You are on page 1of 32

Chiếc thuyền ngoài xa

Nguyễn Minh Châu


I. Kiến thức cần nắm vững
1. Tác giả :
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn được đánh giá là cây bút tiên phong của văn
học Việt Nam thời kì đổi mới. Ông được mệnh danh là “người mở đường tinh
anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay”.
Trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu là một ngòi bút sử thi có khuynh hướng
trữ tình,lãng mạn. Nhân vật trung tâm là những người anh hùng và người lính.
Nhân cách con người được khám phá ở sự cống hiến, hi sinh, là tiêu chuẩn của
đạo đức cách mạng.
Sau năm 1975, ngòi bút chuyển sang cảm hứng thế sự và những vấn đề đạo đức
và nhân sinh. Nhân vật trung tâm là những con người trong cuộc mưu sinh với
vẻ đẹp và nhân cách.
2. Tác phẩm :
 Hoàn cảnh sáng tác :
Được sáng tác vào năm 1983 và đây là giai đoạn sáng tác thứ 2
II. Hệ thống luận điểm :
1. Tình huống :
 Khái niệm: Tình huống của câu chuyện là sự kiện chính đặc biệt, là
những éo le, những nghịch lý của cuộc sống phản ánh hiện thực đậm đặc
của cuộc sống để từ đó khắc họa tính cách, tâm trạng của nhân vật và ý
nghĩa tư tưởng của tác phẩm.
 Biểu hiện: Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” là tình huống
nhận thức. Từ câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng nhận lệnh
của trường phòng chụp cảnh biển sương mù vào buổi sớm, người nghệ sĩ
này đã đến chiến trường xưa và chụp được một “ cảnh đắt trời cho”
nhưng người nghệ sĩ này cũng phát hiện ra được bi kịch trong cuộc sống
của người đàn bà hàng chài. Bởi vậy, người nghệ sĩ ấy đã có sự thay đổi
trong nhận thức : “Nghệ thuật không hề đơn giản, nghệ thuật luôn gắn
liền với cuộc đời bộn bề, phức tạp. Con người phải nhìn nhận cuộc sống
đa chiều” : Đằng sau vẻ đẹp của thiên nhiên là cuộc sống đầy bạo lực, là
bi kịch đen tối trong gia đình người đàn bà hàng chài khi người chồng
đánh vợ một cách tàn độc, dã man còn người đàn bà thì cam chịu nhẫn
nhục. Đằng sau sự xấu xa ấy lại toát lên vẻ đẹp của nhân cách đáng quý :
Đó là người đàn ông rất trách nhiệm với gia đình, chăm chỉ làm lụng vất
vả để nuôi vợ và đàn con trên dưới chục đứa. Đó là người đàn bà giàu
lòng yêu thương, giàu sự hi sinh và là người hiểu biết sâu sắc lẽ đời.
 Mô tả tình huống: Ở tình huống ngoài bãi biển và tình huống trong tòa
án huyện qua cái nhìn của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
2. Tình huống ngoài bãi biển với hai phát hiện ban đầu của người nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng về vẻ đẹp của con thuyền khi tiến dần vào bờ và
bi kịch trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài.
 Phát hiện 1 : Cảnh con thuyền tiến vào bờ
 Bức tranh con thuyền : Sau một tuần lễ phục kích, người nghệ sĩ đã phát
hiện một cảnh đẹp tuyệt mĩ, một cảnh đắt trời cho : “Mũi thuyền in một
nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút
màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ”. Với bút pháp miêu tả, cảnh con thuyền đi trong biển
sương, mờ ảo, trong ánh ban mai trong trẻo và sự hòa hợp giữa thiên
nhiên và con người.
 Từ láy giàu giá trị tượng hình “lòe loẹt” gợi hình ảnh con thuyền ẩn hiện
trong biển sương tạo nên cảm giác của sự bỏng lỏng, huyền ảo dường như
ta có cảm nhận đó là cảnh của tiên ảo thoát khỏi trần tục. Phép so sánh
“bầu sương mù trắng như sữa” khắc họa cảnh màn sương dày đặc và
chiều sâu tĩnh tại của cảnh vật.
 Không chỉ hòa hợp trong biển sương, cảnh con thuyền hòa trong ánh
nắng ban mai “có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”.
Chỉ với hai tiếng “đôi chút” nhà văn đã miêu tả tinh tế sự hiện hữu của
ánh nắng ban mai với vẻ đẹp trong trẻo, nguyên sơ, tinh khôi đến lạ kì.
Có như vậy, chúng ta mới tưởng tượng cảnh con thuyền đi trong biển
sương và trong ánh ban mai mang vẻ đẹp nên thơ, đầy thi vị lãng mạn.
 Điều đặc biệt trong bức tranh là sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người
: “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên
chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Phép so sánh tạ nên một
bức vẽ như được chạm khắc thành hình hài, đường nét bóng dáng, tư thế
của con người. Ở đây có sự hòa hợp tuyệt đối giữa thiên nhiên và con
người.
 Đây là một bức tranh tuyệt đẹp “đơn giản và toàn bích”, là một “cảnh
sắc trời cho”, là sản phẩm quý hiếm của tạo hóa, là kết quả “sau một
tuần lễ phục kích” và là chiêm ngưỡng trong cả đời cầm máy ảnh của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng mới có một bức họa lý tưởng như vậy.
 Tâm trạng của người nghệ sĩ: Đứng trước “bức tranh mực tàu của một
danh họa thời cổ” ấy, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cảm giác thực sự
“bối rối”, “trái tim như bị bóp thắt vào”, tâm hồn con người được thanh
lọc, gột rửa, thoát khỏi những bon chen của cuộc sống trần tục, cảm giác
của sự hướng thiện, đạt đến chân lý của những giá trị đạo đức. Khi chiêm
ngưỡng bức tranh, đó cũng là khoảnh khắc người nghệ sĩ cảm thấy “hạnh
phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa
mang lại”
 Phát hiện 2 : Cảnh bạo lực diễn ra trong gia đình người đàn bà làng
chài :
o Chân dung :
Đằng sau bức tranh cảnh con thuyền tiến vào bờ, đẹp như thơ và rất đỗi thi vị
ấy, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng lại chứng kiến một sự thật không thể ngờ tới.
đó là câu chuyện bạo lực diễn ra trong gia đình nhà người đàn bà hàng chài.
Sự xuất hiện của người đàn bà hàng chài xấu xí thô kệch, mang nét của con
người mà cuộc đời lênh đênh trên biển khơi :
“Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”.
Và hình ảnh của người đàn ông mang nét dữ dằn, độc ác :
“Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi
chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống
hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và
rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.”
Với bút pháp trần thuật xen lẫn miêu tả, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện
chân thực cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài. Đằng sau “khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới” ấy, là cuộc sống mưu sinh nhọc
nhằn, gian khổ luôn phải đối diện với sóng gió của biển khơi, là cuộc sống đói
nghèo đeo bám, là một tương lai mờ mịt, tăm tối của gia đình người đàn bà
hàng chài. Đằng sau tấm lưng rộng và cong như lưng chiếc thuyền, đằng sau
hàng lông mày cháy nắng của người đàn ông hiện hữu cụ thể vai trò trụ cột của
người làm gia đình giữa phong ba bão táp của biển khơi, của người phải chèo
chống để nuôi vợ và các con trên dưới chục đứa. Điểm đặc biệt đầy ám ảnh ở
người đàn ông là hai con mắt “độc dữ” khi nhìn tấm lưng của người đàn bà bạc
phếch và ướt sũng. Điều đó thể hiện sự căm giận của người đàn ông luôn trút
vào người vợ của mình.
o Cảnh bạo lực :
 Cảnh chồng đánh vợ:
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đi sâu vào cảnh bạo lực trong gia đình người
đàn bà hàng chài, cảnh người chồng đánh vợ rất dã man :
“Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như
những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn
giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi
nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi
cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”.
Với bút pháp miêu tả và biện pháp liệt kê, hành động của người đàn ông được
khắc họa và tái hiện khá chân thực. Đó là cảnh người đàn ông đánh vợ dã man
bằng chiếc thắt lưng của lính Ngụy. Hơn nữa, lão “quật tới tấp” mà không cần
biết người đàn bà ấy phải chịu đựng đau đớn như thế nào. Người chồng đánh vợ
bằng tất cả sức lực và cả niềm căm hận dồn nén nên những trận đòn ấy có thể
nói là vô cùng tàn độc, dữ dội. Không chỉ tra tấn, bạo hành về thể xác, người
chồng còn tra tấn vợ bằng cả những lời lẽ nguyền rủa độc địa : “Mày chết đi
cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn ông đã nguyền
rủa cả vợ và các con.
o Bình :
Phải chăng khi người chồng đánh vợ không một chút nương tay, không mảy
may thương xót người phụ nữ đã trao gửi cả cuộc đời để nương tựa vào mình,
người đàn ông ấy thực sự đã biến thành kẻ tha hóa. Phải chăng, người chồng đã
trút tất cả niềm căm hận, uất ức đối với cuộc đời vào người vợ đáng thương. Bởi
lẽ, lão cho rằng gia đình với những gánh nặng chồng chất đã khiến lão vất vả,
quần quật trong cuộc mưu sinh mà vẫn không đủ ăn.
 Cảnh người vợ cam chịu, nhẫn nhục:
Trong khi đó, người đàn bà lại “cam chịu”, “không hề kêu một tiếng”, “không
chống trả”, “không trốn chạy”. Điệp từ “không” và phép liệt kê khắc họa đầy
đủ sự cam chịu đến mức tội nghiệp của người đàn bà. Dường như người phụ nữ
ấy chấp nhận những trận đòn tra tấn như thói quen, như một phần của cuộc sống
gian khổ, cực nhọc của người dân trên biển.
o Bình :
Điều đặc biệt là sự nhẫn nhục ấy của người đàn bà cũng chính là cách người
phụ nữ muốn chia sẻ những nỗi vất vả giúp chồng giải tỏa những uất ức, căng
thẳng, phiền muộn trong cuộc sống. Sức mạnh phi thường khiến người phụ nữ
có thể chịu đựng :“Ba ngày một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng” chính là
tình yêu vô bờ bến dành cho các con, dành cho gia đình. Người phụ nữ cam
chịu tất cả vì mong muốn các con có miếng mà ăn và gia đình được trọn vẹn.
