You are on page 1of 30

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước
năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, sự cống
hiến đối với đất nước thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở
phương diện đời tư, thế sự. Nổi bật trong số đó là nhân vật người đàn bà hàng
chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng
tác năm 1987.
Người đàn bà ấy là nhân vật chính trong khung cảnh bình minh ở nơi đầm phá
miền Trung - chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng
chiến chống Mĩ. Nếu không vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau
cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh” thì có lẽ anh sẽ không bắt gặp
được người phụ nữ này và cũng sẽ không có cơ hội để vỡ lẽ ra nhiều điều từ
thực tế cuộc sống và nghệ thuật. Người đàn bà không được Nguyễn Minh Châu
gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những
đại từ phiếm chỉ như “người đàn bà”, “mụ”. Phải chăng đây là dụng ý của tác
giả vì chị chỉ là một trong vô số những người đàn bà làng chài ở các vùng biển
khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc đời bình thường giống như họ? Phải
chăng cũng vì không có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức
khái quát lớn?
Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn
ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những chi tiết miêu
tả ngoại hình như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khiến bạn đọc hình dung ra một
người đàn bà lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên
biển đầy hiểm nguy.
Dường như số phận đã đẩy hết bất hạnh lên con người chị nhưng chị lại cam tâm
chịu đựng mà không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế mà
đàn ông trong phố không ai lấy chị rồi chị “có mang với một anh con trai một
nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Người đàn ông chị
lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và không bao giờ đánh đập
vợ. Nhưng có lẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh mà anh ta trở nên vũ
phu khiến chị thường xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hành động của người chồng khiến vị
chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước không có một người chồng
nào như hắn.Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị
không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Chị đã phải chịu đựng bao
nhiêu cơn thịnh nộ từ người chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, bấp bênh của
cuộc sống hàng chài mà không bao giờ phản kháng. Chị cam chịu số phận bởi
chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.
Người đàn bà hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại
sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như
vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày.
Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động
suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm
muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha
nên có người đàn ông nào lại dửng dưng vô cảm trước sự đói khổ của vợ con
mình. Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng
quẫn trước cuộc đời khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì
không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi
nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên
người đàn bà nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý
tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ
nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi
lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng
hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại
chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ
nào không đau đớn nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn
đến hành động bạo lực của người chồng nên chị không hề oán trách, căm giận
mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn
nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy
trốn”.
Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn là một người mẹ hết lòng thương
con và giàu đức hi sinh. Chị muốn các con của chị được đón nhận tình yêu
thương của cả bố và mẹ. Chị muốn các con được lớn lên trong không khí hòa
thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con không
phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình. Các con còn
nhỏ, chúng chưa thể hiểu được nguyên nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể
sẽ căm thù, oán giận bố. Chị xin lên bờ đánh là để tránh cho các con những sự
tổn thương về mặt tinh thần. Khi thằng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt
lưng “quật tới tấp” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới
đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo
đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó
rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn
Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con
mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng với ông ngoại chỉ vì
“sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó”.
Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì
con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì
con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải
thoát cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối
với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với
một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn
luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ.
Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng
tốt của Phùng và Đẩu nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lòng các chú tốt nhưng các
chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”; “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà,
chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một
chiếc thuyền không có đàn ông”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh
án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như
cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải
quyết một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li
hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được
tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.
Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập
về ngoại hình và tính cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị
tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người đàn bà ấy đã mang đến cho tất cả
bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người và
cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam
chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát
hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách trong những nhân vật của mình.
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nhân vật này đã giúp bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình
thương mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu
cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người
mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền
văn học Việt Nam.
8. Phân tích nhân vật Phùng

