You are on page 1of 108

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI TỐT NGHIỆP:

BÀI CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU


GV: Nguyễn Thị Nhung
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN.
1.Tác giả: Nguyễn Minh Châu ( 1930- 1989) quê ở Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của nền
văn học VN thời kỳ đổi mới. Ông là một nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông
đậm chất tự sự- triết lí, ngôn ngữ dung dị đời thường.
2.Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã
đi qua được 8 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa
nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Tác phẩm nằm
trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số
phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
2.2.Tóm tắt
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung
(cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày
“phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một
chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh
đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập
người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau,
cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh án
Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây,
người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu.
Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng
biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về
“thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên
cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người
đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
2.3. Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện gắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đặt
cho truyện ngắn nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” thật sâu sắc, một nhan đề đa nghĩa:
Đây là hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện trong phần mở đầu chuyện ngắn, theo nghệ sĩ Phùng,
đó là một cảnh “đắt” trời cho, là vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”, khiến cho Phùng cảm động, tưởng
như chính mình “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc
trong ngần của tâm hồn”. Như vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng về nghệ thuật, là vẻ đẹp
cuộc sống.
Theo diễn biến truyện: Chiếc thuyền ngoài xa vào gần bờ, một người đàn ông và một người
đàn bà rời thuyền. Người đàn bà đi vào bãi xe tăng hỏng chờ đợi, người chồng đánh vợ một cách
tàn bạo, người vợ chấp nhận với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục”
Người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết. Thật ngạc nhiên, người đàn bà “lạy
quí toà” và van xin: “bắt tội”, “bỏ tù” cũng được nhưng “đừng bắt con bỏ nó”. Sự thật được giải
đáp khi người đàn bà kể lại câu chuyện về cuộc đời mình. Người đàn bà chấp nhận những trận đòn
một cách “tự nguyện” là bởi ở thuyền “phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”, bởi
đàn bà ở thuyền “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Như vậy, “Chiếc thuyền ngoài
xa” còn là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh tồ của gia đình hàng chài với
cuộc sống bấp bênh, đầy khó khăn, bất trắc.
Nếu chiếc thuyền ấy không vào gần bờ, không có câu chuyện của người đàn bà trên thuyền
kể lại, chỉ nhìn “chiếc thuyền” khi nó ở “ngoài xa” thì làm sao thấu hiểu sự thật? Đây chính là tư
tưởng cốt lõi của truyện ngắn: Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái nhìn toàn diện về cuộc
sống, cần có một cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất thật về cuộc sống và con
người.
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành tấm ảnh đẹp, treo ở nhiều nơi, nhất là ở trong các gia
đình sành nghệ thuật, nhưng có ai hiểu được câu chuyện con người trên chiếc thuyền ấy. Chỉ có
nghệ sĩ Phùng, mỗi khi ngắm nhìn tấm ảnh bao giờ cũng “thấy người đàn bà ấy dang bước ra khỏi
tấm ảnh”, một người đàn bà lam lũ, cam chịu, giàu tình thương, lòng vị tha. Đó cungz là thông điệp
của tác giả gửi tới người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc đời

Chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thụât, đó là thứ nghệ thụât đạt tới sự
toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh
lọc. Nhưng khi về gần, chiếc thuyền đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của
những éo le, xấu xa trong cuộc sống. Người nghệ sĩ đã vô cùng kinh ngạc khi chứng kiến bước ra từ
chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là người đàn bà xấu xí và một gã đàn ông độc dữ, sau đó là cảnh
tượng gã đàn ông đánh đập vợ một cá dã man. Người nghệ sĩ nhận ra rằng: cái đẹp ở ngoài xa kia
cũng ẩn chứa nhiều oái oăm ngang trái và nghịch lí. Nếu không đến gần thì chẳng bao giờ anh phát
hiện ra. Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ
sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thụât
nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống. Nhan đề phải
chăng là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật !
2.4. Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: chiếc thuyền vó bè- hình ảnh mang nhiều giá trị biểu
cảm.
* Tên truyện ngắn là "Chiếc thuyền ngoài xa", và quả thật, hình ảnh chiếc thuyền gần như xuất
hiện xuyên suốt trong câu chuyện mà nhà văn mang đến cho người đọc. Bắt đầu từ yêu cầu của
người trưởng phòng "lắm sáng kiến" đối với nhân vật xưng "tôi" - người nghệ sỹ nhiếp ảnh:
"...Chúng ta sẽ mang đến cho mỗi gia đình một bộ sưu tập về thuyền và biển, không có người. Hoàn
toàn thế giới tĩnh vật". Tiếp đó là hình ảnh chiếc thuyền "mới đóng xong vẫn còn thơm mùi gỗ lẫn
mùi dầu rái", rồi tiếp theo nữa là "một nhóm chừng dăm bảy chiếc thuyền vó vừa tắt đèn" và cuối
cùng tập trung vào "một chiếc thuyền lướt vó ...đang chèo thẳng vào trước mặt tôi". Đây chính là
chiếc thuyền vó bè.
* Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm
- Lần 1: Xuất hiện trên biển trong sương sớm: Chiếc thuyền được nhà văn khắc hoạ ất ấn tượng:
"Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu
hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên
chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản
và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ", và tất cả vẻ
đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh.
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi
người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi
thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm
thấy "trái tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như cái cảm giác mà "tôi" đã từng có.
-Lần 2: Xuất hiện trong câu chuyện của người đàn bà ở tòa án: Con thuyền là không gian sống của
gia đình mụ và là nơi diễn ra cảnh bạo hành gia đình: Con thuyền chật mà hơn 10 con người sinh
sống. Đó là những con nguời, những cuộc đời, những số phận đầy trớ trêu, nghịch lý đã, đang và sẽ
còn tiếp tục sống quay quắt bên trong chiếc thuyền ấy. Một người vợ nhẫn nhục cam chịu một cách
tự nguyện những trận đòn thịnh nộ của anh chồng với "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng" chỉ vì chiếc thuyền ấy, gia đình ấy (với trên dưới mười con người) cần có ông ta chèo chống
lúc phong ba; Một đứa con trai yêu mẹ đến nỗi định giết cả bố mình... Cái sự thật bên trong ấy chỉ
được người thợ chụp ảnh nhận ra khi "chiếc thuyền đâm thẳng vào chỗ tôi đứng”, Tức là ở một
khoảng cách gần, rất gần!
Với chi tiết này, câu chuyện dường như đã mở ra hai hình ảnh, hai thế giới khác hẳn: Chiếc -
thuyền - ngoài - xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc thuyền khi đến gần lại làm
vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người.
- Lần thứ 3: Con thuyền xuất hiện ngoài phá trong cơn giông bão: Lúc ấy, chỉ còn duy nhất con
thuyền vó bè đang vật lộn trong cơn gió giật cấp 11. Con thuyền trao đảo, ngr nghiêng oằn mình
chống lại giông tố. Con thuyền đang đương đầu với song to gió lớn, những hiểm nguy rình rập con
thuyền khiến người nghệ sĩ không thể rời mắt khỏi con thuyền. Gia đình người đàn bà hang chài
đang sống trên con thuyền đó. Họ đang đối mặt với sóng gió và họ cần phải cùng nhau chống trọi
với thiên tai.
- Lần thứ 4: Con thuyền xuất hiện trong bức lịch trên tường trong nhà Phùng và nhiều gia đình
khác. Con thuyền là một con thuyền nghệ thuật đẹp. Nhưng gắn với nó là câu chuyện buồn của số
phận những con người hang chài lam lũ mà chỉ có Phùng mới cảm nhận rõ. Chính vì thế, cho dù
chỉ là một bức ảnh "hoàn toàn thế giới tĩnh vật" (hay nói đúng hơn là vẫn có con người nhưng đó
chỉ là "những bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng") nhưng nhà nghệ sỹ nhiếp
ảnh của chúng ta - cũng là người đã trực tiếp nhận ra những số phận ẩn tàng bên trong nó - bao giờ
cũng như thấy "một người đàn bà bước ra " sau mỗi lần suy tư, ngắm nhìn thành quả nghệ thuật mà
mình tạo ra nhờ cái giây phút "trời cho" ấy.
Vậy nên, có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật
hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ
nhận ra một thông điệp mà nhà văn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của
nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một
khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên
trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và
sống cùng cuộc đời.
* Thái độ tình cảm của tác giả: Ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên miền Trung. Xót xa trước hiện
thực cuộc sống cơ cực của người dân miền Trung.
* Nghệ thuật: Tả cảnh chi tiết, chân thực và sinh động qua con mắt quan sát tinh tế và tâm hồn
nhạy cảm của nhà văn. Ngôn ngữ dung dị đời thường nhưng đậm chất triết lí. Câu văn giàu hình
ảnh gợi sự liên tưởng cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên.
2.5.. Người đàn bà làng chài
*1.Những chi tiết liên quan
- Cách nhà văn gọi người đàn bà: gọi là mụ: vô danh, phiếm định. Tác giả khái quát cuộc đời, số
phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác. Cách nhà văn gọi người đàn bà này giống như
Kim Lân gọi người vợ nhặt là thị. Gọi nhân vật bằng một đại từ, đó là cách gọi quen thuộc của
người Việt và cũng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
-Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Bên cạnh chiếc xe rà phá mìn, vào buổi sáng còn mờ sương. Mụ
xuất hiện trong một không gian thơ mộng và lãng mạn. Tác giả sử dụng nghệ đối lập, cảnh thiên
nhiên đối lập hoàn toàn với ngoại hình xấu xí, thô kệch và lam lũ của mụ. Từ đó tác giả thể hiện
cách nhìn cuộc sống luôn tồn tại những sự vật, hiện tượng mang tính hai mặt. Tác giả khẳng định là
người nghệ sĩ phải có cái nhìn cuộc đời một cách toàn diện để cảm nhân sâu sắc cuộc sống và con
người.
- Tuổi: Mụ trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ
lại quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
-Ngoại hình xấu xí, gợi sự lam lũ khó nhọc.
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. Mụ mắc
một chiếc áo rách rưới: lưng áo bạc phếch và ướt sũng. Những chi tiết đó gợi sự thô mộc, xấu xí,
như nét vẽ vội của tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn
sử dụng nghệ thuật miêu tả khá chi tiết ngoại hình của nhân vật nên người đọc hình dung rõ nỗi vất
vả của mụ. Ngoại hình của mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt
hiện lên trong cảnh đói khủng khiếp trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân. Điều đó khẳng định sự tàn
phá, hủy hoại ghê gớm của các nghèo, cái đói.
- Cuộc đời: Bất hạnh với những nỗi đau vì xấu xí, vì đói nghèo và vì bạo lực.
+Trước khi lấy chồng mụ chịu nhiều thiệt thòi:
++Mụ xấu từ khu còn nhỏ tuổi vì bị rỗ mặt, hậu quả của bệnh đậu mùa nên không một người đàn
ông nào trên phố dám lấy mặc dù gia đình mụ cũng khá giả. Như vậy, cái xấu là một trong những
nguyên nhân gây ra cuộc đời khổ cực của mụ. Mụ phải lòng anh hàng chài ít học, hiền lành nhưng
cục tính. Mụ có mang với anh ta và theo anh ta xuống thuyền ở.
+ Sau khi lấy chồng, cuộc đời của mụ chồng chất nỗi khổ cực:
++Sống lênh đênh trên biển trong con thuyền chật chội, lại phải đối diện với những khắc nghiệt và
hiểm nguy của thời tiết: có tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng. Tác giả phản
ánh chân thực cuộc sống bấp bênh của người dân hàng chài.
++Lao động vất vả để kiếm sống và nuôi các con: thường xuyên thức trắng để kéo lưới.
++Đông con: Mụ đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật nhà mụ trên dưới một sắp gần chục đứa con.
Mụ mang nỗi khổ chung của đám đàn bà vùng biển vì không có biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Nhà nào cũng đông con nên nghèo đói.
++Bị chồng đánh: Bản tính người chồng là cục tính nhưng hiền lành lắm. Những năm mới lấy
nhau, chưa có nhiều con, chồng mụ chưa khổ lắm nên không bao giời đánh mụ. Nhưng rồi sau đó
mụ liên tục bị chồng đánh đập dã man ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Bất kể lúc
nào khổ quá, chồng lại xách ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.
Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là chiếc dây thắt lưng của lính nguỵ. Người chồng đánh tới
tấp, lão trút cơn giận như lửa cháy, vừa đánh vừa chửi chúng mày chết đi cho ông nhờ, mày chết đi
cho ông nhờ. Mụ khổ hơn rất nhiều so sánh mụ với những người đàn bà hàng chài khác. Tất cả đám
hàng chài đều đông con, đều đói nghèo. Những người đàn ông khác thì uống rượu. Chồng mụ
không uống rượu nên mụ lại khác họ là họ không bị chồng đánh còn mụ bị chồng đánh. Mụ giống
như cô Mị trong truyện ngắn của Tô Hoài. Mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
++Khổ tâm vì cố gắng che dấu hành động dã man của chồng nhưng vẫn bị con phát hiện mà lại là
đứa con mụ thương yêu nhất: Mụ xấu hổ, đau đớn, nhục nhã quá nên mụ khóc và lạy thằng bé. Đó
là nỗi đau nhất mà cđ mụ đã chịu đựng và trải qua.
Nhận xét: Cuộc đời của người đàn bà thật khổ cực. Mụ là nạn nhân của cái nghèo, đói và
bạo lực. Những nguyên nhân gây ra nỗi khổ cho mụ là do mụ xấu xí, do chiến tranh, do thời tiết
khắc nghiệt, do người chồng man dợ và tàn bạo… Nhưng chính mụ cũng là người gây nên nỗi khổ
cho chính mụ đó là mụ bao dung với người chồng vũ phu. Mụ luôn tìm cách bao biện cho hắn. Và
có thể mụ phải phụ thuộc quá vào hắn để có thể nuôi con….Đó là những vấn đề rất đời thường nên
khi đọc tác phẩm, người đọc rất xót thương cho mụ
-Tâm trạng của người đàn bà
+ Khi bước chân lên bờ: mụ lo lắng ngoái đầu lại vì sợ nhỡ thằng Phác động đậy bố nó sẽ giết nó
ngay.
+Khi bị thằng Phác phát hiện: mụ đau đớn và xấu hổ, mụ đã khóc. Nỗi đau tựa như nỗi đau của
một viên đạn xuyên qua tâm hồn mụ.
+Khi ở tòa án:
++Lúc đầu mới đến: Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi .Rón rén ngồi ghé vào chiếc
ghế mà Đẩu mời.Cách xưng hô: con, quý toà . Vì người đàn bà này tù ngày xuống thuyền ỏ chưa
bao giờ mụ đặt chân đến chỗ công quyền và vì mụ biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mụ đến đây.
++Buồn bã khi nhớ lại và kể cuộc đời bất hạnh của mình.
++Vui khi nhắc đến các con và những giấy phút vui vẻ hòa thuận hiếm hoi trên thuyền: Trên
khuôn mặt xấu xí chợt ửng sáng lên như một nụ cười.
++Hi vọng vào tương lai: giá tôi đẻ ít, hoặc chúng tôi sắm được chiếc thuyền rộng..
++ Buồn bã, đau đớn và lo lắng khi nhắc đến thằng Phác. Mụ lo lắng thằng bé sẽ làm gì dại dột với
bố. Mụ tìm mọi cách để tách nó khỏi thuyền mà bất lực.
Nhận xét: Tâm trạng của người đàn bà diễn biến phức tạp. Tâm trạng của mụ được thể hiện
qua sự quan sát của Phùng và qua nét mặt, cửu chỉ, lời nói của mụ. Tác giả đã khéo léo thể hiện
những cảm xúc rất đời thường của người đàn bà hàng chài khổ đau qua nghệ thuật đối thoại, miêu
tả nét mặt, cử chỉ và hành động.
-Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp.
+ Chăm chỉ lao động, lương thiện kiếm sống bằng nghề thuyền lưới vó. Mụ bám nghề và không bỏ
nghề. Mụ cùng chồng thức trắng đêm để kéo lưới.
+Mụ bao dung, thấu hiểu và vị tha. Đó là cách mụ yêu chồng sâu sắc và rất khác người. Van xin
chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”. Mụ kiên quyết không bỏ chồng bằng mọi giá. Những hành động ẩn
chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và Phùng. Tác giả đã đặt nhân vật trong một hoàn
cảnh nghịch lí. Đó là một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng
những trận đánh thừa sống thiếu chết ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Câu hỏi đặt
ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục kinh hoàng với
người chồng hung bạo kia? Mụ đưa ra lí lẽ : hắn hiền lành nhưng cục tính, cũng có lúc vợ chồng
con cái chúng tôi hòa thuận vui vẻ trên thuyền…để “đừng bắt tôi bỏ nó”. Mụ ước giá đẻ ít đi. Mụ
biện minh cho hành động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu
cái lỗi chính là đám đàn bà “đẻ lắm”. Mụ chủ động để chồng đánh để vơi đi nỗi khổ.
+ Mụ rất thương các con: Mụ thức trắng đêm kéo lưới cũng mong cho các con được ăn no. Mụ
không muốn bỏ chống vì muốn các con có bố nuôi dạy và chăm sóc để có một gia đình chọn vẹn.
Mụ vui khi thấy đàn con tôi chúng nó được ăn no. Mụ mong đẻ ít, sắm được cái thuyền rộng để
cuộc sống của các con sướng hơn. Tình thương con còn được thể hiện khi mụ van xin chồng cho
lên bờ để đánh, mụ không muốn cho các con nhìn thấy cảnh bạo lực để khỏi bị tổn thương . Mụ hi
sinh bản thân vì con. Mụ yêu thương các con theo cách riêng của mụ, mụ cần một người bố cho các
con mụ, mụ muốn chúng nó có cả bố và mẹ nuôi dạy. Mụ tâm niệm Đàn bà trên thuyền phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình. Mụ vì trách nhiệm, mụ có tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh
của một người mẹ. Tác giả cảm phục trân trọng nhưng cũng không đồng tình cách mụ chịu đựng
nỗi khổ đau kiểu đó. Tình thương con của mụ là tình mẫu tử thiêng liêng như tình thương con của
bà cụ Tứ trong truyện của Kim Lân.
+ Hiểu lẽ đời: Mụ am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.
++ Hiểu về vai trò của người đàn ông: Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các
chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông. Mụ nói những
khi biển động, người đàn ông là một trụ cột để chèo chống con thuyền trong cơn phong ba. Người
đàn ông sẽ cùng với người đàn bà cùng làm ăn để nuôi nấng đặng một sắp con. Mụ chia sẻ Cũng
có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ. Với mụ cuộc sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia
không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.
++ Hiểu được vai trò của người đàn bà: Đàn bà sinh ra là để đẻ con và nuôi dạy con khôn lớn nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình. Mụ
sống vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ. Suy nghĩ của mụ vẫn
mang định kiến về giới tính….
+ Giao tiếp ứng xử rất lịch sự và linh hoạt: Thái độ, hành động khi được mời tới toà án: Lúc đầu:
Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi . Sau đó mụ rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà
Đẩu mời. Cách xưng hô của mụ cũng rất lịch sự: Lúc đầu mụ xưng con, quý toà . Sau đó mụ xưng
chị, các chú.Cách xưng hô thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự tin, bề dưới nói với bề
trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng nghe. Chị cũng hiểu
được thiện chí của Đẩu và Phùng đang muốn giúp đỡ mình.
+Khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn: mụ ao ước gía mụ đẻ ít thì chồng mụ đỡ khổ, giá vợ chồng
mụ mua được con thuyền rộng thì các con mụ có một kg sống tốt hơn…luôn vươn lên trong cuộc
sống.
-> So sánh với niềm tin của bà cụ Tứ.
* Nhận xét: Qua nội dung câu chuyện, cách kể và ngôn ngữ kể chuyện, ta thấy được: Số phận
người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị đày đoạ, đánh
đập.Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu. Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời sống đầy
nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.
*2.Nghệ thuật:Một số đặc sắc về nghệ thuật.
+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa. Con thuyền có thật. Con
thuyền biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
+ Nghệ thuật tự sự độc đáo:Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn
kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự
công bằng, điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.
+Ngôn ngữ: Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa
chọn điểm nhìn trần thuật).Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng
ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình,
dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, cục cằn..
+Tình huống truyện: tình huống nhận thức mang tính phát hiện của Phùng.
2.6..Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng 
* Hoàn cảnh sống:
- Trong chiến tranh: Phùng là một người lính, Phúng chiến đấu tại một vùng biển miền Trung cách
Hà Nội khoảng hơn 600 km. Phùng mang sứ mạng cao cả là giải phóng quê hương.
- Sau chiến tranh: Phùng sống ở Hà Nội. Anh là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Phùng mang sứ mệnh
cao cả mang cái đẹp để phục vụ cuộc sống của con người. Mỗi một giai đoạn sống anh đều thực
hiện tốt sứ mệnh của mình. Nhưng trong vai trò là người nghệ sĩ anh mang nhiều nỗi trăn trở trước
cuộc đời nhất la sau khi rời khỏi vùng đất trong chuyến đi thực tế.
* Phùng là một người nghệ sĩ đích thực: Anh hội tụ cả cái tài và cái tâm:
- Tài năng: Anh đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một “cảnh đắt trời cho”- một
cảnh tượng tuyệt đẹp đó là hình ảnh chiế thuyền vó bè trên biển trong sương sớm.
+ Con thuyền xuất hiện trên biển trong sương sớm: Chiếc thuyền được nhà văn khắc hoạ chi
tiết và rất ấn tượng: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa
pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng
phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Nhà văn miêu tả từng bộ
phận của con thuyền từ mũi thuyền, hai gọng vó và cái mui thuyền….Hình ảnh đó mang một "vẻ
đẹp thực sự đơn giản và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ
thời cổ", và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh.
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi
người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi
thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm
thấy "trái tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như cái cảm giác mà "tôi" đã từng có.
Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Mặt khác,
như chính cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, trong sự cảm nhận ban đầu cái cảnh tượng ấy giống như
“một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh
sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
Tâm trạng của người nghệ sĩ: Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công,
người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã
khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong
lòng anh. 
+ Phát hiện của Phùng: Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn
thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nói cách khác, trong một khoảnh
khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm
thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi.
- Phẩm chất của Phùng: Lòng nhân ái- cái tâm rất tốt: Phùng bất ngờ, ngạc nhiên trước cảnh
bạo lực, sự can thiệp bênh vực, sự quan tâm tới câu chuyện của người đàn bà.
+ Cảnh bạo lực gia đình
++Sự xuất hiện của cặp vợ chồng người đàn bà: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là
một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ..
++ Hành động của gã chồng : gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo.
++Hành động của đứa con: vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã
dúi xuống cát…
Tâm trạng của Phúng: Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn
thờ : “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. 
Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì
của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy
“bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng
còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu
xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như
nhuốm màu đau thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha
ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp người. 
Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng đã đánh nhau với lão chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, với những vết thương trên
mặt đã lên da non nhưng vẫn còn lại dấu tích.
+ Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án:
++Trước khi lấy chồng:chịu nhiều thiệt thòi:
+++Xấu: bị rỗ mặt vì bệnh đậu mùa nên không một người đàn ông nào trên phố dám lấy mặc dù
gia đình mụ cũng khá giả. Như vậy, cái xấu là một trong những nguyên nhân gây ra cuộc đời khổ
cực của mụ. Mụ phải lòng anh hàng chài ít học, hiền lành nhưng cục tính. Mụ có mang với anh ta
và theo anh ta xuống thuyền ở.
++ Sau khi lấy chồng: cuộc đời chồng chất nỗi khổ cực:
+++Sống lênh đênh trên biển trong con thuyền chật chội, lại phải đối diện với những khắc nghiệt
và hiểm nguy của thời tiết: có tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng. Anh cảm
thông với cuộc sống bấp bênh của người dân hàng chài.
+++Lao động vất vả để kiếm sống và nuôi các con: thường xuyên thức trắng để kéo lưới.
+++Đông con: bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật nhà mụ trên dưới một sắp gần chục đứa con.
Mụ mang nỗi khổ chung của đám đàn bà vùng biển vì không có biện pháp kế hoạch hóa gia đình.
Nhà nào cũng đông con nên nghèo đói.
+++Bị chồng đánh: Bản tính người chồng là cục tính nhưng hiền lành lắm. Những năm mới lấy
nhau, chưa có nhiều con, chồng mụ chưa khổ lắm nên không bao giời đánh mụ. Nhưng rồi sau đó
mụ liên tục bị chồng đánh đập dã man, 3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng. Bất kể lúc nào
khổ quá, chồng lại xách ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn. Vũ
khí mà người chồng dùng để đánh là chiếc dây thắt lưng của lính nguỵ. Người chồng đánh tới tấp,
lão trút cơn giận như lửa cháy, vừa đánh vừa chửi chúng mày chết đi cho ông nhờ, mày chết đi cho
ông nhờ.
Mụ khổ hơn rất nhiều so sánh mụ với những người đàn bà hàng chài khác. Tất cả đám hàng
chài đều đông con, đều đói nghèo. Những người đàn ông khác thì uống rượu. Chồng mụ không
uống rượu nên mụ lại khác họ là hộ không bị chồng đánh còn mụ bị chồng đánh.
Mụ giống như cô Mị trong truyện ngắn của Tô Hoài. Mụ giống Mị đều là nạn nhân của
những trận đòn chồng.
+++Khổ tâm vì cố gắng che dấu hành động dã man của chồng nhưng vẫn bị con phát hiện mà lại là
đứa con mụ thương yêu nhất: Mụ xấu hổ, đau đớn, nhục nhã quá nên mụ khóc và lạy thằng bé. Đó
là nỗi đau nhất mà cđ mụ đã chịu đựng và trải qua.
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị
chánh án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió
của chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá! 
Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy
nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những câu hỏi lạc đề
“Lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. Rồi
Phùng thốt lên “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không thể hiểu
cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc hậu, của
cuộc sống nhọc nhằn, không thể hiểu “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái ăn toàn cây xương
rồng luộc chấm muối”, cũng không thể hiểu sự đan cài giữa tình thương và hành động tàn nhẫn,
giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình… và “bởi vì, các chú không phải là đàn bà, chưa bao
giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn
ông… dù hắn man rợ và tàn bạo”. 
Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức về
mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài nhất
là cái vẻ đẹp tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải thấu nhị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn
giản, mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan, với mọi nhọc nhằn và cả khổ đau,
không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn
giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những
mâu thuẫn : đẹp – xấu, thiện – ác,… Vì thế mà nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho”
hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che giấu cái bản chất thực của đời sống ở bên trong.
Nhà văn khẳng định : Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài với nội
dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất ; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng
vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. 
- Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công nhưng
lại đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống.
+ Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu ra: Người đàn bà
không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là
người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết
chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị
không để lộ điều đó ra bên ngoài. Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm
hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu
đức hi sinh và lòng vị tha.
+ Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ –
chánh án Đẩu cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực
sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng
cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể,
không thể áp dụng với mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp.
=>Và cũng qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn
giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.
Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn
nhận cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện
tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
- Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn,
+ Là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa
tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm. Hình ảnh người nghệ sĩ
“khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận thức của Phùng thực
sự đã đổi khác, anh đã để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít thi vị ùa tới “trời
trở gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào
thét, sóng bạc đầu và “… chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”. Chiếc thuyền được
đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn còn đó.
Nó cho thấy rằng, chiếc thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời
sống. Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt của nhà văn
về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những người đi biển họ vẫn luôn phải
chống chọi với phong ba và bão táp và cuộc sống vốn chẳng bao giờ bình yên. 
+Truyện ngắn kết thúc bằng những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ mỗi lẫn ngắm bức ảnh
được chụp tại vùng biển nọ: nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái
màu hồng hồng của ánh sương mai”. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống,
là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước
ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời
đằng sau bức tranh.
- Hành trình nhận thức của nhân vật Phùng qua các tình huống truyện: tình huống nhận thức
của nghệ sĩ Phùng
+ Quá trình nhận thức về cái đẹp, về nghệ thuật: ( tình huống nhận thức 1)Phùng là một nghệ sĩ
nhiếp ảnh từ Hà Nội lặn lội vào vùng biển này để chụp một bức ảnh nghệ thuật "hoàn toàn là tĩnh
vật", ở đây, anh đã có những phát hiện đầy bất ngờ về cuộc sống và cái đẹp:
++ Phát hiện đầu tiên của Phùng là vẻ đẹp của một chiếc thuyền ngoài xa bất ngờ xuất hiện trong
khung cảnh thơ mộng của buổi bình minh. Chiếc thuyền được nhà văn khắc hoạ ất ấn tượng: "Mũi
thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha đôi chút màu hồng do
ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc
mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản và
toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng mực Tàu của một danh hoạ thời cổ", và tất cả vẻ đẹp
đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng ta thu vào một tấm ảnh.
Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi
người nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi
thưởng thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm
thấy "trái tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như cái cảm giác mà "tôi" đã từng có.
++ Hình ảnh người đàn bà, lão đàn ông, cảnh gia đình họ đánh nhau