Chính vì thế, người đàn bà không có hề muốn phản kháng cũng không trốn chạy
để bảo vệ bản thân và sau này khi có cơ hội được giải thoát khỏi người chồng
vũ phu, tàn độc, người đàn bà cũng nhất quyết không đồng ý. Bị đối xử thô bạo,
độc ác và nhẫn tâm như thế nhưng chưa một giây phút nào người đàn bà oán
hận chồng hay có ý nghĩ trả thù chồng. Ngược lại, người đàn bà ấy còn xin chịu
tội sẵn sàng đi tù thay cho chồng. Có thế, ta mới cảm nhận hết sự hi sinh và sự
hiểu biết sâu sắc lẽ đời của người phụ nữ ấy.
 Cảnh con đánh bố:
Bi kịch trong cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài ấy còn là cảnh bạo
lực khi thằng bé Phác vì để bảo vệ, bênh vực mẹ đã tấn công bố và trong cơn
giận dữ người đàn ông đã đánh trả thằng Phác. Đó cũng là nỗi lo sợ nhất và sự
khổ tâm giằng xé trong lòng người đàn bà hàng chài.
Cảnh thằng Phác: “Như một viên đạn trên đường lao tới đích”, nó “giằng chiếc
thắt lưng, dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực
trần cháy nắng”. Phép so sánh và bút pháp liệt kê được nhà văn Nguyễn Minh
Châu sử dụng linh hoạt, tài tình đã khắc họa phản xạ nhanh, mạnh, quyết liệt
của thằng Phác. Thằng bé tấn công bố bằng tất cả nỗi căm hận khi nó phải
chứng kiến cảnh bố đã đánh đập dã man mẹ nó. Thằng bé yêu mẹ nên muốn
bênh vực mẹ và sẵn sàng trong cuộc chiến quyết liệt với bố.
o Bình:
Hành động của thằng bé là điều dễ hiểu. Không phải là thằng bé bất hiếu với bố
mà chỉ là nó không thể chấp nhận cách hành xử của bố nó với mẹ nó mà thôi.
Nó muốn đòi lại công bằng cho mẹ và cũng muốn ngăn cản bố để không đánh
mẹ.
 Cảnh bố đánh con:
Trước hành động của thằng Phác “lão đàn ông dang thẳng cánh cho thằng bé
hai cái tát khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Với bút pháp trần thuật xen lẫn
miêu tả, tác giả đã tái hiện cảnh người bố đánh con. Tuy không tàn độc, dữ dội
như với mẹ nó nhưng nó cũng thể hiện rất rõ bản tính cục cằn, nóng nảy của con
người mà cuộc sống luôn phải vật lộn với sóng gió, với dữ dằn của biển khơi.
 Hình ảnh người đàn bà:
Trước cảnh bạo lực diễn ra trước mắt, khi thằng bé Phác đánh bố nó và bị bố
cho hai cái tát ngã dúi xuống đất, người đàn bà vô cùng đau khổ. Hành động :
“Ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay
vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Với nghệ thuật miêu tả nộ tâm nhân vật
qua hành động và phép liệt kê, nhà văn đã tái hiện chân thực, cụ thể nỗi đau day
dứt giằng xé, day dứt, nỗi khổ tâm trong lòng người mẹ. Dường như, người đàn
bà “ngồi xệp xuống” và “chắp tay vái lấy vái để” là vì người mẹ muốn năn nỉ,
van xin con không được chống đối bố nhưng có lẽ người mẹ bất lực khi không
ngăn cản được thằng Phác. Chính vì lẽ đó, người mẹ “ôm chầm lấy nó rồi lại
buông ra” và lại “ôm chầm lấy” đã khắc họa nỗi lòng vừa thương con mà lại
vừa giận con, ngổn ngang trăm bề của người mẹ.
Đỉnh điểm nhất chính là giọt nước mắt của người đàn bà “như một viên đạn bắn
vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ
xuống những giọt nước mắt”. Hình ảnh này gợi trong lòng người đọc biết bao
ám ảnh. Người đàn bà không hề khóc khi chịu những trận đánh tàn độc, dã man
của người chồng nhưng lại khóc khi chứng kiến cảnh hai người mà người đàn
bà yêu thương lại trở thành kẻ thù của nhau. Tình huống đầy nghịch lí ấy càng
tô đậm bi kịch trong cuộc đời, số phận của người đàn bà và càng làm nổi bật vẻ
đẹp tâm hồn của người phụ nữ đáng thương ấy.
 Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống ngoài bãi biển với
hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Đằng sau vẻ đẹp nên
thơ và toàn bích của bức tranh thiên nhiên lại là cảnh xấu xa đen tối và
đầy bi kịch diễn ra trong gia đình người đàn bà hàng chài. Tuy nhiên, với
tấm lòng cảm thông và đầy trân trọng thương yêu, nhà văn đã khám phá
trong tận cùng của sự đau khổ, trong tận cùng của sự xấu xa, độc ác lại
tỏa sáng của những vẻ đẹp trong tâm hồn. Người đàn ông dù tàn độc khi
quất vào lưng vợ mình những trận đánh liên tiếp thì cũng chưa bao giờ có
ý nghĩ từ bỏ gia đình, rũ bỏ trách nhiệm, vẫn chăm chỉ làm lụng nuôi vợ
con. Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục, chịu đựng tất cả sự bạo hành về
cả thể xác lẫn tinh thần cũng chính là vì thương con, thương chồng và vì
người đàn bà ấy là người hiểu biết sâu sắc lẽ đời. Chính vì lẽ đó, nghệ
thuật phải luôn gắn liền với cuộc sống và người nghệ sĩ phải nhìn cuộc
sống một cách toàn diện.
3. Tình huống ở tòa án huyện : cuộc đời, số phận và vẻ đẹp của người
đàn bà hàng chài
Phùng chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ sau ba ngày diễn ra trận đánh
trước, cảnh cô chị gái tước đoạt con dao găm mà em trai định dùng làm vũ khí
để bảo vệ người mẹ đáng thương. Phùng đã xông ra để bênh vực người đàn bà
thì bị lão đàn ông đánh trả. Phùng bị thương, phải đưa về trạm xá của tòa án
huyện cũng chính tại đây khi nghe câu chuyện trần tình của người đàn bà hàng
chài, Phùng đã vỡ lẽ những giá trị thực sự của cuộc sống.
 Số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài :
Ấn tượng đầu tiên về người đàn bà hàng chài ấy là một thái độ cam chịu, nhẫn
nhục. Sự cam chịu những trận đòn roi như cơm bữa của chồng “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hơn nữa những trận đòn roi ấy rất tàn bạo
và man rợ : “Lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày
xưa... dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà... lão lại nguyền
rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!”. Nhưng người phụ nữ này không van xin, không kêu khóc,
không chống trả, không kháng cự và cũng chẳng trốn chạy.
Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục đến mức không hề xin là không bị đánh mà
chỉ xin là được lên bờ đánh. Điều đó cũng có nghĩa là người đàn bà sẵn sàng
cam chịu sống với những trận đòn như cơm ăn, nước uống hàng ngày.
Lẽ ra người đàn bà này có cơ hội được giải thoát chính là khi ra tòa giải quyết
thuận tình cho li hôn nhưng người đàn bà này nhất quyết cam chịu, sẵn sàng bị
đánh chứ không sẵn sàng li hôn. Người đàn bà này chưa bao giờ cất tiếng xin kể
cả khi người đàn bà bị đánh đau nhất nhưng lại cất tiếng xin quý tòa để không li
hôn với người chồng vũ phu : “Quý tòa bắt tội con cũng được, bỏ tù con cũng
được nhưng đừng bắt con bỏ nó.”
Có thể nói đằng sau sự cam chịu, nhẫn nhục của người phụ nữ là những lí lẽ lớn
lao, người đàn bà sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì sự tồn tại của gia đình, vì sự
sống của các con.
 Vẻ đẹp phẩm chất :
o Giàu lòng yêu thương :
Vì thương chồng nên dù bị đánh đập tàn nhẫn, bị đày đọa cả về thể xác lẫn tinh
thần liên tiếp dồn dập nhưng chưa bao giờ người đàn bà này giận chồng, oán
chồng hay hận chồng. Thương chồng nên sẵn sàng chấp nhận bị đánh để giải tỏa
nỗi uất ức của chồng với cuộc đời. Người đàn bà chấp nhận bị đánh để làm vợi
bớt đi những đau khổ phiền muộn của người chồng.
Vì thương con mà cam chịu bị đánh, cam chịu những đau khổ cả về thể xác và
tinh thần mà không một lời ai oán. Niềm vui của người đàn bà, hạnh phúc của
người mẹ chính là khi nhìn thấy “đàn con chúng nó được ăn no” và “trên chiếc
thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Hóa ra
niềm vui, niềm hạnh phúc của người đàn bà này là khi mình được ăn no, không
phải là khi bản thân mình được vui vẻ mà người đàn bà này chỉ vui với niềm vui
của các con và hạnh phúc khi thấy các con được hạnh phúc.
Bởi vậy, khi người đàn bà này đau khổ nhất và nỗi đau cứa đến tận gan ruột lại
là khi chứng kiến cảnh con đánh bố và bố đánh con thì nỗi đau ấy giống như
“một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những giọt nước
mắt”. Trái tim của người đàn bà rỉ máu, tê tái nhất chính là khi bà phải chứng
kiến hai người mà mình sẵn sàng hi sinh lại trở thành kẻ thù của nhau. Hai
người mà bà yêu thương nhất đó là chồng và thằng Phác thì lại là hai người làm
bà đau đớn nhất.