Trong thể loại văn xuôi viết về người dân Việt Nam trước năm 1945 có rất nhiều
tác phẩm để đời. Với cuộc sống cùng cực dưới ách thống trị của bọn chúa đất ở
miền núi, chúng ta có "Vợ chồng A Phủ", hay chủ nghĩa anh hùng đậm chất sử
thi – "Rừng Xà nu"… Nhưng sau đó, năm 1986, xã hội có sự thay đổi, nước ta
xóa bỏ bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường vì thế văn học cũng có bước
chuyển mình. Đề tài thế sự và đạo đưc được các nhà văn xoáy sâu vào khai thác.
Và "Chiếc thuyền ngoài xa" là một tác phẩm tiêu biểu cho thời kỳ ấy.
Được coi là "người mở đường tinh anh và tài năng nhất"( Nguyên Hồng),
Nguyễn Minh Châu- cây bút tiên phong của văn học Việt nam thời kỳ đổi mới
đã có nhiều tác phẩm ấn tượng. Một trong những tác phẩm thành công của ông
là "Chiếc thuyền ngòai xa". Truyện ngắn được sáng tác năm 1983 đến
nawm1987 in trong truyện ngắn cùng tên. Truyện ngắn tiêu biểu cho cảm hứng
đời tư thế sự, tiêu biểu cho xu hướng chung của văn học thời kì đổi mới. truyện
ngắn có một tình huống truyện hết sức độc đáo. Tình huống ấy được thể hiện
qua nhãn quan của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhân vật này được coi là nhân vật
thể hiện triết lý cũng như quan điểm của tác giả, là phương tiện để tác giả mang
suy nghĩ của mình đưa đến cho người đọc.
Tình huống truyện trong tác phẩm là tình huống nhận thức, một tình huống bất
ngờ và đầy nghịch lý. Tình huống nhận thức này là được dành cho nhân vật
Phùng. Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo yêu cầu của trưởng phòng, anh tới một
vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch
nghệ thuật thuyền và biển. Tại đây anh đã nhận thức được nhiều điều. Cảm xúc
của nhân vật này qua những phát hiện của mình đã thể hiện nội tâm cũng như
suy nghĩ của anh, giúp người đọc cảm nhận vẻ đẹp nơi con người này.
Trước hết, anh là người có tâm hồn nghệ sĩ.Sau mấy buổi sáng "phục kích", anh
đã chụp được "cảnh đắt trời cho". Đó là cảnh ban mai vùng ven biển, với "mũi
thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Với tâm hồn nghệ sĩ của mình,
anh đắm say, ca tụng cảnh đẹp như "bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ".
Rồi anh cảm thấy tràn ngập niềm hạnh phúc"bối rối, tái tim như có gì đó bóp
thắt vào". Anh thấy được cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn, cảm nhận
được chân- thiện-mĩ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được thanh
lọc, trở nên trong trẻo và thanh khiết. Từ đó, anh nhận thức "bản thân cái đẹp là
đạo đức". Bằng con mắt và tâm hồn nghệ sĩ của mình, anh đã đưa đến cho người
đọc một quan niệm về cái đẹp. Đó chính là cái đẹp là phải có tác dụng thanh lọc
tâm hồn, hướng con người đến cái hoàn mĩ.
Không chỉ là người có tâm hồn nghệ sĩ, nhân vật Phùng còn là một người tốt
bụng, có lòng đồng cảm với mọi người, mang những đức tính của một người
chiến sĩ. Điều này được thể hiện qua phát hiện thứ hai của anh. Từ chiếc thuyền
đẹp như ngư phủ kia, bước ra một cặp vợ chồng: người đàn bà xấu xí mỏi mệt,
người đàn ông thô kệch dữ dằn. Họ là những con người hiện thân cho sự lam lũ,
nhọc nhằn, nghèo khó của người dân hàng chài. Sẽ không có gì nếu cảnh tượng
nghiệt ngã này không xảy ra trước mắt anh. Người chồng đánh đạp vợ một cách
dã man, vừa đánh vừa chửi "mày chết đi cho ông nhờ", "chúng mày chết đi cho
ông nhờ". Người vợ thì cam chịu trận đòn, không hề phản kháng lại. Đứa con
thương mẹ, xông vào đánh lại bố thì bị ăn hai cái tát. Một cảnh bạo lực gia đình
diễn ra ngay trước mắt Phùng. Mặc dù đã chứng kiến biết bao cảnh đau thương
trên chiến trường nhưng anh vẫn không khỏi kinh ngạc trước sự việc này. Nó
hoàn toàn trái ngược với cảnh đẹp thơ mộng nơi đây. Với anh- một người đã trải
qua bao nhiêu khó khăn, vượt qua thời kì khó khăn của chiến tranh, anh không
thể để cảnh bạo hành này tiếp tục diễn ra. Anh đã nói chuyện này với chánh án
Đẩu- bạn của anh. Anh mong muốn mình có thể giúp gì được cho người đàn bà
nghèo khổ kia. Quả là một người chính nghĩa. Anh luôn đứng về lẽ phải, muốn
bảo vệ lẽ phải và phê phán tố giác những điều xấu, điều ác.
Ngoài ra, nhân vật Phùng còn là người chịu thay đổi suy nghĩ cho phù hợp với
hoàn cảnh, không bảo thủ, chấp nhận những cái sai của mình. Ngay từ ban đầu,
khi chụp được "cảnh đắt trời cho", anh đã cho rằng cái đẹp là đạo đức, có tác
dụng thanh lọc tâm hồn con người. Nhưng khi chứng kiến cảnh bạo hành bên
chiếc xe tăng hỏng cùng với những tâm sự của người đàn bà hàng chài, anh đã
nhận ra những điều mới. Anh nhận thức được là phải nhìn nhận mọi việc một
cách toàn diện Triết lý mà Phùng nhận ra cũng chính là thông điệp mà nhà văn
muốn gửi gắm. Nghệ thuật không chỉ bắt nguồn từ cuộc sống mà phải gắn liền
với cuộc sống.
Nhân vật Phùng là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm này của Nguyễn
Minh Châu. Anh vừa là nhân vật tạo tình huống, vừa là nhân vật gắn kết các sự
kiện truyện với nhau, thể hiện thông điệp mà tác phẩm muốn gửi gắm. Là một
người có tâm hồn chiến sĩ và nghệ sĩ, Phùng đã để lại nhiều ấn tượng tốt trong
lòng người đọc
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và
đạt được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng
Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những
biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất
của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt
đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút
Sông Đà - một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách
mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm
chất khí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử,
dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình
tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài
tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri,
vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn
hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác
giả nói - "hung bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số
một" của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng,
thân thiết, giống như một người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì
nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân -
một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng
nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo
cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp
tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong
trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán
xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo
của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh -
Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên
những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông
Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực.
Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh
liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt
giữa hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn
điện". Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông
thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ
đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó
lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay
cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi
phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Dùng thủ pháp văn học như thế
ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng kĩ thuật đặc tả
của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy, ngồi vào
một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả
người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay
tít, cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây
toàn bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh
như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim
ảnh thu được trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự
thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị
vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì
khu, kì quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái
khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ:
"tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán
trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng "rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật
lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế
trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục
kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm
ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt
hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh
bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc
này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết
bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông
Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ
chín đỏ như da mặt người say rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn
trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước".
Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ
dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ
mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa
là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là "màu
nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng hiện
lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước
lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của
thi sĩ Tản Đà gửi "một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước
lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà
thường đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở
đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ
đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu
mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp.
Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao
ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu
tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu
vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của
con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một
tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững
hình tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong
cuộc vật lộn với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả
sử tác giả đặt ông ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình -
chắc hẳn ông sẽ trở thành một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích.
Nhưng ở đây, đối đầu với con sông dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất
thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường - một nhân vật sử thi trong thiên
trường ca leo ghềnh vượt thác...
VỢ NHẶT

Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân.
Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng
ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt
là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.
Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện
“Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”
– được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Tuy nhiên chỉ được
viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân
một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng Tám thành công, Kim Lân đã nhớ
lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn.
Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.
Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng
khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn lan, khủng khiếp
diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những
yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.
Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt
của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi
và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của
xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa
lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim
Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm
chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân
nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày
tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói
năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái
đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên
truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu
Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân
ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong
trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được
chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào
của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia
đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì
không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống:
kéo xe bò thuê.
Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người
ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm
vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn.
Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm
nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu
Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn
không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không
có khả năng để lấy được vợ.
Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy
được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân
ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh
cu Tràng cũng vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng
với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu
Tràng về làm vợ thật.
Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con
mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong
nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và
cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi
về Tràng vui sướng, hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa
hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê
chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc
khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu, xấu hổ, đứng
tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc
mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ
mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân
trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một
con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường
như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của
anh cu Tràng.
Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng
hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người
đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ.
Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng
thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ,
không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén
nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người
xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho
gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm
xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để
nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng
bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện
ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuế mà còn phá kho
thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới
lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương
lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.
Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của
nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho
số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam
trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng
vào tương lai.
Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ
nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề
nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng,
trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần
thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói,
mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gầy và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại
hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị
cũng hết sức chao chát, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”,
“Hà, ngon. Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc
mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”,
“ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường
như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như
vậy.