. Chuỗi nghịch lí ấy của hiện thực đã khơi lên trong tâm hồn người nghệ sĩ nhiều cảm xúc trái
ngược - từ niềm hạnh phúc ngỡ ngàng trước một vẻ đẹp hoàn hảo đến cảm giác sững sờ, kinh ngạc
vì sự thật trần trụi, tàn nhẫn và cả những xót xa, bất bình, phẫn nộ. Những xúc cảm và hành động
đó cho ta thấy vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, tinh tế trước cái đẹp và thiết tha gắn bó
với con người, cuộc sống. Anh yêu và khao khát cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh nhưng không
dửng dưrig trước cuộc đời với bao nghịch cảnh đau đớn.
+ Quá trình nhận thức về con người, cuộc sống:
++ Những phát hiện và thái độ của Phùng với người đàn bà hàng chài khi nghe câu chuyện của
người đàn bà ở tòa án( dẫn chứng)
->Quan sát vẻ ngoài thô kệch, tăm tối và khi cảm nhận thế giới tâm tư của một người phụ nữ bao
dung, vị tha, sâu sắc,...; tình cảm anh dành cho chị em thằng Phác - hai đứa trẻ với nỗi bất hạnh
phải sống trong một gia đình nghèo khổ với người bố thô tục, dữ dằn - và tình yêu thương sâu sắc
mà chúng dành cho người mẹ...
->Người nghệ sĩ ấy đã phát hiện chất thơ kì diệu ngay giữa những lầm lụi, đau khổ của đời thường
"lam lũ, khó nhọc". Nó thấp thoáng hiện lên qua đôi bàn tay thằng Phác "khẽ sờ trên khuôn mặt
người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt".
-> Đặc biệt, anh đã phát hiện "con người ở bên trong con người" khi quan sát, suy ngẫm về người
đàn bà hàng chài. Trorm hai lần gập trước, chứng kiến cảnh tượng mụ câm lặng chịu đựng sự bạo
hành của gã chồng vũ phu, Phùng đã nhìn bằng con mắt thương hại. Lúc đó, anh chỉ thấy một người
đàn bà xấu xí, thô kệch, lam lũ, cam chịu đến nhẫn nhục. Gặp lại chị ở toà án huyện, lúc đầu anh
vẫn quan sát người đàn bà này bằng ánh mắt xót xa pha lẫn niềm thương hại. Chị ta mặc chiếc áo
nâu bạc phếch với "một miếng vá bằng vải xanh bàng bàn tay trên vai", với những bước đi một
mỏi, chậm chạp như một bà già. Khi bước vào toà án, chị khúm núm, sợ sệt "tìm đến một góc tường
để ngồi"và ngay cả khi vị chánh án cố tỏ ra thân mật, niềm nở, chị cũng chỉ dám "rón rén đến ngồi
ghé vào mép chiếc ghế và “Cố thu người lại". Anh càng cảm thấy bức bối hơn khi nghe người phụ
nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li hôn người chồng vũ phu. Có lẽ, Phùng đã nghĩ rằng
người đàn bà này tăm tối, nhẫn nhục đến mức đáng giận.
->Nhưng khi nghe những lời tâm sự của chị, anh ngỡ ngàng trước sự từng trải, sắc sảo và đức hi
sinh của một người mẹ. Từng lời kể, từng cử chỉ của người đàn bà hàng chài đều khiến anh xúc
động, cólẽ, phải đến tận lúc này, Phùng mới hiểu vì sao chị chấp nhận cái cảnh "ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng" và cái sự chị nhất quyết không li hôn gã chồng vũ phu. Anh không
còn nghĩ rằng người đàn bà kia cam chịu vì yếu đuối hay tăm tối, ngu dốt. Anh cảm nhận được tấm
lòng yêu thương con vô bờ bến của người phụ nữ hàng chài "phải sống cho con chứ không thể sống
cho mình" được. Dù người phụ nữ ấy "chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài" nhưng anh vẫn hiểu
thấu "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời"
ẩn sâu trong tâm hồn chị.
->Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình vì những hiện tượng ngang trái, phi lí, Phùng đã thực sự cảm thông,
chia sẻ cùng chị. Anh hiểu rằng không thể "giúp đỡ" chị theo cách mà anh và Đẩu định làm - bằng
một cuộc li hôn. Anh hiểu sự hi sinh thầm lặng, cao cả và niềm hạnh phúc của người mẹ: "Vui nhất
là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Người nghệ sĩ ấy đã tìm thấy từ câu chuyện của
bà mẹ hàng chài lam lũ, đau khổ những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người và
cuộc sống.
+ Kết thúc tình huống: Khi ngắm lại tác phẩm nghệ thuật của mình, anh không chỉ tự hào vì nó
"được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những gia đình sành nghệ thuật" mà còn vì nó ẩn chứa cái đẹp
thực sự của cuộc đời. Mỗi lần đối diện với bức ảnh đen trắng, anh lại thấy hiện lên "cái màu hồng
hồng của ánh sương mai" trong khoảnh khắc tuyệt đẹp ngày nào và lại thấy người đàn bà hàng chài
ấy bước ra khỏi tấm ảnh. vẫn vóc dáng cao lớn, thô kệch của người đàn bà vùng biển, vẫn tấm lưng
áo bạc phếch có miếng vá và khuôn mặt rỗ nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm nhưng giờ đây chị đã là
biểu tượng cho vẻ đẹp, cho sức sống bền bỉ, phi thường của nhân dân với "những bước chậm rãi,
bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông".
-   Thái độ của nhà văn:   Xây dựng nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nhiều quan
niệm mới mẻ và sâu sắc về con người, về nghệ thuật và cả những chiêm nghiệm về cuộc đời, vền
ghệ thuật. Tg ca ngợi và trân trọng nhưng cũng phê phán cách nhìn đời đơn giản của người nghệ sĩ .
Tg nêu một thông điệp với người nghệ sĩ hãy sống và làm việc theo quan điển nghệ thuật vị nhân
sinh.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc sống.
+ Diễn biến tâm trạng: Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái
đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ
nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; từ thái độ bất bình gay gắt trước những nghịch cảnh,
phi lí đến sự hiểu thấu lẽ đời. Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của người nghệ sĩ.
+ Nghệ thuật đối thoại : câu chuyện cảm động qua những câu hỏi tưởng chừng không liên quan
nhưng gợi mở nhiều tình huống.
2.7..GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
a. Phản ánh chân thực hiện thực xã hội Việt Nam những năm sau giải phóng qua hình ảnh
mảnh đất vùng biển miền Trung quê hương của Đẩu, nơi Phùng đến thực tế.
-Đó là một mảnh đất còn nhiều tàn tích của chiến tranh: Trên bãi biển vẫn còn dấu tích của
chiến tranh đó là bãi xe tăng hỏng, chiếc xe tăng và chiếc xe rà phá mìn của công binh Mĩ.
-Đó là mảnh đất nghèo nàn lạc hậu: cuộc sống lam lũ vất vả của người hàng chài, phương tiện
đánh bắt thủy sản-con thuyền lưới vó bé nhỏ, thô sơ. Nhà nào cũng đông con, một sắp con, trên
dưới chục đứa. Nhà nào cũng không được sống trong một không gian rộng rãi. Và nhà nào cũng
phải đối mặt với cái đói, cái nghèo đó là mỗi khi biển động họ phải ăn xương rồng luộc chấm muối
cả tháng…
-Đó là một mảnh đất còn tồn tại nhiều vấn đề mà cách mạng cần phải giải quyết sau chiến
tranh: Cách mạng giải quyết được giặc ngoại xâm nhưng cách mạng chưa giải quyết được giặc
đói, giặc nghèo…Công việc, cuộc sống của những người dân hàng chài cần được cách mạng giải
quyết hiệu quả. Cách mạng đã từng giúp đỡ những người hàng chài bằng cách cho họ đất trên bờ
nhưng họ không ở và lại xuống thuyền vì trên bờ không có công ăn việc làm.
-Đội ngũ cán bộ yếu năng lực quản lý: Họ chủ yếu là những người lính bước ra từ chiến tranh
như chánh án Đẩu. Họ cần phải có cách nhìn thực tế hơn. Họ phải gần gũi với nhân dân nhiều hơn
để hiểu được cuộc sống vất vả khó khăn từ đó cán bộ sẽ có cách giải quyết hiệu quả để giúp nhân
dân thoát nghèo..
=>Mảnh đất Phùng đến thực tế là mảnh đất mang hình ảnh của những vùng quê Việt Nam thời kì
hậu chiến.
b. Phản ánh chân thực nỗi khổ của người đàn bà hàng chài.(Xem phần kiến thức nhân vật)
-Xấu, buộc phải lấy anh hàng chài ít học, hiền lành nhưng cục tính.
-Sống lênh đênh trên biển trong con thuyền chật chội
-Luôn phải đối diện với những khắc nghiệt và hiểm nguy của thời tiết: có tháng biển động, ăn
xương rồng luọc chấm muối.
-Lao động vất vả: thức trắng đêm để kéo lưới.
-Đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật => chồng hung hăng.
-Bị chồng đánh đập dã man, 3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng.
-Khổ tâm vì cố gắng che dấu hành đọng dã man của hồng nhưng vẫn bị con phát hiện mà lại là đứa
con mụ thương yêu nhất.
c.Thái độ của tác giả:
-Tố cáo chiến tranh và những tàn dư của chiến tranh còn hiển diện trong cs của con người.
-Tố cáo tội ác dã man của người chồng: vì thất học nên có những suy nghĩ thiển cận, lệch lạc…-
>hành động, tiếng chửi dã man.
d. Đồng cảm với nỗi khổ của ng hàng chài đặc biệt là nỗi khổ của người đàn bà và ca ngợi vẻ
đẹp tâm hồn khuất lấp của mụ( xem ý vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật)
e. Mở ra cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn : Hai điều ước của mụ. Có sự can thiệp của cm có thể
cs của gđ mụ sẽ tốt hơn.
2.8.. TÌNH HUỐNG TRUYỆN TRONG TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
TB:Phân tích tình huống truyện
-Định nghĩa tình huống truyện: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến
cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét
nhất.
*Ý 1: - Tên của tình huống truyện trong “Chiếc thuyền ngoài xa” :Tình huống nhận thức và
phát hiện ra những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở
toà án huyện
*Ý 2: Diễn biến của tình huống truyện: Diễn biến của quá trình nhận thức và phát hiện ra
những nghịch lí của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh săn tìm cái đẹp ở ngoài bãi biển và ở toà án
huyện.
Xem ý quá trình nhận thức của Phùng qua các tình huống, phát hiện lần 1- lần 2)
*Ý 3.Nhận xét:Tình huống độc đáo: tình huống nhận thức và phát hiện. Nhà văn để nhân vật đượ
trải nghiệm, được tận mắt quan sát và chúng kiến vẻ đẹp của thiên nhiên và những ngang trái của
cuộc đời. Từ đó nhân vật nhận thức và phát hiện được bản chất của hiện tượng.
*Ý 4: Ýnghĩa tình huống truyện:
- Tình huống truyện góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm:
+ Giá trị hiện thực:
++Tác phẩm phản ánh chân thực: Cuộc sống đói nghèo lạc hậu tăm tối của những gia đình hàng
chài: thuyền chật, đông con..là nguyên nhân dẫn tới nạn bạo hành gia đình. (Xem thêm kiến thức
phần giá trị nhân đạo)
++Cuộc chiến đấu bảo vệ quyền sống của cả dân tộc trải qua bao hi sinh gian khổ nhưng cuộc đấu
tranh bảo vệ quyền sống của từng con người còn đầy cam go, lâu dài, cần có sự quan tâm của cách
mạng, của cộng đồng
+ Giá trị nhân đạo:
++Sự chia sẻ cảm thông của tác giả với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động
vô danh đông đảo trong xã hội. Tác gỉa cảm thông với người đàn bà hàng chài: nạn nhân của cái
nghèo, cái đói , của chiến tranh và của bạo lực gia đình.
++Tg lên án, đấu tranh với cái xấu, cái ác vẫn còn tồn tại trong từng gia đình.
++Phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động:Người đàn bà chịu nhiều thua
thiệt, éo le của số phận, cuộc đời chất chồng những cay đắng khổ đau: vất vả trong công cuộc mưu
sinh, thường xuyên bị hành hạ về thân xác, đau khổ dằn vặt về tinh thần.Nhưng ở chị vẫn ngời lên
chất ngọc lấm láp từ cuộc sống còn nhiều vất vả đắng cay: nhẫn nhịn, chịu đựng hi sinh vì con, là
người đàn bà từng trải sâu sắc, thấu hiểu các lẽ đời, vị tha, nhân hậu, bao dung, biết chắt chiu từng
niềm vui nho nhỏ để làm nên ý nghĩa cuộc đời. (Xem thêm phần kiến thức giá trị nhân đạo)
++ Ca ngợi nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu: Là những người chiến sĩ đã từng tham gia chiến đấu vì
sự sống của dân tộc, trở về với cuộc sống đời thường, vẫn say mê khám phá cái đẹp, đấu tranh với
cái ác. Hiện thực trớ trêu, đầy nghịch lí của cuộc đời đã giúp cho họ nhận thức được những chân lí,
những lẽ đời sâu sắc.
- Giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng và nghệ thuật: cái bên ngoài chưa hẳn là
bản chất thật bên trong, nhiều khi còn đối lập với phẩm chất bên trong, không phải bao giờ cái Đẹp
cũng thống nhất với cái Thiện, vì thế, cần phải có cái nhìn đa chiều sâu sắc, cảm thông với cuộc
sống và con người. Thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật về trách nhiệm người nghệ sĩ: Không nên tách
rời nghệ thuật với cuộc đời, cần phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc đời và nghệ thuật; nghệ sĩ
không được nhìn cuộc đời bằng con mắt đơn giản, dễ dãi, phải có tấm lòng, có can đảm, và biết trăn
trở về con người.
2.9. Những đặc sắc nghệ thuật.
2.10. Một số nhận định về tác giả, tác phẩm
2.11. Một số vấn đề liên quan
II. MỘT SỐ ĐỀ THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA CỦA BỘ NĂM 2021
1. ĐOẠN VĂN 1 :
.Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên
bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một
chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo
thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như
vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ
hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới
nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh
từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng
trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã
phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình
vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm
hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm
"liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về,
nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.
ĐỀ 1: Phân tích/cảm nhận. hình ảnh con thuyền vó bè. Từ đó, anh chị hãy nhận xét đặc điểm
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
ĐỀ 2: Phân tích/ cảm nhân vật Phùng. Từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống và con người của người
của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
ĐỀ 3: Phân tích phát hiện của nhân vật Phùng trong đoạn trích. Từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống
và con người của người của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
MB: Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiên
phong của nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới….Nguyễn Minh Châu có phong cách viết truyện
ngắn độc đáo đậm chất tự sự-triết lí, ngôn ngữ dung dị đời thường. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài
xa được viết năm 1983, khi ấy đất nước còn lạc hậu, nghèo nàn. Tác phẩm viết về cuộc sống của
người dân hàng chài miền Trung. Hình ảnh con thuyền vó bè xuất hiện đầu tác phẩm- con đẹp hài
hoàm toàn bích. Vẻ đẹp đó được tác giả miêu tả qua đoạn trích từ câu văn Lúc bấy giờ trời đầy mù
từ ngoài biển bay vào đến câu văn nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài
bữa. Qua đây, người đọc nhận thấy rõ đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
TB: 4lđ
1. LĐ 1: Phân tích hình ảnh con thuyền vó bè:
- Hoàn cảnh con thuyền xuất hiện trong một thời gian , không gian đẹp, thơ mộng.
+ Thời gian con thuyền xuất hiện: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay
vào. Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian: trên biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ, lãng mạn
của vùng biển.
->Nhận xét: Nghệ thuật: tả cảnh thiên nhiên: chi tiết, chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của thiên nhiên
qua cảm nhận của tg. NMC có óc quan sát tinh tế, tâm hồn nhạy cảm.
- Vẻ đẹp của con thuyền vó bè: hài hòa đến toàn bích.
+ Con thuyền đẹp như một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Tác giả đã so
sánh vẻ đẹp của con thuyền như vẻ đẹp của bức tranh…đỉnh cao hội họa TQ. Phùng có năng khiếu
hội họa, nghệ sĩ nhiếp ảnh cảm nhận vẻ đẹp bằng tài năng, tâm hồn. Phùng thể hiện tình yêu với
thiên nhiên MT.
+ Hình ảnh chiếc mũi thuyền: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Tg sử nghệ thuật tả cảnh,
tả hình ảnh chiếc mũi thuyền đẹp mơ hồ bởi bầu sương mù. Phùng cảm nhận rất tinh tế. Hình ảnh
mũi thuyền gây ấn tượng cho P.
+ Hình ảnh mui thuyền: Khum khum rất tọa hình. Hình ảnh vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng. Sự xuất hiện của con người khiến thiên nhiên hữu tình. Sự im lặng
của con người rất phù hợp với hoàn cảnh thời gian không gian. Sự xuất hiện của con người, con
thuyền vó bè chính là không gian sống của gia đình hàng chài. Tg khẳng định thiên nhiên và con
người có mqh hài hòa mật thiết.
+ Hình ảnh 2 cái gọng vó được tg so sánh như cánh con dơi. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh
một con dơi. Câu văn giàu hình ảnh giúp người hình dung 2 cái gọng vó. Những mắt lưới, tấm lưới
phản chiếu vẻ đẹp con thuyền từ xa. Phùng cảm nhận vẻ đẹp con từ xa, gián tiếp.
+ Đường nét, ánh sáng hài hòa, đơn giản, toàn bích. Vẻ đẹp như một bức tranh mực tầu.
Phùng là người nhạy cảm, yêu thiên nhiên.
->Nhận xét: tả vẻ đẹp con thuyền tg sử dụng tả cảnh: chi tiết, chân thực sinh động. Tg sử câu văn
giàu hình ảnh, phép tu từ rất hiệu quả giúp ng đọc cảm nhận vẻ đẹp của con thuyền, cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên m Trung.
->So sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên: vẻ đẹp của cánh rừng xà nu qua truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Cánh rừng đặc trưng của Tây Nguyên. Vẻ đẹp của quê
hương đất nước là cảm hứng cho ng nghệ sĩ-> tình yêu quê hương đất nc của họ.
->So sánh hình ảnh phố huyện Cẩm Giàng trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
- Vẻ đẹp của con thuyền tác động đến tâm trạng của người nghệ sĩ:
+ Vẻ đẹp của con thuyền khiến P bối rối: khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái
tim như có cái gì bóp thắt vào? Tâm trạng của P là tâm trạng của người nghệ sĩ sau rât nhiều ngày
săn ảnh, tâm tạng của một một chờ đời thì gặp được điều mình mong muốn. Tác giả miêu tả tâm
trạng của P bằng lời độc nội tâm. Qua tâm tạng của P chúng ta thấy P là một người nghệ sĩ chân
chính……
+ Vẻ đẹp của con thuyền tác động đến nhận thức của P: Nhận thức bản thân cái đẹp là đạo
đức. Câu văn thể hiện chất triết lí trong truyện ngắn của tg. Nhận thức của P rất chủ quan.
+ Vẻ đẹp của chiếc thuyền ảnh hưởng đến tâm hồn của P, thanh lọc tâm hồn Trong giây phút
bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần tâm hồn. Tg ca ngợi vai trò của cái đẹp, cái đẹp làm cho tâm hồn trong
ngần…
->So sánh: Viên quản ngục trong Chữ người tử tù: Cái đẹp của cái chữ, cái thiên lương của
Huấn Cao khiến tâm hồn QN trong ngần. Người nghệ sĩ nhạy cảm trước cái đẹp đề cao cái đẹp.
- Vẻ của con thuyền được lưu giữ bởi người nghệ sĩ tài năng.
+ Hành động chuyên nghiệp của Phùng khiến người đọc ngưỡng mộ: .Chẳng phải lựa chọn
xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết
một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình,
do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
+ Ý nghĩa: Phùng đã chụp được bức tranh mực tàu, Phùng lưu giữ vẻ đẹp hài hòa toàn bích của con
thuyền-> Thủ trưởng rất ưng. Bức ảnh được chọn làm bộ lịch. Bức ảnh rất có giá, được treo trong
những gia đình sành nghệ thuật.
->Đây là kết quả rất xứng đáng của người nghệ sĩ trong quá trình săn tìm sáng tạo cái đẹp. Tác gải
trân trọng tài năng của Phùng.
2.LĐ2: Nhận xét thái độ của tác giả với vẻ đẹp của thiên nhiên miền Trung với người nghệ sĩ.
- NMC thể hiện tình yêu với thiên miền Trung- chiến trường cũ ngày trước chiến đấu.
- NMC thể hiện sự ngưỡng mộ trước P.
3. LĐ 3: Nghệ thuật miêu tả hình ảnh con thuyền vó bè.
- Phát huy sở trường viết truyện ngắn. Truyện ngắn đậm chất tự sự- triết.
- Tài năng xây dựng tình huống truyện: Tình huống nhận thức mang tính phát hiện: nhận thức về
cái đẹp, phát hiện sự trong ngần trong tâm hồn.
- Tả cảnh: chi tiết, chân thực
- Ngôn ngữ dung dị đời thường, triết lí.
- Câu văn giàu hình ảnh.
- Yêu thời gian không nghệ thuật độc đáo.
…..
4. LĐ 4. Nhận xét đặc điểm truyện ngắn NMC:
- Chất tự sự - triết lí
- Ngôn từ dung dị đời thường.
- Trong truyện CTNX:
+ Chất tự sự: Lối kể truyện hấp dẫn: truyện kể về chuyến đi…ngôi kể nhất xưng . Cốt truyện:
Truyện lồng trong truyện; câu chuyện của Phùng, câu chuyện của mụ.
+ Chất triết lí: bản thân cái đẹp là đạo đức.
+ Ngôn ngữ dung dị, đời thường. Miêu tả cái thuyền: mũi thyền, mui thuyền, 2 cái gọng vó…
KB: - Hình ảnh con thuyền vó xuất hiện trên biển trong sương. Con thuyền đẹp….Hình
ảnh con thuyền trong đoạn trích thể hiện rõ đặc điểm truyện ngắn NMC. Tp Chiếc thuyền ngoài xa
là tác phẩm tiểu cho sáng của NMC sau 1975. .…. .Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi
húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong
nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như
vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ
hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới
nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh
từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng
trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã
phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình
vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm
hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm
"liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về,
nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.
ĐỀ 2: Phân tích/ cảm nhân vật Phùng. 1. Từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống và con người của
người của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa. 2.
Cách làm.
MB: Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. NMC là nhà văn tiên phong của
nền VHVN thời kì đổi mới….NMC có phong cách viết truyện ngắn độc đáo đậm chất tự sự-triết lí,
ngôn ngữ dung dị đời thường. Tác phẩm CTNX được viết năm 1983, khi ấy đất nước còn lạc hậu,
nghèo nàn. Tác phẩm viết về cuộc sống của người dân hàng chài miền Trung. Trong tác phẩm
NMC xây dựng hình tượng người nghệ sĩ Phùng- người nghệ sĩ vừa có tài vừa có tâm. Điều đó
được tg miêu tả qua đoạn trích từ câu văn Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào đến câu
văn nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa. Qua đây, người đọc nhận
thấy rõ cách nhìn cuộc sống và con người của Nguyễn Minh Châu.