Có nói thế ta mới cảm nhận được hết tấm lòng yêu thương vô bờ bến và sự hi
sinh của người đàn bà cho gia đình. Người phụ nữ cả đời bám biển ấy, cả đời
sống bấp bênh, lay lắt ấy nhưng chưa bao giờ và trong bất kì giây phút nào,
người phụ nữ nghĩ cho riêng mình kể cả lúc vui, buồn, hạnh phúc hay đau khổ
thì chỉ là vì gia đình, vì các con.
 Nếu như bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt lo cho con trai và con dâu
không biết “có qua được cơn đói khát này không”, mừng cho con trai lấy
vợ, điều đó cũng khẳng định niềm vui và nỗi buồn của người mẹ chính là
khi nhìn thấy con vượt qua năm đói thì người đàn bà trong Chiếc thuyền
ngoài xa cũng có những cảm xúc vui, buồn hay đau khổ cũng chỉ vì các
con.
 Mặc dù hoàn cảnh, số phận của hai người mẹ có nét khác nhau song điểm
chung giữa bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ Nhặt và người đàn bà trong
Chiếc thuyền ngoài xa lại là những người phụ nữ giàu lòng yêu thương.
Họ sẵn sàng hi sinh cho gia đình. Bởi vậy, niềm vui, niềm hạnh phúc hay
nỗi đau khổ của họ chỉ là vì các con.
o Hiểu biết sâu sắc lẽ đời :
Không chỉ là người phụ nữ giàu lòng yêu thương mà đó còn là người hiểu biết
sâu sắc lẽ đời. Bà hiểu vai trò của người đàn ông trong gia đình : “Đám đàn bà
hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong
ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa”.
Người đàn bà còn hiểu sự thay đổi trong tính cách chồng mình. Từ một người
đàn ông hiền lành, cục tính trở thành người đàn ông vũ phu, tàn độc là vì người
đàn ông này căm hận, uất ức cuộc sống nên sinh ra tiêu cực, sinh ra bế tắc.
Người đàn bà hiểu sâu sắc cái được, cái mất nên kiên quyết không li hôn bởi
nếu cam chịu số phận bất hạnh, sự thiệt thòi về mình thì sẽ tồn tại một gia đình,
các con vẫn có miếng mà ăn. Còn nếu bà thuận tình li hôn thì bản thân sẽ được
giải thoát nhưng gia đình sẽ tan vỡ và các con sẽ chết đói. Sự hiểu biết của
người đàn bà không có trong sách vở mà được đúc rút từ những trải nghiệm
thực tiễn, từ những cay đắng nghịch lý, éo le để chắt chiu niềm hạnh phúc, chắt
chiu những giá trị cuộc sống.
 Ý nghĩa của tình huống :
Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, ta thấy được ý
nghĩa của tình huống. Sự vỡ lẽ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án
Đẩu về con người và cuộc sống. Họ chợt nhận ra bản thân nhìn cuộc sống còn
đơn giản, chưa thấu đáo.
o Vỡ lẽ về con người:
Họ đã thấy được người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, giàu lòng yêu thương và đó
là người đàn bà hiểu biết sâu sắc lẽ đời. Đằng sau vẻ thô kệch, xấu xí tưởng
chừng là thô vụng ấy lại là một trái tim ấm áp, nhân hậu, giàu đức hi sinh. Đằng
sau con người tưởng thất học, lam lũ, cả cuộc đời chỉ biết bám biển, cả cuộc đời
tưởng như chỉ biết đến sóng gió, đến đói nghèo, đến miếng cơm manh áo hàng
ngày thì người lại trăn trở với lẽ được - mất, với hạnh phúc - đau hổ để tồn tại,
để mưu sinh.
Họ vỡ lẽ về hành động của người đàn ông, một con người vừa là tội nhân vừa là
nạn nhân. Người đàn ông là người chồng vũ phu, đánh đập người vợ một cách
tàn độc và hành hạ người vợ về tinh thần. Những trận đánh liên tiếp : “Ba ngày
một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Không chỉ đánh vợ mà người đàn ông
còn đánh con. Tội của người chồng là tội bạo hành gia đình.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu khi nghe câu chuyện của
người đàn bà hàng chài với những cắt nghĩa đầy đủ thì chợt nhận ra người đàn
ông chính là nạn nhân đáng thương của đói nghèo, thất học và quẫn bách. Làm
quần quật mà vẫn không đủ an vì thế sinh ra tiêu cực, hận thù với cuộc đời.
Cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn với những lo toan đè nặng đã khiến người đàn
ông hiền lành biến thành kẻ tội đồ với chính vợ và con.
Họ cũng hiểu và lí giải được cả hành động của thằng Phác. Bề ngoài rất vô đạo
đánh trả bố, chuẩn bị dao găm để đâm bố nhưng bên trong thì lại là một đứa con
yêu mẹ, thương mẹ nên muốn bảo vệ mẹ.
o Vỡ lẽ về cuộc sống nhiều chiều:
Người nghệ sĩ và chánh án Đẩu phát hiện nhiều chiều của cuộc sống. Đằng sau
cái đẹp, sự tuyệt thiện, tuyệt mĩ của thiên nhiên “cảnh đắt trời cho” là cái xấu,
cái ác trong cảnh bạo lực trong gia đình người đàn bà hàng chài. Đằng sau cái
xấu, cái ác, sự đen tối lại tỏa sáng cái đẹp và đó chính là phẩm chất của con
người. Người đàn ông dù đánh vợ vũ ohu, tàn độc nhưng vẫn là người đàn ông
có trách nhiệm với vợ con. Người đàn bà hàng chài xấu xí, thô kệch nhưng vẫn
là người cam chịu, nhẫn nhục, giàu lòng yêu thương, hiểu biết sâu sắc lẽ đời.
o Vỡ lẽ về căn nguyên tội ác:
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng vỡ lẽ căn nguyên tội ác. Tội ác này không phải
là từ phía địch, cũng không phải là do ma men dẫn đường mà do chính cuộc
sống tạo nên. Vả lại, vốn dĩ người đàn ông bản chất là hiền lành nhưng cục tính.
Vậy nên căn nguyên tội ác này là do dòng đời xô đẩy, do sự thất học, tăm tối,
nghèo đói khiến người đàn ông tha hóa.
o Vỡ lẽ về giải pháp xã hội:
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng vỡ lẽ về giải pháp xã hội. Lúc đầu, chánh án
Đẩu và nghệ sĩ Phùng đều nghĩ li hôn sẽ là giải pháp tốt nhất của người đàn bà
nhưng đến khi hiểu ra nếu li hôn thì người đàn bà sẽ đánh mất một gia đình, gia
đình không còn chỗ để nương tựa thì giải pháp cuối cùng : Chỉ có cách mạng
mới mang đến cho sự đổi thay, đẩy lùi được thất học, đói nghèo.
o Vỡ lẽ về cuộc đời và trách nhiệm của người nghệ sĩ:
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã vỡ lẽ về cuộc đời và trách nhiệm của người
nghệ sĩ, không thể nhìn từ xa cũng không thể nhìn cuộc sống một cách hời hợt
mà người nghệ sĩ phải dấn thân, nhập thân để hiểu giá trị đích thực của cuộc
sống.
 Tình huống một chuyến đi : Tình huống phải hoàn thành bộ lịch theo
yêu cầu của trưởng phòng là chụp bức tranh cảnh biển nhưng chuyến đi
lại khiến Phùng vỡ lẽ, nghệ thuật phải gắn liền với con người, phải gắn
liền với cuộc sống mặc dù cuộc sống chất chứa biết bao nghịch lý. Và kết
thúc chuyến đi ấy, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã chụp một tấm ảnh
để đưa vào bộ lịch năm ấy.

Đề bài : Cảm nhận về đoạn văn sau :


Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô
kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt
và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong
như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng
bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ
lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới
ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước
sâu vào phía trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn
màu vàng tươi và to lớn gấp đôi một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt
tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn bà đứng lại, ngước mắt nhìn
ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay
lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp
mắt nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một
chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau
họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách
dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở
hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền
rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết
hết đi cho ông nhờ!".
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng,
không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xẩy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi
cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc
máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác -
thằng bé trên rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ
chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy
tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho tôi gọi nó vẫn
không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng
rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc
này tôi biết là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không
biết làm thế nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung
chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám
lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên. Lão đàn ông định giằng
lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng cánh cho thằng bé
hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi
về phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng
khum khum và vạm vỡ càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang
đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ bát để lại những vết chân to và sâu
trên bãi cát hoang vắng.
Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô
cùng xấu hổ, nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm
chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.
Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào
người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những giòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt
người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ
chằng chịt.”
Bài làm
I. Mở bài :
Cách 1 : Puskin đã từng viết : “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ
sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác
phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi
trong trái tim bạn đọc về số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái
trong một gia đình hàng chài. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền
trong sương sớm là hiện thực cuộc sống với những nỗi éo le. Trong đó, đoạn
văn để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về số phận của người đàn bà
hàng chài chính là :
Cách 2 : Grandi từng khẳng định : “Không có nghệ thuật nào là không có hiện
thực”. Hơn bất cứ một loại hình nghệ thuật nào, văn học gắn chặt với hiện thực
cuộc sống và hút mật ngọt từ nguồn sống dồi dào đó. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu vốn là người luôn trăn trở về thế sự, về cuộc đời về hiện thực cuộc sống
muôn màu. (Bởi vậy, những sáng tác sau năm 1975 hướng về những vấn đề rất
đỗi đời thường, bình dị thậm chí là những góc khuất trong cuộc sống ( hoặc
thấm chí là những mảng màu đen tối của cuộc sống)). Truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” đã đem đến một hiện thực qua lăng kính của người nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong sương
sớm là hiện thực cuộc sống với những nỗi éo le. Trong đó, đoạn văn để lại trong
lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về số phận của người đàn bà hàng chài chính là
: ( Trích đoạn văn )
Cách 3 : Ai đó đã từng ví văn học và cuộc sống như thần Ăng Tê và Đất Mẹ.