Nhưng đằng sau sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát
vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành
động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh
liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón
rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh
nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi
gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa.
Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng
có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ
cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm
nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không dành dụm được tiền, trong
lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa
vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ. Bà
dặn dò hai vợ chồng mới, nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin,
sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học
hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân,
đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng
niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho
thấy nghệ thuật phân tích tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.
TÂY TIẾN

Quang Dũng là một nhà thơ đa tài trong nhiều lĩnh vực như sáng tác thơ, vẽ
tranh, viết văn. Những tác phẩm của ông thể hiện tâm hồn của con người hào
hoa, lãng mạn, đầy trữ tình. Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu thể hiện cho phong
cách sáng tác thơ ca của ông với hình ảnh người lính hào hoa nhưng không kém
phần lãng mạn.
Tây Tiến được sáng tác vào thời kì đấu tranh ác liệt của dân ta năm 1948 và
được in trong tập Hoa dọc chiến hào. Bài thơ miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Tây
Tiến và ngợi ca người chiến sĩ với tinh thần anh dũng, bi tráng.
Mở đầu bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Tiến với một tiếng gọi từ hiện tại
về đến quá khứ rất thân thương:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."
Thán từ ơi được ngân dài tha thiết với thanh bằng gợi sự dịu êm. Nhớ chơi vơi
chính là nỗi nhớ không thể định hình mà lại bâng khuâng bao trùm cả không
gian, thời gian. Hai câu đầu của bài thơ tác giả nhớ lại về những gì thân thuộc
trong trí nhớ về Tây Tiến. Một hành trình gian khó, nhọc nhằn, khó khăn hiện
ra. Vùng núi Tây Bắc với nhiều địa danh nổi tiếng: Sông Mã, Sài Khao, Mường
Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu gợi lên những miền rừng núi hùng vĩ
đầy hoang sơ. Nhà thơ ngắt nhịp 3/4 tạo nên sự phân định rạch ròi hai hướng lên
xuống trên con đường hành quân Tây Tiến. Những từ ghép, từ láy giàu được sử
dụng để đặc tả sự gian nan.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời."
Khi chinh phục được tưởng chừng như con người đang bồng bềnh đứng giữa
biển mây. Độ cao bầu trời chỉ còn trong tầm mũi súng. Độ rộng rãi thoáng đạt
của không gian ùa tới. Ý thơ của Quang Dũng không chỉ tả cảnh mà còn tả ý chí
tâm hồn của người lính. Người lính Tây Tiến không bị chìm đi trước thiên nhiên
khắc nghiệt mà lại như trỗi dậy đầy thử thách.
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Chinh phục được đỉnh núi rồi ta lại phát hiện về độ cao “heo hút cồn mây súng
ngửi trời”. Cồn mây cho thấy mây núi chồng chất dựng lên thành cồn thành dốc,
dốc núi cao đến mức con đường lẫn vào mây khiến con đường hành quân của
càng cheo leo, phức tạp. Ngửi trời là cách nói vui đùa của người lính qua đó nhà
thơ cho thấy tâm hồn trẻ trung không sợ khó khăn, vất vả của người lính.Giữa
mạch thơ với cái dữ dội của thiên nhiên là một ánh nhìn bay bổng: Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi, đây là một phép liên tưởng thú vị. Giữa núi rừng trùng
điệp, ngôi nhà ấm áp hiện lên làm xao xuyến lòng người xa quê.
Giữa phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ ấy là sự hy sinh anh dũng của người lính
Tây Tiến:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Núi rừng Tây Tiến đầy thử thách khiến chúng ta nghe thấy rõ ràng hơi thở nặng
nhọc của người lính trên mỗi chặng hành quân. Họ là những gương mặt dãi dầu
sương gió rồi cuối cùng “gục lên súng mà bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” diễn tả
tất cả sự vất vả của các anh lính trên chặng đường chiến đấu. Người lính không
thể tiếp tục bước đi cùng đồng đội. Bên cạnh đó Quang Dũng còn tả về sự ngang
tàng, anh dũng của những người chiến sĩ không sợ quân thù.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Kết thúc hành trình gian khổ là hình ảnh cuộc sống thanh bình, êm đềm.
Làn khói lam và mùi hương nếp xôi quyến rũ gợi về một cuộc sống yên bình
đáng mơ ước. Mai Châu bỗng trở nên thân thuộc biết bao nhờ câu thơ và cách
diễn đạt nỗi nhớ không thể của Quang Dũng: nhớ ôi Tây Tiến...

Tây Tiến thơ mộng, trữ tình dưới ngòi bút Quang Dũng:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Buổi liên hoan văn nghệ thật vui vẻ với ánh sáng rực rỡ của đêm hội đuốc hoa
và bừng lên tỏa sáng trong cái nhìn ngạc nhiên của người chiến sĩ. Man điệu bí
ẩn, say đắm, ngọt ngào làm mê hoặc lòng người. Vẻ đẹp của cô gái mềm mại, e
ấp bên cạnh tiếng khèn rộn ràng. Người lính Tây Tiến chiêm ngưỡng say đắm vẻ
đẹp của đêm văn nghệ với tâm hồn trẻ trung, vui vẻ.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?"
Nhà thơ đang hướng cảm xúc của mình về miền tây sông nước. Dòng người
mềm mại, duyên dáng băng băng trên độc mộc thể hiện sự lãng mạn trong hồn
thơ Quang Dũng và vẽ được cái hư ảo của hoài niệm, sự tinh tế của tình cảm.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm."
Đoàn binh Tây Tiến xuất hiện với tư thế oai phong "dữ oai hùm”. Tuy nhiên sự
thật là người lính đang phải hứng chịu những trận sốt rét khủng khiếp trong
hoàn cảnh thiếu thốn thuốc men, vật chất. Đoàn quân ấy đang phải đối mặt với
bao khó khăn, gian nguy, thiếu thốn.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Giữa khung cảnh khắc nghiệt, người lính vẫn giữ tâm hồn lãng mạn đã mơ về
hình ảnh yêu kiều của người con gái Hà Nội. Giấc mơ về Hà Nội yên bình vô
cùng bay bổng lãng mạn và cũng là động lực tinh thần cho đoàn quân Tây Tiến.
Khát vọng chiến thắng, sự hy sinh anh dũng của người lính Tây Tiến được thể
hiện qua câu thơ:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Khát vọng của họ là được ra đi và xả thân. Đó cũng là lý tưởng cao cả nhất trong
cuộc hành trình gian khổ của người chiến sĩ. “Áo bào thay chiếu anh về đất” chỉ
sự hy sinh cao cả của người lính. Con sông Mã gắn với tiếng gầm thể hiện cái
chết oai hùng mang tầm sử thi.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."
Bài thơ kết thúc đầy xúc cảm. Đường lên Tây Tiến, đường đến với chiến thắng
quả thật rất gian nan, thăm thẳm, xa cách và chẳng có một lời hứa hẹn chắc chắn
nào. Nhưng với tinh thần, ý chí chiến đấu của người lính chắc chắn sẽ đập tan
quân thù.
Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện
thực khốc liệt nơi chiến trường qua đó cho thấy vẻ đẹp tâm hồn, ý chí cao cả của
người lính Tây Tiến.
Tây Tiến sẽ mãi là bài thơ lưu trữ những ký ức đẹp đẽ của dân tộc, của một thời
chiến đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay.
6. Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến

Vào một đêm cuối năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, cái làng nhỏ nằm ven bờ con
sông Đáy, Quang Dũng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm còn tươi nguyên. Năm ấy
Quang Dũng là đội trưởng đoàn quân Tây Tiến làm nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh địch trên tuyến đường rừng núi Tây
Bắc từ Lai Châu đến bắc Thanh Hóa. Những người lính của trung đoàn Tây Tiến
sống vô cùng thiếu thốn khổ cực, vì rừng thiêng nước độc, sốt rét hoành hành,
thuốc men ít ỏi, vì dưới hành quân là trập trùng núi rừng hoang vu, hiểm trở.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông là học sinh,
tiểu tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ vẫn phơi phới tinh
thần lãng mạn anh hùng. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước
đây lấy tên là "Nhớ Tây Tiến”) để thể hiện nỗi nhớ và niềm yêu về một thời
chiến đấu gian khổ mà hào hùng, dữ dội mà mê say.
Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những chi tiết, hình
ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được diễn tả
bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường tài hoa, đem đến cho người
đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong một thời kì lịch sử. Bài
thơ được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu
hiện nỗi nhớ ấy.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Hình ảnh sông Mã anh hùng mở đầu bài thơ như hé mở cho người đọc những
câu chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận, những
người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng bởi vậy cũng thật tự nhiên mà ngay từ
đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên "sông Mã". Câu thơ giống như một tiếng gọi
tha thiết ám ảnh, khoảng cách địa lý thì xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn
thường trực. Trong lòng câu thơ thứ hai dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp
4/3 đã diễn tả tinh tế những thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác
giả. Cái đặc sắc chính là ở ba chữ "nhớ chơi vơi", chữ "chơi vơi” làm cho người
đọc có cảm nhận như lan tỏa vào không gian và thấm sâu vào lòng người, một
chút chống chếnh, một chút hụt hẫng, một chút nao lòng. Nỗi nhớ Tây Tiến
tưởng như xa mà lại hóa gần, tưởng dịu nhẹ mơn man và lại có sức ám ảnh khôn
xiết. Không những thế, người đọc còn như nghe được trong những chữ "nhớ
chơi vơi" ấy âm hưởng của núi rừng, của sông suối Tây Tiến. Câu thơ reo vần
"ơi" tạo ra được độ dịu nhẹ lâng lâng trong cảm xúc, ở đây cảm xúc nhớ thương
giống như một sợi tơ tình bện chặt lòng người. Ngay sau đó nhà thơ đã cụ thể
hóa nỗi nhớ của mình.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Các địa danh Sài Khao, Mường Lát trong nỗi nhớ của Quang Dũng trở nên thân
gần kì lạ, viết về hình ảnh đoàn quân mỏi "Quang Dũng lại điểm thêm vào đó
hình ảnh "sương lấp", "hoa về", "đêm hơi". Rõ ràng là ở đây chất hiện thực đã đi
liền với chất lãng mạn tạo nên nét vẽ độc đáo về Tây Tiến.
Trong cảm xúc nhớ thương của nhà thơ, bức tranh Tây Tiến như được khoác sắc
màu huyền ảo, thơ mộng, giàu sắc thái lãng mạn khung cảnh rừng núi mà đoàn
quân Tây Tiến bước chân qua vừa thơ mộng vừa hùng vĩ. Trong nỗi nhớ, những
kỷ niệm còn tươi nguyên như sống dậy, nhà thơ nhớ đến hình ảnh một thời gian
khổ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Hai câu thơ mang giá trị tạo hình cao diễn tả một cách cụ thể và sinh động nhất
những gian khổ của người lính Tây Tiến trên đường ra trận. Câu thơ thứ nhất
ngắt nhịp 4/3 và chủ yếu được gieo thanh trắc đã gợi cho người đọc cảm nhận về
một sự trúc trắc gập ghềnh đầy hiểm nguy. Nhưng cái hay của câu thơ chính ở
hai từ láy "khúc khuỷu, "thăm thẳm", nó gợi cho người đọc những cảm nhận về
một không gian được mở ra nhiều chiều; cao, rộng, sâu, xa, người đọc như sẻ
chia được cùng với người lính những vất vả, gian khó. Câu thơ thứ hai chữ "heo
hút" được dùng rất đặc sắc, nó khác với hun hút, nếu “hun hút” gợi được độ sâu
thì heo hút không giới hạn, từ heo hút không chỉ gợi ra độ sâu mà còn thêm cả
cảm giác hoang vắng, lạnh lẽo, hiu quạnh. Địa hình chiến đấu của người lính
Tây Tiến quả thực đầy gian khó và nguy hiểm. Hơn thế nữa ba chữ "súng ngửi
trời" được sử dụng thật độc đáo, nó cũng giống như hình ảnh "đầu súng trăng
treo" của Chính Hữu bao trùm lên hình ảnh là một không gian tưởng tượng lãng
mạn, nhưng nó được bắt nguồn từ cuộc sống hiện thực, từ con mắt tinh tế và
ngòi bút đa tài của nhà thơ. Nhờ hình ảnh "súng ngửi trời", câu thơ nói về những
gian khổ vất vả nhưng lại làm sáng ngời lên khí phách ngạo nghễ và tư thế hiên
ngang của con người, ngoài ra nó còn thể hiện một chút dí dỏm tinh nghịch, một
phong cách lính trẻ trung và lãng mạn. Giữa thiên nhiên hoang sơ vắng lạnh,
hình ảnh con người không cảm thấy bé nhỏ cô đơn mà lại khẳng định tư thế làm
chủ, khẳng định bản lĩnh của một chiến sĩ anh hùng và tinh thần lạc quan của
con người. Không những thế, hình ảnh một thời gian khổ còn được biểu hiện
qua những câu thơ:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Hình ảnh "oai linh thác gầm thét" và "Mường Hịch cọp trêu người" là những
dẫn chứng sống động nhất về những gian khổ hiểm nguy mà người lính Tây
Tiến đã phải trải qua khoảng thời gian "chiều chiều", "đêm đêm" trở thành một
khoảng thời gian ước lệ, nó giống như một ám ảnh về Tây Tiến thời gian in sâu
trong tiềm thức của chính tác giả. Viết về những gian khổ của người lính, ngòi
bút của Quang Dũng cũng ghi lại những hình ảnh hết sức chân thực:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Bao nhiêu vất vả nhọc nhằn của người lính được thể hiện qua hai chữ "dãi dầu".
Tuy nhiên từ "dãi dầu" vẫn giúp cho người đọc cảm nhận được chút phong trần
của người lính trên đường hành quân, phải chăng vì thế hình ảnh của họ thấp
thoáng bóng dáng của người tráng sĩ, chinh phu thuở nào. Qua những chữ "bỏ
quên đời" ta thấy khí phách bản lĩnh của người lính lại được ngời sáng từ chính
những hiện thực tưởng chừng như gian khổ khốc liệt – một chút bất cần phó
mặc nhưng hơn hết là một tráng trí anh hùng, dẫu là mỏi mệt hay dầu là hy sinh
thì họ vẫn coi những biểu hiện ấy rất đỗi nhẹ nhàng. Những người lính Tây Tiến
khi chiến đấu thật anh dũng quả cảm nhưng những giây phút nghỉ ngơi của họ
cũng đầy lãng mạn, mê say:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Họ bỏ lại sau lưng mình những hòn đạn, gạt bỏ những lo lắng vất vả của cuộc
chiến, giữa đời thường, người lính Tây Tiến hiện lên thật bình dị, gần gũi. Một
buổi liên hoan bỗng chốc biến thành một ngày hội tưng bừng náo nhiệt qua lăng
kính lãng mạn của người chiến sĩ không gian của đêm hội đuốc hoa thật rực rỡ
lung linh, câu thơ tràn đầy ánh sáng và màu sắc, trong thơ như có họa. Chữ
"bừng" được dùng rất hay, nó không chỉ là sự bùng lên của ánh sáng, của bó
đuốc đêm hội mà là sự bùng lên của niềm vui, niềm say mê kiêu hãnh. Trong sự
náo nức của đêm hội ấy, hình ảnh người em gái là hình ảnh trung tâm, bao nhiêu
con mắt như đổ dồn về phía người em gái để mà kìa em xiêm áo tự bao giờ" —
một cảm xúc ngạc nhiên đến sững sờ nhưng đi liền ngay sau đó là cảm xúc ngây
ngất đắm đuối và say mê. Từ Hán việt "xiêm áo" tạo ra nét trang trọng, ở đây
hình ảnh người em gái như được mỹ lệ hóa. Những chữ "tự bao giờ" như không
giấu nổi cảm xúc ngây ngất của những người lính Tây Tiến, họ ngỡ như hình
ảnh của đêm hội với người em gái ấy đã có từ lâu lắm để rồi bất chợt lại thấy
ngỡ ngàng. Bức tranh đêm hội được lung linh hóa, mỹ lệ hóa để rồi người đọc
tưởng người em gái ấy tựa như một nàng tiên bước ra từ cổ tích giữa hiện thực
khốc liệt dữ dội người ta bắt gặp hình ảnh như là huyền thoại, đây chính là sắc
thái lãng mạn của bài thơ. Điểm thêm vào bức tranh đêm hội ấy là hình ảnh của
nhạc, của khèn, nhịp thơ đồng thời là nhịp của tiếng lòng náo nức mê say, tiếng
nhạc của tâm hồn như lan tỏa ra từng câu chữ. Một thời mê say và lãng mạn của
người lính Tây Tiến còn được gọi nhắc qua hình ảnh rất đẹp đẽ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Hình ảnh của cơm lên khói, hương vị của nếp xôi nồng nàn mà tha thiết như
quyện chặt tâm hồn người đi xa. Câu thơ chủ yếu gieo thanh bằng, tạo ra một
cảm xúc lâng lâng chơi vơi, một chút bâng khuâng nhung nhớ, một chút da diết
khắc khoải cũng đủ làm nao lòng người khi nhớ về Tây Tiến. Viết về một thời
mê say ấy, Quang Dũng có những câu thơ rất đỗi tài hoa.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Câu thơ thứ nhất như được bẻ gãy làm đôi, gợi ra cái trập trùng hiểm trở của núi