TB: 4 lđ:

- Lđ 1: Phân tích những chi tiết về nhân vật:


1. Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Phùng xuất hiện trên bãi biển vào buổi sáng sớm.
+ Thời gian Phùng xuất hiện: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian: trên bờ biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ mộng,
lãng mạn của vùng biển.
->Nhận xét: Nghệ thuật giới thiệu nhân vật độc đáo. Phùng xuất hiện trong không gian, thời gian
nghệ thuật. Qua nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên: chi tiết, chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của thiên
nhiên qua cảm nhận của Phùng.
-> Không gian phù hợp với tâm hồn của P đang trong hành trình tìm kiếm cái đẹp.
-> So sánh: Nhà văn Tô Hoài xây nhân vật Mị, giới thiệu Mị xuất ngay từ đầu tác phẩm, không
gian nghệ thuật độc đáo, hé mở cuộc đời thân phận tủi nhục của Mị.
-> NMC có dụng ý để người đọc cảm nhận tài năng, khát vọng của P.
-> Tài năng nghệ thuật .

2. Nghề nghiệp: Trong chiến tranh P là người lính, thiên chức, nhiệm vụ giải phóng quê hương.
Sau chiến tranh P là nghệ sĩ nhiếp ảnh, thiên chức, nhiệm vụ; đi chụp một bức ảnh về biển làm
bộ lịch. P hoạt làm nghệ thuật, mang cái đẹp đến cho con người. Thiên chức rất cao quý.
->So sánh Vũ Như Tô, nghệ sĩ, kiến trúc sư sáng tạo cái đẹp. Thiên chức rất quý. NMC trân trọng
đề cao vai trò thiên chức của họ.
3. Tâm trạng: bối rối, hạnh phúc khi nhìn chiếc thuyền , con thuyền đẹp như một bức tranh
mực tàu.
- Hình ảnh con thuyền : Vẻ đẹp của con thuyền vó bè: hài hòa đến toàn bích.
+ Con thuyền đẹp như một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Tác giả đã so
sánh vẻ đẹp của con thuyền như vẻ đẹp của bức tranh…đỉnh cao hội họa TQ. Phùng có năng khiếu
hội họa, nghệ sĩ nhiếp ảnh cảm nhận vẻ đẹp bằng tài năng, tâm hồn. Phùng thể hiện tình yêu với
thiên nhiên MT.
+ Hình ảnh chiếc mũi thuyền: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Tg sử nghệ thuật tả cảnh,
tả hình ảnh chiếc mũi thuyền đẹp mơ hồ bởi bầu sương mù. Phùng cảm nhận rất tinh tế. Hình ảnh
mũi thuyền gây ấn tượng cho P.
+ Hình ảnh mui thuyền: Khum khum rất tọa hình. Hình ảnh vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng. Sự xuất hiện của con người khiến thiên nhiên hữu tình. Sự im lặng
của con người rất phù hợp với hoàn cảnh thời gian không gian. Sự xuất hiện của con người, con
thuyền vó bè chính là không gian sống của gia đình hàng chài. Tg khẳng định thiên nhiên và con
người có mqh hài hòa mật thiết.
+ Hình ảnh 2 cái gọng vó được tg so sánh như cánh con dơi. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh
một con dơi. Câu văn giàu hình ảnh giúp người hình dung 2 cái gọng vó. Những mắt lưới, tấm lưới
phản chiếu vẻ đẹp con thuyền từ xa. Phùng cảm nhận vẻ đẹp con từ xa, gián tiếp.
+ Đường nét, ánh sáng hài hòa, đơn giản, toàn bích. Vẻ đẹp như một bức tranh mực tầu.
Phùng là người nhạy cảm, yêu thiên nhiên.
->Nhận xét: tả vẻ đẹp con thuyền tg sử dụng tả cảnh: chi tiết, chân thực sinh động. Tg sử câu văn
giàu hình ảnh, phép tu từ rất hiệu quả giúp ng đọc cảm nhận vẻ đẹp của con thuyền, cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên m Trung.
->So sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên: vẻ đẹp của cánh rừng xà nu qua truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Cánh rừng đặc trưng của Tây Nguyên. Vẻ đẹp của quê
hương đất nước là cảm hứng cho ng nghệ sĩ-> tình yêu quê hương đất nc của họ.
->So sánh hình ảnh phố huyện Cẩm Giàng trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
- Tâm trạng của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp đó.
+ Vẻ đẹp của con thuyền khiến P bối rối: khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái
tim như có cái gì bóp thắt vào? Tâm trạng của P là tâm trạng của người nghệ sĩ sau rât nhiều ngày
săn ảnh, tâm tạng của một một chờ đời thì gặp được điều mình mong muốn. Tác giả miêu tả tâm
trạng của P bằng lời độc nội tâm. Qua tâm tạng của P chúng ta thấy P là một người nghệ sĩ chân
chính……
+ Vẻ đẹp của con thuyền tác động đến nhận thức của P: Nhận thức bản thân cái đẹp là đạo
đức. Câu văn thể hiện chất triết lí trong truyện ngắn của tg. Nhận thức của P rất chủ quan.
+ Vẻ đẹp của chiếc thuyền ảnh hưởng đến tâm hồn của P, thanh lọc tâm hồn Trong giây phút
bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần tâm hồn. Tg ca ngợi vai trò của cái đẹp, cái đẹp làm cho tâm hồn trong
ngần…
->So sánh: Viên quản ngục trong Chữ người tử tù: Cái đẹp của cái chữ, cái thiên lương của
Huấn Cao khiến tâm hồn QN trong ngần. Người nghệ sĩ nhạy cảm trước cái đẹp đề cao cái đẹp.
->Nghệ thuật miêu tả tâm trạng của P, Tg sử dụng miêu tả tâm trạng bằng lời độ thoại nội
tâm.
-> Tâm trạng của P-> P yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên.
-
4. Tài năng: P là nghệ sĩ có tài: phát hiện. 1.được vẻ đẹp của con thuyền, lưu giữ vẻ đẹp đó. Tài
của P được thủ trưởng đánh giá cao, tài năng thể hiện qua bức ảnh.
+ Hành động chuyên nghiệp của Phùng khiến người đọc ngưỡng mộ: .Chẳng phải lựa chọn xê
dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết
một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn
mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
+ Ý nghĩa: Phùng đã chụp được bức tranh mực tàu, Phùng lưu giữ vẻ đẹp hài hòa toàn bích của
con thuyền-> Thủ trưởng rất ưng. Bức ảnh được chọn làm bộ lịch. Bức ảnh rất có giá, được treo
trong những gia đình sành nghệ thuật.
->Đây là kết quả rất xứng đáng của người nghệ sĩ trong quá trình săn tìm sáng tạo cái đẹp. Tác
gải trân trọng tài năng của Phùng.
5. Phẩm chất: tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương. Nghệ chân chính, tôn thờ cái đẹp.
- Tình yêu thiên nhiên của P, P phát hiện ra vẻ đẹp của con thuyền, P ví con thuyền như bức
tranh mực tàu.
- P lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên
- Tình yêu quê hương đất nước.

-LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả với nhân vật:
+ Trân trọng trước tài năng, phẩm chất của P.
+ Tác ngợi ca khát vọng của P.
+ NMC đặt niềm tin vào người nghệ sĩ phải có cách nhìn đa diện nhiều chiều, nghệ sĩ cần
bám sát hiện thực cuộc sống khi sáng tạo nghệ thuật.
- Lđ 3: Nhận xét nghệ thuật xây dựng nhân vật P
+ Tình huống truyện: Tình huống nhận thức mang tính phát hiện của P: P phát hiện vẻ đẹp
của con thuyền, P nhận thức bản thân cái đẹp là đạo đức.
+ Đặc điểm; tự sự, triết lí.
+ Ngôn ngữ dung dị đời thường.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật bằng lời độc thoại nội tâm
+ Tả cảnh.
+ Câu văn giàu hình ảnh…
- LĐ 4: Nhận xét làm sáng tỏ yêu cầu của đề. Cách nhìn cuộc sống và con người của tg
trong tác phẩm.
+ Nhìn đa diện, nhiều chiều
+ Phát hiện bản chất của sự vật sau vẻ đẹp
+ Trong tác phẩm: cuộc sống k hề đơn giản, đối lập-> nhìn đa diện, nhiều chiều. Cuộc sống của ng
hàng chài rất phức tạp sau chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu-> cách nhìn đa diện, nhiều chiều -> bản
chất của cuộc sống của người lao động: đông con, đói nghèo…
+ Nhìn con người : nhìn đa diện, nhiều chiều: con người rất phức tạp, dung hòa những mqh. Con
người có sự đối lập-> nhìn đa diện nhiều chiều-> bản chất của con người. Người đàn bà xấu, tâm
hồn đẹp.
+ Nhìn đa diện, nhiều chiều phát hiện bản chất sau vẻ đẹp: Hình ảnh con con thuyền: nhìn xa, đẹp,
gần: chật chội, không gian sống của 1 gđ, tồn tại đói nghèo, bạo lực.
+ Cách nhìn tích cực, tiến bộ của NMC. Giống như quan điểm của NC trong Đôi mắt.
KB:
- Khái quát đặc điểm của nhân vật P trong đoạn trích: P là người nghệ sĩ tài và tâm.
- Cách nhìn của tg. ….
- Nêu cảm xúc về tác phẩm. …

ĐOẠN VĂN 2 :


Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một
người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất
giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết
cả mày đi bây giờ”.
Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi
sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau.
Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng
bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn
dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi
một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn
bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một
cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt nhìn
xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng
rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão
lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng
không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên rừng
xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng làm
nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm, mặc cho
tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe tăng rồi lập
tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết
là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế
nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa
khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc
ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng
cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về
phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ
càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ
bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.
Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ,
nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi
lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề
hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn
bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người
mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng, đuổi
theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền.
Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài
khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng
hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một
quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.
Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.

ĐỀ 1: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó hãy nhận xét tấm
lòng của nhà văn đối với những người lao động làm ăn lam lũ vất vả.
MB: Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu […..] Nguyễn Minh Châu
( 1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc
mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ của người
dân hàng chìa miền Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là
người đàn bà hàng chài. Hình ảnh người đàn bà hàng chài bị chồng đánh trên bãi biển trong
đoạn trích gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ, cảm xúc về tấm lòng của nhà văn đối với những
người lao động làm ăn lam lũ vất vả.

TB:4 luận điểm


1.LĐ 1. Phân tích nhân vật người đàn bà trong đoạn trích.
-Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Bên cạnh chiếc xe rà phá mìn, vào buổi sáng còn mờ sương.
Xuất hiện trong một không gian thơ mộng và lãng mạn. Tg sử dụng nghệ đối lập: cảnh thiên nhiên
đối lập hoàn toàn với ngoại hình-> cuộc sống luôn tồn tại những sự vật, hiện tượng mang tính hai
mặt->là người nghệ sĩ phải có cái nhìn cuộc đời một cách toàn diện để cảm nhân sâu sắc cuộc sống
và con người.
- Tên gọi:
- Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi
một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như
một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện
để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên.
- Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này,
cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị
cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh
tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những
miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất
hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.
- Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ
nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự
sống thật mong manh? Thật cảm thương thay cho số phận những con người.
- Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ lại
quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
- Ngoại hình xấu xí gợi sự lam lũ, nghèo khó.
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. lưng áo
bạc phếch và ướt sũng. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình gợi sự thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của
tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn sử dụng nt miêu tả
khá chi tiết ngoại hình của nhân vật giúp người đọc hình dung rõ nỗi vất vả của mụ. Ngoại hình của
mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt hiện lên trong cảnh đói
khủng khiếp. Điều đó minh chứng cho sự tàn phá , hủy hoại ghê gớm của các nghèo, cái đói.
- Mụ chịu đựng nỗi đau khổ về thể xác lẫn tinh thần.
+ Lao động vất vả để kiếm sống và nuôi các con: thường xuyên thức trắng để kéo lưới.
+ Bị chồng đánh đập dã man.
++ Bị chồng đánh vào buổi sáng sớm sau một đêm thức trắng để kéo lưới.
++ Nơi mụ bị người chồng đánh là ở bãi biển, nơi bãi xe tăng hỏng, cạnh chiếc xe rà phá mìn của
công binh Mĩ.
++ Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ.
++ Hành động man rợ, tàn bạo của người chồng: Người chồng đánh tới tấp: lão trở nên hùng hổ
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách quất tới tấp chiếc dây thắt lưng của lính ngụy lên lưng người
đàn bà.
+ Bị người chồng nguyền rủa bằng cái giọng vừa rên rỉ vừa đau đớn: chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ. Người chồng gọi mụ là mày xưng ông. Điều đó thể hiện sự coi thường của người chồng
với mụ. Người chồng nguyền rủa mụ chết đi để ông nhờ. Người chồng nguyền rủa như vậy vì nếu
mụ chết đi thì mụ sẽ không đẻ nữa và người chồng sẽ được nhờ. Người chồng đã rất căm hận mụ và
mông mụ chết đi, người chồng sẽ đánh mụ để mụ chết đi.
->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
++ Đau đớn, nhục nhã và xấu khổ vì cố gắng che dấu hành động dã man của chồng nhưng vẫn bị
con phát hiện mà lại là đứa con mụ thương yêu nhất: xấu hổ, tủi nhục quá nên mụ khóc và vái lấy,
vái để lạy thằng bé. Đó là nỗi đau nhất mà cđ mụ đã chịu đựng và trải qua.
=> Nhận xét: Cuộc đời của người đàn bà thật khổ cực. Mụ là nạn nhân của cái nghèo, đói và bạo
lực. Nhưng chính mụ cũng là người gây nên nỗi khổ cho chính mụ đó là mụ quá yêu người chồng
vũ phu. Mụ luôn tìm cách bao biện cho hắn. Và có thể mụ phải phụ thuộc quá vào hắn để có thể
nuôi con….Đó là những vấn đề rất đời thường->xót thương.
- Tâm trạng của người đàn bà
+ Khi bước chân lên bờ: mụ lo lắng ngoái đầu lại vì sợ nhỡ thằng Phác động đậy bố nó sẽ giết nó
ngay.
+Khi bị thằng Phác phát hiện: mụ đau đớn và xấu hổ, nhục nhã và mụ đã khóc. Nỗi đau tựa như nỗi
đau của một viên đạn xuyên qua tâm hồn mụ.
- Phẩm chất:
+ Chăm chỉ lao động, lương thiện kiếm sống bằng nghề chài lưới: thức trắng đêm để kéo lưới
cùng chồng.
+ Mụ bao dung, vị tha nên cam chịu, nhẫn nhục để chồng đánh vì thấu hiểu chồng: chủ động để
chồng đánh để vơi đi nỗi khổ: mụ không chống trả, không chửi bới, không bỏ chạy khi chồng đánh.
=> Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục
kinh hoàng với người chồng hung bạo kia? Đó là vì mụ thấu hiểu, mụ bao dung vị tha với chồng.
+ Mụ rất thương các con:
++ Mụ thức trắng đêm kéo lưới cũng mong cho các con được ăn no.
++ Tình thương con còn được thể hiện khi mụ ngoái đầu nhìn lại chỗ con thuyền đậu trên mặt phá.
++ Mụ khóc khi chứng kiến thằng Phác bị bố tát. Mụ ôm chầm lấy nó, van lạy nó. Mụ ôn nó như để
chở che, làm dịu đi nỗi đau vì 2 cái tát của người bố. Mụ van lạy nó như thể xin nó tha lỗi vì mụ
lhoong bảo vệ được nó và như thể xin nó đừng bảo vệ mẹ mà đánh bố để rồi bị bố đánh.
=>Mụ hi sinh bản thân vì chồng. Mụ yêu thương các con theo cách riêng của mụ, mụ cần một
người bố cho các con mụ, mụ muốn chúng nó có cả bố và mẹ nuôi dạy. Đàn bà trên thuyền phải
sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của
một người mẹ.
=> Thái độ của tg: Cảm phục trân trọng nhưng cũng không đồng tình cách mụ chịu đựng nỗi khổ
đau kiểu đó.
*2.Thái độ của tác giả: đồng cảm, xót thương , ngợi ca. Phê phán cách nghĩ tiêu cực và giải pháp
giúp chồng đỡ khổ. Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc
sống bị đày đoạ, đánh đập.Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu. Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện
thực đời sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.
*3.Nghệ thuật:Một số đặc sắc về nghệ thuật.
+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa. Con thuyền có thật.Con thuyền
biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
+ Nghệ thuật tự sự độc đáo: Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn
kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự
công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.
+Ngôn ngữ:Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa
chọn điểm nhìn trần thuật).Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng
ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình,
dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)
+Tình huống truyện: tình huống nhận thức.
+ Tả ngoại hình.
+ Tả cảnh: cảnh thiên nhiên, cảnh bạo lực.
LĐ 4: Nhận xét tấm lòng của tác giả.
c. KB minh họa: Hình ảnh người đàn bà hàng chài trên bãi biển với tấm lưng áo bạc phếch, ướt
sung, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu
trong tâm trí độc giả. Khi nhìn nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn
thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại- những con người lam
lũ vất vả nhưng chan chứa tình yêu chồng, thương con. Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, tác
giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo
mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui
Đề 2: Phân tích nhân vật Phùng lúc trên bãi biển/ phát hiện lần 1…
MB: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức sáng tạo dồi dào. “Chiếc thuyền ngoài xa” (
1983) phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ của người dân miền biển miền Trung những năm
sau chiến tranh. Trong truyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng
lúc ở bãi biển/qua phát hiện lần 1 để thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ
giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
TB:
1. Lđ 1:
* Hoàn cảnh sống và nghề nghiệp:
- Trong chiến tranh: Phùng là một người lính, Phùng chiến đấu tại một vùng biển miền Trung cách
Hà Nội khoảng hơn 600 km-> sứ mệnh cao cả là giải phóng quê hương.
- Sau chiến tranh: Phùng sống ở Hà Nội. Anh là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh-> sứ mệnh cao cả
mang cái đẹp để phục vụ cuộc sống của con người.
=> Mỗi một giai đoạn sống anh đều thực hiện tốt sứ mệnh của mình. Nhưng trong vai trò là người
nghệ sĩ anh mang nhiều nỗi trăn trở trước cuộc đời nhất la sau khi rời khỏi vùng đất trong chuyến đi
thực tế.
* Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện:
- Phùng xuất hiện trong một hoàn cảnh không gian rất đẹp, rất thơ mộng: Phùng xuất hiện trên bãi
biển ở vùng biển miền Trung- quê hương của Đẩu, nơi ngày trước Phùng từng có tg tham gia chiến
đấu vào một buổi sáng sớm, trời lất phất mưa.
- Phùng xuất hiện với trạng thái cảm xúc vừa chán nản vì chưa chụp được bức ảnh ưng ý, vừa hi
vọng sẽ chụp được bức ảnh ưng ý.
-> Không gian thơ mộng ấy là hoàn cảnh để Phùng được trải nghiệm, được thể hiện những cảm
nhận tinh tế và tài năng của người nghệ sĩ.
* Tài năng: Phùng là một người nghệ sĩ có tài năng đích thực.
- Tài năng: Anh đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một “cảnh đắt trời cho”- một
cảnh tượng tuyệt đẹp đó là hình ảnh chiếc thuyền vó bè trên biển trong sương sớm.
+ Con thuyền xuất hiện trên biển trong sương sớm: Chiếc thuyền được nhà văn khắc hoạ chi tiết
và rất ấn tượng: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha
đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ".
->Nhà văn miêu tả từng bộ phận của con thuyền từ mũi thuyền, hai gọng vó và cái mui thuyền…
Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng
mực Tàu của một danh hoạ thời cổ", và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng
ta thu vào một tấm ảnh.
-> Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người
nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...
-> Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người.  Mặt khác, như
chính cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, trong sự cảm nhận ban đầu cái cảnh tượng ấy giống như “một
bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều
hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
+ Tài năng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được thể hiện rất rõ qua giá trị của bức ảnh anh
chụp. Bức ảnh chiếc thuyền vó bè trên biển trong sương sớm sau này được chọn trong bộ lịch. Và
nó được treo trong nhà của rất nhiều người sành nghệ thuật.
=>Như vậy, có thể khẳng định Phùng là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng.
=> So sánh: ông lái đò- chèo thuyền vượt thác, ông VNT- kiến trúc sư=> nghệ sĩ đích thực.
- * Phát hiện của Phùng: (Phát hiện lần thứ 1) Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá
thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bản
thân cái đẹp chính là đạo đức. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng
đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ của cuộc đời. Anh cảm thấy tâm hồn mình như được
gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi.
+Tâm trạng của người nghệ sĩ: Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công,
người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã
khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong
lòng anh. 
* Phẩm chất:
- Phùng là một người nghệ sĩ biết yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp.
+ Phùng yêu thiên nhiên miền Trung: anh miêu tả vẻ đẹp của con thuyền vó bè trên biển trong
sương sớm.
+ Anh trân trọng cái đẹp: đó là một cảnh đắt trời, một bức tranh mực tàu của 1 danh họa thời trung
cổ.
-> Phùng yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.
- Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công, biết bảo vệ,
bênh vực những nạn nhân đau khổ của bạo lực gia đình.
 + Chứng kiến cảnh bạo lực gia đình: bênh vực người đàn bà.
++ Sự xuất hiện của cặp vợ chồng người đàn bà: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là
một người đàn bà xấu xí: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt rỗ mệt mỏi, tái mét và buồn ngủ,
một gã đàn ông có đôi mắt độc dữ, cái lưng cong như lưng con thuyền
++ Hành động của gã chồng: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo: lão đánh vợ bằng cái
dây thắt lưng của lính ngụy, lão đánh tới tấp lên lưng vợ, vừa đánh vừa chửi: chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ, mày chết đi ông nhờ.
++Hành động của đứa con: vì thương mẹ đã đánh lại bố: nó vung cái dây thắt lưng quật vào ngực
lão, để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…
+ +Tâm trạng của Phùng: Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ :
“Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. 
-> Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì
của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy
“bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng
còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời.
->Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã
làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như nhuốm màu đau thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật
không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp
người. 
->Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng định chạy đến can ngăn.
+ Chứng kiến cảnh người đàn bà quỳ lạy đứa con trai: Phùng cảm động trước tình mẫu tử.
++ Phùng cảm nhận được nỗi khổ đau của người đàn bà: như một viên đạn xuyên qua tâm hồn
người đàn bà . Mụ khóc ôm lấy con, vái lạy con -> mụ thương con vì phỉa chứng kiến cảnh tượng
đau long, vì bị bố tát.
++ Phùng cảm nhận được tình yêu thương mẹ của thằng Phác khi nó lấy tay thấm những giọt nước
mắt đọng trong những nốt rỗ trên mặt mẹ.
-> Những hình ảnh đó được Phùng cảm nhận bởi một trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ biết đồng
cảm trước nỗi đau của con người.
* Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn:
+ Là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa
tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm.
=>Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận
cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng
trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
Luận điểm 2:  Thái độ của nhà văn:  
- Xây dựng nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nhiều quan niệm mới mẻ và sâu
sắc về con người, về nghệ thuật và cả những chiêm nghiệm về cuộc đời. Tg ca ngợi và trân trọng
nhưng cũng phê phán cách nhìn đời đơn giản của người nghệ sĩ . Tg nêu một thông điệp với
người nghệ sĩ hãy sống và làm việc theo quan điển nghệ thuật vị nhân sinh.
LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc sống.
+ Diễn biến tâm trạng: Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái
đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ
nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của
người nghệ sĩ.
+ Câu văn đậm chất triết lý: bản thân cái đẹp là đạo đức
KB: Qua hình ảnh nhân vật Phùng qua phát hiện lần 1/ trên bãi biển Nguyễn Minh Châu muốn
gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không
nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Chiếc
thuyền ngoài xa chạm đến trái tim người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng đến xót xa và trân trọng
trước vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của tình mẫu tử. Đồng thời tp xứng đáng là một tác phẩm
nghệ thuật đặc sắc của NMC thời kì đổi mới.