Thần trở nên vô địch khi đặt hai chân lên Đất Mẹ cũng như văn học chỉ cường
tráng và dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực cuộc sống. Nhà văn Nguyễn
Minh Châu vốn là người trăn trở về thế sự, về cuộc đời, về hiện thực cuộc sống
muôn màu muôn vẻ. Bởi vậy, những sáng tác sau năm 1075 hướng về những
vấn đề rất dỗi đời thường, bình dị thậm chí là những góc khuất của cuộc sống
( hoặc thậm chí là những mảng màu đen tối của cuộc sống). Truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã đem đến một hiện thực qua lăng kính của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong
sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một
gia đình hàng chài. Trong đó, đoạn văn để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu
sắc về số phận của người đàn bà hàng chài ấy chính là : ( Trích đoạn văn )
II. Thân bài :
 Khái quát :
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết vào năm 1983. Đây là giai đoạn
sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm in đậm phong cách tự sự,
triết lí mang chất liệu hiện thực của cuộc sống đời thường. Với ngôn từ dung dị,
truyện kể lại chuyến đi thực tế của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những
chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng
phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đã đi tới một vùng biển từng là chiến
trường cũ của anh trong những năm chống Mỹ. Sau một tuần phục kích, Phùng
đã bắt gặp một “cảnh đắt trời cho” nhưng đằng sau cảnh đẹp và rất đỗi nên thơ
ấy lại là hiện thực đen tối đầy bi kịch của gia đình người đàn bà hàng chài.
Đoạn văn trên chính là tình huống ngoài bãi biển, sau phát hiện thứ nhất là cảnh
“bức tranh mực Tàu của danh họa thời cổ” thì người nghệ sĩ lại tiếp tục phát
hiện cảnh bạo lực diễn ra trong gia đình của người đàn bà mà cả cuộc đời bám
biển, cả cuộc đời phải đối diện với sóng gió của biển khơi.
1. Luận điểm 1 : Sự xuất hiện đầy ám ảnh của người đàn ông và người
đàn bà
 Sự xuất hiện của người đàn bà
Ấn tượng đầy ám ảnh của người đọc khi bắt gặp chân dung của người đàn bà : “
trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn
với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm
thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Với nghệ thuật
miêu tả tỉ mỉ, phép liệt kê tái hiện một cách chân thực chân dung người đàn bà
thô kệch, cao lớn, xấu xí. Một người đàn bà cả cuộc đời bám biển, in hằng dấu
vết của cuộc sống bấp bênh, lênh đênh trên biển khơi. Đó là cuộc sống rất đỗi
gian truân, nhọc nhằn
o Bình :
Không phải là vẻ ngoài xơ xác : “Quần áo rách tả tơi như tổ đỉa”, không phải
là sự biến dạng đến mức : “gầy sộp”, “chỉ còn hai con mắt” vì đói khát mòn
mỏi mà ở đây chân dung người đàn bà cao lớn, thô kệch và mệt mỏi vì phải kéo
lưới, một người đàn bà vùng biển luôn phải đối mặt với những biến động của
sóng gió biển khơi. Nhà văn Kim Lân qua chân dung người phụ nữ để tái hiện
chân thực cảnh ngộ của nạn đói thê thảm. Còn với nhà văn Nguyễn Minh Châu
lại xoáy sâu vào khám phá và phát hiện qua chân dung của người đàn bà hàng
chài là nạn nhân của cuộc sống bạo hành.
 Sự xuất hiện của người đàn ông
Sự xuất hiện của người đàn ông được tái hiện cụ thể : “Tấm lưng rộng và cong
như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát bước từng
bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ
lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới
ướt sũng của người đàn bà”. Với phép so sánh cùng bút pháp miêu tả, nhà văn
Nguyễn Minh Châu đã khắc họa đường nét của người đàn ông ở mái tóc “tổ
quạ”, ở tấm lưng “rộng”, ở hàng lông mày “cháy nắng” và hai coc mắt “độc
dữ”. Tất cả hiện lên hình ảnh một người chèo lái con thuyền, một người là trụ
cột cho cả gia đình, một người phải đối mặt với cuộc sống vất vả, bươn trải cho
nên nhìn đời bằng ánh mắt của sự uất ức và căm hận
o Bình :
Khác với vẻ ngoài của anh Tràng :“dáng đi ngất ngưởng, quai hàm bạnh ra,
lưng to như lưng gấu”, một vẻ ngoài tuy thô kệch xấu xí nhưng ẩn chứa trái tim
nhân hậu, giàu lòng yêu thương. Kim Lân đã khắc họa một anh Tràng rất hào
hiệp, sẵn sàng cưu mang người phụ nữ xa lạ trong tình cảnh thê thảm của thế
đói. Thì nhà văn Nguyễn Minh Châu lại khắc họa chân dung của người chồng
với vẻ độc ác, cục súc vì thế mà hành xử tàn nhẫn với chính người vợ và người
con – những người lẽ ra lão phải bảo vệ và che chở cho họ.
2. Luận điểm 2 : Cảnh bạo lực diễn ra trong gia đình nhà người đàn bà
hàng chài
 Cảnh người chồng đánh đập vợ dã man
Đằng sau cảnh con thuyền đi trong biển sương sớm đẹp như trong mơ, người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng bàng hoàng, ngỡ ngàng khi chứng kiến cảnh bạo lực
diễn ra trong gia đình người đàn bà hàng chài. Cảnh người chồng đánh vợ :
“dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão “vừa đánh vừa
thở hồng hộc”, đánh bằng tất cả sức lực, bằng tất cả niềm căm hận. Không chỉ
hành hạ về thể xác mà còn tra tấn về cả tinh thần với những lời nguyền rửa độc
địa : “Mày chết đi cho ông nhờ”. Với bút pháp trần thuật xen lẫn miêu tả cảnh
bạo lực được tái hiện rất đỗi chân thực, cụ thể. Ta cảm nhận hết được sự hành
hạ tàn độc, dã man của người chồng đối với vợ. Nhưng dường như lúc đánh vợ
cũng là lúc đau đớn nhất, bế tác và bất lực nhất.
o Bình :
Thời trai trẻ, người đàn ông này “hiền lành nhưng cục tính” nhưng vì cuộc
sống mưu sinh của người phải chèo lái con thuyền giữa phong ba bão táp của
biển khơi, của người trụ cột phải lo miếng ăn cho cả gia đình trên dưới chục đứa
con. Cuộc sống khổ cực nhọc nhằn ấy, khiến người đàn ông trở nên phẫn uất,
tiêu cực sinh ra tàn độc đến như vậy. Người đàn ông ấy đã trút tất cả những đau
đớn của cuộc đời lên người đàn bà đáng thương bằng những trận đòn đau đớn
và những lời nguyền rủa độc địa.
 Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục
Người đàn bà cam chịu nhẫn nhục trước những trận đánh mà không hề kêu
khóc, van xin, không chống trả cũng không hề trốn chạy... người đàn bà cam
chịu những trận đánh của chồng cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng” nhưng không hề oán hận chồng, không hề có ý định trả thù chồng vì lẽ
người đàn bà này hiểu nỗi khổ của người đàn ông khi phải gánh vác cả một gia
đình trên dưới chục miệng ăn, hiểu sự uất ức của người chồng khi làm việc
chăm chỉ mà vẫn không đủ ăn.
Bởi vậy, người đàn bà này cam chịu nhẫn nhục không phải vì hèn kém, nhu
nhược, không phải vì phó mặc, buông xuôi mà người đàn bà này hiểu biết sâu
sắc lẽ đời và giàu lòng yêu thương.
 Cảnh con đánh bố vì bênh vực mẹ :
Không chỉ vậy, cảnh bạo lực diễn ra trong gia đình người đàn bà còn là cảnh
con đánh bố. Phép trần thuật xen lẫn nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, nhà
văn đã miêu tả cảnh thằng Phác lao tới bố nó : “Như một viên đạn trên đường
lao tới đích đã nhắm... nó giằng chiếc thắt lưng, dướn thẳng người vung chiếc
khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng của người đàn ông”.
Hành động của thằng Phác dứt khoát , rắn rỏi, quả quyết. Nó chiến đấu với
chính người bố của mình để bênh vực mẹ.
o Bình :
Thoạt đầu, ta tưởng hành động của thằng Phác là vô đạo, là bất hiếu, là ngỗ
ngược khi nó đánh bố nó. Nhưng ngẫm nghĩ kĩ lại thằng con có hiếu vì thương
mẹ bị đánh đập dã man mà nó bênh vực mẹ và trả thù bố. Cho nên người đọc có
thể hoàn toàn hiểu được và đồng cảm với hành động rất đỗi nghịch lí của cậu
bé.
 Cảnh bố đánh con :
Cảnh bố đánh con “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát khiến thằng
nhỏ ngã dúi xuống đất”. Người bố đánh con một cách ác độc, đánh con mà
không hề ân hận hay nuối tiếc. Sự phẫn uất của lão đàn ông không chỉ trút lên
vợ mà còn trút lên con.
Dường như, việc đánh con là để giải tỏa những phẫn uất phiền muộn trong lòng
lão. Bởi vậy không chỉ nguyền rủa, đay nghiến những người lão yêu thương mà
lão còn ra tay rất tàn độc với họ.
