãng đã hết veo. Bữa chính kết thúc hơi sớm
so với nhu cầu của cái dạ dày. Và đến phần thứ hai, bữa ăn phụ, ăn chơi, là cách mà bà cụ Tứ gọi
là chè khoán. Nồi chè ăn chơi như một thú rất tao nhã sau bữa chính, khiến câu chuyện vui như
được kéo dài hơn, cái ngọt ngào của chè làm dư vị của miệng thêm đậm đà, cảm xúc thêm lâng
lâng khoan khoái. Thế nhưng “nồi chè” trong bữa cơm đón dâu mới ấy đã làm điều ngược lại,
phá tan đi mọi xúc cảm vui tươi, sung sướng và góp phần ném trả lại thực tại tàn khốc.
Bằng ngòi bút đầy tinh tế, nhà văn đã làm nổi bật lên phản ứng của từng thành viên trong
gia đình trước món ăn thê thảm của ngày đói này. Theo lời quảng cáo của bà cụ Tứ, nồi chè, thực
chất là cháo cám, ngon đáo để, là thức ăn mà ối nhà còn không có, ăn vậy là ăn sang trong cái
nạn đói tàn khốc này. Khác với lời quảng cáo, hãy nhìn phản ứng của Tràng và Thị. Thị là nạn
nhân của cái đói, sống vật vờ và lay lắt qua ngày, có gì là Thị chưa trải trong đại nạn này. Cho
nên, ngay khi nhận bát cháo cám, Thị hiểu ngay ra bao điều. Có rất nhiều điều ta sáng ra qua đôi
mắt tối sầm lại của Thị. Anh Tràng thì bao biểu hiện đã rõ cả trên phản ứng khuôn mặt. Bằng thủ
pháp liệt kê: “chun”, “đắng chát”, “nghẹn bứ” có thể thấy thứ thức ăn đó nó khó nuốt như thế
nào, tình cảnh người dân ngày đó cơ cực ra sao.
Nhưng nồi cháo cám còn là dư vị đậm đà của tình thân, là sợi dây kết nối những thành
viên trong gia đình lại với nhau. Trước hết, hãy chú ý vào những chi tiết rất nhỏ nhà văn cài vào.
Là thái độ, hành động của bà cụ Tứ. Hàng loạt các hành động miêu tả cách bà cụ đưa nồi cháo
cám ra: “lật đật chạy xuống, lễ mễ, bưng, đặt cái nồi xuống bền cạnh mẹt com, cầm cái môi,
khuấy khuấy, cười...” giống như một sự trì hoãn. Bởi bữa cơm đang vui, bà muốn nó kéo dài hơn
chút nữa. Và vì bà là người chuNn bị bữa cơm, nên bà biết khi ăn cháo cám, cái thứ thức ăn dành
cho vật này, bao niềm vui sẽ biến mất, nên trong sự gắng gượng, bà cố tình kéo dài thêm ra.
Người mẹ ấy, bằng tình thương con, đã không nở phá đi cảm xúc vui tươi, không khí đầm ấm
này. Với người con dâu điềm nhiên vào cám vào miệng, sau phút tối sầm lại của ưu tư, Thị đã
mặc nhiên gạt đi, điềm nhiên đón nhận bát cháo cám - bát cháo đại diện cho gia cảnh nhà chồng.
Thị đã lấy chồng, Thị đã lựa chọn, Thị thấu hiểu, Thị chấp nhận. Và cuối cùng là anh cu Tràng
và vội vào miệng, cái đắng đến từ cháo, nhung cái đắng còn đến từ ý thức trách nhiệm của người
trụ cột, của cái sĩ diện khi để vợ và mẹ phải ăn thứ thức ăn này. Cái bứ cổ đó cho thấy cả cái
trách nhiệm phải chăm lo tốt hơn cho gia đình của anh ta. Điển hình là sau bữa ăn đó, trong đầu
Tràng chỉ còn nghĩ đến hình ảnh đoàn người phá kho thóc Nhật, hay cụ thể hơn, đó là hình ảnh
bữa cơm trắng mà Tràng, sẽ cướp được từ kho thóc Nhật, mang về cho gia đình mình. Tóm lại -
nồi cháo cám, vừa đại diện cho hiện thực tàn khốc, cho sự ám ảnh kinh hoàng, nhưng đồng thời
nó đại diện cho cả tình người. Cả Tràng, Thị hay bà cụ Tứ đều nghĩ cho người khác khi ăn. Đó
chính là tình người, là tình thân, luôn nghĩ cho nhau, cùng nhau chống lại nạn đói, dắt díu nhau
qua cơn bĩ cực này.
Chi tiết nồi cháo cám đã góp phần thể hiện bức tranh chân thực đến ám ảnh về nạn đói
năm 1945, qua đó ta thấy được sự thê lương, tình cảnh đáng thương của những người lao động
nghèo khổ. Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta thấy được tiếng nói thương cảm của nhà văn
trước tình cảnh đáng thương của những con người tội nghiệp. Những thân phận bị đNy đến chỗ
cùng kiệt. Chuyện hạnh phúc của cả đời người thì lại sơ giản đến qua quýt. Nhưng Vợ nhặt còn
là tiếng nói khẳng định đề cao hạnh phúc gia đình, dù đói khổ nhưng luôn hướng tới tổ ấm gia
đình. Hạnh phúc gia đình làm cho con người thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn. Và cuối cùng, tác
phNm khắng định đề cao khát vọng sống, niềm hi vọng, niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai.
Trong đói khổ, vẫn lấp lánh niềm hi vọng, không bị hiện thực chôn vùi mà bụng cháy mãnh hệt
hơn.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí
người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo rất lớn.
Khiến ta nhận ra rằng giữa cái kiệt cùng của đói rét và chết chóc, vẫn có những sức mạnh giúp ta
vượt lên được: là niềm tin bất diệt, lòng nhân ái và hạnh phúc gia đình.

ĐỀ 2: Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái
lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ
ngàng như không phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng mùa hè sáng lóa
xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận
ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm
mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới
gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái
sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng
đối với hắn lại rất thấm thía cảm động. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà
của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái
tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây
giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.
Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà....
(Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ văn 12, tập hai. NXB Giáo dục, 2008)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Tràng trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét về ngòi bút nhân
đạo của nhà văn Kim Lân.
BÀI LÀM:
Ta đã từng nghe nhà văn Kim Lân tâm sự: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự
khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người
chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù
cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự
sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” Những
mong muốn này đã được Kim Lân thể hiển rất thành công trong tác phNm Vợ nhặt – một kiệt tác
truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của ông. Người đọc đã từng biết đến Chị Dậu, anh
Pha, Lão Hạc, Chí Phèo…những hiện thân sống động của cái nghèo, cái khổ với bao phẫn uẫn,
đớn đau thì đến « Vợ nhặt », khi anh cu Tràng bước ra từ bóng chiều chạng vạng với cái cảnh tối
sầm lại vì đói ấy, ta lại nhận ra ở người nông một vầng sáng mát lành của tình yêu thương con
người, của những khát vọng đẹp đẽ không bao giờ bị dập tắt. Đoạn trích miêu tả diễn biến tâm lí
nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ đã thể hiện sâu sắc ngòi bút nhân đạo của nhà
văn : « Sáng hôm sau, ….dự phần tu sửa lại căn nhà… »
Câu chuyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, cái đói tràn đến xóm ngụ cư như một cơn
lốc, gây bao cảnh tang thương chết chóc, người chết thì như ngả rạ còn người sống cũng chỉ như
những bóng ma xanh xám, dật dờ. Giữa lúc thần chết bủa vây thì anh chàng ngờ ngệch của xóm
ngụ cư lại dẫn về một người phụ nữ đói khổlàm vợ. Tình huống đầy bất ngờ và éo le khiến mọi
người trong cái xóm nghèo xơ xác ấy lo lắng và ái ngại. Chỉ có Tràng mới đủ can đảm thực hiện
hành động liều lĩnh ấy.Và cũng chỉ khi liều lĩnh cưu mang một con người Tràng mới có cơ hội
được thấy hạnh phúc, được tận hưởng những giây phút thực sự sống trong cuộc đời của mình.
Buổi sang đầu tiên sau khi Tràng có vợ là cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành về nhân
cách, từ đây Tràng không còn ngờ nghệch dại khờ nữa.
Đoạn trích bắt đầu bằng hình ảnh của buổi sáng quang đãng tươi tắn. « Sáng hôm sau, mặt
trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy.” Đã qua một đêm Tràng có vợ, kể từ cái buổi chiều
chạng vạng nhá nhem mặt người ấy. Đất trời đã sang ngày mới, cũng như cuộc đời Tràng đã
sang trang mới sáng sủa và tràn đầy hi vọng. Có lẽ đó là cái nhìn đầy ưu ái của Kim Lân khi
dụng ý miêu tả sự vận động của thời gian từ bóng tối đến ánh sáng. . Chí Phèo của Nam Cao
cũng tỉnh rượu trong môt buổi sáng với nắng vàng rực rỡ cùng tiếng chim ríu rít líu lo. Dường
như, mỗi khi nói đến sự thay đổi mới mẻ và tốt đẹp, các nhà văn đều chọn gắn với một buổi sớm
mai tran hòa nắng !
Ai đó từng nói : Chiếc chìa khóa mở ra năng lượng là "Khao khát". Đó cũng là chìa khóa
mở ra một cuộc đời lâu dài và thú vị. » Tràng bắt đầu trang mới trong cuộc đời của mình với một
tâm trạng rất tích cực. « Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tác
giả đã diễn tả rất chính xác tâm trạng Tràng, một người đang cảm nhận vị ngọt ngào của cuộc
sống hạnh phúc gia đình. Nó đẹp đẽ như một giấc mơ, một giấc mơ mà Tràng chưa bao giờ mơ
tới. Tràng vẫn chưa thoát khỏi sự bất ngờ “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng
như không phải.” Hạnh phúc đến với Tràng quá nhanh, chỉ trong hai lần gặp thị, người phụ nữ
không tên không tuổi, không quê hương, không gia đình, thế mà nên vợ nên chồng. Tràng không
hề chủ tâm mà sự thật đã hiện hữu, một chuyện hệ trọng như thế lại đến với Tràng quá dễ dàng?
Tràng không bất ngờ sao được?
Không hề nghĩ đến cái đói, không hề quan tâm tới tình cảnh khốn khó ở hiện tại, Tràng
vẫn điềm nhiên say hưởng những phút giây yên lành, ấm áp trong căn nhà rúm ró, xiêu vẹo của
mình. “Hắn chắp hai tay sau lưng, lững thững bước ra sân.” Bước ra sân để đến với không gian
khoáng đạt hơn, để hít thở không khí trong lành của buổi sáng yên bình. Tràng đã không khỏi
bất ngờ khi bắt gặp sự thay đổi mới mẻ, khác lạ của căn nhà mình.

“Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì
vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.” Đó hoàn tòa không phải là cảnh tượng quen thuộc của một căn
nhà hoang lạnh, thiếu sức sống. Tất cả đã thay đổi tốt đẹp hơn: Nhà cửa, sân vườn, hôm nay đều
được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm
mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc
ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.” Quả thực, những
điều Tràng thấy trước mắt không phải khó khăn lắm mới thay đổi được. Nhưng vì nó trở nên
không cần thiết khi mẹ con tràng chỉ coi căn nhà xiêu vẹo đó là chỗ ngả lưng, che mưa che nắng
mà thôi. Hẳn là sự thay đổi ấy đã tác động mạnh mẽ vào tâm trí Tràng, nhen lên một khao khát
đổi đời chăng?
Khi chứng kiến sự thay đổi tâm lí của Tràng, ta lại nhớ đến cái giây phút tỉnh ngộ của Chí
Phèo trong tác phNm của Nam Cao. Tưởng như đó là sự đồng nhất, nhưng không. Nếu Chí Phèo
quan sát thấy những điều vốn dĩ vẫn diễn ra hằng ngày: tiếng chim hót, tiếng người cười nói,
tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, vẫn là những âm thanh từ xa vọng lại, thì Tràng lại
tận mục sở thị sự thay đổi từ chính cuộc sống của mình, rất gần, đó là những điều Tràng chưa
từng thấy trong căn nhà của mình. Khác với sự thức tỉnh phần người trong Chí, tâm lí của Tràng
là tâm lí của một người ngờ nghệch bỗng trưởng thành, sự quan sát trở nên kĩ lưỡng và tỉ mỉ hơn.
Tức là Tràng đã chú ý quan sát, chú ý cảm nhận, điều mà trước đây Tràng không mấy quan tâm.
Nhà văn Kim Lân đã rất tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng
hạnh phúc, nó như một thứ thuốc bồi bổ tâm hồn con người, khiến cho con người trở nên tinh
nhạy và trưởng thành hơn.
“ Khát khao sẽ hình thành ý chí. Ý chí sẽ hình thành hành động. Hành động sẽ hình thành
vận mệnh. » Quả thực vậy, Tràng đã trở thành một con người trưởng thành thực thụ từ cái cách
mà Tràng quan sát những người thân làm việc « Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những
búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất.Cảnh
tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại rất thấm thía cảm động.” Thấm thía cảm
động bởi đó là những hình ảnh của một cuộc sống gia đình đúng nghĩa: yên bình, đầm ấm, và
gắn bó. Mỗi thành viên đang cố gắng cải thiện không gian sống,với một mong muốn dọn dẹp
nhà cửa cho quang quẻ sạch sẽ thì tương lai sẽ tốt đẹp hơn”. Chưa biết tương lai thế nào nhưng
hiện tại trước mắt Tràng là những điều mới mẻ tốt đẹp: một căn nhà gọn gàng, sạch sẽ, một gia
đình với mẹ già nhân hậu và người vợ đảm đang, chăm chỉ. Điều đó đã tác động mạnh mẽ vào
tình cảm của Tràng: “ Hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Quả đúng là
lạ lùng, bởi dẫu sao với người dân xóm ngụ cư thì căn nhà chỉ là nơi tạm bợ qua ngày, vậy mà
Tràng lại thương yêu và gắn bó với nó.
Chỉ có thể là bởi căn nhà đó đã có thị, chính sự hiện diện của thị đã khiến căn nhà trở nên
ý nghĩa và nhiều sinh khí. Tràng nhận thức được hạnh phúc mình đang có, đó là một gia đình”.
So với Chí thì Tràng may mắn hơn rất nhiều, bởi với Chí, gia đình chỉ là một mơ ước xa vời:
“Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?” “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui?”. Hạnh phúc
của Tràng đang ở hiện tại , còn tương lai thì …rất gần: “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.
Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng.” Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tỉ mỉ, chi tiết từng
chuyển biến nhỏ trong suy nghĩ của nhân vật Tràng như một nỗ lực đi đến tận cùng nỗi niềm tâm
trạng của nhân vật.

Càng thấy được những chuyển biết tốt đẹp trong ý thức của Tràng, độc giả càng thấy được
sức mạnh to lớn của tình người, sức mạnh của những khát khao bình dị, chính nó là đôi cánh
nâng đỡ con người vượt thoát khỏi tối tắm, khổ ải. Tràng đã thực sự thăng hoa trong cảm xúc
hạnh phúc: “Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng.” Và trưởng thành
về nhận thức: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho
vợ con sau này.” Trong trí óc Tràng lúc này không có chỗ cho nỗi sợ hãi cái đói, cái chết. Dường
như khát vọng có một mái ấm gia đình, khát vọng được hạnh phúc đã khai sáng trí tuệ Tràng,
không phải là sự tỉnh thức mà là sự phát triển trở nên khôn ngoan hơn, “người lớn” hơn ở Tràng.
Tận hưởng niềm hạnh phúc và gắn với ý thức trách nhiệm, bổn phận phải thu vén cho gia đình,
cho vợ con là điều không phải người khôn ngoan nào cũng nghĩ được. Có lẽ, biết điều này, bà cụ
Tứ có thể yên tâm mà nhắm mắt, bởi Tràng đã biết tự lo cho cuộc sống của mình.
Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, niềm phấn chấn, hân hoan khiến Tràng không thể
đứng yên. Chẳng còn cái vẻ lững thững, chắp tay sau lưng ngắm nhìn nữa mà: “ Hắn xăm xăm
chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà....”. Căn nhà phải
trở nên hoàn hảo, theo cách Tràng nghĩ, để bắt đầu cho một tương lai tốt đẹp. Muốn có được
hạnh phúc, phải bắt tay hành động, phải có sự góp sức của các thành viên. Đó là ý thức tự giác
của một con người nhận ra giá trị của những gì mình đang có. Không chỉ tận hưởng mà còn phải
xây đắp và bảo vệ giữ gìn nó. Nhà văn Kim Lân đã rất tin tưởng rằng tình người, khát vọng hạnh
phúc sẽ giúp con người hoàn thiện mình hơn, cũng như Nam Cao tin tưởng tình người sẽ cảm
hóa Chí vậy.
Trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thép đã tôi thế đấy”, nhà văn Nga Nhicôlai Oxtrôpxki đã để
cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: "Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không
thể chịu được nữa". Nhân vật Tràng của Vợ nhặt không nghĩ nhiều về hoàn cảnh sống, anh chỉ
có một khao khát mãnh liệt biến cuộc sống hiện tại trở nên tốt đẹp hơn, dù thực sự anh chưa biết
phải làm bằng cách nào, làm như thế nào. Chỉ cái tinh thần “xăm xăm” đầy háo hức ấy đã đủ
thấy cái nhiệt huyết đang trào dâng ở Tràng. Người nông dân trong cái nhìn của Kim Lân thật
mộc mạc, giản dị, nhưng là cái mộc mạc thanh cao, không bần hàn, không rẻ rúng, dù cuộc đời
có cố dập vùi đến đâu. Nhà văn luôn yêu thương trân trọng từng nếp sống, nếp nghĩ thuần hậu,
chân quê ấy. Kim Lân không chỉ có cái nhìn cảm thông chia sẻ với nỗi khổ cực của người nông
dân; mà ông còn muốn giúp họ nhận ra con đường hoàn thiện nhân cách là tình người và khát
vọng được hạnh phúc, được bình yên. Và ông luôn tin tưởng một điều rằng: họ có thể nghèo đói
đến quay quắt, nhưng tấm lòng nhân hậu, bao dung và khát vọng hạnh phúc mãnh liệt sẽ dẫn
đường cho họ vượt qua tất cả.
Kết bài
Có ý kiến cho rằng “Nghệ thuật miêu tả tâm lí con người là thước đo tài năng người nghệ
sĩ”. Thực sự Kim Lân rất tài tình trong việc tái hiện một cách sinh động diễn biến tâm lí của
nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ. Qua đoạn trích, độc giả không chỉ thấy vẻ đẹp
tâm hồn của Tràng nói riêng, của người lao động nghèo nói chung mà còn thấm thía nhiều thông
điệp ý nghĩa. Đọc “Vợ nhặt”, ta không chỉ xót xa trước những phận đời khổ cực mà hơn hết là
một nỗi niềm trân trọng, thương yêu những con người lao động thuần hậu, mà giàu nghị lực.
Càng yêu mến nhân vật ta càng biết trân trọng hơn cuộc sống của bản thân mình!