ĐỀ 1: Phân tích/ cảm nhận hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong tp CTNX của NMC.
Qua đó, anh/chị hãy làm rõ giá trị nhân đạo của nhân đạo của tác phẩm.
a. MB: Minh họa:
Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu: “Nguyễn Minh Châu là
người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ
cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Vậy Nguyễn Minh Châu là ai? Nguyễn Minh Châu (1930
– 1989) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời
kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên
Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng
chài miền Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là người đàn
bà hàng chài, người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về
những câu chuyện đời. Qua nhân vật ng đàn bà hàng chài, tg giá trị nhân đạo của nhân đạo
của tác phẩm.

TB:
1.Những chi tiết liên quan
- Tên: Cách nhà văn gọi người đàn bà: gọi là mụ: vô danh, phiếm định => khái quát cuộc đời, số
phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác. Cách nhà văn gọi người đàn bà này giống
như Kim Lân gọi người vợ nhặt là thị. Gọi nhân vật bằng một đại từ, đó là cách gọi quên
thuộc của người Việt và cũng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

-Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Bên cạnh chiếc xe rà phá mìn, vào buổi sáng còn mờ sương.
Xuất hiện trong một không gian thơ mộng và lãng mạn. Tg sử dụng nghệ đối lập: cảnh thiên nhiên
đối lập hoàn toàn với ngoại hình-> cuộc sống luôn tồn tại những sự vật, hiện tượng mang tính
hai mặt->là người nghệ sĩ phải có cái nhìn cuộc đời một cách toàn diện để cảm nhân sâu sắc
cuộc sống và con người.

- Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ lại
quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
- Ngoại hình( sgk trang 71)
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. lưng áo
bạc phếch và ướt sũng->Nghệ thuật miêu tả ngoại hình->thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của tạo
hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn sử dụng nt miêu tả
khá chi tiết ngoại hình của nhân vật->người đọc hình dung rõ nỗi vất vả của mụ.
->Ngoại hình của mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt hiện
lên trong cảnh đói khủng khiếp->sự tàn phá , hủy hoại ghê gớm của các nghèo, cái đói.
- Cuộc đời: Bất hạnh với những nỗi đau rất đời thường.
+Trước khi lấy chồng:chịu nhiều thiệt thòi:
++Xấu: bị rỗ mặt vì bệnh đậu mùa nên không một người đàn ông nào trên phố dám lấy mặc dù gia
đình mụ cũng khá giả->cái xấu là một trong nhũng nguyên nhân gây ra cuộc đời khổ cực của mụ.
Mụ phải lòng anh hàng chài ít học, hiền lành nhưng cục tính và có mang với anh ta. Sau đó mụ
theo anh ta xuống thuyền ở.
+ Sau khi lấy chồng: cuộc đời chồng chất nỗi khổ cực:
++Sống lênh đênh trên biển trong con thuyền chật chội, lại phải đối diện với những khắc nghiệt và
hiểm nguy của thời tiết: có tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng->cuộc sống
bấp bênh của người dân hàng chài.
++Lao động vất vả để kiếm sống và nuôi các con: thường xuyên thức trắng để kéo lưới.
++Đông con: bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật nhà mụ trên dưới một sắp gần chục đứa con =>
chồng hung hăng-> nỗi khổ chung của đám đàn bà vùng biển vì không có biện pháp kế hoạch hóa
gia đình->đông con->nghèo đói.
++Bị chồng đánh: Bản tính người chồng là hiền lành nhưng cục tính. Những năm mới lấy nhau,
chưa có nhiều con, chồng mụ chưa khổ lắm nên không bao giờ đánh mụ. Nhưng rồi sau đó mụ liên
tục bị chồng đánh đập dã man, 3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng. Bất kể lúc nào khổ quá,
chồng lại xách mụ ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn. Vũ khí mà
người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ. Người chồng đánh tới tấp như lửa
cháy, vừa đánh vừa chửi: chúng mày chết hết đi cho ông nhờ.
->So sánh mụ với những người đàn bà hàng chài khác: đều đông con, đều đói nghèo nhung mụ lại
khác họ là hộ không bị chồng đánh mà chồng của họ chỉ uống rượu còn mụ bị chồng đánh và
chồng mụ k uống rược.
->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
++Khổ tâm vì cố gắng che dấu hành động dã man của chồng nhưng vẫn bị con phát hiện mà lại là
đứa con mụ thương yêu nhất: xấu hổ, tủi nhục quá nên mụ khóc và vái lấy, vái để lạy thằng bé. Đó
là nỗi đau nhất mà cđ mụ đã chịu đựng và trải qua.(dẫn chứng trang 72)
=> Nhận xét: Cuộc đời của người đàn bà thật khổ cực. Mụ là nạn nhân của cái nghèo, đói và bạo
lực. Nhưng chính mụ cũng là người gây nên nỗi khổ cho chính mụ đó là mụ quá yêu người chồng
vũ phu. Mụ luôn tìm cách bao biện cho hắn. Và có thể mụ phải phụ thuộc quá vào hắn để có thể
nuôi con….Đó là những vấn đề rất đời thường->xót thương.
-Tâm trạng của người đàn bà
+ Khi bước chân lên bờ: mụ lo lắng ngoái đầu lại vì sợ nhỡ thằng Phác động đậy bố nó sẽ giết nó
ngay.
+Khi bị thằng Phác phát hiện: mụ đau đớn và xấu hổ, mụ đã khóc. Nỗi đau tựa như nỗi đau của
một viên đạn xuyên qua tâm hồn mụ
+Khi ở tòa án:
++Lúc đầu mới đến: Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi. Rón rén ngồi ghé vào chiếc
ghế mà Đẩu mời. Cách xưng hô: con, quý toà. Vì người đàn bà này từ ngày xuống thuyền ở chưa
bao giờ mụ đặt chân đến chỗ công quyền và vì mụ biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mụ đến đây.
++Buồn bã khi nhớ lại và kể cuộc đời bất hạnh của mình (dẫn chứng trang 74-75)
++Vui khi nhắc đến các con và những giấy phút vui vẻ hòa thuận hiếm hoi trên thuyền: khuôn mặt
ửng hồng
++Hi vọng vào tương lai: đẻ ít, mua được chiếc thuyền rộng..
-Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp.
+ Chăm chỉ lao động, lương thiện kiếm sống bằng nghề chài lưới: thức trắng đêm để kéo lưới
cùng chồng.
+Ty yêu chồng sâu sắc và rất khác người. Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ
phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” -> kiên quyết
không bỏ chồng bằng mọi giá-> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và
Phùng -> một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận
đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng)
+ Mụ thấu hiểu chồng khi đưa ra lí lẽ : hắn hiền lành nhưng cục tính, cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi hòa thuận vui vẻ trên thuyền…để “đừng bắt tôi bỏ nó”.
+ Mụ bênh vực chồng, nhận lỗi về phía mình: Mụ ước giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động
hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
+ Mụ chủ động để chồng đánh để vơi đi nỗi khổ: mụ không chống trả, không chửi bới, không bỏ
chạy khi chồng đánh.
=> Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục
kinh hoàng với người chồng hung bạo kia? Đó là vì mụ yêu lão, mụ đã phải lòng lão. Mụ yêu thằng
Phác nhất vì nó giống lão. Mụ vui khi nhắc đến lão.
-Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp.
+ Chăm chỉ lao động, lương thiện kiếm sống bằng nghề chài lưới: thức trắng đêm để kéo lưới
cùng chồng.
+Ty yêu chồng sâu sắc và rất khác người. Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người chồng vũ
phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” -> kiên quyết
không bỏ chồng bằng mọi giá-> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả Đẩu và
Phùng -> một sự thật không dễ lí giải trong hoàn cảnh người đàn bà phải chịu đựng những trận
đánh thừa sống thiếu chết.(ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng)
+ Mụ thấu hiểu chồng khi đưa ra lí lẽ : hắn hiền lành nhưng cục tính, cũng có lúc vợ chồng con cái
chúng tôi hòa thuận vui vẻ trên thuyền…để “đừng bắt tôi bỏ nó”.
+ Mụ bênh vực chồng, nhận lỗi về phía mình: Mụ ước giá đẻ ít đi => biện minh cho hành động
hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
+ Mụ chủ động để chồng đánh để vơi đi nỗi khổ: mụ không chống trả, không chửi bới, không bỏ
chạy khi chồng đánh.
=> Câu hỏi đặt ra: điều gì khiến người đàn bà khốn khổ ấy tha thiết bám víu cuộc sống địa ngục
kinh hoàng với người chồng hung bạo kia? Đó là vì mụ yêu lão, mụ đã phải lòng lão. Mụ yêu thằng
Phác nhất vì nó giống lão. Mụ vui khi nhắc đến lão.
+ Hiểu lẽ đời: am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.
++ Hiểu về vai trò của người đàn ông: Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú
biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những khi biển
động => vì cần một trụ cột.Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc sống với
ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.
++ Hiểu được vai trò của người đàn bà: Đàn bà sinh ra là để đẻ con và nuôi dạy con khôn lớn nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì
trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ. Suy nghĩ của mụ vẫn mang định
kiến về giới tính….
+Giao tiếp ứng xử rất lịch sự và linh hoạt: Thái độ, hành động khi được mời tới toà án: Lúc
đầu: Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi . Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà Đẩu
mời. Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu tự
tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng
nghe. Chị cũng hiểu được thiện chí của Đẩu và Phùng đang muốn giúp đỡ mình.
+Khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn: mụ ao ước gái mụ đẻ ít thì chồng mụ đỡ khổ, giá mụ mua
được con thuyền rộng thì các con mụ có một kg sống tốt hơn…luôn vươn lên trong cuộc sống.
-> So sánh với niềm tin của bà cụ Tứ.
Thái độ của tác giả: đồng cảm, xót thương , ngợi ca. Phê phán cách nghĩ tiêu cực và giải pháp giúp
chồng đỡ khổ. Số phận người đàn bà: đau khổ, bất hạnh, buộc phải bảo vệ, duy trì một cuộc sống bị
đày đoạ, đánh đập.Tính cách: yêu thương con, vị tha, nhân hậu. Sự lí giải, làm sáng tỏ hiện thực đời
sống đầy nghịch lí mà Phùng và Đẩu “không thể hiểu được”.
*2.Nghệ thuật:Một số đặc sắc về nghệ thuật.
+ Xây dựng hình ảnh giàu giá trị biểu tượng: chiếc thuyền ngoài xa. Con thuyền có thật.Con thuyền
biểu tượng cho: nghệ thuật, ẩn dụ cho kiếp người đơn độc trên đại dương cuộc đời.
+ Nghệ thuật tự sự độc đáo: Điểm nhìn trần thuật: người kể chuyện Phùng - một người lính dày dặn
kinh nghiệm chiến trường, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, một con người tha thiết đấu tranh cho sự
công bằng => điểm nhìn trần thuật sắc sảo, giàu suy tư.
+Ngôn ngữ:Ngôn ngữ người kể chuyện: khách quan, chân thực, giàu sức thuyết phục (do sự lựa
chọn điểm nhìn trần thuật).Ngôn ngữ nhân vật: cá thể hoá (Ngôn ngữ của người đàn bà: lóng
ngóng, van lơn khi mới đối diện với “quí toà”; chững chạc, thấu trải khi tự kể câu chuyện đời mình,
dịu dàng, xa xót khi nói với con; lời lẽ của người đàn ông: tàn nhẫn, tục tằn,…)
+Tình huống truyện: tình huống nhận thức.
+ Tả ngoại hình.
+ Tả cảnh: cảnh thiên nhiên, cảnh bạo lực.
3. Nhận xét yêu cầu của đề: Giá trị nhân đạo của tp:
- NMC 1.đồng cảm với nỗi khổ những ng dân hàng chài: Sống lênh đênh, khí hậu khắc nghiệt, lao
động vv, thuyền chật, đông con, nghèo đói…
- NMC tố cáo: chiến tranh: nghèo vì chồng trốn lính, tố cáo lão chồng, cục tính, thiển cận, đổ lỗi
mụ đẻ nhiều, đánh vợ
- NMC ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn/phẩm chất… của nhân vật
+ Người đàn bà: yêu con, chồng, hiểu lẽ đời…
+ Phác yêu mẹ.
+ Đẩu bảo vệ lẽ phải, trách nhiệm.
+ Phùng: tài, tâm
-Mở ra cho nv 1 cs mới: có thể lão k đánh vợ, qua điều ước của mụ-Đẩu có trách nhiệm.
KB:
Hình ảnh người đàn bà hàng chài với tấm lưng áo bạc phếch, ướt sung, ánh mắt cam chịu
hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả.
Khi nhìn nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết
bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại- những con người lam lũ vất vả nhưng chan
chứa tình yêu chồng, thương con. 2.Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả đã gửi gắm
không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện
niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

ĐOẠN VĂN 3:

Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng -
cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má
liền tìm đến một góc tường để ngồi.
Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu
người lại.
Đẩu hỏi:
- Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?
Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.
- Thưa đã...
Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà
ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:
- Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như
hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn
ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng
ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió
biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về
sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân
chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa
có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới
con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn
lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án
- chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...
Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người
một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói
thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn...
cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác,
ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ
nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người
đáng lẽ mụ phải biết ơn...
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của
chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố
huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
ĐOẠN VĂN 3: Nội dung chính: câu chuyện của mụ tòa án.
Tình huống 1: Phân tích/ cảm nhận hình ảnh người đàn bà hàng chài trong đoạn trích. Từ đó, nhận
xét…..
Tình huống 2; Phân tích/ cảm nhận hình ảnh nhân vật Phùng trong đoạn trích. Từ đó, nhận xét…..
Tình huống 3: Phân tích/ cảm nhận hình ảnh chánh án Đẩu trong đoạn trích. Từ đó, nhận xét…..
Tình huống 4: Phân tích / cảm nhận câu chuyện của người đàn bà ở tòa án. Từ đó nhận xét…
Tình huống 5: Phân tích/ cảm nhận đoạn trích. Từ đó nhận xét….

Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng -
cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má
liền tìm đến một góc tường để ngồi.
Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu
người lại.
Đẩu hỏi:
- Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?
Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.
- Thưa đã...
Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà
ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:
- Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như
hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn
ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và
phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng
lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước
ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về
sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân
chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa
có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới
con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn
lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án
- chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...
Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng
người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói
thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn...
cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác,
ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không
phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi,
một người đáng lẽ mụ phải biết ơn...
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò
của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của
phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.

Tình huống 1: Phân tích/ cảm nhận hình ảnh người đàn bà hàng chài trong đoạn trích. Từ đó, nhận
xét…..
DÀN Ý CHO KIỂU BÀI PHÂN TÍCH NHÂN VẬT, TỪ ĐÓ NHẬN XÉT YÊU CẦU.
MB:
- Tác giả….
- Tác phẩm..
- Nhân vật người đàn bà. …đoạn trích
- Nêu yêu cầu của đề.
…..( Lí luận, ý kiến về tác giả, tp….)Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989 ) là một trong số
những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền
ngoài xa
( 1983). Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng chài miền
Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là người đàn bà
hàng chài- người đàn bà xấu xí, nghèo khó nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng. Điều đó
được tác giả thể hiện qua đoạn trích từ câu văn “…..” đến câu văn “….”. Qua đây, người đọc
nhận thấy….
TB: Phân tích nhân vật người đàn bà. Từ đó nhận xét…4 luận điểm.
1. LĐ 1: Phân tích nhân vật người đàn bà qua những chi tiết:
- Hoàn cảnh xuất hiện: tòa án
- Hoàn cảnh sống: trên thuyền
- Ngoại hình: xấu xí
- Nghề: làm nghề thuyền lưới vó
- Tên gọi: người đàn bà, mụ
- Cuộc đời: Cuộc đời khổ đau vì bị bạo hành
- Tâm trạng: Lúng túng, sợ sệt..
- Phẩm chất: Hi sinh
*Hoàn cảnh xuất hiện của người đàn bà: Mụ xuất hiện ở một nơi đặc biệt đó là tòa án.
- Mụ xuất hiện ở tòa án vì được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
-> Việc gia đình mụ đánh nhau như kẻ thù trên bãi biển.
-> Người đàn bà xuất hiện trong vai trò: vừa là nạn nhân vì bị lão chồng đánh, vừa là nhân
chứng vì chứng kiến cảnh lão chồng và Phùng đánh nhau.
-> Đây là lần thứ 2 mụ bị gọi lên: Đây là lần thứ hai> mụ e sợ, trốn tránh.
=> Tòa án là một nơi công sở-> nơi giải quyết những chanh chấp, nơi thực thi pháp luật.
=> Xuất hiện ở tòa, câu chuyện cuộc đời của mụ dần được hé mở.
=> Dụng ý nghệ thuật của NMC khi để mụ xuất hiện ở tòa án.
=> Sự xuất hiện của mụ ở tòa khác với sự xuất hiện của mụ trên bãi biển.
* Hoàn cảnh sống của người đàn bà: Hoàn cảnh sống của mụ rất éo. - Mụ sống ở trên biển
Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước.> Mụ phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt-> Mụ ít tiếp
xúc với người trên đất liền.
- Mụ sống trong hoàn cảnh, môi trường đầy bạo lực ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng.
- Mụ sống cuộc đời của người làm ăn lam lũ, khó nhọc.
-> Hoàn cảnh sống của mụ được miêu tả qua giới thiệu của Phùng, qua câu chuyện của mụ, qua
cảm nhận của Đẩu.
-> Thái độ của tác giả: cảm thông hoàn cảnh của mụ, của những người dân hàng chài khác.
-> So sánh hoàn cảnh của Mị: Sống không gian ngột ngạt thiếu tự do, hiện hữu cường quyền và
thần quyền. Mị đau khổ.
=> Mị và người đàn bà phỉ đối mặt với nỗi khổ đau vì bạo lực.
-> So sánh với hoàn cảnh của bà cụ Tứ: Ngột ngạt của cái đói của cái chết.
=> Mụ và bà cụ Tứ đối mặt với lam lũ, nghèo khó.
* Ngoại hình, nghề nghiệp: Khi xuất hiện trên bãi biển, Phùng rất ấn tượng với ngoại hình của
người đàn bà, với xẻ xấu xí bởi khuôn mặt nhiều vết rỗ, bởi áo bạc phếch, rách rưới…Khi lên tào
án, mụ vẫn mặc áo đó. Trong câu chuyện mụ kể, chúng ta hình dung được công việc mưu sinh hàng
ngày, mụ sống bằng nghề thuyền lưới vó. Cuộc sống vất vả lam lũ, khó nhọc.
* Tên gọi của người đàn bà: Mụ, người đàn bà hàng chài. Người đàn vô danh, không có tên. Đây
là dụng ý của tác giả muốn khái quát cuộc đời, số phận, tính cách của bao người phụ nữ làng chài
khác. Cách nhà văn gọi người đàn bà này giống như Kim Lân gọi người vợ nhặt là thị. Gọi nhân vật
bằng một đại từ, đó là cách gọi quên thuộc của người Việt và cũng thể hiện dụng ý nghệ thuật của
nhà văn.
*Cuộc đời khổ đau của người đàn bà khi sống trong môi trường bạo lực> Mụ chính là nạn nhân
của bạo lực gia đình.
- Mụ thường xuyên bị chồng đánh Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
-> Nguyên nhân Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Đẩu nhắc đến hắn- người
chồng mụ, lão hàng chài xuất hiện trên bãi biển, đánh mụ bằng chiếc dây thắt lưng của lính ngụy.
-> Nỗi khổ đau liên tục bị người chồng như hắn đánh.
-> Nỗi khổ đau về thể xác, lão chồng đánh mụ theo quy luật.
-> Mụ rất bất hạnh và Đẩu dự đoán chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu.
-> Nhận xét: Nỗi khổ đau của mụ được tái hiện qua nghệ thuật đối thoại giữa Đẩu với mụ, giữa vị
chánh án thực thi pháp luật với mụ.
> Thái độ cảm thương với của nỗi khổ đau.
- Cuộc đời của mụ là cuộc đời của người làm ăn lam lũ, khó nhọc...-> vì hoàn cảnh sống, công
việc mưu sinh vất vả, khó khăn.
=> Nhận xét thái độ của tác giả: cảm thương với nỗi khổ đau của mụ được thể hiện qua thái độ của
Đẩu.
=> So sánh với Mị. Mị khác mụ ở chố không phải vất vả mưu sinh trên biển. Mị cũng giống mụ vất
vả làm việc quần cả ngày cả đêm. Mị như mụ đều là nạ nhân của chồng. Thân phận những người
phụ nữ chịu nhiều bất hạnh-> cảm thương.
* Diễn biến tâm trạng của người đàn bà: Tâm trạng của mụ diễn biến phức tạp.
- Tâm trạng người đàn khi lên tòa án: người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ lúng
túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
+ Nguyên nhân: vì đây là thứ 2 bị gọi. Mụ lên giải quyết việc gia đình. Mụ không thể che dấu
được…
+ Biểu hiện: tìm đến một góc tường để ngồi, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế
và cố thu người lại.
+ Nghệ thuật: miêu tả qua dáng điệu, cử chỉ, hành động> Tác giả am hiểu tâm lí nhân vật- tâm lí
của người lần đầu tiên tòa án, giải quyết việc gia đình…
- Tâm trạng của mụ khi nghe Đẩu phán quyết và hỏi mụ nghĩ thế nào. Mụ sợ hãi, van xin
khẩn thiết.
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
+ Biểu hiện tâm trạng: Hành động: mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu. Để van xin Đẩu đừng bắt mụ bỏ nó.
->So sánh: Mụ chắp tay vái đứa con lúc trên bãi biển. Vì mụ muốn xin nó chấm dứt hành động
đánh bố để bảo vệ mẹ.
->Mụ xin Đẩu chấm dứt hành bênh vực mụ mà kết tội người đàn ông. Van xin Dẩu chấm dứt can
thiệp việc gia đình của mụ.
+ Biểu hiện qua câu nói- lời van xin: bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó...
->Mụ chấp nhận mọi hình phạt để van xin được sống với chồng, không bỏ chồng. Tác giả miêu tả
tâm trạng của mụ qua nghệ thuật đối thoại, qua đó chúng thấy được nghịch lí, mâu thuẫn trong mụ,
phẩm chất của mụ đó là sự hi sinh.
-> Nguyên nhân khiến mụ sợ hãi van xin: Vì mụ sợ phải bỏ chồng, mụ sự can thiệp của Đẩu, vì mụ
muốn gìn giữ gia đình.
+ Đẩu ngạc nhiên trước thái độ của mụ và thay đổi quan điểm, thể hiện chủ trương nguyên tắc của
mình.
++ Chủ trương nguyên tắc của Đẩu đó hòa giải. Chủ trương của Đẩu rất đúng quy trình khi xử lý
vấn đề về hôn nhân- ly hôn. Chủ trương của Đẩu dựa trên lý thuyết, chủ trương thể tấm lòng của
Đẩu- cảm thông. Đẩu đã làm hết trách nhiệm. Chủ trương của Đẩu không sát với thực tế của cuộc
sống của lam lũ.
-Tâm trạng của mụ khi Đẩu trao đổi với mụ về chủ trương nguyên tắc của Đẩu, mụ ngơ ngác,
van xin sự thấu hiểu từ Đẩu và Phùng.
+ Chủ trương nguyên tắc của Đẩu đó hòa giải. Chủ trương của Đẩu rất đúng quy trình khi xử lý
vấn đề về hôn nhân- ly hôn. Chủ trương của Đẩu dựa trên lý thuyết, chủ trương thể tấm lòng của
Đẩu- cảm thông. Đẩu đã làm hết trách nhiệm. Chủ trương của Đẩu không sát với thực tế của
cuộc sống của lam lũ.
+ Tâm trạng của mụ ngạc nhiên: Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng
vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác. Mụ ngơ ngác vì sự thay
đổi trong chủ trương của Đẩu. Mụ ngơ ngác vì mụ hiểu được sự cảm thông của Đẩu.
+ Tác giả miêu tả qua cuộc đối thoại giữa mụ với Đẩu, lời lẽ dung dị đời thường, rất sắc sảo.
- Tâm trạng của mụ khi nhìn ra ngoài bờ phá, mụ sống trong tâm trạng day dứt qua đôi mắt
mệt mỏi.
+ Không gian ngoài bờ phá: có con thuyền/ chiếc mủng nơi có đứa con gái đang đợi mụ, nơi có con
thuyền vó bè, nơi tổ ấm của gia đình. Trên con thuyền ngoài bờ phá có sắp con, có lão chồng của
mụ. Ngoài bờ phá là không gian sống của mụ, không gian đấy, mụ có những tháng ngày lam lũ, vất
vả…
+ Tâm trạng của mụ day dứt: Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con
đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng. Nỗi day
dứt của mụ đó chính là sự tồn tại cái gọi là gia đình. Nỗi day dứt qua ánh mắt mệt mỏi thể hiện sự
chịu đựng của mụ.