 Tâm trạng đau khổ của người đàn bà :
Tâm trạng người đàn bà xấu hổ, đau đớn, nhục nhã “miếng mếu máo, chắp tay
vái thằng bé, vái lấy vái để”. Với nghệ thuật miêu tả chân thực, sống động mà
nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khắc họa dáng vẻ và điệu bộ đáng thương, tội
nghiệp của người mẹ. Người đàn bà này chưa hề biết khóc khi người chồng
đánh đập dã man và cũng chưa từng biết khóc khi bị người đàn ông sỉ vả,
nguyền rủa nhưng lại khóc khi chứng kiến cảnh con đánh bố như một kẻ thù và
bố cũng đánh con như một tội đồ.
Người đàn bà đau đớn, tê tái, cảm giác như “một viên đạn bắn qua người đàn
ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà đang rỏ xuống những
dòng nước mắt”. Nhà văn đã rất tài tình khi miêu tả nội tâm nhân vật, khi xoáy
sâu diễn tả những giằng xé day dứt, rối bời và cả nỗi niềm hoảng sợ, lo âu của
người mẹ khi phải chứng kiến cảnh hai bố con là kẻ thù của nhau và đó là điều
người đàn bà sợ hãi nhất.
o Bình :
Cùng với là những giọt nước mắt đau đớn của người mẹ, với bà cụ Tứ khi thì
“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lúc thì “bà cụ
nghẹn lời không nói được nữa, hai hàng nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”,
bà khóc vì thương con, lo cho con không biết sống sót để vượt qua nạn đói
không ? Còn với người đàn bà hàng chài thì “những giọt nước chứa đầy trong
những nốt rỗ chằng chịt” lại là niềm đau đớn vì phải chứng kiến hai người mà
bà hết lòng yêu thương, hết lòng hi sinh lại trở thành kẻ thù của nhau. Có thể
nói đó là những giọt nước mắt đầy yêu thương nhưng cũng đầy sầu tủi của
những người mẹ nhân hậu và giàu đức hy sinh.
3. Luận điểm 3 : Tâm trạng người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Đứng trước cảnh bạo lực diễn ra trong gia đình người đàn bà hàng chài, người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu cứ há mồm
ra mà nhìn”, nghệ thuật miêu tả cụ thể, chân thực tái hiện ánh mắt ngỡ ngàng
đến cao độ của người nghệ sĩ. Đó là tâm trạng bàng hoàng, choáng váng, sững
sờ của người nghệ sĩ khi tận mắt chứng kiến cảnh bạo lực diễn ra trong một gia
đình.
o Bình : ( Giải thích tâm trạng người nghệ sĩ )
Có lẽ người nghệ sĩ không thể ngờ rằng đằng sau cảnh tượng con thuyền đi
trong biển sương sớm đẹp như trong mơ là cảnh bạo lực là những bi kịch diễn ra
trong gia đình người đàn bà hàng chài. Người nghệ sĩ ngỡ ngàng vì đằng sau cái
đẹp là cái xấu và càng ngỡ ngàng hơn khi chính trong cảnh bạo lực đen tối lại
ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn con người.
Phát hiện chiều sâu: Đằng sau người đàn ông vũ phu, độc ác, chà đạp vợ con
lại là người đàn ông có trách nhiệm với gia đình, chưa bao giờ rũ bỏ vợ con.
Đằng sau người đàn bà cam chịu nhẫn nhục là người đàn bà từng trải, hiểu biết
sâu sắc giàu tình yêu thương. Đằng sau một thằng Phác vô đạp, ngỗ ngược là
một thằng Phác hiếu thảo. Từ đó, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chợt vỡ lẽ phải
nhìn cuộc sống nhiều chiều chứ không nhìn cuộc sống đơn giản, phiến diện và
phải nhìn con người toàn vẹn. Bởi vậy, nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống
thì nghệ thuật mới có ý nghĩa.
4. Luận điểm 4 : Chốt nghệ thuật :
Với nghệ thuật tạo dựng tình huống, với bút pháp trần thuật chân thực, sinh
động với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu
tính biểu cảm... Tất cả đã tạo nên vẻ đẹp của câu chuyện.

Đề bài :Cảm nhận của anh chị về đoạn văn sau :


Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi
vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.
Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái
màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng
hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét
thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn
mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn
chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
I. Mở bài
 Cách 1 :
Puskin từng viết : “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là
nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được
là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để
“tiếng lòng mình” cất lên, để “linh hồn tác phẩm” neo đậu trong trái tim của bạn
đọc về số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một gia đình
hàng chài. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong sương sớm là
hiện thực cuộc sống với những nỗi éo le. Trong đó, đoạn văn để lại trong lòng
người đọc ấn tượng sâu sắc về tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy chính là : “Không
những trong bộ lịch năm ấy...”
 Cách 2 :
Grandi từng khẳng định : “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Hơn
bất cứ loại hình nghệ thuật nào, văn học gắn chặt với hiện thực cuộc sống và hút
mật ngọt từ nguồn sống dồi dào đó. Nhà văn Nguyễn Minh Châu vốn là người
luôn trăn trở về thế sự, về cuộc đời, về hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ.
Bởi vậy, những sáng tác sau năm 1975 hướng về những vấn đề rất đỗi đời
thường, bình dị thậm chí là những góc khuất của cuộc sống. Truyện ngắn
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã đem đến một hiện thực qua lăng kính của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc thuyền trong
sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái trong một
gia đình hàng chài. Trong đó, đoạn văn để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu
sắc về tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy chính là : “Không những trong bộ lịch năm
ấy...”
 Cách 3 :
Ai đó đã từng ví văn học và cuộc sống như thần Ăng Tê và Đất Mẹ. Thần trở
nên vô địch khi đặt hai chân lên Đất Mẹ cũng như văn học chỉ cường tráng và
dũng mãnh khi gắn liền với hiện thực cuộc sống. Nhà văn Nguyễn Minh Châu
vốn là người luôn trăn trở về thế sự, về cuộc đời, về hiện thực cuộc sống muôn
màu muôn vẻ. Bởi vậy, những sáng tác sau năm 1975 hướng về những vấn đề
rất đỗi đời thường, bình dị thậm chí là những mảng màu đen tối của cuộc sống.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã đem đến một hiện thực qua lăng kính
của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Đằng sau một bức ảnh rất đẹp về chiếc
thuyền trong sương sớm là số phận đau đớn của người phụ nữ và bao ngang trái
trong một gia đình hàng chài. Trong đó, đoạn văn để lại trong lòng người đọc ấn
tượng sâu sắc về tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy chính là : “Không những trong
bộ lịch năm ấy...”
II. Thân bài
 Khái quát :
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Đây là giai đoạn
sáng tác thứ hai của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm in đậm phong cách tự sự,
triết lý mang chất liệu hiện thực của cuộc sống đời thường. Với ngôn từ dung dị,
truyện kể lại chuyến đi thực tế của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng và những
chiêm nghiệm sâu sắc của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý, trưởng
phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với
cảnh biển buổi sáng có sương mù. Phùng đã đi tới một vùng biển từng là chiến
trường cũ của anh trong những năm chống Mỹ. Sau một tuần phục kích, Phùng
đã bắt gặp một “cảnh đắt trời cho” nhưng đằng sau cảnh đẹp và rất đỗi nên thơ
ấy lại là hiện thực đen tối đầy bi kịch của gia đình người đàn bà hàng chài.
Đoạn văn trên chính là tình huống một chuyến đi và kết thúc chuyến đi, người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã hoàn thiện một bức tranh để đưa vào bộ lịch năm
ấy. Đó là bức tranh mang vẻ đẹp nghệ thuật và là bức tranh gắn liền với hiện
thực cuộc sống.
1. Luận điểm 1 : Bức tranh nghệ thuật
Bức tranh là sản phẩm của nghệ thuật nhiếp ảnh Phùng sau chuyến đi thực tế về
với miền biển, vì thế nó mang tính nghệ thuật cao : “Không những trong bộ lịch
năm ấy mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”.
Với bút pháp trần thuật xen lẫn miêu tả, tấm ảnh không chỉ có giá trị cho hiện
tại mà còn được lưu truyền mãi về sau. Không chỉ vậy, bức ảnh ấy phải rất có
giá trị và được trân trọng thì mới “được treo ở nhiều nơi”, đặc biệt nó phải là
bức ảnh đắt giá thì mới được những gia đình sành nghệ thuật yêu quý và nâng
niu như vậy. Có như vậy, ta mới cảm nhận được bức ảnh đó có giá trị vượt thời
gian, vượt không gian, mang giá trị bất tử.
 Bình :
Bởi lẽ, bức tranh đó mang vẻ đẹp toàn bích, là cảnh “đắt trời cho”, là “bức
danh họa thời cổ”. Khi đó là cảnh con thuyền tiến dần vào bờ. Hình ảnh con
thuyền ẩn hiện trong vẻ đẹp huyền ảo của “bầu sương mù trắng như sữa”, ẩn
hiện trong vẻ đẹp trong trẻo, nguyên sơ, tinh khôi của ánh ban mai. Con thuyền
tiên ảo ấy lại được chạm khắc trong đường nét, dáng vẻ của con người : “Vài
bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum đang hướng mặt vào bờ”. Chính vì thế, bức tranh có sự hòa hợp giữa
thiên nhiên và con người tạo nên một bức vẽ đẹp như thơ, như mơ trong sự tĩnh
lặng tuyệt đối.
Bức tranh đẹp đến mức cả đời người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chưa bao giờ
được chiêm ngưỡng cảnh đẹp đến như vậy. Bởi vậy, lúc đầu người nghệ sĩ
nhiếp ảnh Phùng còn lúng túng bối rối, “trái tim như có gì bóp thắt vào”. Đó là
cảm xúc của sự ngỡ ngàng, xúc động thực sự của những xao xuyến, xốn xang
trong tâm hồn. Trong khoảnh khắc ấy, người nghệ sĩ cảm giác như tâm hồn
được thanh lọc để thấy được chân lí của sự toàn thiện, thấy được khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn, của niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng người nghệ
sĩ.