ĐỀ 3: Trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân có đoạn:


…Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê
tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này,
người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà
đã chẳng lo lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà
cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo
cho hết được ?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới” :
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài
ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà
ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái
chúng mày về sau”.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng
uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào
khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão
nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng
nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót.Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi. Người
đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân
mật:
Kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…
Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, 2013,tr 28-29)
Cảm nhận của anh/chị về tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên. Từ đó, rút
ra nhận xét tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân trong tác phNm.
BÀI LÀM:
Tôi may mắn không phải sinh ra trong thời khắc đen tối nhất của lịch sử dân tộc, khi mà
nạn đói tràn đến đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người dân trên đất nước. Tôi cũng may
mắn không phải chân lấm tay bùn trong kiếp đời nông dân khổ cực. Nhưng mỗi lần đọc “Vợ
nhặt” của nhà văn Kim Lân tôi như thấy mình đang sống với biết bao nỗi sợ hãi, xót thương, nỗi
buồn lo khắc khoải cùng những con người lao động đói khổ mà nặng tình nặng nghĩa. Tôi vẫn
luôn nhớ một anh cu Tràng ngờ nghệch mà tốt bụng, một chị con dâu đói rách nhiều khát khao
và đặc biệt, tôi cứ ấn tượng mãi với hình ảnh bà cụ Tứ - một người mẹ nghèo khổ mà nhân hậu
vô cùng. Dường như, bao nhiêu tình cảm yêu thương, trân trọng, nhà văn đều gửi gắm vào nhân
vật bà cụ Tứ qua những đoạn diễn tả tâm trạng đầy xúc động. Sau đây là một đoạn trích tiêu
biểu:
“ Bà cụ cúi đầu nín lặng… nước mắt chảy xuống ròng ròng”
“Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con
người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết.” Kim Lân chọn lối
đi riêng cho mình. Với ông, nan đói thê thảm năm Ất Dậu trở thành một phép thử cho nhân cách
con người. Trong tình huống nhặt vợ đầy éo le ngang trái của anh cu Tràng, những tưởng, câu
chuyện sẽ chỉ là những buồn đau u ám, những lo lắng hoang mang, nhưng qua ngòi bút nhân đạo
của nhà văn, độc giả cảm nhận niềm vui, niềm hạnh phúc cứ len lỏi và dần chế ngự trong tâm
hồn những con người khốn khổ. Bà cụ Tứ - người mẹ nghèo khó già nua, khổ hạnh với dáng
người lọng khọng xuất hiện cuối cùng trong câu chuyện không phải với dụng ý làm tăng kịch
tính mà trái lại, bà như một thứ phao cứu sinh, một cái cọc neo để hai đứa con tội nghiệp đang
hoang mang kia bấu víu. Sau những giây phút ngạc nhiên ngỡ ngàng, bà cụ Tứ đã mở lòng đón
nhận nàng dâu mới đầy ấm áp, yêu thương mặc cho thần chết đang thét gào thịnh nộ.
Mở đầu đoạn trích là tâm trạng ai oán xót thương của bà cụ Tứ khi đón nhận một tin bất
ngờ: Tràng có vợ. Phải đợi đến lúc Tràng phân trần rành mạch “Nhà tôi nó về làm bạn với tôi
đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả.” bà cụ Tứ
mới hiểu ra một điều mà đến những đứa trẻ con cũng nhận ra ngay từ đầu ngõ khi nhìn thấy
Tràng dẫn thị về. “Con bà có vợ” – một tin đầy bất ngờ, và thật trớ trêu. Tràng là đứa con duy
nhất bên bà, đứa con ngờ nghệch, vừa xấu xí lại thuộc thành phần dân xóm ngụ cư luôn bị coi rẻ,
bị miệt thị, nay bỗng dưng có vợ một cách quá dễ dàng. Bà phải vui chứ? Nhưng thật sự bà
không thể vui mừng vào lúc này, khi cái đói đã tràn về, khắp không gian chỉ thấy mùi của chết
chóc: những thây ma nằm còng queo bên đường, tiếng hờ khóc, tiếng quạ réo lên từng hồi thê
thiết, rồi mùi Nm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Cũng như bao con người khốn khổ khác, bà không thể không nghĩ đến cái chết: “Bà lão
cúi đầu nín lặng”. Một cử chỉ nói lên biết bao nỗi niềm đau đớn xót xa của người mẹ. “Cúi đầu”
không chỉ thể hiện sự bế tắc trong tâm trạng, sự trốn tránh thực tại mà còn là giây phút bà tự vấn
lòng mình, một nỗi niềm bà không thể thổ lộ hay chia sẻ cùng ai và cũng không muốn ai nhìn
thấy, không muốn ai chứng kiến nỗi tủi hờn của mình. Giống như cái phút đứng lặng trong bóng
tối của Mị (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài), cái cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ là những giây phút
nhận thức về sự sống và cái chết. Không phải nghĩ về sự sống của bản thân mình, mà bà “hiểu ra
biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình.” Nhà văn đã dùng rất
chính xác từ “ai oán”, xót thương” để diễn tả tâm trạng của bà cụ lúc này. Rất chân thật. Lòng bà
lão nghèo khổ oán trách số phận hNm hiu, tạo hóa trêu ngươi, để con bà có được vợ vào đúng lúc
đói khổ quay quắt thế này. Oán trách bao nhiêu thì xót xa cho số kiếp của con mình bấy nhiêu.
Nó thua thiệt đủ đường. “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi.
Còn mình thì…” Lòng người cha người mẹ nào mà chẳng muốn sắm sanh cho con một đám cưới
đàng hoàng, tươm tất để mở mày mở mặt với xóm làng? Bà lão cũng vậy, chẳng nhiều nhặn gì
thì giá như có thể làm răm ba mâm đãi làng và mừng cho hạnh phúc to lớn của con bà thì tốt biết
mấy. Tràng sẽ được an ủi mà lòng người mẹ cũng không phải áy náy, day dứt. Câu văn bỏ lửng
trong xúc cảm nghẹn ngào, chua xót khơi gợi bao nỗi đồng cảm sẻ chia của người đọc: “Còn
mình thì…”.
Cuộc sống tối tăm, bế tắc khiến người mẹ ấy chẳng còn biết làm gì để giúp đỡ con. Đến
giọt nước mắt xót thương cũng khô cạn trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ. Hình dung khuôn mặt
khắc khổ của bà cụ, người đọc lại nghĩ đến hình ảnh Lão Hạc khóc thương cho cậu Vàng, khóc
thương cho số kiếp của mình: “ Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra”. Thật ám ảnh!
Tuy nhiên, cái cách bà cụ Tứ khóc thật lặng thầm và tế nhị, bà lão không để người phụ nữ
khốn khổ kia biết được. Vẫn cúi đầu kìm nén cảm xúc tiêu cực, bà lão đơn độc với bao nhiêu
buồn lo, sợ hãi “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không.”
Người mẹ đáng thương ấy luôn hiểu mọi phản ứng tiêu cực của mình sẽ chỉ khơi thêm những tủi
hờn cho con trai và người đàn bà kia mà thôi. Bởi vậy mà sau phút trấn an tinh thần, bà lão “khẽ
thở dài ngửng lên”, đối diện với sự đã rồi. Bà lão “đăm đăm nhìn người đàn bà”. Đó hoàn toàn
không phải là cái nhìn soi mói, cái nhìn xét nét hành vi của người khác, trái lại, bà nhìn thấu suốt
cả cuộc đời người đàn bà trước mặt với tấm lòng cảm thông chia sẻ đầy nhân hậu. “Bà lão nhìn
thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà
con mình mới có vợ được…” Đó là suy nghĩ của một con người nhận thức rõ may mắn của con
trai mình, nhận thức rõ tình cảnh đáng thương của thị và hơn hết, đó là tấm lòng bao dung,
thương người như thể thương thân của bà cụ. Cũng lo lắng lắm, nhưng cố gắng chắt chiu lấy
niềm vui, niềm hi vọng dẫu mong manh để sống: “Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo
lắng được cho con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó
yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Mỗi câu độc thoạt nội tâm của bà cụ đều chất chứa một nỗi chua xót đắng cay, một sự bế
tắc nhưng vẫn luôn thấm đượm tình người. Xem cách bà cụ phản ứng với tin Tràng có vợ, độc
giả càng thấm thía vẻ đẹp của nếp sống, nếp suy nghĩ nặng tình nặng nghĩa của những con người
dân quê mộc mạc. Khác hẳn với suy nghĩ đầy định kiến của bà cô thị Nở khi đón nhận tin cháu
gái bà muốn lấy Chí Phèo. Không có một sự cảm thông chia sẻ, trong lời lẽ của bà cô chỉ có
những lời thóa mạ, miệt thị tàn nhẫn trút lên đầu Chí. Giá như, người cô ấy có chỉ một chút thôi
sự tế nhị, sự thấu hiểu và cảm thông thì hẳn Chí Phèo đã được nhận về với xã hội loài người. Thế
mới biết, chỉ có tấm lòng người mẹ thương con, chỉ có tình người ấm áp mới đủ bao dung mở
lòng cưu mang những kiếp người bên bờ vực của tuyệt vọng như thị. Và có bị thử thách trong
hoàn cảnh bĩ cực ấy, ta mới thấy cái nhìn đầy tin yêu của nhà văn dành cho những con người lao
động lam lũ.
Từ sự cảm thông, thấu hiểu trong suy nghĩ, bà lão thấy cần phải an ủi con, bởi chúng
không có lỗi. Chúng thật đáng thương và tội nghiệp! Dù cất lời lên lúc này cũng thgật khó lắm
thay! Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, và “nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới””: “ Ừ, thôi thì các
con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Một câu nói ngắn gọn mà giá trị vô
cùng! Ngạn ngữ Nhật có câu: “ Một lời nói thiện ý có thể sưởi ấm cả ba tháng mùa đông”. Lời
nói của bà cụ Tứ cũng vậy, đó không phải chỉ là lời nói chấp nhận nàng dâu mới giải tỏa tâm lí
căng thẳng, thấp thỏm lo âu, đem đến niềm hạnh phúc ngập tràn cho Tràng mà còn hướng đên sự
đồng cảm, bênh vực nàng dâu mới, khiến thị không còn thấy ngượng ngùng bởi hành động
đường đột của mình. Tất cả là do duyên số, chứ không phải vì miếng ăn! Và điều đặc biệt là bà
lão cũng bộc lộ tâm trạng của mình trong câu nói “u cũng mừng lòng”. Bà cụ sẽ khiến thị hiểu
rằng, dù sao sự xuất hiện của thị trong căn nhà rúm ró, xiêu vẹo cũng đem đến nguồn vui sống
cho người mẹ già nua ấy. Chỉ tiếc rằng niềm vui sướng không thể vút lên giữa cảnh chết chóc
tang thương này, đúng là chỉ có thể “mừng lòng” – một nguồn hạnh phúc trào lên từ đáy lòng mà
bị kìm hãm bởi ngoại cảnh, không thổ lộ ra bằng nụ cười mãn nguyện được. Đằng sau cái “mừng
lòng” còn bao ai oán đang chờ đợi phía trước. Kim Lân đã sử dụng từ ngữ thật chính xác và tinh
tế khi diễn tả tâm lí phức tạp, éo le vừa mừng vừa tủi của bà cụ.
Người mẹ nghèo ấy không chỉ chấp nhận nang dâu mà còn ngay sau đó, an ủi động viên
để thị không còn thấy mình xa lạ nữa. bà cụ phân trần về gia cảnh: “Nhà ta thì nghèo con ạ.”
Khuyên bảo con tu chí làm ăn “ Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn.” Và nhen nhóm
trong các con niềm tin tưởng, lạc quan vào tương lai phía trước. “ Rồi ra may mà ông giời cho
khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
Động viên an ủi con suy nghĩ lạc quan để sống nhưng mỗi lời nói đều hàm chứa sự hoài nghi
“may mà” biết thế nào, có ra thì…, một viễn cảnh mơ hồ mà bà hiểu chỉ có thể phó mặc cho may
rủi. Trước mắt bà là bóng tối bao trùm, là tương lai mờ mịt “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc
đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...”
Từ suy nghĩ, lời nói đến cử chỉ, hành động của bà cụ Tứ đều cho thấy sự nhân hậu bao
dung. Bà lão đang cố gắng kéo gần khoảng cách giữa người con dâu tội nghiệp với mình: “Con
ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.” Bà có thêm bổn phận phải lo lắng, yêu
thương người đàn bà đói rách ấy, bởi “nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi.”
Kim Lân sử dụng liên tiếp các từ ngữ bộc lộ cảm xúc “lòng đầy thương xót” “mừng”,
“thương quá”… khiến lời nói của bà cụ càng thêm tình cảm, xúc động. Hẳn rằng, người con dâu
sẽ cảm thấy mình thật may mắn khi có một người mẹ chồng nhân hậu, có một gia đình yêu
thương gắn bó. Sự nhân hậu của bà cho thị thấy cuộc đời còn đáng sống, giá trị của bản thân còn
được nhìn nhận. Sống trong tình người, con người sẽ trở nên mạnh mẽ hơn!
Nhưng trong tâm trạng rối bời, bà cụ Tứ vẫn không thể xua tan được bóng mây đen đặc
của chết chóc đang trùm lên tổ ấm gia đình bà. Bà vẫn phải nhắc các con về nạn đói bởi nó là
hiện thực rất gần, bà cũng có nhu cầu bộc lộ tình cảm yêu thương các con “Chúng mày lấy nhau
lúc này u thương quá”…Bà muốn nói thật nhiều, nhưng nghẹn ngào không nói được nữa, “nước
mắt cứ chảy xuống ròng ròng.” Lại một lần nữa bà khóc. Nhưng lần này, giọt nước mắt cứ mặc
sức tuôn rơi, bởi đó là giọt nước mắt của tình yêu thương, không cần ngăn lại. Giọt nước mắt
chảy xuống có thể xoa dịu những phiền lo, có thể khiến thị hiểu mình được yêu thương và vì thế
mà gắn bó hơn với các thành viên trong gia đình. Yêu thương vô điều kiện, thị nhanh chóng trở
thành một phần cuộc sống của bà cụ. Khóc cho mình, khóc cho người và rồi bà sẽ lại khóc nữa
cho tương lai mờ mịt của các con. Trong hoàn cảnh ấy, giọt nước mắt là vũ khí duy nhất của
người nông dân chống lại số phận.
Từng sinh ra từ đồng ruộng với xuất thân bần cố nông, Kim Lân thấu hiểu những vất vả
khổ cực, những nỗi tủi hờn cay đắng của người lao động nghèo và đặc biệt, ông thấu hiểu vẻ đẹp
tâm hồn những con người quê mùa lam lũ ấy. Bà cụ Tứ già nua khắc khổ mà có cách hành xử
đầy nhân văn. Trong đói khổ, bà luôn hướng đến sự sống, luôn nghĩ về những điều tốt đẹp sẽ đến
dù là mong manh và hoài nghi… Đề cao và ngợi ca những nét đẹp trong tâm hồn người lao động
nghèo như bà cụ Tứ, như Tràng, thị… cũng là một cách thể hiện tấm lòng tri ân, thể hiện sự trân
trọng yêu thương của Kim Lân dành cho họ. Cái nôi làng quê đã cho ông nguồn tư liệu và nguồn
cảm hứng dồi dào trong sáng tác. Tình cảnh đất nước năm 1945 trở thành phông nền cho tình
người ngời sáng. Với giọng kể chuyện thân tình, gần gũi, tấm lòng nhân đạo của Kim Lân không
chỉ thể hiện qua nỗi xót thương cho số phận người nông dân mà còn gửi gắm qua hình ảnh bà cụ
Tứ một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình người. Nếu bát cháo hành của thị Nở có thể
kéo Chí từ con quỷ dữ về với xã hội loài người thì chính sự cưu mang nhân từ của bà cụ Tứ đã
cứu vớt cả cuộc đời thị. Quả thực, trong xã hội này, chỉ có tình người mới làm nên điều kì diệu
trong cuộc sống.
Bằng cái nhìn đầy nhân hậu của con người “một lòng đi về với đất”, với “thuần hậu
nguyên thủy”, qua đoạn trích, Kim Lân đã khắc họa diễn biến tâm lý nhân vật bà cụ Tứ thật chân
thực, tỉ mỉ mà sâu sắc, Qua đó, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn nhân hậu, bao dung, giàu
lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc của Bà cụ Tứ -
một hình mẫu tiêu biểu cho vẻ đẹp người mẹ Việt Nam. Nhân vật cũng góp phần thể hiện rõ cái
nhìn đầy nhân ái của nhà văn về con người: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết
nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin
tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Có lẽ, chính thông điệp ý nghĩa
ấy đã làm nên giá trị lâu bền cho kiệt tác này!