 Nhận xét: khi người đàn bà lên tòa án, người đàn bà sống trong sự lúng túng, sợ sệt, nỗi mệt
mỏi. Đẩu tỏ ra gần gũi, động viên mụ.
 Miêu tả tâm trạng của Đẩu, tác giả sử dụng nghệ thuật đối thoại, ngôn ngữ dung dị
 Tác giả thể hiện sự thấu hiểu tâm lí của nhân vật-> tài năng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu.
 So sánh : Tô Hoài miêu tâm trạng của Mị->tài năng nghệ thuật.
*. Phẩm chất của người đàn bà: phẩm chất tốt đẹp-vẻ đẹp tâm hồn của mụ-vẻ khuất lấp ẩn sau
vẻ bề ngoài xấu xí, ẩn sau vẻ lúng túng sợ sệt.
-Người đàn bà am hiểu lẽ đời:
+ Mụ hiểu quy tắc xưng hô giao tiếp chốn công sở. Mụ tỏ ra rất lịch sự: Con lạy quý tòa...
 Mụ xưng hô với Đẩu là con và quý tòa. Lối xưng hô thể hiện sự tôn trọng của mụ xét ở góc
độ địa vị xã hội.
 Mụ xung hô như vậy thể hiện sự nhún nhường vì thân phận người làm ăn lam lũ khó nhọc.
 Mụ thể hiện tôn trong với Đẩu- đại diện cho pháp luật.
+ Mụ hiểu được tấm lòng chân thành của Đẩu. Khi Đẩu tỏ thái độ bênh vực, mụ cảm ơn Chị
cám ơn các chú.
+ Mụ hiểu cuộc sống của người làm ăn lam lũ khó nhọc vì mụ là người làm ăn lam lũ khó nhọc.
 Mụ khác với Đẩu và Phùng, mụ từng trải trong cuộc sống mưu sinh.
 Mụ giống như bà cụ Tứ, bà cụ Tứ hiểu lẽ đời, hiểu người. Bà hiểu cảnh ngộ của người đàn-
gặp bước khó khăn.
 Tác giả NMC hay Kim Lân đều thể hiện tấm lòng bao dung với người làm ăn lam lũ khó
nhọc.

- Mụ là một người đàn bà có tấm lòng bao dung, vị tha với chồng.
+ Mụ lên tòa thay cho lão. Đẩu gọi lão lên, lão không lên. Lần thứ hai, mụ lên. Đây là lần
thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
 Mụ thay lão lên tòa là mụ nhận trách nhiệm thay lão vì tội của lão là tội hành hung Phùng.
Hành động của mụ giúp lão thoát tội hành hung.
+ Mụ van xin Đẩu: đừng bắt con bỏ nó. Nó là lão chồng, lão chồng thường xuyên đánh mụ.
Mụ nhất định không chịu bỏ. Mụ chấp nhận mọi hình phạt để được sống với lão. Mụ còn tình
cảm với lão, tình vợ chồng.
 So sánh với Mị: Mị bỏ A Sử chạy theo A Phủ. Mị chạy theo A phủ, nếu còn sống ở đây thì
chết mất. Mị bỏ A Sử vì Mị với A Sử có lòng mà vẫn phải ở với nhau. Mụ khác với Mị vì
mụ có đàn con, mụ lão. Mụ còn có lòng với lão.
- Mụ người đàn bà yêu thương con hi sinh vì con. Mụ van xin Đẩu: đừng bắt con bỏ nó. Nó
là lão chồng, lão chồng thường xuyên đánh mụ. Mụ nhất định không chịu bỏ. Mụ chấp nhận mọi
hình phạt để được sống với lão. Mụ còn tình cảm với lão, tình vợ chồng. Mụ không bỏ lão vì
mụ còn đàn con. Mụ không muốn sắp con của mụ sống cảnh li tán. Mụ hi sinh nỗi đau thể xác,
chấp nhận nó vì con có một gia đình.
=> Nhận xét: Phẩm chất của mụ được tái hiện qua câu chuyện của mụ ở tòa án. Câu chuyện
được kể bởi Phùng, Phùng là người kể chuyện. Vẻ đẹp tâm hồn của mụ Phùng tò mò, sau đó
khiến Phùng trân trọng.
=> Thái độ của tác giả: trân trọng của nhà văn với người làm ăn lam lũ khó nhọc.
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả với mụ: với nỗi đau thể xác, tác giả thể hiện sự cảm
thương. Với tâm trạng lúng túng, sợ sệt, nhà văn thể hiện sự thấu hiểu. Với phẩm chất, tác giả
thể hiện sự trân trọng. Nguyễn Minh Châu có tâm nhân đạo, cách nhìn thấu hiểu với người làm
ăn lam lũ.
LĐ 3: Nghệ thuật miêu tả người đàn bà.
- Tình huống truyện: nhận thức phát hiện của Phùng- phát hiện lần hai- cảnh bạo lực và
nguyên nhân.
- Nghệ thuật đối thoại: ngôn ngữ đối thoại dung dị, sắc sảo
- Nghệ thuật kể chuyện: hấp dẫn, lôi cuốn qua ngôn ngữ kể chuyện linh hoạt về giọng điệu.
- Nghệ thuật miêu tả tâm trạng
- Nhân vật được đặt trong một hoàn. cảnh nghịch lý.
LĐ 4: Nhận xét yêu cầu của đề: Qua nhân vật người đàn bà trong đoạn trích, chúng ta thấy
được....
KB:
- Nhân vật người đàn bà là người phụ nữ lam lũ, vất vả. Mụ là một nạn nhân của bạo lực, đói
nghèo. Mụ là người có tâm hồn rất đáng trân trong.
- Qua nhân vật người đàn bà , nhà văn thể hiện...
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.....

Tình huống 3: Phân tích/ cảm nhận hình ảnh chánh án Đẩu trong đoạn trích. Từ đó, nhận xét…..
MB: Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều
các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người đi sau
một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc
sống nghèo khổ của người dân hàng chìa miền Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân vật trung
tâm của tác phẩm chính là người đàn bà hàng chài. Bên cạnh người đàn bà hàng chài là hình ảnh
chánh án Đẩu-vị Bao Công vùng biển có tấm lòng yêu thương những người làm ăn lam lũ khó
nhọc. Điều đó được thể hiện qua đoạn trích. Qua đây, người đọc thấy được.....
TB: 4 luận điểm
LĐ 1: Phân tích những chi tiết về Đẩu:
- Hoàn cảnh xuất hiện: tòa án
- Nghệ nghiệp và địa vị xã hội; chánh án, vị Bao Công của vùng biển
- Tâm trạng của Đẩu.
- Phẩm chất của Đẩu.
*. Hoàn cảnh Đẩu xuất hiện: Tòa án. Tòa án là nơi công sở, nơi làm việc của Đẩu.

- Tòa án là một nơi công sở-> nơi giải quyết những chanh chấp, nơi thực thi pháp luật.
- Xuất hiện ở tòa, trong vai trò là vị chánh án phụ trách vụ án bạo lực. Đẩu là người thực thi pháp
luật.
- Dụng ý nghệ thuật của NMC khi để Đẩu xuất hiện ở tòa án. Mục đích của tác giả để dẫn dắt câu
chuyện, hé mở những bí ẩn về cuộc đời của người đàn bà.
- Xuất hiện ở tòa án Đẩu khác Phùng ở địa vị xã hội. Đẩu khác Phùng vai trò là vị chánh án, Phùng
là nhân chứng, là bị hại.
*.Nghề nghiệp: Chánh án.
- Trong chiến tranh Đẩu giống Phùng đi bộ đội. Đẩu giống Phùng hoàn thành trách nhiệm với nhân
dân với đất nước.
- Sau khi chiến tranh kết thúc, Đẩu ra quân, anh chuyển công tác là nghề chánh án. Nghề chánh án,
thay pháp luật đấu tranh chống cái ác, bảo vệ nhân dân.
-> Đẩu luôn hoàn sứ mệnh nghề nghiệp của mình. Trân trọng.
*. Tâm trạng của Đẩu khi gặp người đàn bà ở tòa án. Đẩu rất ngạc nhiên, trăn trở trước thái
độ của mụ.
- Tâm trạng của Đẩu khi người đàn bà bước vào tòa án:
+ Hình ảnh người đàn bà khi bước vào tòa án. người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ
lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
++ Nguyên nhân: vì đây là thứ 2 bị gọi. Mụ lên giải quyết việc gia đình. Mụ không thể che dấu
được…
++ Biểu hiện: tìm đến một góc tường để ngồi, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế
và cố thu người lại.
++ Nghệ thuật: miêu tả qua dáng điệu, cử chỉ, hành động> Tác giả am hiểu tâm lí nhân vật- tâm lí
của người lần đầu tiên tòa án, giải quyết việc gia đình…
+ Biểu hiện của Đẩu cố gắng tỏ ra gần gũi với mụ: Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố
làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
-> Hành động của Đẩu cho thấy trong vai trò là vị chánh án Đẩu tỏ ra rất thân thiện với mụ, Đẩu
không tạo ra khoảng cách giữa mình với người lao động.
- Tâm trạng của Đẩu khi nhắc đến hành vi man rợ của lão chồng: ba ngày một trận nhẹ năm ngày
một trận nặng. Đẩu rất tức tối ,bất bình trước hành vi của lão thuyền chài. Đẩu kết tội lão đàn ông.
Đẩu khuyên mụ chấm dứt cuộc sống với lão.
-> Tác giả sử dụng nghệ thuật đối thoại, ngôn ngữ dung dị, nhưng rất sắc sảo.

- Tâm trạng của Đẩu khi nghe mụ khi mụ sợ hãi, van xin khẩn thiết.
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
+ Hành động: mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu. Để van xin Đẩu đừng bắt mụ bỏ nó.
->So sánh: Mụ chắp tay vái đứa con lúc trên bãi biển. Vì mụ muốn xin nó chấm dứt hành động
đánh bố để bảo vệ mẹ.
->Mụ xin Đẩu chấm dứt hành bênh vực mụ mà kết tội người đàn ông. Van xin Dẩu chấm dứt can
thiệp việc gia đình của mụ.
+ Biểu hiện qua câu nói- lời van xin: bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó...
->Mụ chấp nhận mọi hình phạt để van xin được sống với chồng, không bỏ chồng. Tác giả miêu tả
tâm trạng của mụ qua nghệ thuật đối thoại, qua đó chúng thấy được nghịch lí, mâu thuẫn trong mụ,
phẩm chất của mụ đó là sự hi sinh.
-> Nguyên nhân khiến mụ sợ hãi van xin: Vì mụ sợ phải bỏ chồng, mụ sự can thiệp của Đẩu, vì mụ
muốn gìn giữ gia đình.
+ Tâm trạng của Đẩu, rất ngạc nhiên trước thái độ của mụ.

-So sánh: Nguyễn Tuân khi miêu tả tâm trạng viên quản ngục từ khi nghe tin Huấn Cao sẽ đến trại
giam, khi gặp Huấn Cao tại trại giam. Tâm trạng của quản ngục có sự thay đổi, diễn biến phức tạp
giống như tâm trạng của Đẩu khi người đàn bà bước vào tòa án đến khi mụ kể câu chuyện cuộc đời
của mụ.
*Phẩm chất: Có tấm lòng yêu thương người làm ăn lam lũ khó nhọc.
- Đẩu quan tâm đến người đàn bà, Đẩu tỏ ra gần gũi vồn và mời mụ ngồi lên ghế.
- Đẩu quan tâm đến công việc gia đình của mụ, hai lần Đẩu mời mụ lên tòa án.
- Tỏ ra bất bình trước hành vi man tàn bạo của người chồng trước nỗi đau thể xác của mụ.
- Bênh vực, bảo vệ cho mụ- nạn nhân . Anh khuyên chị không sống nổi với lão.
- Đẩu tỏ thái độ quan tâm đến người đàn bà: Đẩu hỏi: chị nghĩ kĩ chưa?
- Đẩu tôn trọng suy nghĩ của mụ: Tùy bà.
- Đẩu hoàn thành, thực thi công lý: ....
=> Tác giả thể trân trọng với Đẩu, tác giả thể hiện niềm tin cán bộ cách mạng.
=> Thể hiện thái phê phán lối làm việc nguyên tắc, chủ yếu dựa vào lý thuyết.
=> Tác giả đặt ra vấn đề với những người làm pháp luật: phải gắn liền với thực tế cuộc sống.

LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác gải với Đẩu: Tác giả trân trọng.....phê phán...
LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật Đẩu.
- Tình huống truyện
- Đối thoại
- Tả tâm trạng
- Ngôn ngữ

LĐ 4: Qua nhân vật Đẩu, chúng ta thấy được....


KB: - Nhân vật Đẩu chánh án có tấm lòng yêu thương con người....
- Qua nhân vật Đẩu, tác giả thể hiện...
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.....

Tình huống 5: Phân tích/cảm nhận đoạn trích. Từ đó nhận xét…


Cách làm:
MB:
-Tác giả….
- Tác phẩm….
- Đoạn trích: vị trí….nội dung.
- Nêu yêu cầu của đề.
TB: 3 luận điểm
1. Lđ 1: phân tích/ cảm nhận nội dung của đoạn văn theo bố cụ/ theo từng khía cạnh nội
dung.
2. LĐ 2: Nhận xét nghệ thuật
3. LĐ 3: Nhận xét yêu cầu của đề bài.

KB: - Khái quát nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
- Khái quát lại yêu cầu của đề bài
- Nêu giá trị của tác phẩm.
Đoạn 3:
Đề : Phân tích/ nhận đọan trích. Từ đó nhận xét một yêu cầu
Đây là lần thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
Cũng không phải là lần đầu đến một nơi công sở nhưng người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng -
cái vẻ lúng túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má
liền tìm đến một góc tường để ngồi.
Ngồi sau một chiếc bàn lớn, Đẩu nhổm dậy chỉ chiếc ghế mây trước mặt, cố làm ra vẻ thân mật;
- Chị ngồi lên đây, sao lại thế, hãy ngồi lên chiếc ghế này...
Đẩu phải nói đến lượt thứ hai, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu
người lại.
Đẩu hỏi:
- Thế nào, chị đã nghĩ kỹ chưa?
Người đàn bà ngước lên nhìn Đẩu, rồi lại cúi mặt xuống.
- Thưa đã...
Đẩu gật đầu. Anh đứng dậy. Tự nhiên anh rời chiếc bàn đến đứng vịn vào lưng ghế người đàn bà
ngồi giọng trở nên đầy giận dữ, khác hẳn với giọng một vị chánh án:
- Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như
hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: chị không sống nổi với cái lão đàn
ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và
phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng
lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước
ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay quanh chiếc ghế như bị kiến đốt, và về
sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân
chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói và với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lý vừa
có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới
con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn
lớn mà là tôi, với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án
- chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận...
Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng
người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một giọng khẩn thiết - Đây là chị nói
thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn...
cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác,
ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không
phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi,
một người đáng lẽ mụ phải biết ơn...
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò
của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của
phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
MB: Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn quân đội, ông là ngòi bút sử thi có
thiên hướng trữ tình lãng mạn. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học
Việt Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể
đến của NMC. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983.
Truyện tái hiện chân thực cuộc sống khó khăn của người dân hàng chài miền Trung những năm sau
chiến tranh. Đoạn trích từ câu văn Đây là lần thứ hai người đàn bà được Đẩu mời đến đến câu văn
thiếu nữ mặc áo tím vẫn đợi mụ trên chiếc mủng thuộc phần giữa của tác phẩm. Đoạn trích kể về
cuộc đối thoại giữa người đàn bà hàng chài và Đẩu ở tòa án( kể về sự xuất hiện của người đàn bà ở
tòa án). Từ đó/ qua đây, người đọc nhận thấy được….
TB: 3 luận điểm
LĐ 1. Phân tích/ cảm nhận nội dung của đoạn trích: Cuộc đối thoại giữa mụ với Đẩu.
*. Hoàn cảnh của cuộc đối thoại: Đoạn trích tái hiện hoàn cuộc đối thoại giữa mụ và
Đẩu diễn ra trong không gian và thời gian rất đặc biệt.

