You are on page 1of 3

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

Sê-Khốp một nhà văn vĩ đại của nước Nga đã từng nói “một nghệ sĩ chân chính phải là
một nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” cũng như trong quá trình sáng tạo tác phẩm, tinh thần
nhân đạo là phẩm chất bắt buộc phải có trong mỗi người cầm bút. Và nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã chứng minh được điều đó, ông tạo ra văn chương làm rung động tâm hồn con
người, khiến con người suy nghĩ về lẽ sống với tác phẩm “CTNX”, đây là sự chiêm nghiệm
sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời thông qua…..
Khái quát: Tác phẩm được viết năm 1983, in đậm phong cách triết lí của NMC, khai thác
sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đời thường. Và nhan đề
“CTNX” cũng là 1 ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nt, chiếc thuyền là ko gian sinh
hoạt của con người, là biểu tượng cho sự toàn mĩ nhưng khi vào bờ lại phát hiện những
nghịch lí trái ngang của cuộc sống. Để rồi từ đó tác giả hiểu đuọc chân lí đúng đắn về nt và
người nghệ sĩ chân chính có cái nhìn đa chiều
- 2 phát hiện:
+ Tác phẩm mở ra là phát hiện thứ nhất về bức tranh thiên nhiên đẹp toàn bích về
thuyền và biển trong buổi sáng tinh sương lúc xa bờ. Sự khám phá phát hiện ấy được thể
hiện qua nhân vật nghệ sĩ Phùng, một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng được giao đi công tác tại
vùng biển để chụp khoảnh khắc thuyền và biển cho bộ lịch năm ấy. Và tại đây nghệ sĩ
phùng đã được chứng kiến một cảnh “đắt” trời cho. Thuyền và biển trong làn sương sớm
giống như “một bức tranh mực tàu của họa sĩ thời cổ”, một vẻ đẹp toàn bích mà lâu nay rất
gần gũi với đời sống của chúng ta. Đúng là nghệ thuật sinh ra từ cuộc sống này. Mọi đường
nét của bức ảnh ấy đều hài hòa nhẹ nhàng. Mũi thuyền in những nét lòa nhòa trong làn
sương sớm ấy. Chứng kiến ấy Phùng thấy lòng mình trong trẻo thanh cao hơn. Anh thấy
trái tim như có ai bóp thắt lại. => Sự nhạy cảm trong trái tim người nghệ sĩ, là giây phút
trong ngần trong cuộc đời anh. Phùng nhận ra cái đẹp là đạo đức là chân thiện mỹ. Chiêm
ngưỡng cảnh đẹp nhưng anh cũng không quên bấm máy để bắt kịp cái khoảnh khắc tươi
đẹp của cuộc sống ấy.
+ Thế nhưng sự nghịch lý về bức tranh cuộ sống éo le lại được thể hiện ngay trong
chính bức tranh tuyệt đẹp đó qua phát hiện thứ hai. Khi con thuyền tiến sâu vào bờ thì một
cảnh tượng diễn ra mà nó không còn là chân thiện mỹ nữa. Hai người một ông một bà lầm
lũi đi lên chỗ xe rà phá mìn. Người đàn bà trông có vẻ thô kệch, xấu xí, mặt rỗ và cam chịu.
Còn người đàn ông to cao, dữ dằn và độc ác. Điều ngạc nhiên hơn cả là khi chứng kiến
thấy ông chồng rút thắt lưng quất tới tấp vào mặt vào người vợ mình. Người đàn bà không
hề phản ứng lại mà chỉ cam chịu cắn răng chịu đau cho ông chồng đánh. Một thằng bé cầm
dao chạy đến như muốn lấy mạng cha mình. thế rồi bị cha tát cho một cái lăn quay ra nền
cát. Người đàn bà nước mắt giàn giụa lấp đầy cả những nốt rỗ lỗ chỗ trên mặt ôm thằng
con vào lòng mà khóc. Cảnh tượng đây bất ngờ ấy tạo nên một nghịch lý hẳn so với bức
tranh chân thiện mỹ về chiếc thuyền kia. => Tất cả những sự việc diễn ra liên tiếp đó đã
làm Phùng cay đắng nhận ra đằng sau cái vẻ đẹp toàn bích, toàn thiện kia là những ngang
trái và nghịch cảnh trớ trêu của cuộc đời. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một
khoảng cách đủ để tạp nên vẻ đẹp huyền ảo nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần => Để tạo
nên sự nghịch lý ấy Nguyễn Minh Châu muốn nói với chúng ta về mối quan hệ giữa nghệ
thuật và đời sống. Mối quan hệ ấy khăng khít gắn bó với nhau, chính đời sống sinh ra nghệ
thuật. Điều cơ bản là nghệ thuật kia phải gắn với đời sống và không được rời xa cuộc sống,
như thế mới gọi là nghệ thuật đích thực. Cuộc sống này cũng có nhiều sự nghịch lý đa đoan
như thế nên chúng ta không thể nhìn một cách phiến diện một chiều.
-Người đàn bà
-Ngoại hình, lai lịch: Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được
biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh
Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo"
ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm
người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc
đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê
Việt Nam.
+Ngoại hình: ”trạc ngoài bốn mươi tuổi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng
biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm
thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ,
vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.
+Cuộc sống: mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn
đông con, thuyền thì chật,... Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngoài xấu
xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp.
-Người mẹ giàu tình thương con vô bờ bến
+ Với người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị
đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn
bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được,
phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do chị đưa ra thật đơn giản nhưng
cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những
đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của
người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở
thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”.
+Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái
bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh chị
còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được
với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh”.
+Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu
thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc
nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang
trái, đau đớn đầy xót xa với hạnh phúc nhỏ nhoi là khi “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn
no”
-Ngừoi vợ giàu lòng vị tha
+Không chỉ yêu thương, hi sinh đến quên mình vì đàn con, ở người phụ nữ này còn có một
tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người
chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng ngừoi vợ đã lấy quá khứ để thanh minh
cho chồng “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao
giờ đánh đập tôi”.
+ Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng,
hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến
lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu
mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm
gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học.
+Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của
chồng trở nên khốn khổ “cái lỗi là do đân đàn bà thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Đây quả là
người phụ nữ cam chịu nhẫn nhục dường như nhu nhược, nhưng thật chất ko phải vậy, tất
cả những điều đó là do xuất phát từ sự thấu hiểu, cái nhìn sâu sắc, đa chiều, vị tha cho
chồng
-Thấu hiểu lẽ đời
+Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, .
Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ
phu, tàn bạo.
+Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước, bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam
lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở
thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực
tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo.
+Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là
để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp
mẫu tử, hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
+Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ
nhoi, đời thường, đó là những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận.
Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những
kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng
con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ.
+Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí
của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người:
Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ
bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
Sơ kết: người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục
của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng dáng của những
người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
KB:
Cả đời ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con
người”.
Nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những
ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số phận của người đàn bà hàng chài như một
hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,
không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét
mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai quốc công thần
của triều đại văn học mới".

You might also like