ĐỀ 4: Xây dựng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã để chi tiết dòng nước mắt xuất hiện hai
lần trong buổi chiều nhập nhoạng.
Lần đầu: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đưa con mình. Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Lần thứ hai: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng
chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm
nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn lời không nói được
nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
Qua việc cảm nhận chi tiết trên, hãy bàn luận vẻ đẹp tình mẫu tử qua hình tượng bà cụ
Tứ.
BÀI LÀM:
Những năm tháng trước cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân trong trang viết
của các nhà văn khốn khổ đến mức tột cùng. Ở Ngô Tất Tố, ta bắt gặp chị Dậu với bầu trời tăm
tối, ở Nguyễn Công Hoan là tình cảnh cho vay lấy lãi nặng nề. Còn đến Kim Lân, sau nỗi đau
của ông Hai, nhà văn lại tìm về với nạn đói 1945 với truyện ngắn Vợ nhặt. Trong tác phNm này,
nhà văn của nông dân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống truyện độc đáo mà còn
có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết truyện đặc sắc. Trong đó, chi tiết miêu tả giọt nước
mắt của bà cụ Tứ khi Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà giới thiệu là một chi tiết tiêu biểu, góp phần
làm nên thành công lớn cho tác phNm.
Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy”
của cuộc sống nông thôn. Hay nói cách khác, nhà văn Kim Lân là một trong những cây bút
truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam đương đại, là người đã viết những trang hay
nhất về làng quê bằng cả lòng yêu thương, sự gắn bó và trái tim hết mực chân thành. Tác phNm
Vợ nhặt nằm trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm
ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Sau khi
hòa bình lặp lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Truyện ngắn Vợ nhặt được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu
đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ. Sự
kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong thời buổi
đói khát này, Tràng lại liều mạng nước thêm một miệng ăn.
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, người phụ nữ đã mất chồng, chịu cảnh “mẹ góa, con côi”. Bà
hiện lên qua cái dáng lom khom, là dáng hình của một người đã lớn tuổi, cái lưng còng như đã
hứng chịu cả một đời gió sương, hơn nữa, lom khom còn vẽ lên cái dáng hình gầy guộc), tiếng
ho hung hăng thể hiện sự ốm yếu, cái đặc trưng của người già và miệng thì lầm bầm tính toán, có
lẽ cả đời bà, vì không còn chồng, nên chẳng phút thảnh thơi, phải lo chắt chiu, ki cóp, phải lo
từng đồng, từng bữa, và tội nghiệp thay, đến cả lúc già cả, gần đất xa trời, cái toan tính vẫn
chẳng thể bỏ được, cái khốn khổ, trách nhiệm đã đeo đẳng cả cuộc đời bà.
Chi tiết miêu tả giọt nước mắt thứ nhất của bà cụ Tứ ở phần giữa của tác phNm, khi anh
Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người
đọc. Khi hiểu ra, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã
hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. “Kẽ mắt kèm
nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn
tuổi: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết
bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng
vợ gả chông cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nôi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau
này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”
Khi nghe Tràng giới thiệu về người vợ nhặt, bà lão chỉ cúi đầu nín lặng. Cái nín lặng của
người mẹ già đã hiểu ra bao cơ sự. Từ sự phấp phỏng, ngạc nhiên ban đầu, bà đã hiểu được gần
như đầy đủ. Từ cái cúi đầu nín lặng đến hiểu ra bao cơ sự là cả một sự ứng xử khéo léo, bao
dung mà độ lượng. Cái cúi đầu hiểu ra bao cơ sự cũng chứng tỏ sự thấu hiểu và từng trải lẽ đời.
Bà đã giải được những éo le, lạ lùng trong ngôi nhà mình lúc bấy giờ. Là những chuyện khó nói,
mà Tràng không nêu rõ, có thể là điều mà người phụ nữ kia sẽ thấy xấu hổ khi được hỏi hoặc
được nói ra thẳng thắn. Bà hiểu ra, và bà không nỡ hỏi. Đó là trí tuệ của một người đã từng trải,
và đó là trái tim của một người mẹ vị tha, nhân hậu. Trong nó của bà cụ Tứ, bao ngổn ngang, bối
rối. Mà trong những nỗi niềm đó, có một chữ lo. Đó là cái lo không biết chúng nó có nuôi được
nhau qua cảnh khốn khó này không. Cái đói, dường như phủ đầy trong cuộc sống, xâm lấn vào
tận mỗi tế bào. Vì thế, chuyện hỉ sự, vậy mà, người ta vẫn còn nhức nhối vì lo, vì sợ.
Trong đoạn văn miêu tả bà cụ Tứ khóc, Kim Lân đã rất tinh tế khi dùng từ “rỉ”. Dường
như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng, xót xa
như nghẹn lại trong lòng khiến bà không thể khóc. Hình ảnh “giọt nước mắt” trong lần miêu tả
thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp
của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng
nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong bài Khóc
Dương Khuê cũng có câu:
“Tuổi già như hạt lệ sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước
mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau đớn nhưng
cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra
hiếm hoi mà thôi.
Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con trưởng
thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ cho
con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy
tâm sự.
Chi tiết miêu tả bà cụ Tứ khóc lần thứ hai, vẫn xuất hiện trong cuộc gặp gỡ người con dâu.
Nếu như lần miêu tả thứ nhất giọt nước mắt của bà Tứ, Kim Lân dùng từ “rỉ” thì lần này, nhà
văn lại sử dụng từ láy “ròng ròng”: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà
mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận
là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Bà cụ nghẹn
lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.”
Cách khóc “ròng ròng” giống như một sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau, tủi hận. Tiếng
khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà còn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lòng mình, để
tìm được sự thông cảm từ các con. Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ
còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương
con trai, thương bản thân mình mà còn thương người đàn bà xa lạ.
Hình ảnh dăm ba mâm cho thấy được sự chu đáo và trân trọng người con dâu của bà cụ
Tứ. Chỉ là cô gái tầm phơ tầm phào anh cu Tràng nhặt ngoài đường ngoài chợ, nhưng bà không
muốn vì thế mà cô bị rẻ rúng. Làm dăm ba mâm để cho cô một thân phận, thế mới thấy người
mẹ nghèo thật sâu sắc và tinh tế. Hình ảnh dòng nước mắt lại xuất hiện như cả một bầu trời
thương lo và trách nhiệm của người mẹ nghèo. Bà không chỉ thương con, còn thấy mình có lỗi
với con. Là mẹ, không lo được cho con, trong xúc cảm người mẹ, thấy trào dâng niềm hờn tủi.
Bà cụ Tứ khóc nhưng cũng là người chủ động gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là
điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để
đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía
trước. Có thể nói cả hai lần xuất hiện hình ảnh dòng nước mắt, ta đều thấy vẻ đẹp bà cụ Tứ hiện
lên, đó là lòng thương con vô hạn. Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã
dựng lên hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng
khiếp năm 1945. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân
vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chỉ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được
tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Đặc biệt với chi tiết dòng nước mắt cài vào và lặp lại, ta thấy
một sự am hiểu tâm lý rất sâu và tinh của nhà văn. Người già hay lo nghĩ, cũng hay tủi hờn, dòng
nước mắt làm ta nhớ đến cái dáng quen thuộc của những người bà, người mẹ nông thôn lam lũ
mà cần cù, một đời lo cho con, tất cả vì con.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phNm giàu giá trị hiện thực, nhân
đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai
tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người
mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện
và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến các phNm mang chất thơ cảm
động và hấp dẫn.

ĐỀ 5:
Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể
chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về
sau này:
• Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng
gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…
Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm
ấm, hòa hợp như thế. Câu chuyện trong bữa ăn đang đà vui bỗng ngừng lại. Niêu cháo lõng
bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Bà lão đặt đũa bát xuống, nhìn hai con vui vẻ:
- Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ.
Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái
nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười:
• Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào
miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vãn tươi cười, đon đả:
• Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà
ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng cám
đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa com từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong
lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người…”
(Trích Vợ nhặt, Kim Lân)
Phân tích vẻ đẹp của của các nhân vật qua đoạn trích trên. Từ đó chỉ ra giá trị hiện thực của tác
phNm.
BÀI LÀM:
1. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
• Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn. Đề tài trong các sáng tác của Kim là nông
thôn và người nông dân. Ông có biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật; văn phong giản dị
nhưng gợi cảm, hấp dẫn; ngôn ngữ sống động, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày và
mang đậm màu sắc nông thôn; am hiểu và gắn bó sâu sắc về phong tục và đời sống làng
quê Bắc Bộ.
• Truyện ngắn Vợ nhặt in trong tập Con chó xấu xí (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là
tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và
thất lạc bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ
để viết truyện ngắn này.
Đoạn trích: “Giữa một cái mẹt rách […] len vào tâm trí mọi người” nằm ở gần cuối tác
phNm miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của các nhân vật: bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt
trong bữa cơm đầu tiên.
2. Nội dung
1. 2.1. Tóm tắt đoạn trước: Ở đoạn văn trước đó, Kim Lân đã mang đến tình huống truyện độc
đáo: anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, thô kệch nhưng chỉ nhờ bốn bát bánh đúc, một câu nói bông
đùa thế mà lại có được vợ. Sự kiện này tạo nên bước ngoặt của tác phNm và góp phần làm hoàn
chỉnh bức tranh cảm động về vẻ đẹp tình người trong nạn đói. Ấn tượng nhất của bức tranh ấy
chính là cảnh bữa cơm đầu đón nàng dâu.
2. Chi tiết “bát chè khoán”
- Kim Lân miêu tả bữa ăn đón nàng dâu chỉ với mấy câu: “bữa ăn ngày đói trông thật
thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo,..”
mà bức tranh ngày đói đã hiện lên với tất cả sự khốn cùng.
+ Hai chữ “thảm hại” gợi tả bữa ăn đạm bạc, khổ sở, đáng thương. Bữa tiệc cưới đơn sơ
quá khiến cho ai cũng quặn lòng vì xót xa, thương cảm. Bình thường, cuộc sống của người dân
xóm ngụ cư vốn đã đầy ắp những nỗi khó khăn. Giờ giữa nạn đói, mọi chuyện càng trở nên tồi
tệ hơn.
+ Trông vào “cái thực đơn” bữa cơm ấy mà ái ngại. Món chính là cháo, nhưng lại là
“niêu cháo lõng bõng”. “Lõng bõng” là từ láy gợi tả hình ảnh nồi cháo loãng loẹt, nước nhiều
hơn cái. Đã vậy “mỗi người chỉ được lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Món kèm theo càng tô
đậm thêm cho sự kham khổ. Cháo ăn với muối và “rau chuối thái rối”. Ngay đến cái mẹt để
bày biện cho ra dáng bữa ăn thì cũng chỉ là cái mẹt đã rách nát. Và chừng đó đủ để thấy thảm
cảnh của cả dân tộc trong nạn đói khủng khiếp năm nào.
3. Qua chi tiết ‘bát chè khoán” nhà văn đã làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật
• Bà cụ Tứ: người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực (mặc dù đã già nhưng bà vẫn dậy
sớm chuNn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa khi cái đói đang rình rập bà vẫn cố gắng để có
được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình).
• Tràng: “Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay lại, miếng
cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, cách ứng xử này vừa cho thấy Tràng là người chồng
có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ
đầy, một tiệc cưới sang trọng; vừa cho thấy Tràng là người con hết sức khéo léo trong cách
cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.
• Vợ Tràng: qua chi tiết này ta càng khẳng định được sự thay đổi về tính cách của vợ Tràng, hết
sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng
để làm vui lòng mẹ chồng. Điều đó cũng cho thấy vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh
như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua
những tháng ngày khó khăn sắp tới.
3. Nghệ thuật: Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được
miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ
thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính...
4. Thái độ của nhà văn đối với con người và thực trạng xã hội đương thời
- Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây ra
nạn đói khủng khiếp năm 1945 (giá trị hiện thực)
- Thái độ của nhà văn đối với con người: Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phNm chất tốt
đẹp của người dân nghèo: Dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân
nghèo vẫn luôn thương yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thật đúng với tinh thần” Thương người
như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam. (giá trị nhân đạo)

RỪNG XÀ NU ( Nguyễn Trung Thành)

ĐỀ 1: Có ý kiến cho rằng: Nổi bật trong tác phNm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là hình
tượng cây xà nu, đây là một hình tượng nghệ thuật biểu trưng cho sức sống, phNm chất của người
Tây Nguyên thời chống Mĩ. Anh/chị hãy bàn luận về ý kiến này.
BÀI LÀM:
Tây Nguyên - mảnh đất hùng vĩ và thơ mộng, với những con người nồng hậu yêu thương mà
kiên cường bất khuất, từ lâu đã là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân nghệ sĩ. Mỗi người
đều tìm thấy ở mảnh đất này một biểu tượng đẹp cho tâm hồn cất cánh, ngòi bút thăng hoa. Ngọc
Anh có Bóng cây Kơ nia như nỗi lòng thổn thức thiết tha của tình yêu thủy chung son sắt, Thu
Bồn có Bài ca chim Chơ-rao, ngân vang khúc hát trong trẻo nồng đượm tình người chiến thắng...
Còn Nguyễn Trung Thành lại đem đến cho ta hình tượng những Rừng xà nu nối tiếp chạy đến
chân trời như sức sống bền và bất diệt của nhân dân Tây Nguyên trong công cuộc chống Mĩ cứu
nước. Bàn về hình tượng này, có ý kiến đã cho rằng: “Nổi bật trong tác phấm Rừng xà nu của
Nguyên Trung Thành là hình tượng cây xà nu, đây là một hình tượng nghệ thuật biểu trưng cho
sức sống, phẩm chất của người Tây Nguyên thời chống Mĩ.”
Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. Ông sớm bén duyên với mảnh đất Tây Nguyên đầy nắng và gió, và cho
đến hiện tại, những tác phNm hay nhất của ông có dấu ấn của miền đất nắng gió ấy. Những sáng
tác của nhà văn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề
trọng đại, lớn lao của dân tộc. Truyện ngắn Rừng xà nu là một tác phNm như thế. Rừng xà nu
được viết năm 1965, ra mắt trên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Bộ, sau đó in trong tập Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Đọc Rừng xà nu, không chỉ những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai tạo nên ấn tượng sâu
sắc trong chúng ta, mà còn là cây xà nu - một hình tượng đặc sắc bao trùm toàn bộ thiên truyện
ngắn này. Chính hình tượng cây xà nu tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi lãng mạn cho câu
chuyện về làng Xô Man bất khuất, kiên cường. Đó là hình tượng hàm chứa nhiều ỳ nghĩa tượng
trưng. Qua hình tượng này, người đọc có thể thấy rõ sức sống kiên cường, sức sống mãnh liệt
của con người Tây Nguyên nói riêng, của con người Việt nói chung trong những ngày đánh Mĩ.
Đầu tiên, có thể khẳng định, hình tượng cây xà nu là hình tượng trung tâm, được trở đi trở lại,
xuyên suốt toàn bộ tác phNm. Từ tên nhan đề: Rừng xà nu - một danh từ vừa cụ thể vừa mang
tính hình tượng. Xà nu như nhà văn chia sẻ, là loại cây mạnh mẽ, căng tràn mạch sống, xanh
ngút ngàn kéo dài tít tắp trên mảnh đất Tây Nguyên nắng và gió. Đặt tên cho tác phNm như vậy
khắc dấu đầu tiên đầy ấn tượng về một đặc trưng của vùng đất, ngầm chứa nhiều mạch ngầm tư
tưởng mà sẽ hé lộ dần trong truyện. Trong truyện ngắn này, xà nu là hình tượng xuất hiện dày
đặc, từ mở đầu, kết thúc, những sinh hoạt của dân làng Xô Man, những sự kiện trọng đại, những
kỷ niệm ngọt ngào đến đau thưong,.. đều có cây xà nu.
Cây xà nu mang trong mình nguồn sống và sức mạnh mãnh liệt, không gì quật ngã nổi. Cây
xà nu là hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng cho phNm chất của dân làng Xô man nói riêng và người
Tây Nguyên nói chung: “Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây
xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thắng
lên bầu trời”. Xà nu mang trong mình vẻ đẹp của loài cây ham ánh sáng mặt trời. Sự sống của
nó chính là sự vươn lên để sinh tồn. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí trời.
Xét về vai trò, xà nu là máu thịt, là phần không thể thiếu trong đời sống dân làng Xô Man:
ngọn lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, lửa xà nu cháy bập bùng trong nhà ưng tập trung cả dân
làng để nghe cụ Mết kể về cuộc đời Tnú; khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ, khói xà nu còn
làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ... Xà nu còn tham dự vào
những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man: ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ
Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác chuNn bị cho cuộc nổi dậy; đêm đêm, cả dân
làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu; giặc đốt hai bàn tay Tnú bằng giẻ tNm nhựa xà nu...
Rừng xà nu còn là bức tường thành vững chãi bao bọc, chở che cho buôn làng Xô Man. Mỗi
ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhưng làng Xô Man vẫn bình yên vì “Hầu hết đạn đại bác
đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. Đổi lại, vì bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng
xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là
không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão”.
Và cuối cùng, có thể khẳng định, rừng xà nu đã trở thành biểu tượng của sức sống mãnh liệt
của nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Là cụ Mết, người truyền và giữ ngọn lửa tinh thần cách
mạng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Người anh hùng Tnú với tinh thần kìm
nén đau thương để biến thành sức mạnh quật khởi. Dít với đôi mắt mở to trong suốt, bình thản
ngày Mai chết. Dít như cây xà nu nhanh chóng trưởng thành, nhanh chóng trở thành bí thư chi
bộ, cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc, vẻ đẹp của bé Heng, thế hệ xà nu măng
non, chưa trưởng thành nhưng tinh thần thì đã “nhọn hoắt như những mũi lê”...
Đi suốt chiều dài tác phấm, xà nu là hình tượng bao trùm, là mạch sống mạch hồn của tác
phNm. Hình tượng thiên nhiên ấy đã trở thành chủ âm của tác phNm, nó chiếm giữ những vị trí
quan trọng nhất của truyện ngắn: nhan đề, mở đầu và kết thúc. Hình ảnh cây xà nu còn trở đi trở
lại nhiều lần tạo nên không gian đặc trưng của núi rừng Tây Nguyên.
Xà nu trở thành biểu tượng cho cuộc sống và phNm chất của dân làng Xô Man - đó là một
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu
và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những vẻ đẹp mới để dựng lên bức tranh sử thi chống Mĩ
của những con người kiên cường bất khuất nơi núi rừng hùng vĩ Tây Nguyên.