rừng Tây Tiến. Còn câu thơ thứ hai giống như một tiếng buông lơi thật dịu nhẹ
chơi vơi. Câu thơ như đẩy tư duy người đọc về một hoài niệm nào đó đã xa vắng
trong nỗi niềm của tác giả: tưởng là mơ hồ không xác định, tưởng là vu vơ bất
chợt nhưng lại cứ ám ảnh và khắc khoải trong tâm trí tác giả, không những thế,
câu thơ còn có tiết tấu giai điệu rất rõ thể hiện tính nhạc cao. Như vậy người
chiến sĩ cũng chính là người nghệ sĩ. Cuộc sống kháng chiến không chỉ có gian
khổ mất mát mà còn đẹp lung linh trong tâm hồn người lính. Chính cuộc sống
này, cuộc sống đầy chất thơ và mộng này, đã xua tan đi những mỏi mệt gian lao
trong đời sống chiến đấu của người lính. Tiếp đó, mạch cảm xúc đã có sự
chuyển đổi: đang ở giọng náo nức giục giã mê say chuyển sang giọng điệu trầm
lắng, bâng khuâng pha một chút hoài niệm ngậm ngùi:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Hoài niệm của tác giả bắt đầu từ hình ảnh "chiều sương ấy", không gian như
thoáng phủ một nỗi buồn mênh mang. Chữ "ấy" có ý nghĩa định vị về mặt không
gian như muốn đẩy những kỉ niệm lùi về một nơi rất xa, nó giúp cho người đọc
cảm nhận được khoảng cách vời vợi của nhớ thương. Những câu thơ gợi nhiều
hơn tả, các hình ảnh được gợi ra không phải là những hình ảnh cụ thể chi tiết mà
chi là dáng, là hình, rất khó định hình, khó nắm bắt. Nhà thơ dường như không
miêu tả cảnh mà chỉ gợi lại cái linh hồn của nó, hay nói đúng hơn cảnh vật được
nhìn qua lăng kính nhớ thương, không rõ nét, mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực.
Không phải miêu tả lâu mà là "hồn lau”, không phải miêu tả người mà là “dáng
người”, người đọc cảm nhận được một không gian hoang sơ vắng lặng đượm
một nỗi buồn mênh mang. Đặc sắc nhất của khổ thơ là việc sử dụng cấu trúc câu
“có thấy”, "có nhớ", Đây không chỉ là câu hỏi má còn giống như một lời gợi
nhắc, một lời nhắn nhủ tha thiết ân tình. Phải chăng hồn lau ấy, dáng người ấy
đã trở thành những hình ảnh ám ảnh tâm hồn tác giả, để rồi khi gợi nhắc về nó
giống như một điểm nhấn của xúc cảm. Đặc biệt, sự biến đổi trong cách sử dụng
các cụm từ "có thấy", ”có nhớ” còn là sự thay đổi về giác quan, không chi là cái
nhìn mà còn là tâm hồn, trái tim được đánh thức. Câu thơ thứ tư khá độc đáo, nó
xuất hiện hình ảnh "nước lũ" đối lập với hình ảnh “hoa đong đưa": một bên là
cái mạnh mẽ dữ dội, một bên là cái nhẹ nhàng thật khẽ thật êm. Có lẽ hình ảnh
"hoa đong đưa" không còn là hình ảnh tả thực mà đã trở thành hình ảnh diễn tả
tâm trạng nỗi niềm của tác giả. Từ láy "đong đưa" khác với từ láy "đu đưa", nó
không chỉ miêu tả dáng hình và sự chuyển động như từ "đu đưa" mà còn là đầy
tình ý, nó còn là sự đong đưa của ánh mắt đầy hoài niệm mê say, đầy sắc thái
lãng mạn và phong cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Quang Dũng. Đọc Tây
Tiến chúng ta như sống lại một thời lửa cháy cùng đoàn quân lừng tiếng đã đi
vào lịch sử. Để khắc họa chân dung người lính, nhà thơ đã sử dụng những chi
tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình ảnh đó lại được
diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi thường, tài hoa, đem đến cho
người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có của người lính trong thời kỳ lịch sử:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Nhà thơ Quang Dũng gọi tên binh đoàn của mình bằng tên gọi khá thú vị "đoàn
binh không mọc tóc”. Thật thú vị khi những con người ấy lại lấy chính hiện thực
gian khổ khốc liệt để biến thành niềm kiêu hãnh và tự tôn cho chính mình. Nhà
thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt nguồn
từ hiện thực thiếu thốn khắc nghiệt "tiểu đội xe không kính", qua đó ta thấy
được tinh thần lạc quan và chất lính dí dỏm hài hước. Câu thơ thứ hai tạo ra hai
vế đối lập: "quân xanh màu lá" với "dữ oai hùm", một bên là cái thiếu thốn khó
khăn gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến.
Ba tiếng "dữ oai hùm" tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ hùng tráng cho câu thơ,
người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh
tô đậm nét hùng dũng. Những người lính Tây Tiến cũng là những người lắm
mộng nhiều mơ, những người giàu khát vọng hoài bão. Đến đây nhà thơ đã tạo
ra nét vẽ chân thực về hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Hai câu thơ đã nhấn mạnh chữ "mộng" và "mơ”. Từ "trừng“được dùng khá đặc
sắc, nó cho thấy bao nhiêu tâm nguyện, bao nhiêu khát vọng hoài bão tự đáy
lòng đêu dâng cả lên trên ánh mắt. "Mắt trừng" chỉ một hành động mạnh, nhưng
không phải là trừng trị, dọa nạt mà là cái nhìn đau đáu, khôn nguôi thể hiện
những nhung nhớ, ước ao đến khắc khoải. Chữ "mộng" khiến cho câu thơ như bị
trùng xuống, ẩn chứa xúc cảm bâng khuâng. Câu thơ của Quang Dũng gợi nhắc
người đọc tới một câu thơ của Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân
nung nấu – Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu. Nỗi nhớ người yêu nhớ "dáng
kiều thơm” nào đó thật đời thường, bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến
cho hình ảnh người lính trở nên chân thực gần gũi hơn. Nỗi nhớ ấy trong hành
trang của họ như tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và chiến thắng, nó
như một điểm tựa vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà
trường tham gia chiến trận – những con người "lưng đeo gươm tay mềm mại bút
hoa”.
Những người lính Tây Tiến sống anh hùng mà chết cùng anh hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đì chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Cái độc đáo là nhà thơ viết về sự ra đi của họ nhưng không tô đậm sự sầu
thương bị lụy sự ai oán não nùng mà nhấn mạnh dũng khí hùng tráng, khí phách
anh hùng. Sau những câu thơ rắn rỏi, đẹp đẽ đến đây âm điệu câu thơ chợt trầm
và trùng xuống, nó giống như một thước phim quay chậm.
Còn gì thiêng liêng và cao cả hơn sự hi sinh, sự chấp nhận gian khổ của người
lính. Trên đường hành quân người chiến sĩ Tây Tiến gặp biết bao mồ viễn xứ
của những kẻ chết xa quê. Nhưng những người chiến sĩ của chúng ta nhìn với
ánh mắt bình thản bởi họ chấp nhận điều đó. Nếu câu thứ nhất tô đậm cái "Bi"
thì câu thứ hai tô đậm nét "Tráng", "Hùng". Câu thơ thứ hai giống như một cái
hất đầu ngạo nghễ của anh lính Tây Tiến: bất chấp khó khăn, bỏ mặc chết chóc
hiểm nguy cận kề, những người lính Tây Tiến vẫn kiên định trong ý chí, dũng
cảm trong hành động, ngạo nghễ trong khí phách người anh hùng. Tác giả mượn
hình ảnh "áo bào" để gợi tả sự ra đi của những người lính. Đặc biệt nó còn gắn
với hình ảnh thiêng liêng và tạo ra sắc thái trang trọng, giảm bớt nỗi buồn
thương bị lụy. Nó tạo ra một hình ảnh hết sức cảm động, giống như một sự sẻ
chia đồng cảm của tác giả đối với những người lính Tây Tiến. Câu thơ tiếp lại
xuất hiện hình ảnh sông Mã – chứng nhân của lịch sử. Sông Mã tấu lên "khúc
độc hành" – khúc ca đơn độc buồn thương. Chữ "gầm" – biện pháp nhân hóa,
nồi nhớ thương của lòng người như hóa thân vào nỗi nhớ thương của dòng sông
hay dòng sông ấy đang chở đi những khúc ca đau đớn của con người. “Anh về
đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của
mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt
người con yêu dấu của giống nòi. Cuối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh
đoàn binh Tây Tiến một thời mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm
mong ước gặp lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc thương nhớ,
nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời. Câu thơ nói về biệt li,
về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng
cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không
biết bao giờ mới gặp lại. Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả
câu thơ. Hai câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ
giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân tình. Phải
chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân – mùa xuân của hội ngộ, của
chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây
Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời
thề, lời hứa quyết tâm. Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể
đã hóa thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã trở
thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Nhà phê bình Phong Lan nhận định: “Tây Tiến là một tượng đài bất tử về người
lính vô danh” – bất tử bởi chính những vẻ đẹp hào hoa, hào hùng bi tráng. Vì
vậy, người lính Tây Tiến qua bài thơ cùng tên của Quang Dũng sẽ sống mãi
trong cõi vĩnh hằng và trong thế giới nhân sinh.
VỢ CHỒNG A PHỦ

Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô
Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong
tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng
cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người
đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.
Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây
là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở
miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong
một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của
thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết
vẫn chưa trả hết số nợ.
Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn
lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu
buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ
đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.
Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế
mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người
dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này
về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết
cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán
con cho nhà giàu”. Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu
sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm
con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí.
Khi bị bắt về làm con dâu gạt nợ, Mị vô cùng đau đớn và phẫn uất: “Có đến
hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị chuẩn bị sẵn lá ngón để tự tử
nhưng nghĩ đến bố “Mị không đành lòng chết”. Hành động định tự tử của Mị
nhìn bề ngoài là hành động tiêu cực nhưng thực chất lại thể hiện sự đấu tranh
mãnh liệt đòi giải thoát kiếp trâu ngựa. Hành động ấy còn thể hiện thái độ không
chấp nhận cuộc sống thực tại, không chấp nhận thân phận nô lệ của Mị.
Nhưng thời gian trôi đi khiến sự phản kháng trong con người Mị không còn
mạnh mẽ nữa. Cô được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của tác giả nên khiến câu
chuyện khách quan và chân thực hơn. Hình ảnh người con gái ấy hiện lên qua
các công việc “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối. Bất kể làm gì thì “cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.
Mị gần như câm lặng và cam chịu số phận “Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ
rồi”.. Gia đình thống lí Pá Tra “có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện
nhất làng”, giàu có là vậy nhưng con dâu phải làm việc như thân trâu ngựa. Mị
cũng tưởng mình là con trâu, con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, việc đi làm mà thôi”.
Nhưng con trâu, con ngựa “làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân,
đứng nhai cỏ” còn Mị phải làm việc cả đêm lẫn ngày, không một phút nghỉ tay.
Những công việc hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ ngô, hái củi, tước sợi đay
hiện ra như một dòng chảy không bao giờ ngừng khiến Mị “lùi lũi như con rùa
nơi trong xó cửa”.
Dường như cuộc sống của người con dâu gạt nợ đã khiến cô trở nên câm lặng,
“càng ngày Mị càng không nói”. Không những thế, Mị còn mất hết ý niệm về
thời gian, không gian. Điều ấy được tác giả đặc tả qua chi tiết: “Ở cái buồng Mị
nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Và chính
Mị cũng đã nghĩ rằng “mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến
bao giờ chết thì thôi”.