Bức tranh không chỉ đẹp vì giá trị nghệ thuật mà còn vì thấm đượm chất liệu
hiện thực nóng hổi của cuộc sống, mang hơi thở của cuộc sống, toát lên vẻ đẹp
của tâm hồn của con người. Chính vì lẽ đó, bức tranh có giá trị được nâng niu
trân trọng không chỉ bây giờ mà còn mãi về sau.
2. Luận điểm 2 : Vẻ đẹp của bức tranh
 Vẻ đẹp của bức tranh với ánh ban mai
Ấn tượng đầu tiên về giá trị của bức tranh khiến người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
thấy lạ lùng đó chính là vẻ đẹp của bức tranh : “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng
nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng”.
Với bút pháp miêu tả cùng với nghệ thuật thể hiện nội tâm nhân vật, người nghệ
sĩ nhiếp ảnh Phùng như tái hiện một bức tranh trước mắt người đọc “màu hồng
hồng của ánh sương mai”. Lẽ ra là ảnh đen trắng thì chỉ có hai gam màu trắng
hoặc đen nhưng đây lại xuất hiện màu hồng của ánh ban mai. Điều đó khẳng
định vẻ đẹp của bức tranh trong trẻo, nguyên sơ, rất đỗi huyền ảo, thi vị. Chính
vì thế, đó là một “cảnh đắt trời cho”, khiến cả đời cầm máy ảnh người nghệ sĩ
chưa bao giờ chiêm ngưỡng một vẻ đẹp toàn bích đến như vậy.
 Vẻ đẹp của bức tranh gắn liền với hiện thực cuộc sống con người
Tấm ảnh không chỉ có giá trị nghệ thuật mà nó còn gắn liền với cuộc sống con
người : “Tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo
lưới suốt đêm”.
Với nghệ thuật trần thuật xen lẫn miêu tả, hình ảnh người đàn bà hiện lên vừa
chân thực, vừa giàu sức ám ảnh. Không phải là một người phụ nữ nhỏ bé, yếu
đuối mang vẻ đẹp đài các mà là “người đàn bà cao lớn, thô kệch”. Thế mới biết
người đàn bà xấu xí đến mức nào, đã thế còn “rỗ mặt”, không chỉ bất hạnh vì
xấu xí mà người đàn ấy còn sống khổ cực vì đói nghèo vì thế khuôn mặt “nhợt
trắng vì kéo lưới suốt đêm”.
 Bình :
Đằng sau chân dung người đàn bà ấy là một cuộc đời bất hạnh, một cuộc đời
cam chịu với những trận đánh dã man tàn độc của người chồng “ba ngày một
trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, một cuộc đời mưu sinh vất cả trên biển
khơi. Người đàn bà đã sống với những trận đòn roi như cơm bữa, với những lời
nguyền rủa độc địa của chồng: “Chúng mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày
chết hết đi cho ông nhờ”.
Có thế chúng ta mới cảm nhận được nghệ thuật luôn phải gắn liền với cuộc
sống, gắn liền với hiện thực con người dù hiện thực ấy xấu xa, đen tối đến như
thế nào đi chăng nữa.
3. Luận điểm 3 : Vẻ đẹp của tấm ảnh :
 Tấm ảnh mang vẻ đẹp ngợi ca con người trong chính hoàn cảnh xấu
xa đen tối nhất :
Tấm ảnh không chỉ mang giá trị nghệ thuật, không chỉ gắn với cuộc sống con
người mà mang vẻ đẹp ngợi ca con người trong chính hoàn cảnh xấu xa, đen tối
nhất: “Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn,
hòa lẫn trong đám đông”. Với nghệ thuật miêu tả và phép liệt kê nhà văn đã tái
hiện cụ thể chân thực những bước chân của người đàn bà hàng chài. Đó là bóng
dáng của một cuộc sống bình dị, thầm lặng vô danh không ai biết đến, cuộc
sống của những người phụ nữ bám biển cả đời phải đối mặt với sóng gió biển
khơi, với cuộc sống mưu sinh lam lũ, nhọc nhằn, vất vả.
Nhưng chính họ là số đông những con người đã vươn lên làm chủ cuộc sống
của chính mình bằng tình yêu thương, sự hiểu biết sâu sắc lẽ đời. Hình ảnh của
người đàn bà với bước đi chắc chắn thể hiện niềm tin của người nghệ sĩ vào sự
đổi đời của họ. Sức mạnh để họ vượt thoát khỏi cuộc sống đói nghèo tăm tối
chính là tình thương và sự hiểu biết sâu sắc lẽ đời.
o Bình :
Người đàn bà thương chồng, đồng cảm với gánh nặng mưu sinh với những lo
toan chồng chất đặt lên vai người đàn ông với người vợ còn thấu hiểu sẻ chia
với nỗi vất vả phiền muộn của người chồng với cuộc đời khi chăm chỉ, chịu
thương chịu khó mà vẫn không đủ ăn. Chính vì vậy, người đàn bà sẵn sàng chấp
nhận những trận đòn roi của chồng để giải tỏa giúp người đàn ông thoát khỏi
những phiền muộn, bế tắc, cũng vì thương con mà người đàn bà cam chịu tất cả
sự hy sinh thậm chí bị hành hạ về thể xác và tinh thần với mong muốn các con
có miếng ăn, có một gia đình để nương tựa. Người đàn bà hàng chài thương con
bởi người phụ nữ ấy chưa bao giờ sống cho bản thân mình, nghĩ cho mình.
Niềm vui hay nỗi đau khổ mà người đàn bà đều là vì các con. Hạnh phúc nhất
của người mẹ chính là khi nhìn thấy các con được ăn no và “gia đình, các con
chúng tôi được sống vui vẻ”.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phát hiện trong hoàn cảnh đen tối nhất con
người vẫn tỏa sáng vẻ đẹp của tâm hồn. Phải chăng chính vẻ đẹp ấy khiến người
nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng nhận ra được giá trị thực sự của cái đẹp, của nghệ
thuật.
 Tấm ảnh mang vẻ đẹp trong mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
sống :
Vẻ đẹp của bức tranh là vẻ đẹp của nghệ thuật gắn liền với cuộc đời và người
nghệ sĩ muốn dâng tặng cho cuộc đời những tác phẩm bất tử thì phải luôn trăn
trở với cuộc sống và nhìn cuộc đời đa chiều, nhìn con người một cách toàn vẹn
 Nghệ thuật :
Với nghệ thuật tạo dựng tình huống, bút pháp miêu tả xen lẫn trần thuật, nghệ
thuật xây dựng nhân vật ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình và biểu cảm, tất cả đã tạo
nên vẻ đẹp của đoạn văn.

Đề bài : Cảm nhận về đoạn văn sau :


Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày
cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động
biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc
chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt -
nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ
ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ
nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền
khác uống rượu... Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái
lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc
thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế
nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua
chát, - trên thuyền phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn
nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh
ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải
gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc
hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ
chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
Bài làm
I. Mở bài :
Trong đoạn văn để lại ấn tượng trong lòng người đọc sâu sắc về số phận của
người đàn bà hàng chài qua lời giãi bày tại tòa án huyện:…
II. Thân bài :
Đoạn văn trên chính là những lời đối thoại của người đàn bà hàng chài khi ở tòa
án huyện. Qua đó nhà văn khắc họa số phận đau khổ bất hạnh của người đàn bà
hàng chài và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ ấy. Đằng sau sự cam chịu, nhẫn
nhục của người đàn bà là tấm lòng giàu tình yêu thương và sự hiểu biết sâu sắc
lẽ đời.
1. Luận điểm 1 : Số phận đau khổ bất hạnh của người đàn bà hàng chài
 Khổ vì đói nghèo, túng quẫn
Ấn tượng ám ảnh khi bước vào trang văn của Nguyễn Minh Châu là số phận
đau khổ bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Khổ vì cuộc sống đói nghèo, túng
quẫn “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc
chấm muối” với bút pháp trần thuật xen lẫn miêu tả nhà văn tái hiện cụ thể chân
thực cuộc sống cơ cực, thiếu thốn, lay lắt, vất vưởng. Một cuộc sống bấp bênh
của những con người cả một đời bám biển. Không chỉ vậy vì thất học, quê mùa,
ít hiểu biết cho nên “đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật” do đó cuộc sống của gia
đình người đàn bà hàng chài lại càng đói nghèo,cùng quẫn, bế tắc. Người đàn bà
lí giải rõ cuộc sống nghèo đói còn bởi cách mưu sinh, không thể sống trên bờ vì
không nghề nghiệp phù hợp. Gia đình người đàn bà phải bám trụ với biển khơi
vì chỉ có một cách kiếm sống duy nhất là “nghề thuyền lưới vó”. Có thế người
đọc mới hình dung được cuộc sống cực khổ, bấp bênh của gia đình người đàn
bà hàng chài.
 Khổ vì bạo hành
Không chỉ khổ vì đói nghèo, cuộc sống túng quẫn người đàn bà hàng chài còn
khổ vì bị chồng bạo hành “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh.
Sau này các con lớn lên tôi mới xin lên bờ để đánh”. Qua lời trần tình mộc mạc,
bình dị ấy có thể thấy cuộc đời người đàn bà bị bạo hành thường xuyên “cứ ba
ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” và những trận đòn đầy ám ảnh của
sự tàn độc “người đàn ông rút chiếc thắt lưng lính ngụy ngày xưa mà quật tới
tấp vào lưng người đàn bà”.Về sau khi các con lớn lên tôi xin lão được lên bờ
để đánh vì không muốn các con nhìn thấy và tổn thương.
2. Luận điểm 2 : Vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài
 Cam chịu nhẫn nhục
Người đàn bà cam chịu bị đánh mà không hề kêu khó, van xin, không kháng cự,
không chống trả mà cũng không trốn chạy. Sau này, người đàn bà không xin
không bị đánh ở trên bờ tránh làm tổn thương các con, người đàn bà cũng
không muốn sau này các con hận bố.