ĐỀ 3: . Phân tích hình tượng người dũng sĩ Tnú, trong Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung
Thành, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của nhân vật anh hùng sử thi.
BÀI LÀM:
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của
đồng bào Tây Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác phNm đã thế hiện sự truởng
thành của một thế hệ cách mạng trẻ trung, mưu trí, kiên cường. Mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp
riêng tiêu biểu cho cốt cách, linh hồn của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Nổi bật nhất là nhân
vật Tnú, nhân vật trung tâm của tác phNm. Xây dựng con người này, Nguyễn Trung Thành đã
nhúng hình tượng vào lò nung của sử thi, để khi nhân vật bước ra, toả rạng phNm chất dũng sĩ,
lấp lánh như một huyền thoại, và mãi là bài ca vang vọng giữa đại ngàn.
Nguyễn Trung Thành là nhà văn lớn lên và trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến
trường kỳ của dân tộc. Ông đặc biệt thành công về đề tài văn học viết về miền núi Tây Nguyên.
Như PGS.TS Lã Nhâm Thìn từng nhận xét: “Nguyên Ngọc là một trong những nhà văn sớm mở
cánh cửa văn học vào mảnh đất Tây Nguyên”, trên mảnh đất ấy, nhà văn đã xây dựng được
những lâu đài nghệ thuật nguy nga, tráng lệ. Những sáng tác của ông mang đậm tính sử thi và
cảm hứng lãng mạn, thường đề cập đến những vấn đề trọng đại, lớn lao của dân tộc. Truyện ngắn
Rừng xà nu là câu chuyện về dân làng Xô Man trong kháng chiến chống Mĩ. Trong số những con
người hiên ngang bất khuất của làng Xô Man nối bật lên là hình ảnh Tnú. Câu chuyện về cuộc
đời anh đã đuợc tái hiện cụ thể qua lời kể của già làng bên bếp lửa.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn chống Mĩ, khuynh hướng sử thi là một khuynh hướng lớn.
Tính sử thi được thể hiện trong đề tài, chủ đề mang ý nghĩa thời đại, bàn đến những vấn đề lớn
lao, những vấn đề cộng đồng, cùng với đó là ngôn ngữ đầy trang trọng. Nhân vật trong sử thi là
nhân vật tiêu biểu cho cả cộng đồng, là người anh hùng, người dũng sĩ của thời đại mang sức
mạnh, phấm chất lý tưởng, thể hiện qua lời nói, hành động dũng cảm, với những chiến công hiển
hách. Nhân vật anh hùng sử thi không thể tồn tại nếu không vượt qua được mọi khó khăn thử
thách để giành chiến thắng. Tnú được xây dựng trên cảm hứng sử thi ấy.
Trước hết, Tnú tiêu biểu cho tính cách đồng bào Tây Nguyên. Tnú mang trong mình những
phNm chất đáng quý: trung thực, gan góc, dũng cảm. Những phNm chất ấy được biểu hiện từ khi
Tnú còn nhỏ đến khi đã là một chiến sĩ cách mạng. Đó là khi Tnú học cái chữ, học thua Mai đã
tự lấy đá ghè vào đầu mình. Là những lần vượt con thác dữ, mình như con cá kình, tìm những
khúc xiết mà vượt khiến kẻ thù không ngờ. Là đôi bàn tay như mười ngọn đuốc rực đỏ nhưng
không một tiếng van xin, chỉ có ánh mắt căm hờn lửa cháy.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cách mạng, với Đảng, là hiện thân của sự
khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã
được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày của kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu
lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng
hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện,
Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra
khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời.
Tnú còn là người mang trong mình tình yêu thương và lòng căm thù cháy bỏng. Tình yêu
thương được thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa Tnú với buôn làng và với những người dân
trong buôn. Làng Xô Man là cội nguồn, là nơi nuôi dưỡng Tnú. Nơi đây có những người thân
thuộc, có gia đình bé nhỏ của anh. Nhưng nơi thân thuộc, những người thân thương của anh đã
bị giặc giày xéo. Anh chứa trong lòng niềm căm thù: mối thù ấy được tích góp qua năm tháng,
đó là những vết chém dọc ngang lưng khi Tnú còn nhỏ, là đôi bàn tay chỉ còn hai đốt, nhưng sâu
sắc nhất, ám ảnh nhất là bọn giặc đã cướp đi gia đình nhỏ của anh, những con người thân thiết
nhất của anh.
Tnú cũng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây
Nguyên. Bi kịch của Tnú là một bi kịch điển hình. Khi anh dùng tay không để đấu tranh với toán
giặc, gia đình anh không cứu được, trái lại còn bị đốt cháy đôi bàn tay. Tnú chỉ được cứu khi dân
làng Xô Man cầm vũ khí đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau
thương mất mát, anh biết vượt qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí
chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai
sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí: “Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”, dùng bạo lực cách mạng mới có thể tiêu diệt được cái ác,
cái bạo lực.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của
anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những
tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn. Đấy là
bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không
nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây... Tuy vậy ấn tuợng mạnh nhất về đôi
bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật.
Giặc quấn giẻ tNm dầu xà nu vào muời đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay đã thành mười
ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu
anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô
Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra trang sử đấu
tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và
như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phNm, bàn tay
tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố
thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện.
Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh
hai bàn tay ấy.
Tnú - người anh hùng sử thi với những phNm chất phi thường, hiện lên ngạo nghễ, dũng
mãnh với những kỳ tích mà hiếm kẻ thường nào làm được. Đó là người anh hùng đại diện cho
phNm chất, cho sức mạnh, cho tính cách và trở thành niềm tự hào của cộng đồng, đặc biệt ta thấy
được vẻ đẹp của người anh hùng không rời xa lợi ích, mối quan hệ với cộng đồng. Người anh
hùng chỉ đẹp khi gắn với mối quan hệ cộng đồng.

ĐỀ 4:
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần,
hoặc buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu
hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây
không cócây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như
một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay
gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục,
đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng
có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ
ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thắng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi
vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại
bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương
không lành được, cứ loét mai ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên
được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại
bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường
tráng. Chúng vượt lên rấtnhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay rừng xà nu
ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những
đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
( Trích Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12,Tập hai, tr 38,NXB Giáo dục Việt
Nam, 2008)
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong đoạn trích trên trên. Từ đó,
nhận xét bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành.

BÀI LÀM:
3.1.Mở bài
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn có sở trường viết về Tây Nguyên qua hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ. Rừng xà nu-truyện ngắn đỉnh cao và xuất sắc nhất của văn xuôi đánh
Mĩ. Tác phNm phản ánh cuộc đấu tranh anh dũng bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây
Nguyên. Một trog những thành công nổi bật của Nguyễn Trung Thành là xây dựng hình tượng
Rừng xà nu thể hiện chiều sâu của tác phNm, tạo nên tính cô đúc, hàm xúc mang sắc màu anh
hùng ca của tác phNm của văn xuôi đánh Mĩ.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Tác phNm tập trung ca ngợi vẻ đẹp hình tượng cây xà nu, qua đó
thể hiện bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
3.2.Thân bài
a. Khái quát về truyện ngắn, đoạn trích
-Truyện ngắn “Rừng xà nu” viết năm 1965, in trong tập “Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc”;
-Truyện miêu tả rừng xà nu và kể chuyện về Tnú sau ba năm đi “lực lượng” được về thăm
làng. Đêm đó, cụ Mết kể lại câu chuyện cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man. Kết
truyện, cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở về đơn vị.
-Đây là đoạn mở đầu thiên truyện về một làng Xô Man nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất.
-Đoạn trích là một bức tranh, trong đó tác giả tái hiện hình ảnh rừng xà nu hiên ngang, đầy
sức sống trước sự huỷ diệt của kẻ thù. Nó là hình ảnh thu nhỏ của làng Xô Man, như là biểu
tượng của người dân Tây Nguyên anh dũng, khát khao độc lập, tự do.
b. Cảm nhận nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng cây xà nu
b.1. Về nội dung
- Cây xà nu, rừng xà nu đau thương trong bom đạn:
+Năm 1965, đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam, chúng mở rộng cuộc chiến tranh và
dập tắt các phong trào đấu tranh cách mạng trên mảnh đất Tây Nguyên. Hình ảnh cây xà nu,
rừng xà nu cùng chịu chung số phận từ bom đạn của kẻ thù với hình ảnh “Cả rừng xà nu hàng
vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ
ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng
hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”. Với đoạn văn miêu
tả thật sống động, nhà văn đã thổi vào cây xà nu, rừng xà nu như một sinh thể có hồn, mang
dáng vẻ của một con người, một tập thể đang chịu đựng trước sự tàn phá do bom đạn của đế
quốc. Đặc biệt, với nghệ thuật tăng cấp “cả rừng xà nu không có cây nào không bị thương”
chứng tỏ, bom đạn của đế quốc, chúng ra sức hủy diệt sức sống của thiên nhiên, môi trường sống
của con người với chính sách “đốt sạch, quét sạch, giết sạch”. Và hình ảnh “nhựa ứa ra, tràn trề
… và đặc quyện thành từng cục máu lớn”, một hình ảnh nhân hóa độc đáo, chứng tỏ nhựa xà nu
chính là hơi thở, mạch sống là máu thịt của con người Tây Nguyên đang chịu đựng sự đau
thương tàn khốc trước bom đạn của Đế quốc, càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc của người dân
Tây Nguyên đối với quân giặc thật vô cùng.
+Hình ảnh cây xà nu tiếp tục khắc họa với nét bút độc đáo của Nguyễn Trung Thành, tác
giả đã thổi vào cây xà nu mang dáng vẻ như con người đang hứng chịu trước bom đạn tàn khốc
của đế quốc qua hình ảnh thật xúc động: “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại
bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết
thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết”. Với ngôn ngữ tạo hình
độc đáo, tác giả khắc họa hình ảnh cây xà nu con đang vươn mình tràn đầy sức sống nhưng bom
đạn của kẻ thù ra sức hủy diệt, những cây con không đủ sức đề kháng, vết thương cứ loét mãi ra
rồi cây chết, càng gợi cho người đọc thấy rõ sức sống thiên nhiên bị hủy diệt cũng là sự hủy diệt
cả hơi thở của người dân Tây Nguyên, càng cho chúng ta thấy rõ bom đạn tội ác của đế quốc
trong chiến tranh Việt Nam thật vô cùng tàn bạo.
-Cây xà nu, rừng xà nu vươn mình trổi dậy:
+Rừng xà nu nằm cạnh con nước lớn ngang tầm đạn đại bác của giặc, mỗi ngày đều chịu
sự tàn phá khốc liệt do bom đạn của kẻ thù, nhưng cây xà nu vẫn vươn mình trổi dậy, đón nhận
ánh sáng của mặt trời, toát lên một sức sống mãnh liệt, hiên ngang, bất khuất như tinh thần bất
khuất của người dân Tây Nguyên trước kẻ thù, với hình ảnh: “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục,
đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Bằng
nghệ thuật tăng cấp, kết hợp biện pháp nhân hóa, so sánh cho chúng ta hình dung, trước sự tàn
phá do bom đạn của đế quốc nhưng không thể nào hủy diệt sức sống của cây xà nu, khi một cây
ngã gục lại nhiều cây khác trồi lên, nhú lên “ngọn xanh rờn”, chứng tỏ sức sống tiềm tàng của
cây xà nu thật mãnh liệt và hình ảnh “hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” có khác gì như
mũi tên của những chàng dũng sĩ Tây Nguyên đang hướng về phía kẻ thù để chiến đấu nhằm tiêu
diệt cũng là vẻ đẹp về tinh thần bất khuất của người dân Xô Man thời chống Mỹ.
+Sức sống của cây xà nu vẫn hiên ngang, ngạo nghễ thách thức trước bom đạn kẻ thù với
hình ảnh nhân hóa độc đáo, sáng tạo qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành: “Có những cây
vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ.
Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân
thể cường tráng”. Qua đoạn văn miêu tả vừa hiện thực vừa lãng mạn, tác giả khắc họa hình ảnh
cây xà nu mang một sức sống tiềm tàng, bất diệt. Nó có sức đề kháng rất mãnh liệt trước bom
đạn tối tân của đế quốc, toát lên một dáng vẻ mạnh mẽ cường tráng, ngạo nghễ, cho chúng ta liên
tưởng tinh thần bất khuất của người dân Xô Man dù đối diện trước bom đạn cùng hành động tàn
bạo, khủng bố, dã man của kẻ thù, nhưng không thể nào dập tắt ngọn lửa đấu tranh của họ. Họ
vẫn bất khuất kiên cường dưới ngọn cờ cách mạng. Đúng như lời nói cụ Mết: “Chúng nó đã cầm
súng, mình phải cầm giáo!..., Đảng còn, núi nước này còn”.
- Cây xà nu, rừng xà nu sừng sững tiếp nối bất diệt.
+ Nói đến, bom đạn của đế quốc là vũ khí tối tân, mà rừng xà nu lại nằm ngay trong tầm
đạn đại bác của giặc. Trước sự tàn phá của kẻ thù nhằm hủy diệt sức sống thiên nhiên và cuộc
sống con người Tây Nguyên, chúng ra sức tàn phá, đàn áp, khủng bố nhằm dập tắt cuộc đấu
tranh của nhân dân Tây Nguyên tiêu biểu là dân làng Xô Man. Nhưng lạ thay, đã bao năm qua,
cây xà nu, rừng xà nu vẫn sinh sôi nảy lộc, vươn mình khoe sắc dưới ánh sáng mặt trời, rừng Xà
nu vẫn “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng”. Một hình ảnh so sánh nhân hóa độc
đáo, toát lên vẻ đẹp giữa thiên nhiên và con người Tây Nguyên thật kiên cường bất khuất.
+Nhà văn tiếp tục khám phá sức sống của cây xà nu, rừng xà nu thật mãnh liệt bền vững
đó là hình ảnh: “Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác
ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời”. Với nghệ thuật nhân hóa, tăng cấp, tác giả thổi vào
cây xà nu có một sức sống bất diệt, nó vượt lên sự khắc nghiệt do bom đạn của đế quốc. Nó vẫn
đứng sừng sững kiên cường giữa vùng đất Tây Nguyên anh dũng là vẻ đẹp về tinh thần đấu tranh
bất khuất bền bỉ của người dân Tây Nguyên thời chống Mỹ.
- Mở rộng cảm nhận: Không chỉ ở đoạn văn mở đầu mà càng đi sâu vào nội dung của tác
phNm, người đọc lại càng tìm thấy sức sống bất diệt của cây xà nu, một loài cây đáng quý dù
bom đạn tàn phá, cày nát đồi xà nu, rừng xà nu nhưng qua lời nói khẳng định của cụ Mết:
“Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết
rừng xà nu này”. Lời nói dứt khoát khẳng định của cụ Mết càng cho ta thấy rõ sức sống mãnh
liệt bền vững của cây xà nu thật vô cùng, cũng là sức sống kiên cường, bất khuất của người dân
Tây Nguyên qua hai thời kì đấu tranh chống Pháp và chống Mỹ.
b.2.Về nghệ thuật: Hình tượng cây xà nu được xây dựng bằng nghệ thuật độc đáo:
- Kết hợp miêu tả bao quát lẫn cụ thể, khi dựng lên hình ảnh cả khu rừng, khi đặc tả cận
cảnh một số cây.
- Phối hợp cảm nhận của nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng
đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh dưới ánh nắng...
- Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh, đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình
thức nhân hóa, Nn dụ, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động vẻ hùng vĩ,
khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
- Giọng văn đầy biểu cảm với những cụm từ được lặp đi lặp lại gây cảm tưởng đoạn văn
giống như một đoạn thơ trữ tình.
c. Nhận xét bút pháp miêu tả thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Trung Thành: Tác giả đã
sử dụng bút pháp miêu tả giàu chất sử thi và cũng rất lãng mạn, bay bổng:
- Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu;
-Tạo dựng được một bức tranh hoành tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng xà nu (không
gian ngút ngàn và hình tượng cây xà nu khoẻ khoắn, mạnh mẽ, ham ánh sáng, khí trời, tràn đầy
sinh lực, căng đầy nhựa sống,...).
-Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào; vừa lãng
mạn bay bổng vừa trữ tình sâu lắng... Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt
của chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu của cây xà nu.
- Điểm nhìn mang tính sử thi và cảm hứng lãng mạn: đó là một cái nhìn thể hiện sự khâm
phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với cái cao cả; đó là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái hùng,
cái đẹp của thiên nhiên và con người.
3.3.Kết bài
-Đoạn trích mở đầu truyện ngắn Rừng xà nu mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là âm hưởng
chủ đạo tạo phông nền cho diễn biến của toàn bộ thiên truyện. Hình tượng cây xà nu và rừng xà
nu tiêu biểu cho sức sống của người dân Tây Nguyên. Mỗi cây xà nu là một con người, các thế
hệ xà nu là các thế hệ người dân làng Xô Man, cả rừng xà nu là hình ảnh làng Xô Man kiên
cường, bất khuất.
- Nêu cảm nghĩ về tư tưởng và nghệ thuật của nhà văn qua đoạn trích nói riêng, tác
phNm nói chung.