Ngỡ tưởng cô gái ấy tồn tại như cái xác không hồn trong nhà thống lí nhưng
không khí của mùa xuân đã làm tâm hồn và lòng yêu đời của Mị trỗi dậy. Tiếng
sáo rủ bạn đi chơi mang âm hưởng bồi hồi, tha thiết, rạo rực khiến Mị nhớ đến
quá khứ, nhớ đến cuộc sống tự do của mình trước đây. Mị nhẩm thầm theo lời
bài hát:
“Mày có có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”.
Tiếng sáo có sức quyến rũ đến lạ kì. Nó đưa Mị trở về sống với những cảm xúc
của một thời tươi trẻ. Mị không còn “lùi lũi”, chịu đựng nữa. Dường như cô
muốn thoát ra khỏi cái vỏ bọc để sống đúng là chính mình. Mị uống rượu, “uống
ừng ực từng bát” rồi Mị say, “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng,
người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về những ngày trước”. Trước đây, Mị
đã từng là một cô gái thổi sáo giỏi, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã
thổi sáo đi theo Mị”.
Không khí của những đêm tình mùa xuân tràn về khiến lòng Mị phơi phới trở lại
và “đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra mình vẫn
còn trẻ lắm và cũng muốn đi chơi như bao nhiêu người khác. Ý định muốn đi
chơi của Mị đã trở thành hành động khi cô “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm
vào ống đèn cho sáng” rồi “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía
trong vách”. Hành động ấy của Mị đã thể hiện sự hồi sinh trong tâm hồn, thể
hiện một sức sống mãnh liệt mà bấy lâu nay bị những khổ cực đè nén khiến nó
không có cơ hội được bộc lộ.
Nhưng giữa lúc lòng yêu đời trỗi dậy mãnh liệt thì cũng là lúc Mị bị vùi dập phũ
phàng. A Sử biết Mị muốn đi chơi nên “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng
Mị vào cột nhà”, A Sử “quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không
nghiêng đầu được nữa”. Trong không gian của bóng tối, Mị vẫn nghe thấy
những âm thanh dìu dặt của tiếng sáo, nó “đưa Mị đi theo những cuộc chơi,
những đám chơi”.
A Sử có thể trói buộc Mị về thể xác nhưng không thể trói buộc được Mị về tâm
hồn. Tiếng sáo da diết như mời gọi đã khiến “Mị vùng bước đi” nhưng Mị
không thể cất bước vì “tay chân đau không cựa được”. Nỗi đau về thể xác khiến
Mị quay về thực tại, Mị đau đớn, “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Mị đã ý thức được cuộc sống thực tại và xót xa cho số phận của bản thân mình.
Bằng một sức sống mãnh liệt tiềm ẩn bên trong con người, Mị đã tự giải thoát
cho chính mình qua hành động cắt dây trói, giải cứu cho A Phủ và cùng anh trốn
khỏi Hồng Ngài đến khu du kích Phiềng Sa. A Phủ là người đối đầu với A Sử -
con trai thống lí Pá Tra trong lần A Sử cùng chúng bạn kéo vào làng chơi và dọa
đánh bọn con trai lạ. Vì đấu tranh cho cái thiện, cho chính nghĩa mà A Phủ bị
bắt làm nô lệ cho nhà thống lí.
Khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen
lại”, Mị chợt nhớ lại đêm mình bị A Sử trói đứng như thế. Từ thản nhiên, thờ ơ,
Mị đã có sự đồng cảm với tình cảnh, thân phận của A Phủ. Suy cho cùng, cả hai
người đều là những vật thế mạng cho món nợ của người thân hoặc của chính
mình.
Giai cấp thống trị ở miền núi đã lợi dụng lệ tục cổ hủ đó để bóc lột sức lao động
của họ biến họ trở thành thân trâu ngựa làm giàu cho mình. Bằng tấm lòng
thương người, Mị đã “cắt nút dây mây” và bảo A Phủ “Đi ngay”. Hành động ấy
vô cùng táo bạo bởi nếu gia đình thống lí biết thì Mị sẽ là người bị trói tay vào
chỗ của A Phủ.
Khát vọng giải thoát bản thân và khát vọng về một cuộc sống tự do đã thôi thúc
Mị bỏ trốn cùng A Phủ. Sức sống trong cô đã bùng lên mạnh mẽ để đấu tranh
chống lại cường quyền, thần quyền và phụ quyền. Hành động cắt dây trói cho A
Phủ cũng là hành động cắt dây trói cho chính mình, chấm dứt cuộc đời nô lệ, bị
áp chế của Mị.
Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân
vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả
tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng
nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm
nên sự thành công của tác phẩm.
7. Cảm nhận về nhân vật Mị