 Giàu tình yêu thương
Ấn tượng trong đoạn văn trên là là vẻ đẹp tâm hồn giàu tình thương yêu của
người đàn bà hàng chài mà cụ thể chính là lòng thương con
Lẽ sống của người đàn bà được thể hiện cụ thể sâu sắc qua lời trần tình mộc
mạc “người đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình như ở trên đất liền được”.Qua lời giãi bày mộc mạc ấy người
đọc càng hiểu được lẽ sống của người đàn bà sẵn sàng hy sinh cho gia đình,cho
con, chấp nhận những đau đớn về thể xác mà không hề oán thán.
Niềm vui ,niềm hạnh phúc của người đàn bà chính là khi nhìn thấy gia đình
hạnh phúc “ở trên thuyền có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận,
vui vẻ”.Lời trần tình này của người đàn bà cùng nụ cười khiến cho khuôn mặt
người phụ nữ vốn xấu xí ấy chợt rạng rỡ, hạnh phúc.
o Bình :
Hóa ra hạnh phúc của người đàn bà không phải là khi không bị đánh, không
phải là khi bản thân được ăn no mà là khi thấy gia đình “hòa thuận, vui vẻ”,
“các con được ăn no”.Có thế ta mới cảm nhận được tấm lòng nhân hậu, bao
dung, sự hy sinh quên mình của người đàn bà cho cả gia đình. Người đàn bà sẵn
sàng bị đánh, bị chửi, bị bạo hành để gia đình được tồn tại, các con có miếng ăn.
 Hiểu biết sâu sắc lẽ đời :
o Vai trò của người đàn ông :
Người đàn bà hiểu được vai trò của người đàn ông “chưa bao giờ các chú hiểu
được nỗi vất vả của một người đàn bà trên thuyền mà không có đàn
ông”.Người đàn bà phải chấp nhận bám víu lấy người đàn ông man rợ,tàn bạo.
Không chỉ vậy người đàn bà ấy cần người đàn ông chèo chống phong ba cùng
làm ăn nuôi nấng “đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”
o Nỗi khổ của người đàn ông :
Không chỉ vậy người đàn bà còn hiểu nỗi khổ của người đàn ông khi gánh vác
cả một đại gia đình.Vì lẽ đó, người đàn bà chấp nhận bị đánh như là một cách
giải tỏa nỗi uất ức của chồng khi mà chăm chỉ làm lụng vẫn không đủ ăn, vẫn
không thoát được cái đói nghèo, lạc hậu.
o Hiểu được cái được, cái mất :
Điều đặc biệt,người đàn bà còn hiểu được cái được cái mất. Nếu bỏ chồng, con
cái sẽ lâm vào cảnh tan đàn xẻ nghé thậm chí bị chết đói,không có chỗ dựa,
không có cơ hội để tồn tại. Cho nên người đàn bà nhất quyết không bỏ chồng và
không chịu li hôn.Có như vậy ta mới cảm nhận được người đàn bà trải đời trải
người, sự hiểu biết sâu sắc.
3. Luận điểm 3 : Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống :
Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
mới vỡ lẽ ra cái nhìn về cuộc sống và con người.
Trước hết, phải nhìn cuộc sống đa diện nhiều chiều, đừng nhìn bề ngoài mà
đánh giá bản chất và cũng không nhìn một cách phiến diện.Đằng sa0u vẻ đẹp
của thiên nhiên “cảnh đắt trời cho” là cảnh bạo lực xấu xa đen tối. Đằng sau
cuộc sống nghèo nàn, quẫn bách đầy bi kịch trong gia đình người đàn bà hàng
chài là vẻ đẹp tỏa sáng của tâm hồn con người.
Hơn nữa, người nghệ sĩ có cái nhìn đầy đủ và toàn diện về con người. Đằng sau
vẻ cam chịu nhẫn nhục là người đàn bà cứng cỏi mạnh mẽ, bản lĩnh. Đằng sau
vẻ ngoài thô kệch,vụng về là người đàn bà với trái tim ấm áp, giàu tình thương.
Đằng sau người đàn bà thất học, quên mùa là người đàn bà hiểu biết sâu sắc lẽ
đời.Bởi vậy nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống nếu thoát ly cuộc sống nghệ
thuật thực sự sẽ chết yểu.

Đề bài : Trong phần đầu đoạn trích “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu, nhà văn đã miêu tả hai trạng thái cảm xúc của nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng. Phân tích tâm trạng của Phùng trong đoạn trích, từ đó nhận
xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống của Nguyễn
Minh Châu
Bài làm
 Luận điểm 1 : Tâm trạng của Phùng khi chiêm ngưỡng con thuyền
trong buổi sớm mai
o Hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc :
Sau nhiều lần phục kích, Phùng bắt gặp hình ảnh một cảnh “đắt trời cho”, tâm
trạng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đầy xúc động. Đó là một bức tranh
con thuyền tiến dần vào bờ trong bảng lảng của màn sương : “Mũi thuyền in
một nét mơ hồ vào bầu sương mù trắng như sữa”. Con thuyền đi trong ánh ban
mai trong trẻo, nguyên sơ, tinh khôi. Đặc biệt, bức tranh có sự hòa hợp giữa
thiên nhiên và con người tạo nên một bức vẽ như được khắc thành hình hài,
đường nét.
o Tâm trạng của Phùng :
Trước cảnh “đắt trời cho” ấy, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cảm thấy thực sự
“bối rối, trong trái tim như có cái gì thắt vào”. Với nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khẳng định cảm xúc ngỡ ngàng, say
đắm, một cảm giác của xao xuyến, rung động đến tột đỉnh. Đó là khoảnh khắc
dường như con tim tan chảy trong sự xúc động đến thực sự khi đứng trước một
vẻ đẹp vừa nên thơ, vừa như mơ - một vẻ đẹp mà suốt cả cuộc đời cầm máy ảnh
chưa bao giờ Phùng được chiêm ngưỡng.
“Bức tranh mực tàu của danh họa thờ cổ” khiến người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
vừa “bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào vừa tưởng như chính mình vừa khám
phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”. Với nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh
Châu đã khẳng định sự phát hiện của chính người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng khi
chiêm ngưỡng bức tranh là tìm thấy “chân lí của sự toàn thiện”. Đó là một vẻ
đẹp hoàn hảo vì bức tranh đó mang vẻ đẹp huyền ảo, nên thơ vừa đậm chất lãng
mạn, thi vị, vừa trong trẻo, nguyên sơ, tinh khôi, vừa có cả sự hòa hợp giữa
thiên nhiên và con người. Đó còn là một bức tranh “toàn thiện” từ màu sắc,
đường nét, hình ảnh. Đó là vẻ đẹp giàu tính lí tưởng.
Chính vì vậy, bất giác người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng có cảm giác như “khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Khoảnh khắc mà tâm hồn
như được thanh lọc, gột rửa, không vướng những bon chen của cuộc sống trần
tục, không vướng những suy tư đời thường mà cảm giác tâm hồn thanh thản,
nhẹ nhõm. Đó là chiêm ngưỡng cái đẹp từ vẻ đẹp của ngoại cảnh đến cái đẹp
của lòng người. Tâm hồn trong sáng, hướng thiện, hướng đến những gì cao cả
thiêng liêng.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng ẩn chứa quan niệm của Nguyễn
Minh Châu và cái đẹp : “Cái đẹp của nghệ thuật đến từ tự nhiên “đắt giá”, làm
rung động lòng người và người nghệ sĩ phải là người phát hiện và mang cái
đẹp đến cho đời.
 Luận điểm 2 : Tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cảnh bạo lực
trong gia đình người đàn bà hàng chài
Nhưng khi chiếc thuyền lại gần bờ, Phùng đã chứng kiến cảnh lão đàn ông hùng
hổ đánh vợ, khiến anh “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn” và “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
o Cảm xúc :
Phùng không thể ngờ, đằng sau một cảnh đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, một
cảnh đắt trời cho là cảnh bạo lực đầy bi kịch trong gia đình người đàn bà hàng
chài. Phùng “kinh ngạc” khi nhìn thấy cảnh lão đàn ông “rút thắt lưng của lính
ngụy mà đánh tới tấp vào lưng người đàn bà”. Phùng còn kinh ngạc hơn khi lão
đánh vợ bằng tất cả sức lực “vừa đánh, vừa thở hồng hộc”. Phùng “há hốc
mồm ra nhìn” khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ trong sự nguyền rủa
độc địa : “Chúng mày chết đi cho ông nhờ! Chúng mày chết hết đi cho ông
nhờ”. Dường như, lão đàn ông đã trút hết tất cả niềm căm hận, uất ức vào người
đàn bà đáng thương. Lão hành hạ ngay cả người vợ đang đồng cam cộng khổ,
chia sẻ buồn vui với chính mình. Lão đày đọa người mà lẽ ra lão phải yêu
thương nhất, phải bao bọc, chở che. Không chỉ vậy, lão còn hành hạ người đàn
bà về cả thể xác lẫn tinh thần.
Chính vì thế, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng
ấy thì vô cùng “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra
mà nhìn”. Với nghệ thuật miêu tả cử chỉ, hành động để khắc họa nội tâm nhân
vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã tái hiện cụ thể, chân thực tâm trạng sững sờ,
ngỡ ngàng, bàng hoàng đến mức tột đỉnh của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
Phản xạ ban đầu của người nghệ sĩ là sự choáng váng, kinh ngạc.
o Hành động :
Từ tâm trạng : “Kinh ngạc”, Phùng đã có hành động “vứt chiếc máy ảnh xuống
đất, chạy nhào tới”. Với phép liệt kê, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả
hành động nhanh, dứt khoát của Phùng. Mặc dù là người ngoài cuộc nhưng
Phùng không hề dửng dưng, bàng quan trước cảnh tượng đầy nghịch lý, trớ trêu
đang diễn ra trước mắt. Phùng sẵn sàng ra tay để ngăn cản người đàn ông và sẵn
lòng cứu giúp người đàn bà. Qua đó, ta cảm nhận được tấm lòng nhân hậu yêu,
ghét rõ ràng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Người nghệ sĩ không cam chịu
bất công, không thể đứng yên khi nhìn cảnh chướng tai gai mắt của người đàn
ông đánh vợ tàn độc, hành hạ về cả thể xác và tinh thần.