ĐỀ 5: Trong truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả đôi bàn tay Tnú:
Khi giặc tra tấn mẹ con Mai: “Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính, mười thằng,
dẫn Mai ra giữa sân”; “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”; “Hai cánh tay rộng
lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.”
Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay: “Mười ngón tay Tnú đã thành mười ngọn đuốc …Tnú không
thèm, không thèm kêu van”; “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn
giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đó.”
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của
nhân vật này.
BÀI LÀM:
1. Giới thiệu chung:
Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phNm Rừng xà nu và nhân vật Tnú,
đôi bàn tay Tnú.
2. Phân tích hình ảnh đôi bàn tay Tnú qua hai lần miêu tả của nhà văn như y/c của đề:
2.1. Khái quát chung:
+ Ở Tnú hình tượng đôi bàn tay mang dấu ấn tính cách, cuộc đời: Đôi bàn tay Tnú như
một “Bản lí lịch trích ngang” về cuộc đời anh.
- Trong tác phNm có rất nhiều chi tiết mà nhà văn xây dựng gây ấn tượng mạnh mẽ tới người
đọc. Đặc biệt hình ảnh đôi bàn tay Tnú có sức lay động lớn.
- Nhà văn nhiều lần miêu tả về đôi bàn tay Tnú. Tuy nhiên, có hai lần rất tiêu biểu ông miêu tả
về đôi bàn tay ấy trong hai hoàn cảnh khắc nghiệt, gắn với những hành động khác nhau của
Tnú và dân làng Xô Man.
2.2. Phân tích cụ thể:
+ Khi giặc tra tấn mẹ con Mai: “Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính, mười
thằng, dẫn Mai ra giữa sân”; “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”; “Hai cánh
tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.”
=> Giặc tra tấn mẹ con Mai nằm trong âm mưu thâm độc của kẻ thù muốn bắt Tnú, muốn tiêu
diệt tận gốc nhân vật là thủ lĩnh cách mạng lãnh đạo dân làng Xô Man chống lại chúng.
=> Ý nghĩa: Giặc bắt vợ con Tnú tra tấn dã man hòng lung lạc tinh thần anh. Đây là một trong
hai hoàn cảnh khắc nghiệt đối với cuộc đời Tnú. Chứng kiến cảnh ấy, Tnú đã tay không xông
ra cứu vợ con bằng đôi bàn tay “rộng lớn như hai cánh lim chắc” của mình. Động lực ghê
gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa
căm thù… Tuy nhiên, chỉ với hai bàn tay không Tnú đã không cứu được vợ con, mà cụ Mết và
dân làng cũng không cứu được Tnú. Đó là một bi kịch … Lần này, Tnú và dân làng phải chịu
những tổn thất, những đau đớn. Tuy nhiên những tổn thất, đau đớn đó chỉ là tạm thời mà thôi.
Cuộc đấu tranh hứa hẹn sẽ mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn và đi xa hơn về sau này. Đây là hoàn
cảnh mà đôi bàn tay Tnú còn lành lặn. Đôi bàn tay thể hiện Tnú là một con người sống rất tình
nghĩa. Anh là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay căm thù
tột độ bọn giặc xâm lược đã tra tấn, giết hại vợ con anh - mối thù của gia đình Tnú đối với kẻ
thù.
+ Khi bị giặc đốt mười đầu ngón tay: “Mười ngón tay Tnú đã thành mười ngọn đuốc …Tnú
không thèm, không thèm kêu van”; “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa
xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đó.”
=> Giặc tra tấn Tnú lần này hòng làm lung lạc ý chí đấu tranh cách mạng của anh và dân làng
Xô Man, từ đó Tnú và dân làng sẽ phải hạ vũ khí đầu hàng, chấp nhận thân phận nô lệ. Nhưng
không, tội ác của chúng càng làm cho ngọn lửa căm hờn của Tnú, của dân làng bùng cháy lên
mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
=> Ý nghĩa:
- Đây chính là hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt trong cuộc đời Tnú: Mặc dù bị đốt mười đầu
ngón tay nhưng Tnú vẫn nhớ lời anh Quyết dạy: “Người cộng sản không thèm kêu van …”,
Tnú đã “không thèm kêu van”. Tnú một lòng trung thành với cách mạng, luôn thể hiện ý chí,
bản lĩnh gan dạ, dũng cảm của một người anh hùng. Đôi bàn tay Tnú khi bị giặc đốt không còn
lành lặn. Đôi bàn tay anh lúc này là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm
lòng căm hận sôi trào - mối thù của bản thân Tnú đối với kẻ thù. Vì vậy, đó là đôi bàn tay
trừng phạt, bàn tay quả báo đối với chúng khi anh bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận
chiến đấu của quân giải phóng.
- Cũng chính từ thời điểm đôi bàn tay Tnú bị đốt mà dân làng Xô Man đã nổi dậy trong đêm
đồng khởi với vũ khí trong tay để cứu Tnú, cứu dân làng và kết quả là “Lửa đã tắt trên mười
đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn
ngang quanh đống lửa đó.”. Kẻ thù đã phải đền tội cho những tội ác mà chúng đã gây ra cho
Tnú và dân làng.
2.3. Từ hình ảnh đôi bàn tay Tnú qua hai lần miêu tả trên, làm nổi bật sự thay đổi của
nhân vật này.
+ Qua hai lần miêu tả đôi bàn tay Tnú như trên, nhà văn NTT cho thấy sự thay đổi, sự chuyển
biến lớn, có ý nghĩa sống còn trong nhận thức, trong hành động của Tnú, của dân làng Xô
Man, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải
cầm giáo!":
Trong câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú có đến bốn lần cụ Mết nhắc đi nhắc lại việc Tnú
“không cứu được vợ con”. Cụ Mết nhắc như vậy là để nhấn mạnh một sự thật: nếu chỉ có hai
bàn tay không (trong hoàn cảnh giặc tra tấn mẹ con Mai) thì chẳng những Tnú không cứu
được vợ con mà dân làng Xô Man cũng không cứu được Tnú, không cứu được buôn làng
mình.
Từ hình ảnh đôi bàn tay Tnú mà tác giả cũng muốn khắc ghi một chân lí: muốn thoát khỏi
sự đè nén, áp bức của kẻ thù, muốn được tự do thì chỉ có con đường duy nhất là phải đứng lên
đấu tranh với kẻ thù hung bạo.
- Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí cũng là bi kịch của người dân Strá khi chưa giác ngộ
chân lí (bà Nhan, anh Xút bị giặc giết hại). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng với
hai bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản
thân.
- Tnú chỉ được cứu, dân làng Xô Man chỉ được cứu, được bảo vệ, được giải phóng khi đã cầm
vũ khí đứng lên trong đêm đồng khởi để “Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa
đó.”. (trong hoàn cảnh Tnú bị giặc đốt mười đầu ngón tay).
=> Cuộc đời bi tráng của Tnú qua hình ảnh đôi bàn tay gắn chặt với cuộc đời của dân làng Xô
Man quê mình, là một minh chứng cho chân lí của thời đại đánh Mĩ: "Chúng nó đã cầm súng,
mình phải cầm giáo!" - Phải dùng bạo lực CM để tiêu diệt bạo lực phản CM. Nghĩa là phải
đấu tranh vũ trang.
=> Hình tượng đôi bàn tay Tnú cũng rất điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng
của nhân vật này, của dân làng Xô Man, người dân Tây Nguyên đi từ tự phát đến tự giác, từ
bóng tối bước ra ánh sáng, từ nô lệ đến tự do trong thời đại chống Mĩ. Nói về sự thay đổi, sự
chuyển biến này không thể không nhắc đến vai trò của Đảng, của cách mạng (đại diện là nhân
vật Anh Quyết) đã giác ngộ lí tưởng, con đường đấu tranh cho Tnú, cho dân làng Xô Man.
3. Kết luận chung:
- Tnú đã can đảm vượt lên mọi đau đớn - bi kịch cá nhân, quyết tâm trả thù nhà, đền nợ nước.
Câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và
con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc k/c chống đế quốc Mĩ.
- Nguyễn Trung Thành cũng rất thành công trong việc truyền tải, ngợi ca tấm lòng yêu nước,
căm thù giặc, sự chuyển biến trong nhận thức về cách mạng, đấu tranh cách mạng của Tnú,
của dân làng Xô Man, của người dân Tây Nguyên.

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA ( Nguyễn Minh Châu)


ĐỀ 1: Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và
một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu
gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động
đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi
sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát,
bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc
nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người
đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp
đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người
đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi
đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa
cặp mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng
rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống
lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả,
cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm
ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam, 2019).
Anh/chị hãy phân tích đoạn văn bản trên. Từ đó, nhận xét về ngòi bút nhân đạo của Nguyễn
Minh Châu thể hiện trong tác phNm.
BÀI LÀM:

Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là nhắc đến một cây bút của sư thức tỉnh. Các tác phNm của
ông như những tiếng chuông ngân vang lay động đến những góc khuất u tối nhất của lòng người,
thứ âm thanh thôi thúc con người nhìn lại mình, nhìn lại những thói quen tưởng rằng đã chuNn
mực. Đọc tác phNm của Nguyễn Minh Châu, nhất là những tác phNm được viết sau năm 1975,
người đọc đã thực sự “tìm thấy trên trang sách nhà văn một sự rung động sâu sắc, một sự quan
tâm thực sự đối với cuộc đời của họ, một niềm tin yêu, một tiếng nói chung” như chính nhà văn
đã mong muốn. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, người phu chữ ấy đã gieo vào lòng bạn đọc rất
nhiều bận bịu, những bận bịu không hề nhẹ nhàng dễ chịu, mà nó ám ảnh không nguôi. Tôi sẽ
chẳng thể quên hình ảnh và số phận cuộc đời của một gia đình hàng chài khổ đau, bế tắc cùng
những điều vỡ ra từ câu chuyện. Ngòi bút nhân đạo của ông đã khảm vào tâm trí bạn đọc những
cảnh huống đầy day dứt về hiện thực trớ trêu của cuộc đời, như trong đoạn văn bản sau:

