You are on page 1of 13

VỢ CHỒNG A PHỦ

I. Mở bài
Tô Hoài (1920-2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen, lớn lên trong một gia đình thợ thủ
công. Ông là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại
Việt Nam. Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Tô Hoài có
vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau
trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm
hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có - nhiều khi rất bình dân và
thông tục, nhưng nhờ cách sử dụng tài ba nên có sức lôi cuốn, lay động người đọc.
Một trong số tác phẩm tiêu biểu nhất của ông có thể kể đến truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ”.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây
Bắc”, là thành quả của chuyến đi thực tế lên vùng Tây Bắc của tác giả. Sau hơn nửa
thế kỉ, đến nay tác phẩm vẫn giữ gần như nguyên vẹn giá trị và sức thu hút đối với
nhiều thế hệ người đọc.
2. Nhân vật Mị
a. Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
Mị được coi là một cô gái với nhiều đức tính tốt. Là một người con của núi rừng Tây
Bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin
vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền
kiếp của cha mẹ. Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào. Mị
bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mọ những ánh hào quang rực rỡ
nhất của một người con gái. Mị xinh đẹp, “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng
nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị. Mị có tài thổi sáo khiến “bao người mê, ngày đêm
thổi sáo theo Mị”. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn
trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người
yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.
Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì bản chất của một người lao động không mất đi trong
con người Mị - một cô gái của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm
nương ngô trả nợ cho bố mẹ, “bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả
nợ cho bố”. Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà
làm nương trả nợ. Nhưng cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự
do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy
mãnh liệt ở Mị.
Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như
bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh
đó, tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ hoàn mĩ. Ấy vậy mà,
cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình.
Mị bị bắt về nhà thống lí Pá Tra ép sống kiếp con dâu gạt nợ. Đó cũng là số phận
chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi
ấy.
b. Khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra
Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai,
nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu - Mị như
chết đứng với số phận đấy. Tô Hoài phải thật am hiểu về phong tục tập quán của
người dân miền núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là
đêm cuối cùng Mị còn tự do với tình yêu trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là
đêm bắt đầu cho những chuỗi ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà
thống lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ
vách, tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm
bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào bàn tay có đeo nhẫn ở đúng
ngón tay mà người yêu Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu để cho Mị nhấc tấm
vách gỗ bước ra với người yêu. Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng
sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của
Nguyễn Du xưa kia, đang trong đêm mà “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
sang hẹn ước, thề nguyện với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài
không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy
sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải
chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người
đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự
giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và
hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm
dâu gạt nợ cho nhà giàu.
Về nhà thống lí Pá Tra, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau, “có đến mấy tháng liền đêm
nào Mị cũng khóc”. Giọt nước mắt của nhân vật Mị chính là sự phản kháng đối với
thực tại. Sự phản kháng đó ở cấp độ thấp nhưng cũng đủ thấy Mị không thoả hiệp, đầu
hàng chấp nhận số phận. Bởi trong người con gái ấy khao khát tự do chưa thể lụi tàn.
Mị sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chết khi ý thức được cuộc sống hàng
ngày và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống không
đáng sống. Đây là cấp độ phản kháng cao hơn để khẳng định khao khát sống đang
bùng cháy trong cô. Bởi khi còn muốn chết tức là con người ta còn ý thức được về
một cuộc sống không đáng sống của mình và còn khao khát được sống. Một điều
tưởng chừng như phi lí nhưng lại nằm trong quy luật tâm lí tự nhiên của con người.
Mị quyết định vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về quỳ lạy bố để
chết. Có lẽ để có đủ dũng cảm cầm lá ngón trên tay Mị đã phải băn khoăn, trăn trở rất
nhiều. Ai chẳng hiểu sự sống là đáng quý bởi cuộc đời ai sinh ra cũng chỉ được sống
một lần, nên khao khát sống chính đáng là điều ai cũng mong muốn. Mị đã dám từ bỏ
cuộc đời khi đang xuân thì phải chăng cuộc đời Mị không còn ý nghĩa. Hành động này
của Mị là một lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến miền núi, đã đè nén, áp
bức đẩy con người ta đến bước đường cùng. Trong Mị thấp thoáng số phận của chị
Dâu hay Chí Phèo - những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám.