- Cuộc đối thoại diễn ở Tòa án. Tòa án là nơi công sở, nơi làm việc của Đẩu. Tòa án là một nơi
công sở-> nơi giải quyết những chanh chấp, nơi thực thi pháp luật.
- Cuộc đối thoại diễn ra vào khoảng thời gian sau khi Phùng phát hiện và can ngăn cảnh bạo lực
gia đình của mụ.
-> Hé mở câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của người đàn bà.
-> Giúp cho Đẩu và Phùng có cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống và con người.
-> So sánh: Cuộc đối thoại/ cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với viên quản ngục trong truyện ngắn
của Nguyễn Tuân. Cuộc đối thoại của HC và quản sau khi cho chữ, giúp quản ngục nhận ra
nhiều điều.
-> Tạo không được không gian và thời gian nghệ thuật để nhân vật xuất thể hiện ý của nhà văn,
tài năng nghệ thuật của nhà văn.
* Nhận vật người đàn bà xuất hiện ở tòa án.
- Lý do: Mụ xuất hiện ở tòa án vì được Đẩu mời đến về công việc gia đình-> Việc gia đình mụ
đánh nhau như kẻ thù trên bãi biển.
- Người đàn bà xuất hiện trong vai trò: vừa là nạn nhân vì bị lão chồng đánh, vừa là nhân chứng
vì chứng kiến cảnh lão chồng và Phùng đánh nhau.
- Tên gọi; tác không giới thiệu tên gọi của mụ: Mụ, người đàn bà hàng chài. Người đàn vô danh,
không có tên. Đây là dụng ý của tác giả muốn khái quát cuộc đời, số phận, tính cách của bao người
phụ nữ làng chài khác. Cách nhà văn gọi người đàn bà này giống như Kim Lân gọi người vợ nhặt là
thị. Gọi nhân vật bằng một đại từ, đó là cách gọi quên thuộc của người Việt và cũng thể hiện dụng ý
nghệ thuật của nhà văn.
- Tâm trạng người đàn khi lên tòa án: người đàn bà vẫn có vẻ sợ sệt, lúng túng - cái vẻ lúng
túng, sợ sệt mà ngay lúc mụ đứng giữa bãi xe tăng cũng không hề thấy có.
+ Nguyên nhân: vì đây là thứ 2 bị gọi. Mụ lên giải quyết việc gia đình. Mụ không thể che dấu
được…
+ Biểu hiện: tìm đến một góc tường để ngồi, mụ mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế
và cố thu người lại.
+ Nghệ thuật: miêu tả qua dáng điệu, cử chỉ, hành động> Tác giả am hiểu tâm lí nhân vật- tâm lí
của người lần đầu tiên tòa án, giải quyết việc gia đình…
* Nhân vật Đẩu: Nghề nghiệp của Đẩu là chánh án.
- Xuất hiện ở tòa, trong vai trò là vị chánh án phụ trách vụ án bạo lực. Đẩu là người thực thi pháp
luật.
- Dụng ý nghệ thuật của NMC khi để Đẩu xuất hiện ở tòa án. Mục đích của tác giả để dẫn dắt câu
chuyện, hé mở những bí ẩn về cuộc đời của người đàn bà.
- Xuất hiện ở tòa án Đẩu khác Phùng ở địa vị xã hội. Đẩu khác Phùng vai trò là vị chánh án, Phùng
là nhân chứng, là bị hại.
-> Sự xuất hiện của Đẩu thúc đẩy diễn biến của câu truyện.
*. Nhân vật Phùng: Là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, về vùng biển để chụp ảnh làm bộ lịch. Anh chứng
kiến cảnh bạo lực gia đình của người hàng chài. Anh can, bị thương. Phùng là nhân chứng và là
người bị hại. Lúc đầu Phùng phòng ngủ của Đẩu, sau đó Phùng xuất hiện trước người đàn bà.
Phùng xuất hiện của Phùng khiến mụ sợ hãi.
*Nội dung của cuộc đối thoại giữa người đàn bà và Đẩu: Xoay quanh công việc gia đình của
người đàn bà: vấn đề về hôn nhân, giải quyết bạo lực gia đình.
- Lời phán xét của Đẩu về công việc gia đình của người đàn bà.
+ Đẩu phán quyết và hỏi mụ nghĩ thế nào.
+ Mụ sợ hãi, van xin khẩn thiết.
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa...
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...
+ Biểu hiện tâm trạng: Hành động: mụ chắp tay vái lia lịa Đẩu. Để van xin Đẩu đừng bắt mụ bỏ nó.
->So sánh: Mụ chắp tay vái đứa con lúc trên bãi biển. Vì mụ muốn xin nó chấm dứt hành động
đánh bố để bảo vệ mẹ.
->Mụ xin Đẩu chấm dứt hành bênh vực mụ mà kết tội người đàn ông. Van xin Dẩu chấm dứt can
thiệp việc gia đình của mụ.
+ Biểu hiện qua câu nói- lời van xin: bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó...
->Mụ chấp nhận mọi hình phạt để van xin được sống với chồng, không bỏ chồng. Tác giả miêu tả
tâm trạng của mụ qua nghệ thuật đối thoại, qua đó chúng thấy được nghịch lí, mâu thuẫn trong mụ,
phẩm chất của mụ đó là sự hi sinh.
-> Nguyên nhân khiến mụ sợ hãi van xin: Vì mụ sợ phải bỏ chồng, mụ sự can thiệp của Đẩu, vì mụ
muốn gìn giữ gia đình.
+ Phản ứng của Đẩu, rất ngạc nhiên, Đẩu thay đổi từ sự giận giữ bất bình, Đẩu trở nên bình tình
hơn.
- Đẩu đề cập đến chủ trương nguyên tắc: hòa giải.
+ Chủ trương nguyên tắc của Đẩu đó hòa giải. Chủ trương của Đẩu rất đúng quy trình khi xử lý vấn
đề về hôn nhân- ly hôn. Chủ trương của Đẩu dựa trên lý thuyết, chủ trương thể tấm lòng của Đẩu-
cảm thông. Đẩu đã làm hết trách nhiệm. Chủ trương của Đẩu không sát với thực tế của cuộc sống
của lam lũ.
 Nhận xét: khi người đàn bà lên tòa án, người đàn bà sống trong sự lúng túng, sợ sệt, nỗi mệt
mỏi. Đẩu tỏ ra gần gũi, động viên mụ.
 Miêu tả tâm trạng của Đẩu, tác giả sử dụng nghệ thuật đối thoại, ngôn ngữ dung dị
 Tác giả thể hiện sự thấu hiểu tâm lí của nhân vật-> tài năng nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu.
 So sánh : Tô Hoài miêu tâm trạng của Mị->tài năng nghệ thuật.
+ Thái độ của người đàn bà thay đổi từ sợ hãi van xin, người đàn bình tĩnh nói với Đẩu những
lời chân thành:
++ Tâm trạng của mụ ngạc nhiên: Đang ngồi cúi xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng
vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu ngơ ngác. Mụ ngơ ngác vì sự thay đổi
trong chủ trương của Đẩu. Mụ ngơ ngác vì mụ hiểu được sự cảm thông của Đẩu.
++ Tác giả miêu tả qua cuộc đối thoại giữa mụ với Đẩu, lời lẽ dung dị đời thường, rất sắc sảo.
++ Phản ứng của mụ khi nhìn ra ngoài bờ phá, mụ sống trong tâm trạng day dứt qua đôi mắt mệt
mỏi. Không gian ngoài bờ phá: có con thuyền/ chiếc mủng nơi có đứa con gái đang đợi mụ, nơi có
con thuyền vó bè, nơi tổ ấm của gia đình. Trên con thuyền ngoài bờ phá có sắp con, có lão chồng
của mụ. Ngoài bờ phá là không gian sống của mụ, không gian đấy, mụ có những tháng ngày lam lũ,
vất vả…
++ Tâm trạng của mụ day dứt: Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con
đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng. Nỗi day
dứt của mụ đó chính là sự tồn tại cái gọi là gia đình. Nỗi day dứt qua ánh mắt mệt mỏi thể hiện sự
chịu đựng của mụ.
*. Ý nghĩa của cuộc đối thoại:
-Cuộc đối thoại giúp Đẩu hiểu được cuộc sống lam lũ, vất vả , đau khổ của mụ: Đẩu hiểu
được nỗi đau thể xác thể xác của người đàn bà.
+ Mụ thường xuyên bị chồng đánh Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
-> Nguyên nhân Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Đẩu nhắc đến hắn- người
chồng mụ, lão hàng chài xuất hiện trên bãi biển, đánh mụ bằng chiếc dây thắt lưng của lính ngụy.
-> Nỗi khổ đau liên tục bị người chồng như hắn đánh.
-> Nỗi khổ đau về thể xác, lão chồng đánh mụ theo quy luật.
-> Mụ rất bất hạnh và Đẩu dự đoán chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu.
-> Nhận xét: Nỗi khổ đau của mụ được tái hiện qua nghệ thuật đối thoại giữa Đẩu với mụ, giữa vị
chánh án thực thi pháp luật với mụ.
> Thái độ cảm thương với của nỗi khổ đau.
- Cuộc đối thoại giúp Đẩu hiểu được cuộc đời của mụ là cuộc đời của người làm ăn lam lũ, khó
nhọc...-> vì hoàn cảnh sống, công việc mưu sinh vất vả, khó khăn.
=> Nhận xét thái độ của tác giả: cảm thương với nỗi khổ đau của mụ được thể hiện qua thái độ của
Đẩu.
=> So sánh với Mị. Mị khác mụ ở chố không phải vất vả mưu sinh trên biển. Mị cũng giống mụ vất
vả làm việc quần cả ngày cả đêm. Mị như mụ đều là nạ nhân của chồng. Thân phận những người
phụ nữ chịu nhiều bất hạnh-> cảm thương.
- Qua cuộc đối thoại Đẩu hiểu được phẩm chất tốt đẹp của mụ/ Qua cuộc đối thoại , mụ bộc lộ
được phẩm chất tốt đẹp.

++ Người đàn bà am hiểu lẽ đời:


++ Mụ hiểu quy tắc xưng hô giao tiếp chốn công sở. Mụ tỏ ra rất lịch sự: Con lạy quý tòa...
 Mụ xưng hô với Đẩu là con và quý tòa. Lối xưng hô thể hiện sự tôn trọng của mụ xét ở góc
độ địa vị xã hội.
 Mụ xung hô như vậy thể hiện sự nhún nhường vì thân phận người làm ăn lam lũ khó nhọc.
 Mụ thể hiện tôn trong với Đẩu- đại diện cho pháp luật.
++ Mụ hiểu được tấm lòng chân thành của Đẩu. Khi Đẩu tỏ thái độ bênh vực, mụ cảm ơn Chị
cám ơn các chú.
++ Mụ hiểu cuộc sống của người làm ăn lam lũ khó nhọc vì mụ là người làm ăn lam lũ khó
nhọc.
 Mụ khác với Đẩu và Phùng, mụ từng trải trong cuộc sống mưu sinh.
 Mụ giống như bà cụ Tứ, bà cụ Tứ hiểu lẽ đời, hiểu người. Bà hiểu cảnh ngộ của người đàn-
gặp bước khó khăn.
 Tác giả NMC hay Kim Lân đều thể hiện tấm lòng bao dung với người làm ăn lam lũ khó
nhọc.

+ Mụ là một người đàn bà có tấm lòng bao dung, vị tha với chồng.
++ Mụ lên tòa thay cho lão. Đẩu gọi lão lên, lão không lên. Lần thứ hai, mụ lên. Đây là lần
thứ hai, người đàn bà được Đẩu mời đến về công việc gia đình.
 Mụ thay lão lên tòa là mụ nhận trách nhiệm thay lão vì tội của lão là tội hành hung Phùng.
Hành động của mụ giúp lão thoát tội hành hung.
+ Mụ van xin Đẩu: đừng bắt con bỏ nó. Nó là lão chồng, lão chồng thường xuyên đánh mụ.
Mụ nhất định không chịu bỏ. Mụ chấp nhận mọi hình phạt để được sống với lão. Mụ còn tình
cảm với lão, tình vợ chồng.
 So sánh với Mị: Mị bỏ A Sử chạy theo A Phủ. Mị chạy theo A phủ, nếu còn sống ở đây thì
chết mất. Mị bỏ A Sử vì Mị với A Sử có lòng mà vẫn phải ở với nhau. Mụ khác với Mị vì
mụ có đàn con, mụ lão. Mụ còn có lòng với lão.
+ Mụ người đàn bà yêu thương con hi sinh vì con. Mụ van xin Đẩu: đừng bắt con bỏ nó. Nó
là lão chồng, lão chồng thường xuyên đánh mụ. Mụ nhất định không chịu bỏ. Mụ chấp nhận mọi
hình phạt để được sống với lão. Mụ còn tình cảm với lão, tình vợ chồng. Mụ không bỏ lão vì
mụ còn đàn con. Mụ không muốn sắp con của mụ sống cảnh li tán. Mụ hi sinh nỗi đau thể xác,
chấp nhận nó vì con có một gia đình.
=> Nhận xét: Phẩm chất của mụ được tái hiện qua câu chuyện của mụ ở tòa án. Câu chuyện
được kể bởi Phùng, Phùng là người kể chuyện. Vẻ đẹp tâm hồn của mụ Phùng tò mò, sau đó
khiến Phùng trân trọng.
=> Thái độ của tác giả: trân trọng của nhà văn với người làm ăn lam lũ khó nhọc.
LĐ 2: Nhận xét nghệ thuật
- Tình huống truyện: tình huống nhận thức mang tính phát hiện của Phùng- lần nhận thức thứ.
- Nghệ thuật đối thoại, nhân vật, ngôn ngữ đối thoại dung dị đời thường.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn lôi cuốn, giọng điệu linh hoạt
- Yếu tố thời gian không gian nghệ thuật độc đáo.
LĐ 3: Nhận xét yêu cầu của đề….
KB:
- Qua phân tích đoạn trích, người hiểu rõ hơn cuộc sống lam lũ vất vả của người dân hàng
chài. Chúng ta hiểu rõ cách nhìn của tác giả về cuộc sống và con người.
- Đồng thời qua đoạn trích, chúng thấy được (yêu cầu của đề)
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa….
- Ý kiến….

ĐOẠN VĂN 4:
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt,
nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà
tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có
mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão
chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ
đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng
mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão...
đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền
phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu đi đi
lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới
vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị
và đầy suy nghĩ.
Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như nỗi đau,
cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt
ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào
bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng
hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách mạng về.
Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó
lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên thuyền với
bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó
còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.

ĐỀ 1: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài lúc ở tòa án trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của NMC
MB: Nhà văn Nguyễn Khải đã từng nhận xét về Nguyễn Minh Châu […] Nguyễn Minh Châu
( 1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc
mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống nghèo khổ của người
dân hàng chìa miền Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là
người đàn bà hàng chài. Hình ảnh người đàn bà hàng chài ở tòa án gợi cho chúng ta rất nhiều
suy nghĩ, cảm xúc về thân phận con người.
TB
1.Những chi tiết liên quan
- Cách nhà văn gọi người đàn bà: gọi là mụ: vô danh, phiếm định => khái quát cuộc đời, số phận,
tính cách của bao người phụ nữ làng chài khác. Cách nhà văn gọi người đàn bà này giống như Kim
Lân gọi người vợ nhặt là thị. Gọi nhân vật bằng một đại từ, đó là cách gọi quên thuộc của người
Việt và cũng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
-Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Ở tòa án- nơi giải quyết những xung đột, nơi ban hành, thực thi
chính sách pháp luật. Mụ xuất hiện ở tòa án sau khi sảy ra vụ bạo hành của người chồng với mụ và
người chồng mụ với Phùng. Người đnà bà tỏ ra sợ hãi, lo sợ, lúng túng. Mụ ngồi ở góc phòng.
- Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ
lại quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
- Ngoại hình: mụ xuất hiện ở tòa án: khuôn mặt bị rỗ, chiếc áo bạc phếch-> hiện lên sự lam lũ,
đói nghèo, cơ cực.
- Câu chuyện cuộc đời của mụ
- - Cuộc đời: Bất hạnh với những nỗi đau rất đời thường.
- +Trước khi lấy chồng:chịu nhiều thiệt thòi:
- ++Xấu: bị rỗ mặt vì bệnh đậu mùa nên không một người đàn ông nào trên phố dám lấy mặc
dù gia đình mụ cũng khá giả->cái xấu là một trong nhũng nguyên nhân gây ra cuộc đời khổ cực của
mụ. Mụ phải lòng anh hàng chài ít học, hiền lành nhưng cục tính và có mang với anh ta. Sau đó
mụ theo anh ta xuống thuyền ở.
- + Sau khi lấy chồng: cuộc đời chồng chất nỗi khổ cực:
- ++Sống lênh đênh trên biển trong con thuyền chật chội, lại phải đối diện với những khắc
nghiệt và hiểm nguy của thời tiết: có tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng-
>cuộc sống bấp bênh của người dân hàng chài.
- ++Lao động vất vả để kiếm sống và nuôi các con: thường xuyên thức trắng để kéo lưới.
- ++Đông con: bà đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật nhà mụ trên dưới một sắp gần chục đứa
con => chồng hung hăng-> nỗi khổ chung của đám đàn bà vùng biển vì không có biện pháp kế
hoạch hóa gia đình->đông con->nghèo đói.
- ++Bị chồng đánh: Bản tính người chồng là hiền lành nhưng cục tính. Những năm mới lấy
nhau, chưa có nhiều con, chồng mụ chưa khổ lắm nên không bao giờ đánh mụ. Nhưng rồi sau đó
mụ liên tục bị chồng đánh đập dã man, 3 ngày một trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng. Bất kể lúc nào
khổ quá, chồng lại xách mụ ra đánh, ngay trên thuyền, sau này xin mãi mới được lên bờ chịu đòn.
Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ. Người chồng đánh tới tấp
như lửa cháy, vừa đánh vừa chửi: chúng mày chết hết đi cho ông nhờ.
- ->So sánh mụ với những người đàn bà hàng chài khác: đều đông con, đều đói nghèo nhung
mụ lại khác họ là hộ không bị chồng đánh mà chồng của họ chỉ uống rượu còn mụ bị chồng đánh
và chồng mụ k uống rược.
- ->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
- ++Khổ tâm vì cố gắng che dấu hành động dã man của chồng nhưng vẫn bị con phát hiện mà
lại là đứa con mụ thương yêu nhất: xấu hổ, tủi nhục quá nên mụ khóc và vái lấy, vái để lạy thằng
bé. Đó là nỗi đau nhất mà cđ mụ đã chịu đựng và trải qua.(dẫn chứng trang 72)
- => Nhận xét: Cuộc đời của người đàn bà thật khổ cực. Mụ là nạn nhân của cái nghèo, đói và
bạo lực. Nhưng chính mụ cũng là người gây nên nỗi khổ cho chính mụ đó là mụ quá yêu người
chồng vũ phu. Mụ luôn tìm cách bao biện cho hắn. Và có thể mụ phải phụ thuộc quá vào hắn để có
thể nuôi con….Đó là những vấn đề rất đời thường->xót thương.
- Tâm trạng của người đàn bà
- ++Lúc đầu mới đến: Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi. Rón rén ngồi ghé
vào chiếc ghế mà Đẩu mời. Cách xưng hô: con, quý toà. Vì người đàn bà này từ ngày xuống thuyền
ở chưa bao giờ mụ đặt chân đến chỗ công quyền và vì mụ biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mụ đến đây.
- ++Buồn bã khi nhớ lại và kể cuộc đời bất hạnh của mình (dẫn chứng trang 74-75)
- ++Vui khi nhắc đến các con và những giấy phút vui vẻ hòa thuận hiếm hoi trên thuyền:
khuôn mặt ửng hồng
- ++Hi vọng vào tương lai: đẻ ít, mua được chiếc thuyền rộng..
- Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn khuất lấp.
- + Chăm chỉ lao động, lương thiện kiếm sống bằng nghề chài lưới: thức trắng đêm để kéo
lưới cùng chồng.
- +Ty yêu chồng sâu sắc và rất khác người. Van xin chính quyền đừng bắt chị bỏ người
chồng vũ phu: “Quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” -> kiên
quyết không bỏ chồng bằng mọi giá-> hành động ẩn chứa nhiều nghịch lí, gây bất ngờ đối với cả
Đẩu và Phùng + Mụ thấu hiểu chồng khi đưa ra lí lẽ : hắn hiền lành nhưng cục tính, cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi hòa thuận vui vẻ trên thuyền…để “đừng bắt tôi bỏ nó”.
- + Mụ bênh vực chồng, nhận lỗi về phía mình: Mụ ước giá đẻ ít đi => biện minh cho hành
động hung hăng của chồng bằng cách chỉ ra lỗi thuộc vê sự nghèo đói, lạc hậu, “đẻ lắm”.
- + Mụ chủ động để chồng đánh để vơi đi nỗi khổ: mụ không chống trả, không chửi bới, không
bỏ chạy khi chồng đánh.
- + Mụ rất thương các con:
- ++ Mụ thức trắng đêm kéo lưới cũng mong cho các con được ăn no.
- ++ Mụ không muốn bỏ chống vì muốn các con có bố nuôi dạy và chăm sóc để có một gia
đình chọn vẹn.
- ++ Mụ vui khi thấy các con được ăn no.
- ++ Mụ mong đẻ ít, sắm được cái thuyền rộng để cuộc sống của các con sướng hơn.
- ++ Tình thương con còn được thể hiện khi mụ van xin chồng cho lên bờ để đánh, mụ không
muốn cho các con nhìn thấy cảnh bạo lực để khỏi bị tổn thương.
- ++ Mụ khóc khi chứng kiến thằng Phác bị bố tát. Mụ ôm chầm lấy nó, van lạy nó
- =>Mụ hi sinh bản thân vì chồng. Mụ yêu thương các con theo cách riêng của mụ, mụ cần
một người bố cho các con mụ, mụ muốn chúng nó có cả bố và mẹ nuôi dạy. Đàn bà trên thuyền
phải sống cho con chứ không thể sống cho mình => vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi
sinh của một người mẹ.
- => Thái độ của tg: Cảm phục trân trọng nhưng cũng không đồng tình cách mụ chịu đựng nỗi
khổ đau kiểu đó.
- + Hiểu lẽ đời: am hiểu lẽ sống giản đơn của một người đàn bà hàng chài.
- ++ Hiểu về vai trò của người đàn ông: Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ
các chú biết nỗi vất vả của một người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông(. ..) những
khi biển động => vì cần một trụ cột.Cũng có lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận, vui vẻ => cuộc
sống với ngưòi đàn ông “dã man” kia không phải không có những khoảnh khắc đầm ấm hạnh phúc.
- ++ Hiểu được vai trò của người đàn bà: Đàn bà sinh ra là để đẻ con và nuôi dạy con khôn lớn
nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình =>
vì trách nhiệm, tấm lòng vị tha, bản năng hi sinh của một người mẹ. Suy nghĩ của mụ vẫn mang
định kiến về giới tính….
- +Giao tiếp ứng xử rất lịch sự và linh hoạt: Thái độ, hành động khi được mời tới toà án:
Lúc đầu: Sợ sệt, lúng túng, tìm đến một góc tường để ngồi . Rón rén ngồi ghé vào chiếc ghế mà
Đẩu mời. Cách xưng hô: con, quý toà - chị, các chú => thay đổi tương quan: bị động, yếu thế, thiếu
tự tin, bề dưới nói với bề trên - chủ động, bình đẳng, con ngưòi có hiểu biết nói với người đang lắng
nghe. Chị cũng hiểu được thiện chí của Đẩu và Phùng đang muốn giúp đỡ mình.
- +Khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn: mụ ao ước gái mụ đẻ ít thì chồng mụ đỡ khổ, giá mụ
mua được con thuyền rộng thì các con mụ có một kg sống tốt hơn…luôn vươn lên trong cuộc sống.
- -> So sánh với niềm tin của bà cụ Tứ.
- Luận điểm 2: thái độ của tác giả
- Luận điểm 3: Nghệ thuật
- ( Giống đề 1 )
- c. KB minh họa: Hình ảnh người đàn bà hàng chài với tấm lưng áo bạc phếch, với câu
chuyện cuộc đời buồn bã mà mụ đã kể ở tòa án có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả.
Khi nhìn nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết
bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại- những con người lam lũ vất vả nhưng chan
chứa tình yêu chồng, thương con. Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả đã gửi gắm không
chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm
tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.
ĐOẠN VĂN 4:
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt,
nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà
tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có
mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão
chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ
đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng
mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão...
đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền
phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ, giấy má. Đẩu
đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì
mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm
nghị và đầy suy nghĩ.
Người đàn bà đã khóc khi nghe tôi nhắc đến thằng Phác. Nhưng tình thương con cũng như
nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để
lộ rõ rệt ra bề ngoài. Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một
đứa nào bằng thằng Phác, cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn
ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết - nếu không có cách
mạng về.
Mụ cho chúng tôi biết, vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải
gửi nó lên rừng nhờ bố mình nuôi đã nửa năm nay. Ở với ông ngoại, thằng bé sướng hơn ở trên
thuyền với bố mẹ. Nhưng hễ rời ra là nó trốn về. Thằng bé tuyên bố với các bác ở xưởng đóng
thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.

Nội dung:
- Hình ảnh người đàn bà ở tòa án.
- Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án.
Tình huống 1: TÌNH HUỐNG HỎI PHÂN TÍCH/CẢM NHẬN NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG
ĐOẠN TRÍCH. TỪ ĐÓ NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI CỦA NMC.
TÌnh huống 2: Phân tích câu chuyện của người đàn bà ở tòa án. Từ đó…
Tình huống 3: Phân tích/ cảm nhân vật Phùng trong đoạn trích. Từ đó…
Tình huống 4: Phát tích phát hiện của Phùng. Từ đó….
Tình huống 5: Phân tích cảm nhận đoạn trích. Từ đó….

1.Mở bài 1.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của văn học VN
thời kì đổi mới. Ông có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông đậm phong cách tự sự- triết
lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Tác phẩm là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, những nhận thức thấm
thía về con người và cuộc sống. Trong tác phẩm, tác giả đã tái hiện lại chân thực câu chuyện của
người đàn bà ở tòa- câu chuyện cuộc đời của mụ. Câu chuyện này được thể hiện rõ qua đoạn
trích từ câu văn……đến câu văn…..Từ câu chuyện của nhân vật người đàn bà qua đoạn trích,
chúng ta hiểu được cách nhìn nhận của tác giả về cuộc sống và con người/ đặc điểm truyện
ngắn NMC.