“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng…Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi
đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.”
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, trong bối cảnh xã hội đang rơi vào khủng
hoẳng sau chiến tranh, nhiều nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc bị chao đảo, đời sống người
dân lao động hết sức khó khăn thiếu thốn. Sự thật nghiệt ngã ấy được Nguyễn Minh Châu đề cập
đầy sống động trong tác phẩm đã góp phần tạo những nét vẽ đậm đà cho khuôn mặt hiện thực
của văn chương giai đoạn đổi mới. Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó ngoài xa tiến đến gần bờ ngay
trước sự ngỡ ngàng đến sửng sốt của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, nó phô bày tất cả hiện thực đớn
đau, nó đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo
lúc ban mai trong văn chương trước đó. Nó khiến anh giật mình ớn lạnh trước sự thật phũ phàng
Nn sau vẻ đẹp mơ hồ huyền ảo mà chỉ vài phút trước đó anh xúc động đến ngộp thở và ca tụng
hết lời rằng “Cái đẹp là đạo đức”. Đoạn trích khắc họa hình ảnh chiếc thuyền lưới vó đầy thơ
mộng tiến đến gần bờ, trên thuyền bước xuống một người đàn ông và một người đàn bà. Họ đến
từ hiện thực, đến để đánh thức những ảo giác của người nghệ sĩ. Phùng đã như tỉnh dậy sau cơn
mơ đầy lãng mạn.
Câu chuyện về những con người bước ra từ chiếc thuyền lưới vó mà Phùng chứng kiến
không nằm ngoài kết quả tìm kiếm và khám phá cái đẹp của người nghệ sĩ nhiếp ảnh này. Anh
đã mất cả tuần để săn cho kì được một bức ảnh ưng ý về cảnh biển trong buổi sớm mai. Với sự
lao động nghệ thuật nghiêm túc và say mê, anh đã bắt gặp được cảnh tượng trời cho. Đó là cảnh
một chiếc thuyền lưới vó ngoài xa, Nn hiện mờ ảo qua “làn sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng của ánh mặt trời chiếu vào”. Vốn là một con người mang trong mình khát khao
khám phá cái đẹp tuyệt đỉnh, Phùng đã vô cùng xúc động, gần như cuống quýt. Anh bấm liên
thanh hết một phần tư cuốn phim để thu lấy vẻ đẹp đơn giản mà toàn bích của khung cảnh và tận
hưởng những khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.
Quả thực, nó sẽ là toàn bích nếu như chiếc thuyền không cập bến quá nhanh. “ Ngay lúc
ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng”. Cách mà nó hiện hình quá nhanh khiến
Phùng không kịp định thần. Hẳn là tâm hồn anh còn đang lâng lâng với niềm hạnh phúc tràn
ngập do cái đẹp tuyệt đỉnh vừa mang lại. “Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc
thuyền”. Người đọc sẽ có cảm giác đó như một sự đổ bộ, một sự khủng bố về tinh thần, nó đe
dọa những giá trị thNm mĩ Phùng vừa chiễm lĩnh. Chiếc thuyền cập bến không chỉ tác động một
cách sống sượng lên thị giác của người nghệ sĩ mà còn gây sốc về thính giác với âm thanh tục
tằn, thô lỗ mà anh ta nghe được: “ Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ.”
Trên hành trình khám phá và tôn vinh cái đẹp, Phùng đã chứng kiến những điều mình không hề
mong muốn. Sự việc diễn ra ngay trước mắt không chỉ phá tan những xúc cảm đẹp đẽ trong tâm
hồn người nghệ sĩ say mê cái đẹp mà còn làm sụp đổ cả những quan niệm thNm mĩ, cái chân lí
của sự toàn thiện, từ đó vỡ ra biết bao điều trong suy nghĩ của anh. Hiện thực trần trụi, tàn nhẫn
cứ thế phơi bày mặc cho người nghệ sĩ có thể bị tổn thương thế nào.
Trước hết đó là hiện thực về cuộc sống khổ cực, lam lũ của người dân miền biển qua sự
chú ý quan sát của Phùng, qua ngòi bút miêu tả chân dung đầy tài năng của Nguyễn Minh Châu.
Xuất hiện trước mắt Phùng là “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc
của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi
sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ.” Đó là sự quan sát bằng
cái nhìn cảm thông, sẻ chia của người nghệ sĩ từng bước ra từ chiến trường gian khổ. Anh thấy ở
họ sự thiệt thòi khi phải lựa chọn nghề chài lưới làm kế mưu sinh. Người đàn bà kia không mang
nét duyên dáng, yểu điệu hay ít nhất cũng là sự nhỏ nhắn tháo vát. Trái lại, chị có thân hình cao
lớn và thô kệch, phù hợp với công việc nặng nhọc đòi hỏi sức vóc hơn người. “Mụ rỗ mặt”. Và
điều ám ảnh hơn là sắc mặt “mệt mỏi, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ” của người đàn bà.
Hẳn rằng, khi quan sát, Phùng đã không khỏi chạnh lòng xót xa. Người đàn bà ấy đã phải trải
qua một đêm dài thức trắng trên biển, chống chọi với sóng gió để mưu sinh. Những nhọc nhằn
hằn in lên khuôn mặt và cả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, ướt sũng nửa thân dưới của mụ.
Cùng với sự xuất hiện của người đàn bà không còn sức sống ấy là một người đàn ông đi
sau đầy vẻ độc dữ : “Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi
chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ
độc dữ”. Tất cả những đặc điểm ấy đều cho thấy cuộc đời khổ cực của lão. Từ tấm lưng cong
bởi nhũng lần gò người đNy thuyền ra khơi; mái tóc tổ quạ xác xơ vì cái mặn mòi của gió biển;
hàng lông mày cháy nắng vì chuỗi ngày dài cơ cực dãi dầu với nắng gắt ngoài khơi. Ánh mắt đầy
vẻ độc dữ của lão chất chứa bao nhiêu nỗi cùng cực, bế tắc, và đơn độc, có khác nào cái lườm
đời, hận đời “gờm gờm trông gớm chết” của Chí Phèo trong tác phNm của Nam Cam?. Vậy mà,
chính họ lại đã là một phần trong cái toàn thiện toàn mĩ của bức ảnh nghệ thuật mà Phùng vừa
chụp. Thật trớ trêu thay!
Lẽ ra, cái đẹp càng đến gần càng mãn nhãn, thì ở đây anh Phùng đã được chứng kiến một
tình huống thật trớ trêu từ những bóng người lố nhố ngồi im như tượng bước ra ấy.. Họ không
chỉ xấu xí về ngoại hình mà từng cử chỉ, hành động của họ đều khiến Phùng cảm thấy ám ảnh vô
cùng. Từ cái nhìn “dán mắt” đầy thù hận chỉ nhăm nhăm trút giận vào tấm lưng vợ của lão
chồng, đến cái “ngước mắt nhìn” đầy vẻ mệt mỏi về phía chiếc thuyền của người đàn bà. Mụ chỉ
muốn chắc chắn rằng, khoảng cách đã đủ để những đứa trẻ không nhìn thấy điều đau đớn sắp
xảy ra. Phùng cố gắng quan sát và giải mã những cử chỉ của người đàn bà, nhưng dường như
anh cũng bất lực: mụ “đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại
buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn xuống chân.” Sau này Phùng mới hiểu đó là sự buông
xuôi, sự chấp nhận bị ngược đãi của chị , dù sao chồng chị cũng đã cố gắng kìm nén cơn giận
đến lúc này.
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Trần Đình Sử từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu
rằng: “Anh là nhà văn có biệt tài sử dụng chi tiết, miêu tả chân dung, môi trường, khắc họa tâm
lí.” Quả đúng như vậy! Chân dung nhân vật được nhà văn khắc họa bằng những chi tiết, cử chỉ
và hành động đặc trưng đầy sống động như đó không phải là nhân vật văn học mà là con người
đời thực vậy. Những chi tiết miêu tả về lão đàn ông hàng chài đều hùa nhau dẫn đến một hành
động tàn độc diễn ra ngay lập tức: “ lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy
ngày xưa, … quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hàng loạt các từ ngữ miêu tả hành động được
huy động để diễn tả tình huống bất ngờ như “rút’ thắt lưng, “trút” cơn giận, quật tới tấp, vừa
đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, nguyền rủa, rên rỉ đau đớn”… Chỉ một
đoạn ngắn với tiết tấu kể chuyện gấp gáp, độc giả thấy ngộp thở, thấy rùng mình đau xót như
chính đòn roi của lão đàn ông đang quất thẳng vào mình vậy. Đó là sự khốc liệt của hiện thực.
Nó hoàn toàn đối lập với cái lãng mạn bay bổng trong cái nhìn của người nghệ sĩ. Dù muốn hay
không thì nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng phải chấp nhận rằng: cái đẹp không phải lúc nào cũng là
đạo đức. Đằng sau cái đẹp có thể Nn giấu nỗi đau, sự tàn bạo…
Nhưng có lẽ, điều bất ngờ nhất đối với Phùng lại là ở thái độ kì quặc của người phụ nữ
khốn khổ kia: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không
chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn.” Câu văn rơi xuống chơi vơi với hàng loạt các từ phủ
định triệt để: “không hề kêu”, “không chống trả”, “không tìm cách chạy trốn”. Điều đó thực sự
khó hiểu đối với Phùng, dù anh vốn là một người nghệ sĩ tinh đời và từng kinh qua chiến tranh,
từng chứng kiến biết bao khổ đau trong kiếp người. Tại sao mụ lại cam chịu? Tại sao mụ không
kêu van, không chống trả? Tại sao mụ không trốn chạy? Phải chăng mụ đã rạn đòn? Hay đã có
một giao kèo nào cho cuộc bạo hành này?Ai có ngờ rằng, tất cả những đau đớn ê chề mà người
phụ nữ khốn khổ ấy gánh chịu đều xuất phát từ tình yêu thương con đến quặn xé của chị.
Tình huống xảy ra quá nhanh không phải là lí do khiến Phùng rơi vào tâm trạng “kinh
ngạc” đến “há mồm ra mà nhìn”. Hẳn Phùng kinh ngạc là bởi đột nhiên trong đầu mình đã vỡ ra
biết bao điều mới mẻ về cuộc sống. Từ lúc nào, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất và chạy
nhào tới”. Chiếc máy ảnh đắt tiền đang lưu giữ bức ảnh toàn mĩ, tất cả bỗng trở nên vô nghĩa
trước hiện thực. Lúc này, Phùng không chỉ còn là một người nghệ sĩ yêu cái đẹp, hơn hết, anh
đang sống với nhịp đập trái tim của một người lính bước ra từ chiến trường,đầy nhiệt hiết và
nghĩa hiệp. Anh chạy nhào tới để bênh vực người phụ nữ khốn khổ, đáng thương kia, bỏ lại sau
lưng nghệ thuật và chân lí của sự toàn thiện, tyoàn mĩ.
Trong nhận thức của Phùng vỡ ra: Đằng sau lớp sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng hồng của ánh mặt trời chiếu vào kia là số phận khổ đau của những con
người. Chiến tranh đã kết thúc, nhưng bình yên không có nghĩa là đã hết khổ hạnh. Rồi đây, tấm
ảnh nghệ thuật của Phùng sẽ chứa đựng cả hình ảnh về một người đàn bà vùng biển cao lớn với
lưng áo bạc phếch có miếng vá , nửa thân dưới ướt sũng. Anh hiểu rằng: cái đẹp bắt nguồn từ
cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc sống! – điều mà trước đó nhiều thập niên Nam Cao đã từng
khẳng định trong tác phNm của mình, vậy mà thứ nghệ thuật minh họa tồn tại quá lâu đã khiến
người nghệ sĩ quen với lối mòn, ngại rẽ! Có quan tâm tới cuộc sống thường ngày, nhà văn mới
thấu cảm bao cảnh ngộ, mới thấy thương yêu cuộc sống thực sự.
Nói về giá trị nhân đạo trong tác phNm văn chương, Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:
“Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu
cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một
niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số
phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình.” Trong đoạn trích nói riêng, cả tác phNm
Chiếc thuyền ngoài xa nói chung, ta không chỉ thấy một niềm hân hoan say mê trước cái đẹp của
khung cảnh biển buổi sớm mai; mà qua bức tranh hiện thực cuộc sống dân chài miền biển, ta còn
thấy nỗi đau đớn khắc khoải về số phận con người của tác giả. Từ cách miêu tả chân dung nhân
vật đến giọng kể đầy xót xa, ông đã bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ với những khó khăn, bế tắc của
họ, đồng thời góp tiếng nói thể hiện sự bất bình trước cách mà những con người khốn khổ ấy
giải quyết bi kịch đầy bế tắc: người đàn ông hàng chài dùng cách đánh vợ để giải tỏa căng thẳng,
áp lực cuộc sống. Nhưng hơn hết, đó vẫn là một tiếng nói ngợi ca con người, trong khổ cực, tối
tăm, người đàn bà xấu xí, nghèo khổ ấy vẫn nhận hết thua thiệt, đắng cay về mình để giữ cái
nhìn cuộc sống trong trẻo cho những đứa con. Đó là hạt ngọc lấp lánh Nn sâu bên trong con
người mà Nguyễn Minh Châu đã khám phá và tôn vinh.
Với nghệ thuật xây dựng hình ảnh đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, giữa lãng mạn và hiện
thực; nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật độc đáo; xây dựng tình huống truyện bất ngờ, gaiù
kịch tính, đoạn trích không chỉ tái hiện một trang trong hiện thực cuộc đời con người sau chiến
tranh, mà còn thể hiện chiều sâu tư tưởng, và tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu. Cùng
với tác phNm, đoạn trích đã khảng định Nguyễn Minh Châu thực sự là người mở đường tinh anh
và tài năng cho nền văn học Việt Nam. Ông là một trong số người hiếm hoi chạm được vào
những vỉa quặng lớn của đời sống (Phong Lê), và “Chiếc thuyền ngoài xa” là một thứ quặng chắt
lọc từ đời sống bằng ngòi bút tự sự triết lí giàu ý nghĩa. Qua đoạn trích, bài học cho người sáng
tác cũng được đặt ra gay gắt: để trở thành nhà nghệ sĩ – nhà tư tưởng trong công cuộc đổi mới
hôm nay, nhà văn buộc phải chấp nhận sự đớn đau để cắt bỏ trên thịt da, gạn chắt trong máu tuỷ
tất cả những gì đang làm phương hại cho một cơ thể cường tráng.” Qua thái độ nghiêm túc trên
con đường phấn đấu tự hoàn thiện mình của nhà văn, độc giả cũng có được những thông điệp
thật sâu sắc.

ĐỀ 2: Có ý kiến cho rằng hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa chính
là “hạt ngọc Nn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà nhà văn cất công tìm kiếm. Hãy làm
sáng tỏ ý kiến trên.
BÀI LÀM:
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phNm
được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và hậu chiến tranh. Như lời đánh giá của nhà
văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nên văn
xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông
đã để cho lớp người đi sau một tác phNm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa với nguồn
cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông
chính là người đàn bà hàng chài - người phụ nữ xuất hiện thật lem luốc, xấu xí, nhưng Nn sâu
trong bề ngoài lấm láp đó là cái lấp lánh của vẻ đẹp tâm hồn. Chính vì vậy mà đã có ý kiến cho
rằng: Hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là “hạt ngọc Nn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người” mà nhà văn cất công tìm kiếm.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là gương mặt nhà văn tiêu biểu trong văn học giai đoạn
chống Mỹ và sau giải phóng. Ông là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đối mới đã
đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự. Ngòi bút ấy giàu trách nhiệm, giàu
suy tư, trăn trở và khám phá. Chiếc thuyền ngoài xa được in lần đâu trong tập Bến quê, sau được
tác giả lấy làm tên chung cho cả tập truyện ngắn từ truyện Bức tranh trở đi, in năm 1987. Chiếc
thuyền ngoài xa là truyện ngắn rất tiêu biểu trong văn nghiệp của Nguyên Minh Châu, đông thời
cũng là tác phNm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn
sáng tác thứ hai - hậu chiến tranh.
Hình tượng người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa chính là “hạt ngọc Nn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người” mà nhà văn cất công tìm kiếm. Có thể hiểu “hạt ngọc Nn
giấu trong bề sâu tâm hồn con người” để chỉ vẻ đẹp tâm hồn, điều làm nên giá trị của một con
người, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài, đó không phải là vẻ đẹp của ngoại hình, mà là vẻ đẹp
tâm hồn được giấu kín bởi vẻ ngoài lấm láp, thô kệch xấu xí. Vẻ đẹp ấy nếu không đi sâu, khám
phá sẽ không bao giờ thấy được, cảm nhận được.
Người đàn bà hiện lên trong câu chuyện của nhiếp ảnh gia Phùng là một người đầy nhọc
nhằn, lam lũ. Chị là hiện thân của những thống khổ của người phụ nữ làm nghề chài lưới.
Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên một hình ảnh giàu sức gợi “Người
đàn bà chạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường
nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ”. Đối với một người phụ nữ, ngoại hình xấu xí cũng là một bất hạnh. Bởi hệ
lụy của nó khiến cho cuộc đời người đàn bà hàng chài thêm bao cơ cực. Vì vốn dĩ người đàn bà
ấy sinh ra trong một gia đình khá giả ở đất liền, rõ ràng cái cơ cực của bà nó đến khi bà lập gia
đình. Còn trước đó, ắt hẳn cuộc đời người đàn bà dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng vì khuôn mặt rỗ
chằng chịt sau một bận lên đậu mùa, nên trai trong phố không ai lấy. Lẽ vì thế, nên người đàn bà
luôn thầm biết ơn người con trai hàng chài đã lấy mình. Cho mình được làm vợ, làm mẹ. Nhưng
đồng thời với đó, cái khắc nghiệt của cuộc đời mới ập xuống.
Đời người đàn bà hàng chài ấy chìm trong cái vòng luNn quNn của cái nghèo đói, đông con
bám riết. Nỗi khổ trực tiếp, là nguyên nhân chính cho bao xung đột, khổ đau với người đàn bà
hàng chài chính là nghèo đói. Cái nghèo nó bám riết từ khi đất nước còn chiến tranh đến khi đất
nước đã yên bóng giặc. Có những ngày biển động, gia đình đó đã phải ăn món xương rồng luộc
chấm muối cả tháng trời. Cái thứ thức ăn mà đến cả vật còn chê. Đó không chỉ là nỗi khổ đau về
vật chất, mà hệ lụy của nó còn tai hại không ngờ. Cái nghèo đói khiến người chồng trở nên cục
cằn thô lỗ. Cái nghèo khiến những đứa con phải chịu món ăn khủng khiếp ròng rã, ngày này
tháng nọ. Và tất cả những khó chịu ấy, nỗi đau ấy, người đàn bà phải hứng chịu gấp đôi so với
những thành viên còn lại. Bởi, khi túng quẫn, người chông đã trút sự bế tắc vào lưng vợ. Và có
người mẹ nào, nhìn thấy những đứa con đói khát lại cam tâm.
Nỗi khổ thứ hai bám riết gia đình người đàn bà hàng chài chính là đông con, với những
gia đình ngư dân, nhà nào cũng một sắp con trên dưới 10 đứa. Ta có thể tưởng tượng cảnh trên
con thuyền lưới vó chật chội, bầy con nheo nhóc, công việc thì cực nhọc, lại thêm bụng mang dạ
chửa. Chưa kể, như ông cha ta từng nói: “người chửa là cửa mả”, thêm điều kiện thiếu thốn,
những lần sinh nở là chạm đến lưỡi hái tử thần. Hơn nữa, thêm một đứa con là gia đình phải
gánh thêm một miệng ăn.
Nỗi khố thứ ba với người đàn bà hàng chài chính là nỗi khổ từ nạn bạo hành. Người đàn
bà bị đánh đập từ chính người mình yêu thương và hết mực mang ơn. Cho nên, không chỉ gây
nên nỗi đau đớn về mặt thể xác, nỗi đau về mặt tinh thần lại càng thêm nặng nề. Hơn nữa, mỗi
lần cảnh bạo hành diễn ra, tố ấm lại thêm một lần lung lay, rạn vỡ, nhưng đứa con lại thêm
những rạn nứt tâm hồn, tuổi thơ bị hủy hoại.
Những nỗi khổ kể trên là phần ngoài, là hiện thân lấm láp vây bọc lấy chị, nhưng Nn sâu
bên trong là vẻ đẹp toả sáng. Trước hết là vẻ đẹp của lòng bao dung, nhân ái và vị tha. Nếu như
cả Phác, ĐNu, Phùng đều nhìn người đàn ông hàng chài với một thái độ hằn học, căm phẫn, đều
chung quan điểm, đó là một kẻ vũ phu, tàn nhẫn... thì với người đàn bà, chị đã nhìn chồng mình
như một nạn nhân của đói nghèo. Trước đây, chồng chị chưa bao giờ đánh chị, là người đàn ông
hiền lành cục tính. Người đàn ông ấy đã từ chối đi lính cho Ngụy, từ chối chĩa mũi súng vào
đồng bào mình, ắt hẳn không thể là người xấu. Hơn thế nữa, trên thuyền cũng có lúc vợ chồng
hòa thuận, vui vẻ. Người phụ nữ ấy nhận hết phần thua thiệt về mình, nhận hết trách nhiệm về
mình. Chị nhận mình là kẻ không nhan sắc: “từ nhỏ tôi đã là một đứa con gái xấu xí”. Nhận
mình khổ là do đẻ nhiều: “cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Với chồng, trong
suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình người đàn bà không tỏ ra oán giận.
Ẩn đằng sau lóp vỏ thất học, lam lũ kia, người đàn hàng chài hiện lên là người phụ nữ rất
thấu hiểu lẽ đời. Nguyễn Minh Châu đã đặt ra một tình huống độc đáo, là lúc người đàn bà đột
ngột thay đổi cách xưng hô từ “con” thành “chị”. Sự thay đổi ngôi thứ này khiến cho Phùng và
ĐNu không khỏi ngạc nhiên. Có thể nói đây là “cuộc cách mạng trong xưng hô của người đàn
bà”; và sau đó làm nên “cuộc cách mạng trong nhận thức” của Phùng và ĐNu (chữ dùng của GS.
Nguyễn Đăng Mạnh). Trong vai “chị”, người đàn bà sắc sảo ấy đã làm thay đổi nhận thức một
chiều của Phùng và ĐNu. Chị lên án họ vì thiếu sự đồng cảm, thiếu cái nhìn khách quan. Không
thể bỏ chồng dù hắn tàn bạo cũng bởi vì chị hiểu thế nào là “nỗi vất vả của người đàn bà trên
một chiếc thuyền không có đàn ông”; người đàn ông là trụ cột của gia đình; sẽ như thế nào nếu
bi kịch ly hôn xảy ra? Chị và sắp nhỏ sẽ sống như thế nào khi không có người đàn ông đê chèo
chông khi phong ba”; không có người đàn ông khoẻ mạnh, biết nghề, làm ăn nuôi con thì cuộc
sống của người phụ nữ và đàn con sẽ như thế nào giữa đại dương của số phận? Rõ ràng Phùng
và ĐNu là những kẻ có học, nhưng các anh còn thiếu vốn sống, thiếu sự từng trải. Chính điều này
đã mang đến sự đánh giá, nhìn nhận thiếu khách quan, thiếu sự cảm thông.
Và cuối cùng, vẻ đẹp lấp lánh trong tâm hồn người đàn bà hàng chài hiện lên qua tình yêu
thương con vô bờ bến, người phụ nữ truyền thống ấy luôn quan niệm: lấy chồng thì phải theo
chồng rồi nuôi cho con khôn lớn. Chị chấp nhận tất cả vì con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Tình thương con ở người mẹ
ấy sâu sắc đáng ngưỡng mộ. Vì thương con mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông
ngoại nó. Vì thương con và để tránh sự tổn thương cho những tâm hồn con trẻ nên chị đã bảo lão
chồng có đánh thì “đưa tôi lên bờ mà đánh”. Tình thương con ấy không chỉ gắn liền với cảm
xúc, tình cảm mà còn gắn liền với lý trí và trách nhiệm của một người mẹ. Chị luôn nhìn về các
con, lấy các con làm điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần để sống. Khi nhắc đến con, mắt chị sáng lên
niềm vui và hạnh phúc. Câu trả lời của chị cũng đầy vẻ tự hào: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn
con tôi chúng nó được ăn no...”. Chị đã lấy những niềm vui bé nhỏ góp nhặt trong cuộc đời để
khỏa lấp niềm đau, lấy niềm tin để vá vết thương đời cay cực.
Khép những trang sách kể về cuộc đời một người đàn bà vô danh trên vùng biển, nhưng
dư âm của câu chuyện vân cứ day dứt, ám ảnh người đọc. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn
này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuộc sống, trân trọng vẻ
đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó
không phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm
láp, lam lũ của đời thường.