Qua hành động này, ta càng cảm nhận trái tim của người nghệ sĩ yêu lẽ phải,
nhạy cảm với mọi buồn, vui, đau khổ trong cuộc sống. Bởi thế, người nghệ sĩ
không chỉ rung động với cái đẹp của thiên nhiên của ngoại cảnh mà còn trắc ẩn
với những nỗi đau khổ của cuộc đời và đó là nghịch lý của cuộc sống tồn tại
như sự vận động tất yếu của cuộc đời
 Nghệ thuật :
Hai chi tiết thể hiện tâm trạng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được xây
dựng trong tình huống mang nét khám phá, trong nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật, trong bút pháp trần thuật chân thực, sinh động, ngôn ngữ giàu hình
ảnh, giàu tính biểu cảm.
 Luận điểm 3 : Nhận xét về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực
cuộc sống của Nguyễn Minh Châu
Qua hai chi tiết trên, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khẳng định mối quan hệ
giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Nghệ thuật không chỉ là cái đẹp của
thiên nhiên mà nghệ thuật chỉ thực sự có ý nghĩa khi gắn liền với cuộc sống, dẫu
cuộc đời còn hiển hiện biết bao trái ngang, đen tối. Thông điệp mà nhà văn
Nguyễn Minh Châu gửi gắm chính là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Từ đó, chúng ta cảm nhận rõ hơn sứ mệnh của người nghệ sĩ. Họ nhìn cuộc đời
không thể đơn giản phiến diện một chiều mà nhìn cuộc sống với đầy đủ các góc
cạnh. Đằng sau vẻ đẹp nên thơ và thi vị của thiên nhiên. Là cảnh xấu xa, đen tối
đầy bất công, đầy nghịch lý trong gia đình người đàn bà hàng chài. Nhưng
chính trong cuộc sống xấu xa, đen tối ấy, lại tỏa sáng vẻ đẹp của nhân cách con
người.
Qua câu chuyện này, người nghệ sĩ chợt vỡ lẽ về cách nhìn nhận con người.
Phải nhìn con người đầy đủ, toàn vẹn, không nhìn hiện tượng mà đánh giá bản
chất. Đằng sau một người đàn ông vũ phu, tàn độc lại là người đàn ông có trách
nhiệm với gia đình. Đằng sau người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, người đàn bà
thất học quê mùa lại là người đàn bà giàu tình yêu thương và hiểu biết sâu sắc lẽ
đời. Đằng sau một thằng Phác ngỗ ngược, vô đạo là một đứa trẻ có hiếu với mẹ
khi biết bảo vệ bênh vực mẹ.
Bởi vậy, người nghệ sĩ phải luôn gắn bó với cuộc sống thì mới có thể có cái
nhìn đầy đủ, toàn diện về con người, về cuộc đời.
 Nâng tầm :
o Tác phẩm : ( Với VCAP, Vợ Nhặt )
Cùng viết về số phận con người, Kim Lân trăn trở với thân phận con người
trong nạn đói thê thảm. Tô hoài lại hướng lòng mình về với thân phận con
người trong cuộc sống khổ cực bởi sự bóc lột của cường quyền thì nhà văn
Nguyễn Minh Châu lại khám phá số phận của người đàn bà hàng chài trong nạn
bạo hành của gia đình. Hiện thực cuộc sống rất đỗi đời thường nhưng đầy
nghịch lí, éo le. Chính vì thế, tác phẩm mang dấu ấn riêng không hề lặp lại.
o Tác giả :
Phải là nhà văn luôn trăn trở với thế sự, với cuộc đời. Phải là người nghệ sĩ luôn
nhạy cảm với mọi buồn vui với những nghịch lí éo le của cuộc sống thì mới có
những trang văn thấm đượm biết bao suy tư về con người và cuộc đời như
những trang văn trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
o Bài học của người nghệ sĩ
“Văn chương không có gì riêng sẽ không là gì cả”, người nghệ sĩ trong hành
trình sáng tạo nghệ thuật luôn phải khám phá những hiện thực mới mẻ và được
thể hiện trong những phương tiện nghệ thuật đặc thù. Người đọc khi tiếp nhận
tác phẩm cũng phải khám phá được những nét độc đáo ấy để tác phẩm không bị
băng họa bởi thời gian.
III. Kết bài :
Khép lại tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”, điều lắng lại trong lòng người đọc
chính là tâm trạng của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và hiện thực
đen tối trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua đó, nhà văn Nguyễn
Minh Châu đã khẳng định sứ mệnh của người nghệ sĩ luôn gắn bó với cuộc đời.
Nghệ thuật chỉ có giá trị khi thực sự khám phá và phản ánh hiện thực cuộc sống.
Điều đó khiến nghệ thuật mãi bất tử với thời gian.

Đề nhận xét của Chiếc thuyền ngoài xa


 Nhận xét về giá trị nhân đạo của tác phẩm :
Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên, người đọc cảm nhận
rất rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Giá trị nhân đạo là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm văn học được
tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của con người,
những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự
nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn và khả năng vươn dậy, niềm
tin vào sự đổi đời dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã
đồng cảm với cuộc đời của người lao động sau chiến tranh. Nhà văn cảm
thương cho số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài khi bị chồng bạo hành
về cả thể xác và tinh thần. Không chỉ vậy, nhà văn còn thể hiện nỗi lo âu, khắc
khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm của con người.
Nhà văn còn lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình đang diễn ra trong
xã hội, phê phán, lên án hành động vũ phu thô bạo của người chồng đối xử với
vợ, con.
Không chỉ vậy, nhà văn còn khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp khuất lấp của người đàn
bà hàng chài và đạt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của chị. Đó là vẻ đẹp của
lòng vị tha, sự thấu hiểu lẽ đời và tình mẫu tử sâu nặng.
 Nhận xét về cảm hứng thế sự của Nguyễn Minh Châu :
Qua hình tượng người đàn bà trong đoạn trích trên, nhà văn Nguyễn Minh Châu
đã gửi gắm cảm hứng thế sự. Đó là những dự cảm âu lo của nhà văn về thân
phận con người đã thôi thúc Nguyễn Minh Châu hướng đến thông điệp : “Cuộc
sống lạc hậu cùng với những mưu sinh nhọc nhằn đã dẫn đến số phận đầy bi
kịch của người dân lao động”.
Người đàn bà hàng chài không có tên bởi lẽ đó là hình tượng tiêu biểu cho số
phận đau khổ, bất hạnh của những người phụ nữ bám biển. Họ không chỉ phải
chịu đựng cuộc sống đói nghèo, không chỉ phải chấp nhận cuộc sống bế tắc với
tương lai mờ mịt mà họ còn là nạn nhân của cuộc sống bạo hành về thể xác và
tinh thần. Nhà văn không tô hồng hiện thực mà con người hiện lên chân thực
đến trần trụi trong một cuộc sống đói nghèo đến tăm tối.
Nhà văn đã khám phá ở một tầng sâu hơn trong những bí ẩn của con người chứa
đựng những vẻ đẹp khuất lấp, bất ngờ. Đằng sau vẻ xù xì , thô mộc là những hạt
ngọc đáng quý của con người. Đằng sau vẻ cam chịu nhẫn nhục của người đàn
bà là một bản lĩnh cứng cỏi khi quyết định gắn bó cả cuộc đời với người đàn
ông vũ phu tàn độc. Đằng sau chân dung thô kệch tưởng rất vụng về ấy là trái
tim ấm áp, giàu yêu thương. Đằng sau vẻ lam lũ, quê mùa, thất học ấy lại là
người hiểu biết sâu sắc lẽ đời.
Nguyễn Minh Châu đã có những cảm hứng thế sự sâu sắc khi có những phát
hiện về con người và cuộc đời. Ông luôn có niềm tin vào sự vượt thoát của con
người trong chính nghịch cảnh éo le, đen tối. Bởi vậy, Nguyễn Minh Châu được
mệnh danh là người mở đường tiên phong nhất trong văn học ta hiện nay
 Nhận xét về thông điệp mà nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi gắm qua
đoạn trích :
Qua phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được thể hiện trong đoạn
trích trên, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm một thông điệp : Nghệ
thuật phải luôn gắn bó với cuộc đời, không được xa rời cuộc đời.
Đằng sau vẻ đẹp nên thơ của thiên nhiên là hiện thực cuộc sống với những éo le
nghịch lý trong gia đình người đàn bà hàng chài. Nhưng chính trong cuộc sống
đen tối ấy nhà văn lại phát hiện sự tỏa sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.
Đằng sau sự cam chịu nhẫn nhục của người đàn bà hàng chài là sự cứng cỏi đầy
bản lĩnh. Đằng sau vẻ ngoài thô kệch tưởng rất đỗi vụng về lại là trái tim ấm áp
giàu yêu thương. Đằng sau sự lam lũ thất học quê mùa lại là sự hiểu biết sâu sắc
lẽ đời. Đằng sau một người đàn ông vũ phu, tàn độc lại là người đàn ông rất có
trách nhiệm với gia đình. Đằng sau một thằng Phác vô đạo, tưởng là bất hiếu lại
là một người con hiếu thảo với mẹ biết bảo vệ và bệnh vực mẹ.
Chính bởi lẽ đó, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khẳng định thông điệp người
nghệ sĩ phải nhìn cuộc sống đa chiều và nhìn người toàn vẹn. Vì thế, tác phẩm
mới có giá trị đích thực.

You might also like