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo
đánh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung
và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô
Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.
Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam
khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác
phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng
rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị
trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô
mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất
phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất
lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập
tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi
sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những
tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu
thương.
Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước
đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá
tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm
khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để
trả hết nợ.
Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô
phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy
một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm
này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa
sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một
cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu.
Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu
làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái
nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc
này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị
cũng không còn buồn.
Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng
không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc
vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn
nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy
lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho
cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm
lũi sống mà như đã chết.
Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội
thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị
lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa
soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn
được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử
trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo
những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói
đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc
động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật
Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc
và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt
người đọc.
Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt
nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên
chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống
mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt
tay nhau đến với vùng đất của tự do.
Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình
ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng
rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do
của chính mình.
Sóng

Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường . Thơ bà là tiếng lòng của một
tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hàng
ngày, trân trọng, nâng niu và chăm chút cho hạnh phúc đời thường. Trong các
nhà thơ nữ Việt Nạm, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ của tình yêu .
Bà viết nhiều , viết hay về tình yêu nhưng có lẽ Sóng là bài thơ đặc sắc hơn cả.
Bởi nó nói lên được một tâm hồn khao khát yêu đương, một tình yêu vừa hồn
nhiên chân thật, vừa mãnh liệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ .

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca . Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình
yêu với tất cả sự nồng nhiệt của một trái tim tuổi trẻ . Ta bắt gặp một Xuân Diệu
nồng nàn, đắm say và khát khao dâng hiến cho tình yêu, một Nguyễn Bính mơ
màng tìm về tình yêu đồng nội, một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái
duyên con gái… nhưng chỉ đến Xuân Quỳnh, cái khát vọng rất đỗi đời thường
của con người đó mới được bộc bạch , mà bộc bạch một cách chân thành như
chính cuộc đời nhà thơ vậy : một thứ tình yêu vừa phong phú, phức tạp, vừa
thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, đang khao khát yêu đương
.

Sóng trong tác phẩm cùng tên của nhà thơ mang hình ảnh ẩn dụ . Nó là sự hóa
thân của cái tôi trữ tình đầy mơ mộng của thi nhân . Sóng và em tuy hai mà một,
có lúc phân đôi để soi chiếu vào nhau làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hòa
nhập để tạo nên âm vang cộng hưởng . Và có thể nói qua hình tượng sóng, Xuân
Quỳnh đã bày tỏ một tình yêu dạt dào, mênh mông và một khát vọng vĩnh hằng
về tình yêu đôi lứa

Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu
đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh diễn tả thật cụ thể
cái trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim cồn
cào khao khát tình yêu. Tính khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy
thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: “Dữ dội và dịu êm, Ồn ào và
lặng lẽ” … Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chấp nhận
sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để có thể đồng cảm, đồng điệu
với mình “Sông không hiểu nổi mình, Sóng tìm ra tận bể” . Có thể thấy, ngay
trong khổ thơ đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người
con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa . Nếu
“Sông không hiểu nổi mình” thì sóng sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó “Tìm
ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là
quyết liệt !
Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người, trong quan
niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất
là của tuổi trẻ . Nó cũng như sóng, mãi mãi trường tồn , vĩnh hằng với thời gian.
Từ ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu .
Với con người, tình yêu bao giờ cũng là một khát vọng bồi hồi:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày nay vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

Khi tình yêu đến, như một tâm lý tự nhiên và thường tình, người ta luôn có nhu
cầu tự tìm hiểu và phân tích . Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác
thường, đầy bí ẩn, không thể giải quyết được bằng lý lẽ thông thường, làm sao
có thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu, về thời điểm bắt đầu
của một tình yêu. Cái điều mà trước đó đã từng là Xuân Diêu băn khoăn “Làm
sao cặt được nghĩa tình yêu? ” thì nay một lần nữa Xuân Quỳnh bộc bạch một
cách hồn nhiên, thật dễ thương . Tình yêu cũng như sóng biển, như gió trời vậy
thôi, làm sao có thể hiểu hết được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên
nhiên , và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như tự nhiên vậy :

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đàu từ đâu

Em cũng không biết nưa

Khi nào ta yêu nhau

Tình yêu thường cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim
đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt . Một nỗi nhớ thường trực cả
khi thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả không gian . Một nỗi nhớ còn cào, da diết,
không thể nào yên, không thể nào nguôi . Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt
sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn . Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp
sóng, nhưng rõ nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức nhất , mãnh liệt nhất là ở đoan
thơ này :

Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Và, như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung đắp
đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng
với lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương . Nỗi nhớ
được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ “ Ngày đêm không ngủ được” vẫn
chưa đủ, chưa thỏa, lại được thể hiện một lần nữa qua nỗi nhớ của nhà thơ : “
Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của thi
sĩ. Nỗi nhớ thường trực trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại
trong ý thức mà còn len lỏi trong ý thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Những
đòi hỏi, khao khát yêu đương của người con gái được bộc lộ thật mãnh liệt
nhưng cũng thật giản dị : sóng chỉ khao khát tới bờ cũng như em khao khát có
anh ! Tình yêu của người con gái ở đây vừa thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng,
giản dị, vừa thủy chung duy nhất. Qua hình tượng sóng và em . Xuân Quỳnh đã
nói lên thật chân thành, táo bạo , không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi
nổi, mãnh liệt của mình, một phụ nữ, một điều hiếm thấy trong văn học Việt
Nam .

Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ
vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn hiên tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp
ủ biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong trương lai.
Vừa tự động viên, an ủi mình, tác giả vừa tin vào cái đích cuối cùng của một
tình yêu lớn như con sóng nhất định sẽ “tới bờ”, “dù muôn vời cách trở”. Tương
lai hạnh phúc như đang còn ở phía trước . Và vì thế, ý thức về thời gian chưa
làm nhà thơ lo âu mà chỉ làm tăng thêm niềm tin tưởng:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Xuân Quỳnh vừa thổ lộ trực tiếp, vừa mượn hình tượng sóng để nói và suy nghĩ
về tình yêu. Những ý nghĩ này có vẻ tự do, tản mạn, nhưng từ trong chiều sâu
của thi tứ vẫn còn sự vận động nhất quán . Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự
từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối cùng
là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành
tình yêu muôn thủa:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ .

Người con gái mong muốn hòa mình vào bể đời rộng lớn , bứt mình ra khỏi
những lo toan tính toán , để ngập chìm trong bể lớn tình yêu . Phải có mọt tình
yêu như thế nào thì mới có được một mong muốn cao cả đến chừng ấy . Khát
vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ đầy . Cuộc đời còn tình yêu
thì cuộc đời còn tươi đẹp và đáng sống và sống trong tình yêu là một điều hạnh
phúc . Xuân Quỳnh mong ước được sống mãi trong tình yêu, bất tử với tình
yêu .

Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân
Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt,
sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị sâu xa. Sau này khi đã nếm trải
nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc
men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim
tràn ngập yêu thương của nhà thơ .

You might also like