ĐỀ 3:
Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ
đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
• Lão ta hồi bảy lăm có đi lính ngụy không? Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
• Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính-bỗng mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính
là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
• Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
• Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có được cái nghề lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng
đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
• Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không ?- Tôi hỏi.
• Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão lôi tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu…
Giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với
lão…đưa tôi lên bờ mà đánh…
• Không thể nào hiểu được,Không thể nào hiểu được!- Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
• Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả
của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
• Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu,- bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền
phải có một người đàn ông… dù hắn man dợ, tàn bạo…
• Phải…Người đàn bà đáp – Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
• Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! Đẩu và tôi cùng lúc thốt lên.”…
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục
Việt Nam, 2019).
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về tấm
lòng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.
BÀI LÀM:
Nhắc đến Nguyễn Minh Châu là nhắc đến một nhà văn mặc áo lính – người đồng hành sát
sao với thời đại. “Trước sau, Nguyễn Minh Châu chỉ “hành quân” trên một con đường lớn. Đó là
đại lộ chiến đấu vì quyền sống, và quyền hạnh phúc của con người”
( Đoàn Trọng Huy). Mỗi trang viết của ông đều thấm thía sự dằn vặt, day dứt của một tâm hồn
nhân ái trước hiện thực éo le, ngang trái. Bênh vực và tôn vinh những vẻ đẹp khuất lấp Nn chứa
trong tâm hồn những con người lao động nghèo khổ là mục tiêu quan trọng trong nhiều sáng tác
của ông. Ở “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng vậy, ta thấy trong cái dằn vặt đau đớn của người nghệ
sĩ đi tìm chân lí lấp lánh ánh sáng của niềm tin yêu con người thiết tha, trìu mến. Niềm tin ấy,
tình yêu ấy ông dành cho nhân vật người đàn bà hàng chài khốn khổ trong câu chuyện. Qua
những phát hiện đầy bất ngờ của nhân vật Phùng, vẻ đẹp của người phụ nữ ấy được bộc lộ đầy
ấn tượng. Đoạn trích kể về cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Phùng, ĐNu và người đàn bà ở tòa án
huyện sau đây đã thể hiện rất rõ điều đó: “Trong phút chốc ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là
một người đàn bà đầy lúng túng, đầy sợ sệt nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn...ĐNu và
tôi cùng lúc thốt lên.”
Tôi từng nghe câu nói “phụ nữ sinh ra là để được yêu thương”, bởi từ khi sinh ra phụ nữ
đã được mặc định là phái đẹp. Đã là đẹp thì đâu cần phải cố công đi tìm kiếm và phát hiện?
Nhưng, cuộc đời vốn dĩ không đơn giản thế! Ai có thể nhận ra vẻ đẹp mang thiên tính nữ ở
người đàn bà hàng chài trong câu chuyện nếu không phải là Nguyễn Minh Châu? Chị không có
nhan sắc, không mang nét yểu điệu, duyên dáng của một người phụ nữ. Chị xấu xí, thô kệch,và
nghèo khổ. Tất cả đều hiện lên rõ ràng ngay trong cái nhìn đầu tiên của Phùng khi thấy chị bước
xuống thuyền cùng người chồng vũ phu độc ác. Nếu chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài tiều tụy, khổ sở
của chị, nghệ sĩ Phùng sẽ chỉ cảm thấy ái ngại và xót xa cho một kiếp người chịu quá nhiều thua
thiệt. Chỉ khi tiếp xúc với người phụ nữ ấy ở tòa án huyện, Phùng mới hiểu ra phNm chất tốt đẹp
khuất lấp phía sau cái khắc khổ, tiều tụy và lạc hậu của chị.
Xuất hiện trong tâm thế là người bảo vệ công lí, từng xả thân bênh vực, bảo vệ người phụ
nữ khỏi đòn roi của chồng, Phùng, cũng như ĐNu, tưởng mình có lợi thế giao tiếp, họ dùng lợi
thế ấy để khuyên người đàn bà đó bỏ chồng, chấm dứt những chuỗi ngày đau đớn. Nhưng họ lại
nhận được phản ứng đầy bất ngờ của người đàn bà hàng chài: “ Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.” Rồi, để bảo vệ gia đình mình chị
bỗng trở nên “to gan”khi tự bước lên vị thế cao hơn để giành lấy cái quyền được phân trần, giảng
giải tại sao mình không thể làm theo lời khuyên của hai con người tốt bụng ấy. Một lần nữa,
Phùng đã thực sự hoang mang khi nhận ra vốn sống, vốn kinh nghiệm của mình trở nên ít ỏi so
với hiện thực mà anh đang chứng kiến. Trước người đàn bà kì lạ ấy, Phùng chỉ như một cậu
thiếu niên non nớt, chưa hề thấu hiểu lẽ đời vậy. Chính người phụ nữ đáng thương ấy đã dạy cho
Phùng bài học quý giá về sự thận trọng trong cách nhìn nhận và đánh giá một con người.
Trước hết, Phùng nhận ra chị là người phụ nữ biết cảm thông, sẻ chia với chồng – một
trong những lí do khiến chị có thể chịu đựng những đòn roi “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày
một trận nặng” từ con người vũ phu ấy. Chị luôn tự nhủ mình là người may mắn vì có được
chồng. Chị tâm sự: “Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu
mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả,….Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Giống như thị Nở
mang lòng yêu của một người chịu ơn Chí Phèo (“Chí Phèo” – Nam Cao), trong lời kể của mình,
người đàn bà hàng chài muốn nói đến cái ơn đó để bào chữa cho những hành động ngược đãi của
chồng. Hắn đã chấp nhận lấy chị thì bổn phận của chị phải phục tùng hắn.
Khi nói về lão chồng vũ phu, chị không có một lời nào trách móc hay than vãn, trái lại chị
dành những lời lẽ trìu mến và đầy cảm thông khiến Phùng và ĐNu ngỡ ngàng: “Lão chồng tôi là
một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Cách chị nhấn
mạnh vào ưu điểm vốn có của chồng cho thấy chị đã từng có những giây phút hạnh phúc và chị
đã từng rất hài lòng về người chồng của mình. Đương nhiên, đó vẫn là một quá khứ đẹp đẽ, bình
yên và nguyên vẹn trong tâm trí chị. Ngay cả lúc bị ngược đãi tàn bạo bởi chính lão chồng ấy chị
cũng vẫn không hề phủ nhận điều đó. Dường như những suy nghĩ đó trở thành liều thuốc giảm
đau cho những trận đòn chị phải chịu, nó góp phần xí xóa hết những vết thương trên thịt da và
tinh thần của chị khi bị chồng bạo hành.
Suốt cuộc đối thoại đầy căng thẳng với những người lắm chữ nhiều nghĩa, người phụ nữ
ấy vẫn kiên trì bảo vệ người chồng bằng những lí lẽ chắt ra từ chính cuộc đời khổ cực của dân
hàng chài. “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn…”. Câu nói bỏ
ngỏ để mặc người nghe xâu chuỗi lập luận. Chị muốn nói rằng sự thay đổi của người chồng là do
chị, do cuộc sống túng quẫn quá. Như vậy, chồng chị cũng là nạn nhân của cái đói, cái nghèo, cái
lạc hậu, mà chị là một phần nguyên nhân.Chị không thể trách cứ chồng mình được, bởi cũng như
chị và những đứa con, chồng chị cũng phải ăn xương rồng luộc chấm muối để qua cơn đói lòng.
Dường như, chưa bao giờ người phụ nữ hàng chài này có mảy may suy nghĩ gạt bỏ người đàn
ông khổ sở ấy ra khỏi cuộc đời mình. Với chị, gã đàn ông độc dữ ấy đáng thương hơn là đáng
trách. Quả thực, chị rất bao dung và nhân hậu!
Mặc cho người đàn bà phân bua, Phùng tiếp tục nỗ lực tìm lấy một lời giải thích thỏa
đáng hơn cho tính vũ phu của gã đàn ông hàng chài bằng câu hỏi như lạc đề: “Lão ta hồi bảy
nhăm có đi lính ngụy không?”, thì người đàn bà ấy có cơ hội thể hiện sự cảm thông rõ hơn với
chồng mình: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Rõ ràng, chị đang chứng
minh cho Phùng và ĐNu thấy bản chất tốt đẹp của chồng. Chồng chị cũng biết phân biệt lẽ đúng
sai, cũng có trách nhiệm với quê hương, cũng căm thù kẻ xâm lược như bất kì người dân yêu
nước nào thời đó. Mỗi câu nói của chị đều bênh vực người chồng và kèm luôn lời nhận lỗi về
mình: “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Đây là lần thứ hai
chị nói đến điều này, nhưng với giọng thành khNn hơn, xót xa hơn. Dường như điều đó làm chị
day dứt mãi, nhận ra thì đã quá muộn rồi.
Lí lẽ của người đàn bà lạc hậu ấy chưa thể thuyết phục được Phùng và ĐNu cảm thông với
lão đàn ông từng đánh chị như đánh một kẻ thù không dung thứ. Họ ngờ vực, họ liên tiếp chất
vấn chị. Nhưng, ngay cả khi nói đến điều đau đớn nhất; “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách
tôi ra đánh” chị cũng phải tìm cho được lí lẽ để bênh vực chồng. Rằng lại vẫn là do cùng quẫn
quá, bế tắc quá mà thành ra độc ác. Đàn ông thuyền khác uống rượu để giải tỏa những căng
thẳng còn lão chồng chị lại không uống rượu. Và đánh chị là cách giải tỏa căng thẳng của lão.
Chị cố gắng thuyết phục quan tòa tin rằng sự vũ phu của lão không xuất phát từ một tâm địa độc
ác mà chỉ là một cách để giải tỏa những áp lực cuộc sống mà thôi. Minh chứng là, lão chấp nhận
lời cầu xin của chị: đưa chị lên bờ mà đánh. Lão thực hiện rất nghiêm túc lời hứa của mình, dù
rằng, chịu đựng một cơn giận dữ đang trào sôi, giần giật ở các thớ thịt, đường gân , bốc hỏa ngầu
ngầu trong mắt là vô cùng khó khăn. Lão vẫn chịu đựng cho tận tới lúc đưa chị khuất khỏi tầm
nhìn của lũ nhỏ mới động thủ. Hẳn rằng sự chịu đựng ấy cũng phải xuất phát từ ý thức trách
nhiệm của lão với các con, với gia đình mình. Chị thấu hiểu và biết ơn lão vì điều đó. Và trong
vai trò người chất vấn, Phùng và ĐNu đã thực sự bất lực, cả hai đều kinh ngạc thốt lên: “Không
thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được!”. Thật khó có thể tưởng tượng sức chịu đựng của
người đàn bà ấy và tấm lòng cảm thông, sẻ chia không hề có giới hạn của chị. Nhất nhất mọi suy
nghĩ, lời nói của chị đều chống lại ý định của Phùng và ĐNu. Cho dù có cố gắng thế nào cũng
không thể làm lung lay tinh thần của chị. Phùng lại học được một sàng khôn! Anh hiểu ra rằng,
thực tế cuộc sống có những khi còn khốc liệt hơn cả những trận tuyến mà anh đã đi qua.
Sự cảm thông, sẻ chia với chồng của chị cũng xuất phát từ vốn hiểu biết, vốn sống, sự
thấu tỏ lẽ đời của chị, hoàn toàn khác hẳn với cảm nhận ban đầu của Phùng. Chị hiểu rất rõ rằng
căn nguyên của sự khổ cực trong cuộc sống người dân chài là đẻ quá nhiều “mỗi nhà trên dưới
chục đứa mà thuyền thì chật. Cái khó nó bó cái khôn, biết thế mà không thể tự tháo gỡ khó khăn
được nên cuộc sống càng rơi vào bế tắc, quNn quanh: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể
làm được cái nghề thuyền lưới vó”. Chị cũng hiểu rằng, nghề chài lưới bấp bênh, nguy hiểm và
cực khổ, luôn cần có người đàn ông chèo chống, dù người đó có tàn bạo đến đâu. Chị cũng hiểu
cái tàn bạo của người chồng là do áp lực cuộc sống, do bế tắc. Hiểu biết cộng với tấm lòng nhân
hậu bao dung đã khiến chị chấp nhận đồng hành cùng lão chồng tàn tệ để duy trì sự sống cho cả
gia đình.
Nhưng điều khiến Phùng kinh ngạc nhất lại là cách mà người đàn bà hàng chài thể hiện
tình yêu thương đàn con của chị. Trong cuộc đối thoại ở tòa án huyện, từ lúc chị xuất hiện ở tòa
án khúm núm và sợ sệt, ta có thể nhận ra đó không phải chỉ là cảm giác của một người phụ nữ
quen với sông nước lần đầu đến nơi công sở mà Nn sâu bên trong là nỗi lo lắng cho tương lai của
các con. Trong cuộc chất vấn sắp diễn ra, nếu chị đuối lí trước quan tòa, rất có thể các con của
chị sẽ không còn bố. Chị đến với một quyết định đã đinh ninh nhưng lại sợ mình bé mọn không
đủ lí lẽ để thuyết phục quý tòa nghe theo.
Nếu nỗi sợ hãi về một gia đình đổ vỡ làm cho chị bỗng nhiên sắc sảo, mạnh bạo, hơn trước quan
tòa thì trong tình huống buộc phải chia sẻ thì chính nó cũng đã giữ chị ngồi lại bình tĩnh, kể
tường tận về lão chồng mình cho quý tòa nghe. Chị tha thiết mong nhận được sự cảm thông và
chia sẻ từ phía Phùng và ĐNu để họ từ bỏ ý định khuyên chị bỏ chồng. Không phải vì yêu thương
hắn, mà trên hết, đó là vì các con của chị cần có bố, vì gia đình cần có một người đàn ông để
chèo chống những lúc sóng to gió lớn. Ngay cả trong cái cách mà chị kể về người chồng của
mình cũng thể hiện nỗ lực bảo vệ gia đình mình cho các con. Với chị, sự đổ vỡ của gia đình đáng
sợ hơn tất cả các trận đòn cộng lại. Quả thật,nhà văn đã quan sát và miêu tả rất tinh tế, chính xác
từ thái độ, cử chỉ đến điệu bộ, lời nói của chị - một người mẹ hết lòng hi sinh bản thân vì các
con.
Với lão chồng vũ phu, chị chấp nhận làm cây thịt để hắn trút xuống những uất ức, những
đắng cay, tủi nhục của kiếp nghèo. Một phần như để nhận lỗi, một phần như để sẻ chia với hắn
những áp lực cuộc sống. Nhưng dù không thể tránh nổi đòn roi, chị vẫn cố xin với chồng đưa chị
lên bờ mà đánh. Đúng là “không thể nào tin nổi”, chỉ chị mới có nguyện vọng kì quặc thế!
Không phải chị xin vì mình, mà vì các con. Chị muốn tránh cho chúng khỏi những cảm xúc tiêu
cực. Đau đớn, sợ hãi, thù hận sẽ giết chết tâm hồn non nớt ngây thơ của những đứa trẻ. Chúng đã
quá cơ cực, quá thiệt thòi, và trong nỗ lực đau đớn của mình, chị phải bảo vệ chúng, bảo vệ con
thuyền số phận trước những sóng gió cuộc đời. Những thương lo của tình mẫu tử ấy cũng được
nữ nhân vật Quỳ trong truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”của ông chia sẻ:
“Đó là bản năng chăm lo bảo vệ lấy sự sống của con người do chính chúng tôi mang nặng đẻ đau
sinh ra. Đó là tình thương bNm sinh của nữ tính – sợi dây thần kinh đặc biệt của nữ giới chúng
tôi”. Thật đáng trân trọng biết bao!
Cũng như nhiều nhà văn có tấm lòng nhân đạo khác, Nguyễn Minh Châu vẫn luôn xót xa
trăn trở trước số phận những người phụ nữ lao động nghèo. Bởi dù ở hoàn cảnh xã hội nào,
người đầu tiên chịu thiệt thòi bao giờ cũng là họ. Trong câu chuyện về cuộc đời người đàn bà
không tên ở làng chài ven biển miền Trung ấy cũng vậy! Nhà văn đã cho thấy biết bao khổ cực,
bất hạnh cùng lúc đè lên vai chị. Nếu như người đàn ông chỉ chịu áp lực nặng nề của cuộc sống
mưu sinh thì chị cũng phải chịu ngần ấy gánh nặng và cộng thêm những trận đòn như cơm bữa
từ người đồng hành trên đường đời cùng chị. Nếu như người chồng được chị chìa lưng ra san sẻ
những đắng cay, uất ức thì chị lại đơn độc chịu đựng những đớn đau tủi nhục. Đáng thương biết
nhường nào! Nhưng ngòi bút nhân đạo của nhà văn không dừng lại ở những xót xa thương cảm
trước số phận bất hạnh của chị mà ông còn vén kéo những tối tăm bủa vây xung quanh chị, để hé
lộ những ánh sáng dịu dàng lấp lánh của tâm hồn nhân từ, bao dung và giàu tình yêu thương con
cái ở chị. Người đàn bà khốn khổ, đáng thương, đáng trân trọng ấy vẫn là một phần không thể
thiếu của bức ảnh nghệ thuật, thứ nghệ thuật bắt rễ từ hiện thực trần trụi của cuộc sống nhưng
gieo vào lòng người thưởng lãm những xúc cảm thật sâu sắc, lắng đọng và rưng rưng!
Vẫn là lối kể chuyện linh hoạt, vừa triết lí vừa lãng mạn, nhẹ nhàng, đoạn trích đã tái hiện
một tình huống nhận thức về nhân cách con người đầy độc đáo và bất ngờ Dưới ngòi bút tài năng
của tác giả, nhân vật người đàn bà hàng chài có cơ hội bộc lộ đầy đủ những phNm chất tốt đẹp
từng khuất lấp sau vẻ bề ngoài lam lũ, cơ cực khiến người đọc ngỡ ngàng. Viết truyện ngắn này
chắc hẳn nhà văn không chỉ bức xúc vì nạn bạo hành, bạo ngược trong gia đình mà tâm điểm của
truyện hướng vào đề cao, tôn vinh người phụ nữ và khẳng định sức sống bất tử của cái đẹp thiên
tính nữ. Đoạn trích nói riêng, tác phNm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chungđã mang lại nhiều dư
âm trong lòng độc giả: vừa xót xa thương cảm trước số phận bất hạnh của người đàn bà hàng
chài, vừa yêu thương trân trọng những phNm chất tốt đẹp ở chị. Gấp trang sách lại, người đọc
vẫn còn ám ảnh bởi những suy tư, trăn trở về kiếp người, nó thật mỏng manh, xa vời, chấp chới
như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến đỗ bình yên. Tác phNm đã góp phần thức tỉnh
lương tri, lòng vị tha, nhân cách, đạo đức của bao người từng đọc và yêu mến nó.