Tưởng dứt hết nợ duyên với đời để tìm đến cái chết nhưng vì một chữ “hiếu” mà Mị
không đành lòng nhìn bố mình chịu khổ cực. Min đành bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón
xuống đất như ném đi khát vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Vậy ra, trong cô gái trẻ
kia, mạng sống, tình yêu và tự do không phải thứ cô đặt lên hàng đầu. Bên tình và bên
hiếu trong giờ phút quyết định khiến cô phải lựa chọn và tất nhiên cô đã chọn chữ
“hiếu”. Mị đã coi việc làm dâu trong nhà thống lí Pá Tra như kiếp trâu ngựa để trả nợ
cho cha mẹ năm xưa, làm tròn chữ hiếu. Đây chính là phẩm chất đáng quý, đáng ngợi
ca của nhân vật mà Tô Hoài đã tìm thấy nơi đáy sâu cùng cực của số phận.
Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm
sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ
rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con
ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc
ăn cỏ, biết đi làm mà thôi.” Biện pháp so sánh “là con trâu”, “là con ngựa” đã cho thấy
điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri,
vô giác được cứ thể hoá hơn. Mị có khác nào một công cụ lao động của nhà thống lí,
không có chút quyền tự do nào. Mị chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc,
mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa
năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp,... Còn nỗi đau nào của một kiếp người
mà phải mang thân trâu ngựa. “Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được
đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn
ngày.” Sự so sánh đòn bẩy cho thấy Mị còn không bằng cả kiếp trâu ngựa. Người đọc
không chỉ ngậm ngùi, xót thương cho thân phận tủi cực của Mị mà cả những người
phụ nữ miền núi trong xã hội xưa.
Thêm vào sự đoạ đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần - thần quyền đã hỗ trợ
đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần”. Bởi nó tạo
thành một lối mòn trong suy nghĩ của Mị: đã bị bắt về nhà Pá Tra, đã cúng trình ma
nhà nó rồi thì cả đời sống ở nhà này, và chết cũng là ma nhà này mà thôi. Mị đã không
còn phản kháng để tìm lối thoát cho mình. Điều này xét về một góc độ nào đó, nếu
nhìn về mặt đấu tranh giai cấp thì nó còn nguy hại hơn cả sự áp bức về thể xác.
Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực
đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào
đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con
rùa nuôi trong xó cửa”, thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người lại bị coi rẻ
đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận
con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ, “đến
bao giờ chết thì thôi”. Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng
nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó là những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người
phụ nữ nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ buồn vui, giấu kín
bao khát khao mơ ước và là không gian theo bám suốt cuộc đời họ. Khi còn trẻ đó là
căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là
căn buồn đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Tưởng như đó là không gian thân thương, gần
gũi và ấm áp nhưng với Mị thì không. Đó là căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông
cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngoài lúc nào cũng thấy
“mờ mờ, trắng trắng không biết là sương hay là nắng”. Người đọc có thể liên tưởng
ngay đến hình ảnh một người tù nhân thiếu sinh khí và sự sống. Phải chăng chính điều
này đã làm tê liệt sức sống của người con gái đầy xuân xanh.
Khi một người đau khổ còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thoát thì phải chăng trong
họ vẫn còn khao khát sống. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cô
dường như đã phó mặc thân phận cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với
Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa,
không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện
tại, quá khứ hay tương lai. Có lẽ đây là bản án đanh thép mà nhà văn đã gửi đến cho
xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời - bóp nghẹt sức sống con người.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm
xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì
mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã
nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái
bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân về. Sức
sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình
cơn gió mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và
trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.
Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Một năm với tiết xuân mới: các
nương ngô, nương lúa đã thu hoạch xong. Trẻ con đi chăn trâu tinh nghịch đốt những
mái lều canh nương để lửa khói sáng trắng trên nương. Đó là tiếng cười của trẻ con,
màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi
trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Cái rét đến sớm và dữ dội,
công việc cũng đã xong và năm ấy Hồng Ngài ăn tết sớm. Sự đột biến của thiên nhiên
của mùa xuân năm ấy liệu có báo hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị, con người vẫn
đang trong tuổi xuân và đầy sức xuân trong mình ?
Đêm tình mùa xuân, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng
không phải để tìm vui mà là để giải sầu "Mị uống ực từng bát rồi say". Cách uống
rượu của Mị như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả.
Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men
say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa. Mị đã hồi
sinh! Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm
những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những
diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có
lẽ chúng ta không thể cảm nhận và phân tích những nét tâm lí ấy bằng lí trí của một
người tỉnh táo mà phải là sự chuếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong
kí ức của tiếng sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi
giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện.
Mùa xuân năm ấy với Mị không thể thiếu được "tiếng sáo gọi bạn yêu". Chính thanh
âm quen thuộc ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị.
Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến
cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính
tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo
như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức
đẹp tươi. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị ngày nào. Mị thổi sáo hay,
thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp
nhưng đối lập với hiện tại buồn mênh mang. Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi
còn xa Mị cảm thấy “lấp ló” ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn
để rồi nghe thấy “thiết tha bổi hổi”, Mị nghe rõ và nhẩm được cả lời của bài hát. Mị
ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”
Ngay sau đó là một câu văn ngắn gọn, chắc nịch: “Những đêm tình mùa xuân đã tới”.
Mùa xuân mới, sự bùng trỗi dậy của sức sống, của những khao khát và đổi thay của
đất trời, vạn vật. Phải chăng với Mị điều đó cũng đang đến gần.
Sự xuất hiện cũng như tác động đồng thời của cả ba tác nhân có thể ví như một làn
gió đã thổi tan lớp tro tàn nguội lạnh trong tâm hồn Mị và khơi lên hơi ấm mà hòn
than của sức sống vốn bị vùi chôn nơi sâu kín nhất trong tâm hồn. Để rồi dẫn đến
hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của
nhân vật.
Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang “văng vẳng
gọi bạn đầu làng”, Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui
sướng ấy: "lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước".Còn gì hạnh
phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm
trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã
làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi
trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để
khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức
được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ "Mị trẻ lắm. Mị
hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn
muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi
xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh hiện tại này của Mị thì đúng là bi kịch.
Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao con tim ấy đã vui trở lại.
Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân.
Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử - kẻ
khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu "không có lòng với nhau mà cũng phải
ở với nhau". Cảm xúc ấy như gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm
vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu gom góp. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà
mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem
mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước
ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại
nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để
thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho
người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã
hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Vậy là hơn một lần Mị
tìm đến cái chết nhưng lần này thì sự hồi sinh trong con người tưởng như đã chết với
tâm hồn, tư tưởng nhưng không phải. Sức sống ấy bỗng dưng ùa về, làm cô khao khát
hơn bao giờ hết kiếp sống đáng sống, sống đúng với nghĩa của một con người. Đây
phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật.
Không có lá ngón trong tay, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi tiếng sáo
gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân
phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên
được nữa. Mị phải đứng dậy! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt.
Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Không phải
bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi
người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi
tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị,
đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài
kia đang dập dìu tiếng sáo. Nhà văn diễn tả thật sâu sắc khát vọng cháy bỏng của Mị
bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu sự cảm thông. Câu văn ngắn, nhịp văn mạnh mẽ
thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật "Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa
vắt ở phía trong vách". Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn
buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi
sức sống trong con người ấy đang trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác
tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó
của Mị, mà A Sử chính là kẻ đại diện. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi
đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không
nghiêng đầu được nữa. Sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị.
Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống
với tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn
cô. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh
mẽ. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm
tình mùa xuân. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị
đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi", mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu
lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi
năm nào: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào?”. Tâm
hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, đầy ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả
vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn "Mị vùng bước đi". Hành
động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói, hoặc có thể biết bị trói nhưng
đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác. Nhưng rồi "tay chân đau
không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa" - sự khắc nghiệt của thực tại đè nặng làm cho Mị không thể
sống với thế giới mộng tưởng của mình được. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù
đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa"
cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Rất tài
tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật
không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của
mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. Có một chi tiết lại xuất hiện
như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã
khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao
ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt
nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi
sinh thực sự. Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mị khóc
nhưng rồi “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Câu văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá
khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái khi
tỉnh khi mê. Cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và
đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh.
Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình
mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói
chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống
hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Vậy là sức sống trong con người
khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm
gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn
Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng
ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành bão táp của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một
năm sau đó.
Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị đã có cơ hội đánh thức sau bao ngày bị vùi
chôn trong đọa đày. Nó đủ kéo Mị ra khỏi vỏ bọc của một con rùa rụt cổ, của một cái
bóng vô hồn, của một vật vô tri vô giác trong nhà Pá Tra. Thậm chí là đủ để cho nhân
vật có thể phản kháng với thực tại, cho dù sự phản kháng ấy còn yếu ớt. Nhưng nó là
tín hiệu dự báo sự đột phá của nhân vật trong cuộc vùng dậy cởi trói cho A Phủ và giải
thoát chính bản thân, tìm sự sống cho mình.
c. Tâm trạng của Mị khi giải thoát cho A Phủ
Đêm tình mùa xuân như cơn gió thoảng qua đời Mị, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống
trâu ngựa tại nhà thống lí - vô hồn, vô cảm. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao
dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn.
Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng
như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Thậm chí nếu A
Phủ là cái xác chết ở đó thì Mị vẫn như vậy mà thôi, vẫn dậy sưởi lửa mà như không
hay. Phải chăng “sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra
nỗi khổ của người khác. Bởi khi con người ta không còn biết thương đến bản thân
mình thì không thể yêu thương người khác được.
Đã mấy ngày A Phủ bị trói đứng ở cột: chịu đau, chịu đói, chịu rét nhưng không một
tiếng kêu nài, van xin. Chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại”, dấu hiệu của thần chết đã xuất hiện trên khuôn mặt người nô lệ ấy thì
trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Nhưng không
phải nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ mà Mị đã cảm thương con người này, đó là
cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp trong Mị mà Tô Hoài đã miêu tả thật
tinh tế. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong
lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Khi nhìn
thấy dòng nước mắt ấy, Mị chợt nhớ ngay lại đêm năm trước A Sử cũng trói đứng Mị
như vậy và cô thấy thương chính bản thân mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề
dài đằng đặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử
trói đứng thế kia, “có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết
lau đi được”.
Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ
rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong
căn nhà này. Mị càng căm phẫn, càng uất hận, “chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra kẻ
gieo rắc nỗi khổ - chúng nó, cha con nhà thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế
lực phong kiến miền núi chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Nhớ đến những chuyện
ngày trước, Mị lại trở về hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta
là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây thôi.”
Khi không tìm được lối thoát cho mình nhưng trong Mị tình người đã trỗi dậy, bởi
đồng cảnh ngộ nên Mị hiểu nỗi khổ mà A Phủ đang phải gánh chịu. Thậm chí A Phủ
là đang đối mặt, cận kề với cái chết nên Mị không thể làm ngơ. Lý trí mách bảo Mị
phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt
chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có
thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị
đâu nào thấy sợ bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Khi
lòng thương, tình yêu đủ lớn, nó sẽ có sức mạnh để áp đảo mọi thế lực, thậm chí là
đánh đổi cả mạng sống của mình cho người khác. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi
loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của
Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù
còn mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy sự bừng tỉnh của những
con người nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt
dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình.
Mị đã làm một cuộc cách mạng tất yếu.
Giây phút đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối, rối
bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Khi đã cứu được người, A Phủ đã được tự
do, được sống thì cũng là lúc tình thương người trong Mị hoàn thành bổn phận. Giờ
đây chỉ còn lại mình Mị với số phận đã an bài và một cái chết đang chờ đón. Khi con
người ta đang đứng giữa ranh giới mà sự sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc thì
bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy. Mị hành động theo bản năng tất yếu.
Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị
vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy ra, Mị băng đi như đi tìm sự sống và tự do cho
chính mình. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như
đạp đổ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng
tâm hồn họ bao năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ cho
tôi đi”, “Ở đây thì chết mất”. Có lẽ chưa bao giờ niềm khao khát sống và khao khát tự
do đến với Mị mãnh liệt như lúc này. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng chính là Mị tự
tay cắt đứt sợi dây của cường quyền, thần quyền đã trói buộc mình. Tiếng gọi tự do
đang vẫy chào họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài
hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục trong quá khứ.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy
của kí ức, khát vọng sống tự do đã khiến Mị chạy theo A Phủ. Mị giải thoát cho A Phủ
và giải thoát cho chính bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất
yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái dám chống lại cả cường quyền và thần
quyền. Hành động này đã được dự báo, dự đoán trong quá khứ khi Mị khóc lúc mới
về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị hừng hực sức sống trong
mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho A Phủ.
Người con gái ấy thậm chí chấp nhận cái chết để đánh đổi một cuộc sống đáng sống
và được sống là chính mình. Hành động này là biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của
nhân vật Mị mà tác giả Tô Hoài đã dày công phân tích đầy lôgic và thuyết phục.
Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật.
Nó như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn
gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại
cảnh là yếu tố không nhỏ để khơi lên sức sống tiềm tàng của Mị. Đó cũng chính là
tinh thần nhân văn của tác phẩm mà Tô Hoài gửi gắm.
3. Nhân vật A Phủ
a. Cách giới thiệu nhân vật
Trong tác phẩm, nhà văn không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự thời gian mà
để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với A Sử.
A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về
làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai
dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái,
thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết
vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ.
Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: A Phủ đâu? A Phủ
đánh chết nó đi! Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong một nhóm các
trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản như những chàng trai kia. Điều này phần
nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất hiện với những
câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch truyện để tìm hiểu
rõ ngọn nguồn về nhân vật.
A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân hình là
một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc địa trong
những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: A Phủ chạy vụt ra ném
con quay rất to vào mặt A Sử. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo,
đánh tới tấp. Với những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con
người này. Không chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm
chất của một con người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan
nhưng cũng không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì
bản tính của một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với
những hành động mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tại bên trong một con
người - một Lục Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ
đầy sóng gió của A Phủ.
b. Lai lịch
Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-
bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch
đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em
cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ – một mầm sống khỏe. Làng chết
nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của
người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới
cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho
nhà người khác để sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ,
cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt
đẹp của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng
Tây Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi
đây.
c. Phẩm chất
A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A
Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề
“biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A
Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc
làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”.Vượt
lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn
nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có
quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi
cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng
trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao
ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con
trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc
nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không
mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia
đình, hạnh phúc?
d. Con đường đẩy A Phủ vào kiếp nô lệ
Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp
sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A
Phủ đã dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu
xa từ một mối thù giai cấp gay gắt. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn
tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ.
Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan
phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi
lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là
người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền
bạc. Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải
tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều
đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống
quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết
đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm
của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong
A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi
mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người
thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt
đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi
hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một
không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ
mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi. Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và
khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm
thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc,
van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như
tượng đá”.
Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công
cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A
Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con
mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ
phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải
vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh
xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay
vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ,
giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để
mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở
thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí
Pá Tra.
e. Cuộc sống của A Phủ ở nhà thống lí
Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động
“đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một
mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.Quanh năm A Phủ bôn ba một thân một mình
rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Với sức vóc của một chàng trai khỏe mạnh, lại biết
công biết việc nên công việc làm hay đi săn cứ đi phăng phăng. Điều đặc biệt là chúng
ta tự hỏi vì sao một chàng trai khao khát tự do, không chịu gò mình vào khuôn phép
nào lại chấp nhận sống kiếp nô lệ cho nhà thống lí? Phải chăng cũng vì công việc mà
A Phủ đang làm vẫn đảm bảo cho chàng trai này cuộc sống tự do như mong đợi, vẫn
như ngày chưa đi ở cho nhà Pá Tra, tự do giữa núi rừng với thiên nhiên, cây cỏ,
muông thú.