ĐỀ 4: Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, khi miêu tả gia đình thuyền chài, Nguyễn Minh
Châu viết: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh “đắt” trời
cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in
một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh
mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui
khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
Ở đoạn khác, ông lại viết: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một
người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt
đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận
như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh
vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng
cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
(Nguyễn Minh Châu – Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục, trang)
Từ việc cảm nhận hai đoạn văn trên, anh/ chị hãy làm nổi bật mối quan hệ giữa nghệ thuật và
cuộc sống.
BÀI LÀM:

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.
* Phân tích hai tình huống:
- Phát hiện thứ 1: “Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh
“đắt” trời cho như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ”.
Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu
hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
+ Đây là cảnh một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ
sương mà Phùng đã chớp được: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ” . Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như
một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
+ Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hạnh phúc
tột cùng.
=> Chiếc thuyền ngoài xa Nn hiện trong sương sớm chính là cái đẹp của nghệ thuật được con
người chiêm ngưỡng ở tầm xa.
- Phát hiện thứ 2:
“Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một
người đàn bà rời chiếc thuyền...Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa... lão trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quất tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ,
đau đớn: “Mày chết hết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
+ Cảnh tượng nghiệt ngã kinh hoàng: Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình
trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ.
+ Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là
thứ thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được.
=> Phát hiện nghịch lí cuộc sống ngay sau bức tranh thiên nhiên đẹp.
* Bình luận, đánh giá ý kiến:
- Hai phát hiện của Phùng cho thấy: Đằng sau bức tranh thuyền và biển tuyệt diệu là cuộc đời
đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Từ đó tác giả làm nổi bật mối quan hệ giữa
nghệ thuật và cuộc đời:
+ Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng
tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên
ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống.
+ Cuộc đời chính là nơi sản sinh ra cái đẹp nhưng cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp như
nghệ thuật.
+ Người nghệ sĩ trước khi sáng tạo cái đẹp cần phải biết rung động trước những buồn, vui, đau
khổ của cuộc con người.
+ Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng để thưởng thức nghệ thuật thì cần phải có
khoảng cách.

* Nghệ thuật:
- Tạo tình huống hấp dẫn
- Cách kể chuyện tự nhiên
- Xây dựng nhân vật gần gũi với đời thường
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THNT
( Lưu Quang Vũ)
ĐỀ 1: Trong cảnh VII, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, cuộc đối thoại xác và hồn là cuộc
đối thoại vô cùng gay gắt, mạnh mẽ. Phân tích cuộc đối thoại để thấy được bi kịch tha hoá của
Trương Ba và triết lý nhân sinh Lưu Quang Vũ gửi gắm.
BÀI LÀM:
Từng có nhận định cho rằng: "Có lẽ năm mươi năm trở lại đây, không có một ai có thể
làm được như Lưu Quang Vũ". Lời nhận định không chỉ công nhận tài năng mà còn khẳng định
những đóng góp to lớn của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đối với nghệ thuật kịch hiện đại. Tên
tuổi của Lưu Quang Vũ gắn liền với rất nhiều vở kịch nổi tiếng như: Mùa hạ cuối cùng, Bệnh sĩ,
Lời thề số 9 và tiêu biểu nhất có thể kể đến Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Thành công của Hồn
Trương Ba, da hàng thịt không chỉ là sự tài tình của tác giả khi biến một cốt truyện dân gian
thành một vở kịch hiện đại với cái kết đầy ám ảnh, thành công của vở kịch còn nằm ở những triết
lý ngầm trong từng câu thoại, mà ám ảnh nhất chính là cuộc đối thoại của hồn Trương Ba và xác
anh hàng thịt.
Lưu Quang Vũ, người được mệnh danh là cây bút vàng của sân khấu kịch Việt Nam, đến
với kịch như cơ duyên, Lưu Quang Vũ luôn mang khát vọng được bày tỏ, muốn được thể hiện
tâm hồn mình vào thế giới xung quanh, muốn được tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời
sống, được trao gửi và dâng hiến. Có người gọi đó là nguồn nhiệt hứng không bao giờ vơi cạn
của ông. Hồn Trương Ba, da hàng thịt được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 nhưng đến năm 1984
mới công diễn. Vở kịch chia làm 7 cảnh, đoạn trích chúng ta tìm hiểu là cảnh cuối cùng. Vở kịch
được lấy cảm hứng từ truyện Dân gian: Hồn Trương ba, da hàng thịt.
Đoạn trích hồi VII, màn đối thoại giữa hồn và các chính là cảnh mâu thuẫn được đNy lên
cao trào, bi kịch tha hóa của Trương Ba được bật lên rõ rệt. Mở đầu đoạn trích là màn độc thoại
của Hồn Trương Ba. Tác giả để Trương Ba ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy tuôn ra
một trang độc thoại đầy đau khổ “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi
chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi!... Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để
nó được tách khỏi thân xác này, dù chỉ một lát”. Lời độc thoại cho thấy con người đang ở trạng
thái u uất, bế tắc, không lối thoát. Và trong sự khát khao tách bạch ấy, hồn đã được tách ra khỏi
thể xác vốn không phải của hồn và màn đối thoại bắt đầu. Trong màn đối thoại giữa hồn Trương
Ba và xác hàng thịt này ta thấy lượt lời của Trương Ba ít hơn và ngắn hơn lời của các hàng thịt.
Trong đó những lời thoại đầu là dài nhất, và mạnh mẽ hơn cả: “A, mày cũng có tiếng nói kia a?
Vô li, mày không thể có tiếng nói mà chỉ là xác thịt âm 14, đui mù”, “Mày chỉ là cái vỏ ngoài,
không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc!”, “Chỉ là những thứ thấp kém,
mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt.”
Từ những lời thoại trên, ta nhận ra mấy điều mà Trương Ba đang nghĩ, đang cảm nhận,
cũng như nỗi đau của Trương Ba. Trước hết, Trương Ba phủ nhận hoàn toàn vai trò của xác thịt.
Phủ nhận tiếng nói, phủ nhận tư tưởng, cảm xúc. Và dùng những lời cay nghiệt vỗ thẳng mặt xác
hàng thịt là: thứ âm u đui mù, thứ thấp kém, là cái vỏ ngoài, ngang bằng với loài thú. Những lời
lẽ này cho thấy một sự căm phẫn của phần hồn. Đặc biệt hơn đây là những lời miệt thị, coi khinh
phần xác của hồn, cũng là cách hồn nâng cao giá trị của mình so với xác.
Thế nhưng, xác thịt cũng có những lý lẽ, những dẫn chứng khiến cho hồn phải đuối lý.
Xác hàng thịt đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của
mình “Có đấy, xác thịt có tiếng nói đấy. Chính vì âm u đui mù nên tôi mới có sức mạnh ghê gớm
lắm khi lấn át được cái linh hồn cao khiết của ông”. Như một sự mỉa mai và láu cá, xác đã làm
hồn phải ứ nghẹn. Và để chứng minh, xác đã chỉ ra sự tha hoá của hồn bằng những chứng cứ
khiến hồn không thể chối cãi, xác dẫn dắt hồn vào sự thật không thể phủ nhận. Nếu như trước
đây, Trương Ba là một người thanh cao, một con người đứng đắn, thì nay hồn Trương Ba ít nhiều
đã bị vấy bNn, tha hóa bởi dục vọng thấp hèn của thân xác: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông
đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa
thì...”. Xác đã nhắc lại sinh động, tường tận dục vọng vật chất thấp hèn càng bồi thêm nỗi dằn
vặt vì sự thật không thể chối. Là người có tuổi, lại rất tự trọng, điều đó khiến Trương Ba đau
đớn, và khó có thể tha thứ cho bản thân.
Nhưng chưa hết, để chứng minh sức mạnh của xác, nó tiếp tục chứng minh sự sai khiến
với hồn. Chính hồn đã lâng lâng cảm xúc trước các món ăn dung tục “tiết canh, cổ hũ, khấu
đuôi”. Những món ăn của phường đồ tể nay lại khiến một con người thanh đạm thích thú, đó là
điều khó có thể chấp nhận. Trương Ba từ một người cha mẫu mực, luôn khuyên dạy con những
điều hay lẽ phải, thì giờ trở thành con người thô lỗ, phũ phàng. Khi khuyên thằng con đi vào con
đường ngay thẳng không được, ông đã nổi giận “tát thằng con toé máu mồm, máu mũi”, trong
cái tát nảy lửa đó, có sự góp sức của bàn tay đồ tể. Và cả tính cách đồ tể nữa.
Một chi tiết thêm để nói về sự tha hóa của Trương Ba trong cuộc đối thoại với đứa cháu
gái. Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có
“bàn tay giết lợn”, bàn chân to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát
cả cây sâm quý mới tươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái điều
cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó,
“Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Hay nói cách khác, ông Trương Ba làm vườn
khéo léo nay còn đâu, chỉ còn con người thô vụng, đụng đầu hỏng đó. Và, để khẳng định vai trò
của xác, đáp lại sự phủ nhận của hồn, xác khẳng định, xác là “cái bình để chứa đựng linh hồn.
Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân...
nhờ có tôi mà ông cảm nhận thế giới qua những giác quan của tôi...”.
Như vậy, đối với hồn, xác rất quan trọng bởi dù sao đi chăng nữa nếu không có xác, hồn
chẳng có chốn dung thân và ngược lại nếu không có hồn thì xác cũng chỉ “âm u đui mù”. Vì thế
cho nên “chúng ta tuy hai mà một”. Màn đối thoại kết thúc, Trương Ba thua cuộc và buộc chấp
nhận hoàn cảnh.
Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh
dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con
người và tầm quan trọng của việc tự ý thức, tự chiến thắng bản thân. Qua đó ta thấy: Trương Ba
được sống nhưng là sống nhờ sống gửi, sống vay mượn đáng hổ thẹn vì phải chung đụng với sự
dung tục và bị sự dung tục đồng hoá. Tác giả cảnh báo: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Khi con người phải sống trong dung tục thì cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ dần thắng thế, lấn át và sẽ
tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
Còn gì đau khổ hơn khi phải sống trong tình cảnh bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
như Trương Ba? Thấm thía! Ngậm ngùi! Chấp nhận giải thoát để được là “tôi toàn vẹn”! Từng
lời thoại của vở kịch Hồn Trương ba, da hàng thịt như chất chứa bao trăn trở, suy tư của người
viết về cuộc đời, con người. Và sau tất cả, Lưu Quang Vũ, với đôi mắt nhìn đời tỉnh táo, đã để
nhân vật của mình được giải thoát, để cuộc đời của Trương Ba mãi là một cuộc đời có nghĩa.
Còn bạn, bạn chọn một cuộc sống thực hay chọn sự tồn tại vô nghĩa?
• Kiến thức bổ trợ
CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA HỒN VÀ XÁC (TRÍCH)
Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá mọi mặt của đời sống xã
hội và con người. Có thể phân chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt
truyện của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể hiểu nôm na “tích”
chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo dựng thành tác phNm, sân khấu mới có kịch để
diễn. Kịch của Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc chắn, chủ yếu tập
trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian,
dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch
Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn
ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ,
khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết
những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở Hồn
Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong
không khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên cứu phê bình cho rằng
đây là một trong những vở kịch hay nhất của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch
đã gây chấn động dư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo chí và trong giới sân
khấu. Với sự dàn dựng của đạo diễn Nguyễn Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát
Kịch Việt Nam, vở diễn đã thể hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch bản có cấu trúc chặt chẽ,
giàu trí tuệ. Một cốt truyện dân gian quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện,
vậy mà khi Lưu Quang Vũ đưa lên sân khấu, vở kịch không chỉ dừng lại ở những giá trị ban đâu
mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ. Vở kịch không chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý
về phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh cho sự hoàn thiện nhân cách
con người. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xưa
cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta.
Vở kịch không chỉ đề cập đến chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn đời. Đó
là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ vỡ bắt nguồn từ sự sống vay
mượn của Trương Ba trong các anh hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng
quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn, chắp vá, không có sự hài hoà
giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được
sống đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất.
Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá nhân mà còn
đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô trách nhiệm của Nam Tào Bắc ĐNu đã tước đi
mạng sống của người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai chắp vá của Đế
Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba.
Mọi sự sửa sai không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui. Quyết định
vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng
mãnh liệt và đau đớn.
Trích đoạn Hồn Trương Ba, da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK Ngữ văn lớp 12 là một
phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối cùng của vở kịch, được đặt tên là "Thoát ra nghịch
cảnh". Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời
thoại đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa
chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đNy tình huống kịch phát triển đến mức
cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối
thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn
đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương
Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng
hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức
những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình.
1

You might also like