Nếu cuộc đời làm nô lệ của A Phủ cứ thế trôi đi êm đềm thì chắc chẳng bao giờ có
thêm bước ngoặt nào trong cuộc đời chàng trai này. Nhưng cuộc đời là sóng gió, là
phong ba, chỉ với một việc cỏn con mà tính mạng của A Phủ bị đe dọa. Vào mùa năm
đó, khi hổ, gấu đang đói, chúng kéo từng đàn ra phá nương, bắt bọ ngựa, do mải mê
bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi
tính mạng của A Phủ sống hay chết lại được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống
lí Pá Tra. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi
sai A Phủ lấy cái cọc, tự đóng cọc, và lấy dây mây để trói mình. Pá Tra bắt và cuộn
dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho
A Phủ “đứng chết ở đấy”. Người đọc có lẽ cảm giác thấy đau đớn, xót xa bởi mạng
sống của một con người mà không bằng một con bò - quá rẻ mạt. Con người không
được làm chủ cuộc đời, không bảo vệ được sinh mạng của mình. Đó là lời tố cáo chế
độ xã hội đương thời đã bóp nghẹt quyền sống của con người. A Phủ hay Mị đều một
thân phận nô lệ như nhau.
Sau mấy ngày bị “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã
đặt tay lên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. Cận kề bờ vực
của cái chết: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết”. Một câu văn với sự dự đoán nhưng như lời khẳng định chắc nịch theo các thành
phần vị ngữ được ngắt ra dứt khoát: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Còn nỗi đau
nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái
chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. Không có một con đường nào
khác. Đó là bi kịch của số phận một con người. Miêu tả cuộc sống khổ cực đau
thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ
đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man
của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ.
f. Sức sống mãnh liệt
Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có đã tiềm
ẩn trong dòng máu của mình, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải
thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một
bên tay”. Nhưng nếu một mình, với chút sức lực yếu đuối của mình thì A Phủ không
thể tìm được lối thoát trong thân phận của một người nô lệ. Và khi có sự trợ giúp của
Mị, cả hai đã đứng lên tự giải phóng và tìm được đường đi cho mình, thoát khỏi kiếp
sống nô lệ. A Phủ đã bị trói đứng mấy ngày, không được ăn uống, lại chịu cái lạnh cắt
da cắt thịt của vùng núi cao Mị tưởng A Phủ đã chết rồi nếu không thấy A Phủ mở
mắt và nước mắt bò xuống hai hõm má. Lúc ấy, mị thấy A Phủ thở phè phè, không
biết là mê hay tỉnh. Nhưng với quá trình đấu tranh tâm lí đầy giằng xé của mình, Mị
đã quyết định tiến lại gần cầm dao cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Bản thân Mị
cũng hốt hoảng nhưng cuối cùng hành động đó cũng xảy ra. Dù Mị chỉ thì thào một
tiếng “đi ngay”. Khi vừa cởi được dây trói thì “A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi”.
Ta cứ tưởng khi Mị cắt dây trói A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa ranh
giới của sự sống và cái chết, thậm chí là cái chết đang cận kề thì bản năng sống của
con người sẽ trỗi dậy, bùng lên mạnh mẽ mà không một thế lực nào cản trở nổi. “A
Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”. Với A Phủ lúc này chỉ có con đường
chạy trốn mới tìm được lối thoát cho cuộc đời, mới giữ được tính mạng và giải phóng
khỏi kiếp nô lệ. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán
bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu
tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Nếu đứng lên đấu tranh
đơn lẻ, một mình sẽ không bao giờ giành được thắng lợi, nhưng nếu biết đoàn kết hợp
sức nhau lại thì thắng lợi sẽ nằm trong tầm tay.
III. Kết bài

You might also like