2.Thân bài 4 luận điểm


1. phân tích câu chuyện của mụ
- hoàn cảnh câu chuyện: tg, kg
- nội dung; diễn biến
- kết thúc câu chuyện, ý nghĩa.
2. Thái độ của tác giả
3. Nghệ thuật
4. Nhận xét yêu cầu của đề.:
LĐ 1: Phân tích câu chuyện của mụ
* Hoàn cảnh câu chuyện: Câu chuyện diễn ra ở tòa án, câu chuyện diễn ra sau khi Phùng chứng
kiến lần thứ 2 người đàn bà bị đánh trên bãi biển.
- Câu chuyên này được mụ kể ở tòa án. Tòa án, ở nơi công sở. Câu chuyện này được kể bởi mụ. Mụ
xuất hiện ở đây vì được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị chồng đánh,
vừa là nhân chứng vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng vẻ lúng túng,
sợ sệt.
- Câu chuyện diễn ra sau khi Phùng chứng kiến cảnh mụ bị đánh lần 2.
-> Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện rất đặc biệt. Vì diễn ra ở tòa án giữa Đẩu, chánh án, mụ, người bị
hại, Phùng là nhân chứng. Vì câu chuyện này được kẻ bởi chính mụ rất chi tiết.
-> So sánh với câu chuyện Mị về làm dâu nhà Pá Tra. Câu chuyện do do người nghèo ở Hồng Ngài
kể lại.
-> Tài năng nghệ thuật của nhà văn tạo được yếu tố tg và kg nghệ thuật độc đáo.
*Nội dung diễn biến câu chuyện. Câu chuyện về cuộc đời bất hạnh của người đàn bà hàng
chài từ khi mụ còn nhỏ đến bây giờ( trạc ngoài 40 tuổi)
- Người đàn bà hàng chài đóng vai trò là người kể chuyện. Tác giả gọi là người đàn bà hàng
chài hoặc người đàn bà, mụ: không có bất cứ tên riêng nào khác để phân biệt với những người đàn
bà miền biển. Tác giả có dụng ý muốn chung hóa nhân vật thành đại diện cho thân phận những
người phụ nữ lao động nghèo, đông con. Tác giả thể hiện sự cảm thương như Kim Lân thể hiện sự
cảm thương khi gọi nhân vật người vợ nhặt là thị.
- Trong câu chuyện của người đàn bà, mụ kể cho Đẩu và Phùng nghe về hoàn cảnh sống éo le của
mụ. Trong lời kể của người đàn bà. Lúc nhỏ mụ sống trên bờ, sống trong một gia đình khá giả ở
trong phố. Sau khi lấy anh con trai hàng chài, mụ xuống thuyền ở, con thuyền chật, mụ làm nghề
thuyền lưới vó. Mụ đối mặt với khó khăn về thời tiết, đối mặt với nghèo khó, túng quẫn vì chồng
trốn lính, vì mụ đẻ nhiều. Vào vụ bắc, gia đình vợ chồng con cái ăn xương rồng luộc chấm muối
hàng tháng. Hoàn cảnh sống éo le của những người dân hàng chài miền Trung.

- Câu chuyện của người đàn bà kể ở tòa án hé mở cho chúng ta hiểu được vì sao mụ lại có
ngoại hình xấu xí. Trong câu chuyện mụ kể: Mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn
nhỏ. Mụ bị rỗ mặt vì một bận lên đậu mùa. Lời kể gợi nỗi xót xa. Qua quan sát của Phùng: mụ có
khuôn mặt xấu xí. Chính vì xấu nên không có người đàn ông trên phố nào dám lấy mụ dù nhà mụ
khá giả. Nên mụ phải lòng anh hàng chài và có mang với anh ta. Mụ thiệt thòi, bất hạnh từ lúc nhỏ
đến lúc lớn. Tác giả cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
- Câu chuyện của mụ tập trung kể về cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị
bạo hành…
+ Từ nhỏ đã bất hạnh vì xấu, lại rỗ mặt.
+ Lúc lấy chồng phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc, có hàng tháng phải ăn
xương rồng luộc chấm muối.
+ Cuộc sống nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1 sắp con, trên dưới chục đứa con.
+ Mụ còn bị chồng đánh: cứ lúc nào chồng thấy khổ quá là xách mụ ra đánh. Đánh ngay trên
thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn.
+ Mụ phải phụ thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con.
+ Cuộc đời của mụ triền miên đối mặt với khổ đau, cuộc đời mụ hiếm hoi có được giây phút hạnh
phúc cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ.
+ Nỗi khổ tâm của người mụ đó là phải gửi con lên rừng vì sợ con làm làm những điều dại dột với
bố. Nỗi khổ tâm của người mẹ khi không bảo vệ được con.
=> Nhận xét.
-Câu chuyện buồn về cuộc đời bất hạnh của mụ.
-Tác giả đã chỉ ra nỗi bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man
rợ và tàn bạo…
-NMC vừa thương vừa trăn trở trước cuộc đời bất hạnh của mụ như Tô Hoài đã từng cảm thương
trước nỗi khổ đau của cô Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
* Ý nghĩa của câu chuyện.
-Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, người đọc cảm nhận được. Phẩm chất/ Vẻ đẹp
tâm hồn đáng trân trọng
+ Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Mụ tâm niệm: “đàn bà trên thuyền chúng tôi phải
sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được” nên mụ hi sinh vì con. Mụ không nghĩ
đến bản thân, không quan tâm đến nỗi khổ cực hằng ngày cũng như nỗi đau thể xác. Mụ chấp nhận
gánh lấy cái khổ. Mụ không muốn các con nhìn thấy cảnh bố đánh mẹ nên khi các con lớn, mụ xin
chồng được lên bờ để đánh. Sự cam chịu, nhẫn nhịn của chị có cội rễ từ tình yêu thương con vô bờ
bến. Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn
mà nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con
cái sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam
chịu bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con. Tình yêu thương của mụ cao
đẹp như chính tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng. Mụ hiểu được bản chất của người
chồng, mụ vẫn thấy được cái “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi” trong hình bóng lão chồng hiện tại. Mụ nhận thấy lão cũng tích cực vì không đi lính ngụy hồi
bảy nhăm. Mụ nhận mọi lỗi lầm về mình, nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì mụ mà ra cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều. Bị người chồng đánh đập mà chị vẫn không hề
căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Mụ biết những lúc ấy là do lão thấy khổ quá. Mụ còn
biết ơn người đã cùng chị chèo chống con thuyền trong cơn phong ba và lão có trách nhiệm để nuôi
con. Mụ nhìn cuộc đời bằng đôi mắt hi vọng và nhìn con người bằng lòng nhân hậu, mụ hạnh phúc
khi nhắc đến lão trên khuôn mặt xấu xí ửng sáng lên như một nụ cười. Nguyễn Minh Châu vừa trân
trọng vừa trăn trở trước tấm lòng bao dung của mụ.
+ Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời: và luôn có khát vọng sống. Mụ
thấu hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ ước mình đẻ ít
đi, hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn. Mụ ý thức được vai trò của người đnà ông trên thuyền:
chèo chống con thuyền trong cơn phong ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con. Mụ ý thức được thiên
chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ
con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Ở tòa án huyện, mụ làm Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này
đến ngỡ ngàng khác. Qua câu chuyện đời chị, Phùng và Đẩu nhận ra vì sao mụ không thể li hôn, vì
sao mụ cam chịu đến đáng thương như thế. Mụ cũng dạy cho hai nhân vật này một bài học về cách
nhìn đời, nhìn người. Chẳng những thế, người đàn bà còn khiến người đọc có cái nhìn thực tế hơn
về bản thân, cuộc sống. Mọi chuyện không đơn giản như vẻ ngoài của nó, nếu muốn suy xét và
đánh giá một ai phải thấu hiểu và tường tận mọi thứ về họ.
-Qua câu chuyện của mụ, chúng ta thấy nguyên nhân khách quan và chủ quan: do chiến tranh, do
sự thay đổi của lão đàn ông, do nghèo đói, do sự “bao dung” của mụ.
- Qua câu chuyện của mụ chúng ta được thái độ của Đẩu, trách nhiệm của Đẩu. Đẩu đi đi
lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần quân phục đã cũ. Một cái gì mới
vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị
và đầy suy nghĩ.
+ Khi nghe câu câu chuyện của mụ, Đẩu thay đổi thái độ. Anh tở ra trầm ngâm, anh đã hiểu vì sao
mụ không chịu bỏ chồng.
+ Khi nghe câu chuyện, Đẩu nhận ra trách nhiệm của mình: trách nhiệm phải giúp mụ giải quyết
chấm dứt nạn bạo hành- giáo dục lão đàn ông để lão thay suy nghĩ, không thể đổ lỗi cho vợ đẻ
nhiều, không được đánh vợ. Trách nhiệm của Đẩu giúp gia đình họ kế hoạch hóa gia đình, giúp họ
có vốn sắm con thuyền rộng hơn.
-Qua câu chuyện của mụ, chúng ta cũng thấy được bản chất của Phùng, sự thay đổi thái độ, cách
nhìn của Phùng.
+ Phùng thấy ngột ngạt, không hiểu vì sao mụ không chịu bỏ chồng.
+ Phùng quan tâm đến câu chuyện mụ, Phùng góp phần vào câu chuyện bằng câu hỏi.
+ Phùng đã thay đổi được cách nhìn, không chú trọng quá vào lý lịch. Anh quan tâm đến cuộc
sống hằng ngày….Phùng là nghệ sĩ có tấm lòng yêu thương con người, biết trăn trở trước số
phận của mụ. Phùng thay đổi cách nhìn về con người, Phùng phát hiện vẻ đẹp khuất lấp sau
ngoại hình xấu xí.
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả trước câu chuyện của người đàn bà. Phải nói rằng, nhà văn
đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng trước câu chuyện của mụ.
LĐ 3: Đặc sắc nghệ thuật kể chuyện-câu chuyện của mụ ỏ tòa án.
- Tái hiện câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc
miêu tả nhân vật người kể chuyện là mụ. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính
cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao
thượng đáng được ngợi ca.
- Tái hiện câu chuyện của mụ, tác giả đặt nhân vật trong những tình huống nghịch lý (bị chồng
đánh nhưng không phản ứng; không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức
về những ngang trái, phức tạp của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Câu chuyện của mụ được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ kể chuyện ngôn ngữ giản
dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật qua câu chuyện
của mụ.-
LĐ 4: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
- Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
3.KB: Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án là câu chuyện buồng về cuộc đời một người phụ bất
hạnh. Qua câu chuyện đó chân dung của người đàn bà được Nguyễn Minh Châu tái hiện ấn tượng
mạnh trong lòng mọi người. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ cực, sống cuộc đời lầm lũi,
bình dị nhưng vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy
ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm. Qua đó nhà văn
thể hiện cách nhìn nhận về cuộc sống và con người. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm
tiêu biểu của NMC sau 1975. Tác phẩm thể hiện niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận
vất vả của kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần.
3. TÌNH HUỐNG ĐỀ HỎI: PHÂN TÍCH/CẢM NHẬN VẺ ĐẸP TÂM HỒN NGƯỜI ĐÀN
BÀ QUA ĐOẠN TRÍCH. TỪ ĐÓ NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI
CỦA NMC.
1.Mở bài 1.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của văn học VN
thời kì đổi mới. Ông có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông đậm phong cách tự sự- triết
lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Tác phẩm là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, những nhận thức thấm
thía về con người và cuộc sống. Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài là nhân vật
được Nguyễn Minh Châu rất dụng tâm khi xây dựng, để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc về
vẻ đẹp tâm hồn của mụ. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích. Từ nhân vật người đàn bà qua
đoạn trích, chúng ta hiểu được cách nhìn nhận của tác giả về cuộc sống và con người/ đặc điểm
truyện ngắn NMC.

2.Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh xuất hiện: Mụ xuất hiện ở Tòa án, ở nơi công sở. Mụ xuất hiện ở đây vì
được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị chồng đánh, vừa là nhân chứng
vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng vẻ lúng túng, sợ sệt..
* Khái quát tên gọi và ngoại hình. Tác giả gọi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà, mụ:
không có bất cứ tên riêng nào khác để phân biệt với những người đàn bà miền biển. Tác giả có
dụng ý muốn chung hóa nhân vật thành đại diện cho thân phận những người phụ nữ lao động
nghèo, đông con. Trong câu chuyện mụ kể: Mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn
nhỏ. Mụ bị rỗ mặt vì một bận lên đậu mùa. Lời kể gợi nỗi xót xa. Mụ thiệt thòi, bất hạnh từ lúc nhỏ
đến lúc lớn. Tác giả cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
* Cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị bạo hành … Từ nhỏ đã bất hạnh vì
xấu, lại rỗ mặt. Lúc lấy chồng phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc, có hàng tháng
phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cuộc sống nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1
sắp con, trên dưới chục đứa con. Mụ còn bị chồng đánh: cứ lúc nào chồng thấy khổ quá là xách mụ
ra đánh. Đánh ngay trên thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn. Mụ phải phụ
thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con. Cuộc đời của mụ triền
miên đối mặt với khổ đau, cuộc đời mụ hiếm hoi có được giây phút hạnh phúc. Tác giả đã chỉ ra nỗi
bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man rợ và tàn bạo…NMC
vừa thương vừa trăn trở trước cuộc đời bất hạnh của mụ như Tô Hoài đã từng cảm thương trước nỗi
khổ đau của cô Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
*Tâm trạng của người đàn bà có sự diễn biến khá phức tạp: Lúc đầu lên tòa án, mụ tỏ ra sợ sệt,
lúng tùng. Nhưng sau đó, khi kể về cuộc đời của mụ, mụ sống trong tâm trạng buồn tủi vì tuổi thơ
bất hạnh, vì cuộc đời chìm trong đói nghèo. Mụ khẩn thiết van xin Đẩu đùng bắt mụ bỏ chồng. Mụ
bộc lộ rất kín đáo niềm vui nhỏ nhoi trên khuôn mặt khi nhắc đến người chồng và những giây phút
gia đình sống vui vẻ trên thuyền. Tất cả tâm trạng của mụ được quan sát qau cảm nhận của Phùng.

* Phẩm chất/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng.


- Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ
đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam
chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Mụ nhận thấy rằng, các con là cuộc
sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục:
“Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền
được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái
bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh mụ còn chủ
động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa
tôi lên bờ mà đánh”. Mụ chấp nhận gánh lấy cái khổ. Mụ muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình,
không để các con bị tổn thương.
- Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn mà
nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
- Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái
sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam chịu
bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con
-Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho
riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh
khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ
một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
- Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng.
+ Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, đô ̣ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà
người chồng đã gây ra cho mụ, mụ vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn
của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
và lão đã trốn không đi lính ngụy hồi trước bảy nhăm.
+ Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng mụ cũng không oán trách vì mụ hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu
cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành
kẻ vũ phu, thô bạo. Người đàn bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ
phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu
sinh. Lão đánh mụ cũng vì lão thấy khổ quá.
+ Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng
trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người đàn ông. Chính vì thế
bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục
tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
+ Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn
bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng
tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vậy nên bà xin các chú đừng bắt
tôi bỏ nó.
+ Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người
đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây
phút vợ chồng con cái sống trên thuyền vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải
trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là
của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
+ Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho
chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ
người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười
của tình yêu thương dành cho người chồng, nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy
khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh
phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài
tầm tay.
- Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời và luôn có khát vọng sống.
+ Mụ thấu hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ hiểu cơ
cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển,
cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Mụ ước mình đẻ ít đi, hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn.
+ Mụ ý thức được vai trò của người đàn ông trên thuyền: chèo chống con thuyền trong cơn phong
ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con.
+ Mụ ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh
cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Những cái tưởng như bình
thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở
thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí. (Nhà văn Tô Hoài)
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả: Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh
Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm
và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng
chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm
chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề
ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt
chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự
xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu
và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều. NMC vừa thương, vừa trân trọng và cũng vừa trăn trở
trước con người thật của mụ.
LĐ 3: Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối
lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật
lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.
- Nhân vật được đặt trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không phản ứng;
không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức về những ngang trái, phức tạp
của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Nhân vật được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ, hành động, qua những hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ giản dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật.
LĐ 4: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
- Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
*. Tình huống đề yêu cầu nhận xét đặc điểm truyện ngắn NMC: Truyện ngắn đậm phong
cách tự sự-triết lí, ngôn ngữ đời thường dung dị (xem vở ghi)
KB: Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong
lòng mọi người về vẻ đẹp tâm hồn rất đáng trân trọng. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ
cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà là
biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua
tác phẩm. Qua đó nhà văn thể hiện cách nhìn nhận về cuộc sống và con người. Tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu của NMC sau 1975. Tác phẩm thể hiện niềm thương cảm,
thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi
đau thể xác và tinh thần. “Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận
một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không
biết đâu là bến bờ hạnh phúc”. (Ngọc Huy)
4. Tình huống hỏi: Phân tích/ cảm nhận nhân vật Phùng trong đoạn trích. Từ đó nhận xét….
MB:
- Tg…
- Tp…
- Nhân vật Phùng và đoạn trích
- Nêu yêu cầu của đề
TB: 4 luận điểm
1. Phân tích Phùng qua chi tiết
- Hoàn cảnh xuất hiện: tòa án.
- Tâm trạng
- Phát hiện của Phùng
- Phẩm chất của Phùng.
2. Thái độ của tg
3. Nghệ thuật
4. Nhận xét yêu cầu.
5.
MB:
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn quân đội, ông là ngòi bút sử thi có thiên
hướng trữ tình lãng mạn. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến
của NMC. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983.
Truyện tái hiện chân thực cuộc sống khó khăn của người dân hàng chài miền Trung những năm sau
chiến tranh. Trong truyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng lúc
ở tòa án từ câu văn ……đến câu văn…..trong đoạn trích. Từ đó chúng ta nhận thấy những đánh
giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
TB: Phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích.
* Hoàn cảnh sống và nghề nghiệp: Trong chiến tranh: Phùng là một người lính. Sau chiến tranh,
Phùng sống ở Hà Nội. Anh là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh-> sứ mệnh cao cả mang cái đẹp để phục
vụ cuộc sống của con người. Mỗi một giai đoạn sống anh đều thực hiện tốt sứ mệnh của mình.
*Hoàn cảnh xuất hiện của Phùng: Tòa án.
- Tòa án-nơi công quyền, nơi công sở, nơi làm việc của Đẩu bạn anh.
-Vai trò là bị hại, nhân chứng: bị lão đàn ông đánh, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ.
- Người dẫn dắt câu chuyện cuộc đời của người đàn bà.
-> Phùng có cơ hội để gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với người lao động, để lắng nghe họ, để trải
nghiệm những cảm xúc rất đời thường.
-> So sánh: Huấn Cao xuất hiện trong trại giam cua quản ngục. HC mới được gặp người tri kỉ,
người có sở nguyện cao quý.
-> Khi nhân vật xuất hiện trong hoàn cảnh thời, không gian nghệ thuật đặc biệt đó là dụng ý , tài
năng nghệ thuật của nhà văn.
* Tâm trạng của Phùng khi nghe caau chuyện của người đàn bà ở tòa án. Khi nghe câu chuyện của
mụ, Phùng sống trong nỗi day dứt trăn trở về số phận của người lao động.
*Phát hiện của Phùng lần 2- Nhận thức của Phùng được thể hiện rõ
+ Khi nghe câu chuyện của người đàn bà , quá trình nhận thức về con người, cuộc sống được
thể hiện rất rõ.
++ Phùng phát hiện vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà hàng chài khi nghe câu chuyện của
người đàn bà ở tòa án.
\ Quan sát vẻ ngoài thô kệch, tăm tối và khi cảm nhận thế giới tâm tư của một người phụ nữ bao
dung, vị tha, sâu sắc. Gặp lại chị ở toà án huyện, lúc đầu anh vẫn quan sát người đàn bà này bằng
ánh mắt xót xa pha lẫn niềm thương hại. Chị ta mặc chiếc áo nâu bạc phếch với "một miếng vá
bằng vải xanh bàng bàn tay trên vai", với những bước đi một mỏi, chậm chạp như một bà già. Khi
bước vào toà án, chị khúm núm, sợ sệt "tìm đến một góc tường để ngồi"và ngay cả khi vị chánh án
cố tỏ ra thân mật, niềm nở, chị cũng chỉ dám "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và “Cố thu
người lại".
\ Anh càng cảm thấy bức bối hơn khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li
hôn người chồng vũ phu: Con lạy Quý tòa (…) Quý tòa đừng bắt con bỏ nó. Có lẽ, Phùng đã nghĩ
rằng người đàn bà này tăm tối, nhẫn nhục đến mức đáng giận.
\ Nhưng khi nghe những lời tâm sự của mụ anh càng xót thương cho cuộc đời dằng dặc nỗi buồn
đau của mụ:
\\ Thời con gái vì xấu, rỗ mặt, không ai lấy nên phải lòng và có mang với anh thuyền chài hiền lành
cục tính.
\\ Cuộc sống lênh đênh, nghèo khó, đông con: nhà nào cũng 1 sắp gần chục đứa con, có những
tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng.
\ Anh ngỡ ngàng trước sự từng trải, sắc sảo và đức hi sinh của một người mẹ. Từng lời kể, từng cử
chỉ của người đàn bà hàng chài đều khiến anh xúc động, có lẽ, phải đến tận lúc này, Phùng mới
hiểu vì sao chị chấp nhận cái cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" và cái sự chị
nhất quyết không li hôn gã chồng vũ phu. Anh không còn nghĩ rằng người đàn bà kia cam chịu vì
yếu đuối hay tăm tối, ngu dốt.
\ Anh cảm nhận được tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người phụ nữ hàng chài "phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình" được. Dù người phụ nữ ấy "chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề
ngoài" nhưng anh vẫn hiểu thấu "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm
trong việc hiểu thấu các lẽ đời" ẩn sâu trong tâm hồn chị.
\ Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình vì những hiện tượng ngang trái, phi lí, Phùng đã thực sự cảm thông,
chia sẻ cùng chị. Anh hiểu rằng không thể "giúp đỡ" chị theo cách mà anh và Đẩu định làm - bằng
một cuộc li hôn.
\ Anh hiểu sự hi sinh thầm lặng, cao cả và niềm hạnh phúc của người mẹ: "Vui nhất là lúc ngồi
nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Người nghệ sĩ ấy đã tìm thấy từ câu chuyện của bà mẹ hàng
chài lam lũ, đau khổ những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống.
=> Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu về bản chất của người
đàn bà, người lao động:
\ Người đàn bà không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực
ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
\ Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời
thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài.
\ Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng
của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
=> Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ – chánh
án Đẩu cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực sự đi
sâu vào đời sống nhân dân.
=>Và cũng qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn
giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.
=> Anh nhận ra bản chất của cuộc sống:
\ Cuộc sống của người dân hàng chài, của người lao động còn rất nhiều khó khăn: đói nghèo, đông
con, bạo lực… ống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không
thể áp dụng với mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp.
=>Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận
cuộc đời và con người
\ Cuộc sống còn rất nhiều điều ngang trái, buộc con người phải lựa chọn và không mấy dễ dàng.
\ Cuộc sống cần có lòng tốt, lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần
phải đi vào đời s
một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể
của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
*Phẩm chất là người có tấm lòng nhân ái yêu thương, quan tâm đến người làm ăn
+ Quan tâm lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án.
->Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh
án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió của
chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá! 
-> Phùng đã quyết định đi ra để trực tiếp gặp người đàn bà.
- >Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy
nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.
-> Phùng hỏi một số câu hỏi về người chồng, về cuộc sống của mụ. Những câu hỏi lạc đề “Lão ta
trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. “Có lúc nào chị
vui không?”. Phùng quan tâm đến đời sống tinh thần của người đàn bà.
->Cũng như Đẩu Phùng “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không
thể hiểu cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc
hậu, của cuộc sống nhọc nhằn. Phùng trăn trở trước cuộc sống của mụ.
+ Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà, trân trọng .
 Nhận xét; Phùng vừa có tài vừa có tâm, nghệ sĩ chân chính.
 So sánh với Huấn Cao; tài, thiên lương.
 Nhà văn trân trọng những người nghệ sĩ chân chính.
LĐ 2. Thái độ của tg.
- Trân trọng cái tâm của Phùng.
- Trân trọng sự thay đổi của Phùng trong cách nhìn về con người, về cuộc sống.

LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật:


+ Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc sống.
+ Diễn biến tâm trạng: Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái
đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ
nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; từ thái độ bất bình gay gắt trước những nghịch cảnh,
phi lí đến sự hiểu thấu lẽ đời. Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của người nghệ sĩ.
+ Nghệ thuật đối thoại: câu chuyện cảm động qua những câu hỏi tưởng chừng không liên quan
nhưng gợi mở nhiều tình huống.
LĐ 4: Nhận xét yêu cầu của đề….
KB: Qua nhân vật Phùng lúc ở tòa án, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy
ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà
nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Chiếc thuyền ngoài xa chạm đến trái
tim người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng đến xót xa và trân trọng trước vẻ đẹp của thiên nhiên và
con người. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:”Sáng tác văn học là quá trình đi tìm
hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người”.
-
Đề 2: Phân tích nhân vật Phùng lúc ở tòa án.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn quân đội, ông là ngòi bút sử thi có thiên
hướng trữ tình lãng mạn. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến
của NMC. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1983.
Truyện tái hiện chân thực cuộc sống khó khăn của người dân hàng chài miền Trung những năm sau
chiến tranh. Trong truyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng lúc
ở tòa án để thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật,
giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
TB:
1. Lđ 1:
* Hoàn cảnh sống và nghề nghiệp: Trong chiến tranh: Phùng là một người lính. Sau chiến tranh,
Phùng sống ở Hà Nội. Anh là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh-> sứ mệnh cao cả mang cái đẹp để phục
vụ cuộc sống của con người. Mỗi một giai đoạn sống anh đều thực hiện tốt sứ mệnh của mình.
* Hoàn cảnh nhân vật Phùng xuất hiện:
- Tòa án-nơi công quyền.
-Vai trò là bị hại, nhân chứng: bị lão đàn ông đánh, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ.
- Người dẫn dắt câu chuyện cuộc đời của người đàn bà.
-> Phùng có cơ hội để gặp gỡ, tiếp xúc trực tiếp với người lao động, để lắng nghe họ, để trải
nghiệm những cảm xúc rất đời thường.
* Hành trình nhận thức của nhân vật Phùng ( tâm trạng )
+ Quá trình nhận thức về con người, cuộc sống:
++ Những phát hiện và thái độ của Phùng với người đàn bà hàng chài khi nghe câu chuyện
của người đàn bà ở tòa án
\ Quan sát vẻ ngoài thô kệch, tăm tối và khi cảm nhận thế giới tâm tư của một người phụ nữ bao
dung, vị tha, sâu sắc. Gặp lại chị ở toà án huyện, lúc đầu anh vẫn quan sát người đàn bà này bằng
ánh mắt xót xa pha lẫn niềm thương hại. Chị ta mặc chiếc áo nâu bạc phếch với "một miếng vá
bằng vải xanh bàng bàn tay trên vai", với những bước đi một mỏi, chậm chạp như một bà già. Khi
bước vào toà án, chị khúm núm, sợ sệt "tìm đến một góc tường để ngồi"và ngay cả khi vị chánh án
cố tỏ ra thân mật, niềm nở, chị cũng chỉ dám "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và “Cố thu
người lại".
\ Anh càng cảm thấy bức bối hơn khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li
hôn người chồng vũ phu: Con lạy Quý tòa (…) Quý tòa đừng bắt con bỏ nó. Có lẽ, Phùng đã nghĩ
rằng người đàn bà này tăm tối, nhẫn nhục đến mức đáng giận.
\ Nhưng khi nghe những lời tâm sự của chị, anh càng xót thương cho cuộc đời dằng dặc nỗi buồn
đau của mụ:
\\ Thời con gái vì xấu, rỗ mặt, không ai lấy nên phải lòng và có mang với anh thuyền chài hiền lành
cục tính.
\\ Cuộc sống lênh đênh, nghèo khó, đông con: nhà nào cũng 1 sắp gần chục đứa con, có những
tháng biển động, ăn xương rồng luộc chấm muối cả tháng.
\ Anh ngỡ ngàng trước sự từng trải, sắc sảo và đức hi sinh của một người mẹ. Từng lời kể, từng cử
chỉ của người đàn bà hàng chài đều khiến anh xúc động, có lẽ, phải đến tận lúc này, Phùng mới
hiểu vì sao chị chấp nhận cái cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" và cái sự chị
nhất quyết không li hôn gã chồng vũ phu. Anh không còn nghĩ rằng người đàn bà kia cam chịu vì
yếu đuối hay tăm tối, ngu dốt.
\ Anh cảm nhận được tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người phụ nữ hàng chài "phải sống
cho con chứ không thể sống cho mình" được. Dù người phụ nữ ấy "chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề
ngoài" nhưng anh vẫn hiểu thấu "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm
trong việc hiểu thấu các lẽ đời" ẩn sâu trong tâm hồn chị.
\ Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình vì những hiện tượng ngang trái, phi lí, Phùng đã thực sự cảm thông,
chia sẻ cùng chị. Anh hiểu rằng không thể "giúp đỡ" chị theo cách mà anh và Đẩu định làm - bằng
một cuộc li hôn.
\ Anh hiểu sự hi sinh thầm lặng, cao cả và niềm hạnh phúc của người mẹ: "Vui nhất là lúc ngồi
nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Người nghệ sĩ ấy đã tìm thấy từ câu chuyện của bà mẹ hàng
chài lam lũ, đau khổ những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc sống.
=> Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu về bản chất của người
đàn bà, người lao động:
\ Người đàn bà không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực
ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời.
\ Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời
thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài.
\ Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng
của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
=> Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ – chánh
án Đẩu cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực sự đi
sâu vào đời sống nhân dân.
=>Và cũng qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn
giản khi nhìn nhận cuộc đời và con người.
=> Anh nhận ra bản chất của cuộc sống:
\ Cuộc sống của người dân hàng chài, của người lao động còn rất nhiều khó khăn: đói nghèo, đông
con, bạo lực…
\ Cuộc sống còn rất nhiều điều ngang trái, buộc con người phải lựa chọn và không mấy dễ dàng.
\ Cuộc sống cần có lòng tốt, lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần
phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể,
không thể áp dụng với mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp.
=>Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận
cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng
trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
* Phẩm chất: Phùng là một người nghệ sĩ có tấm lòng nhân hậu:
+ Quan tâm lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án:
->Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh
án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió của
chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá! 
-> Phùng đã quyết định đi ra để trực tiếp gặp người đàn bà.
- >Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy
nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.
-> Phùng hỏi một số câu hỏi về người chồng, về cuộc sống của mụ. Những câu hỏi lạc đề “Lão ta
trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. “Có lúc nào chị
vui không?”. Phùng quan tâm đến đời sống tinh thần của người đàn bà.
->Cũng như Đẩu Phùng “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không
thể hiểu cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc
hậu, của cuộc sống nhọc nhằn. Phùng trăn trở trước cuộc sống của mụ.
+ Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà, trân trọng:….
* Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn.
- Là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa
tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm:
+ Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận
mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.
+ Cuộc sống luôn chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn không dễ lí giải. Khi đánh giá con người
trong cuộc sống không thể chỉ nhìn ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất
bên trong.
- Thông điệp:
+ Cái xấu cũng có thể làm cái đẹp bị khuất lấp (tìm hiểu sâu gia đình hàng chài Phùng lại thấy cuộc
sống nhức nhối ấy làm khuất lấp nhiều nét đẹp của không ít những thành viên trong gia đình). +
Nhà văn không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không chấp nhận kiểu người đứng ngoài
cuộc, đứng trên cao để phán xét.
+ Muốn giải quyết những vấn đề của cuộc sống không chỉ dựa vào những thiện chí, pháp luật bằng
những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiến, ngược lại phải có những biện pháp thiết thực mang tính
toàn xã hội mới có thể giải phóng tận gốc những vấn đề tồn tại trong cuộc sống.
Luận điểm 2:  Thái độ của nhà văn:  
Xây dựng nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nhiều quan niệm mới mẻ và sâu
sắc về con người, về nghệ thuật và cả những chiêm nghiệm về cuộc đời, vền ghệ thuật. Tg ca ngợi
và trân trọng nhưng cũng phê phán cách nhìn đời đơn giản của người nghệ sĩ . Tg nêu một
thông điệp với người nghệ sĩ hãy sống và làm việc theo quan điển nghệ thuật vị nhân sinh.
LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
+ Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của Phùng
về nghệ thuật và cuộc sống.
+ Diễn biến tâm trạng: Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái
đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ
nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; từ thái độ bất bình gay gắt trước những nghịch cảnh,
phi lí đến sự hiểu thấu lẽ đời. Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của người nghệ sĩ.
+ Nghệ thuật đối thoại : câu chuyện cảm động qua những câu hỏi tưởng chừng không liên quan
nhưng gợi mở nhiều tình huống.
KB: Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng phát biểu:”Sáng tác văn học là quá trình đi tìm hạt
ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn người”. Qua nhân vật Phùng lúc ở tòa án, Nguyễn Minh Châu
muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ
không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp.
Chiếc thuyền ngoài xa chạm đến trái tim người đọc những cảm xúc ngỡ ngàng đến xót xa và trân
trọng trước vẻ đẹp của thiên nhiên v Đề bài: Phân tích hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp
ảnh Phùng trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu).

ĐỀ 5: Phân tích nhân vật Phùng trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của NMC
MB: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tài năng với sức sáng tạo dồi dào, bằng cái tâm của người
nghệ sĩ, ông luôn trăn trở trước những hiện thực của đời sống và đặt ra trách nhiệm của người nghệ
sĩ khi đứng trước thực tại đó. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc
nhất của Nguyễn Minh Châu được sáng tác trong giai đoạn đổi mới văn học, đồng thời cũng là tác
phẩm điển hình cho quá trình chuyển hướng từ cảm hứng sử thi lãng mạn huyền ảo sang tính triết
luận về những giá trị nhân bản đời thường. Trong truyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã xây dựng
thành công nhân vật Phùng để thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc
đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
TB:
1. Lđ 1:
* Hoàn cảnh sống:
- Trong chiến tranh: Phùng là một người lính, Phúng chiến đấu tại một vùng biển miền Trung cách
Hà Nội khoảng hơn 600 km-> sứ mạnh cao cả là giải phóng quê hương.
- Sau chiến tranh: Phùng sống ở Hà Nội. Anh là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh-> sứ mệnh cao cả
mang cái đẹp để phục vụ cuộc sống của con người. Mỗi một giai đoạn sống anh đều thực hiện tốt
sứ mệnh của mình. Nhưng trong vai trò là người nghệ sĩ anh mang nhiều nỗi trăn trở trước cuộc đời
nhất la sau khi rời khỏi vùng đất trong chuyến đi thực tế.
* Tài năng: Phùng là một người nghệ sĩ có tài năng đích thực.
- Tài năng: Anh đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một “cảnh đắt trời cho”- một
cảnh tượng tuyệt đẹp đó là hình ảnh chiếc thuyền vó bè trên biển trong sương sớm. ( phát hiện 1-
trang 70)
+ Con thuyền xuất hiện trên biển trong sương sớm: Chiếc thuyền được nhà văn khắc hoạ chi tiết
và rất ấn tượng: "Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu trời sương mù trắng như sữa pha
đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ".
->Nhà văn miêu tả từng bộ phận của con thuyền từ mũi thuyền, hai gọng vó và cái mui thuyền…
Hình ảnh đó mang một "vẻ đẹp thực sự đơn giản và toàn bích" - vẻ đẹp của "một bức tranh bằng
mực Tàu của một danh hoạ thời cổ", và tất cả vẻ đẹp đó đã được nhà nghệ sỹ nhiếp ảnh của chúng
ta thu vào một tấm ảnh.
-> Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giờ đã hoá thân thành một tác phẩm nghệ thuật để mọi người
nhìn ngắm, chiêm ngưỡng với tất cả những vẻ đẹp về màu sắc, đường nét, bố cục...và khi thưởng
thức bức ảnh đó, những người sành nghệ thuật thể có cái cảm giác "trở nên bối rối", cảm thấy "trái
tim như có cái gì bóp thắt vào" và "khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn"...như cái cảm giác mà "tôi" đã từng có.
- -> Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Mặt
khác, như chính cảm nhận của nghệ sĩ Phùng, trong sự cảm nhận ban đầu cái cảnh tượng ấy giống
như “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh
sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”.
- + Tài năng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng được thể hiện rất rõ qua giá trị của bức ảnh
anh chụp. Bức ảnh chiếc thuyền vó bè trên biển trong sương sớm sau này được chọn trong bộ lịch.
Và nó được treo trong nhà của rất nhiều người sành nghệ thuật. Như vậy, có thể khẳng định Phùng
là một người nghệ sĩ nhiếp ảnh tài năng.
+ Phát hiện của Phùng: (Phát hiện lần thứ 1) Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy
cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Bản thân
cái đẹp chính là đạo đức .Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã
cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở
nên thật trong trẻo, tinh khôi.
* Hành trình nhận thức của nhân vật Phùng qua các tình huống truyện: tình huống nhận
thức của nghệ sĩ Phùng
+ Quá trình nhận thức về cái đẹp, về nghệ thuật: ( tình huống nhận thức 1)Phùng là một nghệ
sĩ nhiếp ảnh từ Hà Nội lặn lội vào vùng biển này để chụp một bức ảnh nghệ thuật "hoàn toàn là tĩnh
vật", ở đây, anh đã có những phát hiện đầy bất ngờ về cuộc sống và cái đẹp:
++ Phát hiện đầu tiên của Phùng là vẻ đẹp của một chiếc thuyền ngoài xa bất ngờ xuất hiện trong
khung cảnh thơ mộng của buổi bình minh ( xem ý hình ảnh chiếc thuyền lần 1)
+ Quá trình nhận thức về con người, cuộc sống: ( tình huống nhận thức 2)
- ++ Hình ảnh người đàn bà, lão đàn ông, cảnh gđ họ đánh nhau ( dẫn chứng: người
chồng đánh vợ ….chửi, người bố đánh con vì thằng con đánh bố)
- -> Chuỗi nghịch lí ấy của hiện thực đã khơi lên trong tâm hồn người nghệ sĩ nhiều cảm xúc
trái ngược - từ niềm hạnh phúc ngỡ ngàng trước một vẻ đẹp hoàn hảo đến cảm giác sững sờ, kinh
ngạc vì sự thật trần trụi, tàn nhẫn và cả những xót xa, bất bình, phẫn nộ.
->Những xúc cảm và hành động đó cho ta thấy vẻ đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm, tinh tế
trước cái đẹp và thiết tha gắn bó với con người, cuộc sống. Anh yêu và khao khát cái đẹp tuyệt đỉnh
của ngoại cảnh nhưng không dửng dưng trước cuộc đời với bao nghịch cảnh đau đớn.
++ Những phát hiện và thái độ của Phùng với người đàn bà hàng chài khi nghe câu chuyện
của người đàn bà ở tòa án( dẫn chứng…)
->Quan sát vẻ ngoài thô kệch, tăm tối và khi cảm nhận thế giới tâm tư của một người phụ nữ bao
dung, vị tha, sâu sắc,...; tình cảm anh dành cho chị em thằng Phác - hai đứa trẻ với nỗi bất hạnh
phải sống trong một gia đình nghèo khổ với người bố thô tục, dữ dằn - và tình yêu thương sâu sắc
mà chúng dành cho người mẹ...
->Người nghệ sĩ ấy đã phát hiện chất thơ kì diệu ngay giữa những lầm lụi, đau khổ của đời thường
"lam lũ, khó nhọc". Nó thấp thoáng hiện lên qua đôi bàn tay thằng Phác "khẽ sờ trên khuôn mặt
người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt".
-> Đặc biệt, anh đã phát hiện "con người ở bên trong con người" khi quan sát, suy ngẫm về người
đàn bà hàng chài. Chứng kiến cảnh tượng mụ câm lặng chịu đựng sự bạo hành của gã chồng vũ
phu, Phùng đã nhìn bằng con mắt thương hại. Lúc đó, anh chỉ thấy một người đàn bà xấu xí, thô
kệch, lam lũ, cam chịu đến nhẫn nhục. Gặp lại chị ở toà án huyện, lúc đầu anh vẫn quan sát người
đàn bà này bằng ánh mắt xót xa pha lẫn niềm thương hại. Chị ta mặc chiếc áo nâu bạc phếch với
"một miếng vá bằng vải xanh bàng bàn tay trên vai", với những bước đi một mỏi, chậm chạp như
một bà già. Khi bước vào toà án, chị khúm núm, sợ sệt "tìm đến một góc tường để ngồi"và ngay cả
khi vị chánh án cố tỏ ra thân mật, niềm nở, chị cũng chỉ dám "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc
ghế và “Cố thu người lại". Anh càng cảm thấy bức bối hơn khi nghe người phụ nữ van xin vị
chánh án đừng bắt chị phải li hôn người chồng vũ phu. Có lẽ, Phùng đã nghĩ rằng người đàn bà này
tăm tối, nhẫn nhục đến mức đáng giận.
->Nhưng khi nghe những lời tâm sự của chị, anh ngỡ ngàng trước sự từng trải, sắc sảo và đức hi
sinh của một người mẹ. Từng lời kể, từng cử chỉ của người đàn bà hàng chài đều khiến anh xúc
động, cólẽ, phải đến tận lúc này, Phùng mới hiểu vì sao chị chấp nhận cái cảnh "ba ng ày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng" và cái sự chị nhất quyết không li hôn gã chồng vũ phu. Anh không
còn nghĩ rằng người đàn bà kia cam chịu vì yếu đuối hay tăm tối, ngu dốt. Anh cảm nhận được tấm
lòng yêu thương con vô bờ bến của người phụ nữ hàng chài "phải sống cho con chứ không thể
sống cho mình" được. Dù người phụ nữ ấy "chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài" nhưng anh vẫn
hiểu thấu "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ
đời" ẩn sâu trong tâm hồn chị.
->Từ chỗ ngạc nhiên, bất bình vì những hiện tượng ngang trái, phi lí, Phùng đã thực sự cảm thông,
chia sẻ cùng chị. Anh hiểu rằng không thể "giúp đỡ" chị theo cách mà anh và Đẩu định làm - bằng
một cuộc li hôn. Anh hiểu sự hi sinh thầm lặng, cao cả và niềm hạnh phúc của người mẹ: "Vui nhất
là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Người nghệ sĩ ấy đã tìm thấy từ câu chuyện của
bà mẹ hàng chài lam lũ, đau khổ những bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, đánh giá con người và
cuộc sống.
* Tâm trạng của người nghệ sĩ:
- Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hoá công, người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và
“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung
động thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh. 
* Phẩm chất:
- Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công, biết bảo vệ,
bênh vực những nạn nhân đau khổ của bạo lực gia đình.
 + Chứng kiến cảnh bạo lực gia đình: bênh vực người đàn bà.
++Sự xuất hiện của cặp vợ chồng người đàn bà: Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là
một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi ; một gã đàn ông to lớn, dữ dằn ..
++ Hành động của gã chồng: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo ( dẫn chứng trang 71)
++Hành động của đứa con: vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã
dúi xuống cát…
+ +Tâm trạng của Phùng: Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ :
“Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. 
-> Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì
của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy
“bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng
còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu
xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như
nhuốm màu đau thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha
ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp người. 
->Chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng đã đánh nhau với lão chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, với những vết thương trên mặt
đã lên da non nhưng vẫn còn lại dấu tích.
+ Quan tâm lắng nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án: ( xem ý trong nhân vật người
đàn bà)
->Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh
án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió của
chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá! 
- >Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy
nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên
các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những câu hỏi lạc đề
“Lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối.
->Rồi Phùng thốt lên “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không thể
hiểu cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc hậu,
của cuộc sống nhọc nhằn, không thể hiểu “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái ăn toàn cây
xương rồng luộc chấm muối”, cũng không thể hiểu sự đan cài giữa tình thương và hành động tàn
nhẫn, giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình… và “bởi vì, các chú không phải là đàn bà,
chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không
có đàn ông… dù hắn man rợ và tàn bạo”. 
+ Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu ra: Người đàn bà không
hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất
sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu
những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ
điều đó ra bên ngoài. Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ,
thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và
lòng vị tha.
+ Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài Phùng cũng nhận ra người đồng đội cũ – chánh án
Đẩu cũng có lòng tốt giống anh, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng chánh án Đẩu chưa thực sự đi sâu
vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng cần phải
đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể
áp dụng với mọi đối tượng và có những vấn đề không thể giải quyết bằng luật pháp. =>Và cũng qua
câu chuyện của người đàn bà hàng chài nghệ sĩ Phùng cũng nhận ra: Mình đã đơn giản khi nhìn
nhận cuộc đời và con người.
- =>Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ
nhìn nhận cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện
tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
* Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn,
+ Là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa
tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm. Hình ảnh người nghệ sĩ
“khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận thức của Phùng thực
sự đã đổi khác, anh đã để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít thi vị ùa tới “trời
trở gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào
thét, sóng bạc đầu và “… chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”. Chiếc thuyền được
đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn còn đó.
Nó cho thấy rằng, chiếc thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời
sống. Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt của nhà văn
về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những người đi biển họ vẫn luôn phải
chống chọi với phong ba và bão táp và cuộc sống vốn chẳng bao giờ bình yên. 
+Truyện ngắn kết thúc bằng những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ mỗi lẫn ngắm bức ảnh
được chụp tại vùng biển nọ: nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái
màu hồng hồng của ánh sương mai”. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy
đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống,
là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước
ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời
đằng sau bức tranh.
+ Kết thúc tình huống: Khi ngắm lại tác phẩm nghệ thuật của mình, anh không chỉ tự hào vì nó
"được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những gia đình sành nghệ thuật" mà còn vì nó ẩn chứa cái đẹp
thực sự của cuộc đời. Mỗi lần đối diện với bức ảnh đen trắng, anh lại thấy hiện lên "cái màu hồng
hồng của ánh sương mai" trong khoảnh khắc tuyệt đẹp ngày nào và lại thấy người đàn bà hàng chài
ấy bước ra khỏi tấm ảnh. vẫn vóc dáng cao lớn, thô kệch của người đàn bà vùng biển, vẫn tấm lưng
áo bạc phếch có miếng vá và khuôn mặt rỗ nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm nhưng giờ đây chị đã là
biểu tượng cho vẻ đẹp, cho sức sống bền bỉ, phi thường của nhân dân với "những bước chậm rãi,
bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông".
- Luận điểm 2:  Thái độ của nhà văn:  
- Xây dựng nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm nhiều quan niệm mới mẻ và sâu
sắc về con người, về nghệ thuật và cả những chiêm nghiệm về cuộc đời, vền ghệ thuật. Tg ca ngợi
và trân trọng nhưng cũng phê phán cách nhìn đời đơn giản của người nghệ sĩ . Tg nêu một
thông điệp với người nghệ sĩ hãy sống và làm việc theo quan điển nghệ thuật vị nhân sinh.
- LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- + Các tình huống được nhà văn lặp lại nhằm nhấn mạnh những biến đổi trong cách nhìn của
Phùng về nghệ thuật và cuộc sống.
+ Diễn biến tâm trạng: Từ chỗ mơ mộng, bay bổng trong niềm hạnh phúc ngỡ mình tìm thấy cái
đẹp toàn bích đến cảm giác sững sờ, phẫn nộ trước sự thật phũ phàng; từ sự thương hại trước vẻ
nhẫn nhục, cam chịu đến cảm thông, chia sẻ; từ thái độ bất bình gay gắt trước những nghịch cảnh,
phi lí đến sự hiểu thấu lẽ đời. Đó cũng là hành trình đi tìm bản chất sự thật của người nghệ sĩ.
+ Nghệ thuật đối thoại : câu chuyện cảm động qua những câu hỏi tưởng chừng không liên quan
nhưng gợi mở nhiều tình huống.
KB: Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm hết sức
sâu sắc: mỗi chúng ta và nhất là người nghệ sĩ không nên đơn giản sơ lược để mà nhìn nhận cuộc
sống bởi cuộc sống rất đa dạng và phức tạp. Chiếc thuyền ngoài xa chạm đến trái tim người đọc
những cảm xúc ngỡ ngàng đến xót xa và trân trọng trước vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp của tình
mẫu tử. Đồng thời tp xứng đáng là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc của NMC thời kì đổi mới.

Đề 8: Phân tích 2 phát hiện của Phùng


Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm
+ Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại.
+ Truyện Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn tiêu biểu in đậm phong cách của Nguyễn Minh
Châu: tự sự - triết lí nhân sinh.
- Giới thiệu hai phát hiện của Phùng: Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc
thuyền ngoài xa, tác giả đã thể hiện được những đánh giá, quan điểm về mối quan hệ giữa cuộc đời
và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ và nhân dân.
b) Thân bài
* Phát hiện đầu tiên: Vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trên biển sớm mờ sương
- Khung cảnh biển buổi sáng trong sương mai, đó là khung cảnh đẹp đẽ, tuyệt bích như bức họa
mực tàu.
- Khung cảnh rộng lớn của biển với chiếc thuyền ngoài xa mà “mái thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu trời sương mù màu trắng như có sữa pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào”, trên thuyền là vài bóng người ngồi im phăng phắc.
=> Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề" của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp "trời cho" trên mặt biển
mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy ảnh chỉ gặp một lần.
- Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc đó là niềm hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, của sự
cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
- Trong giây lát, Phùng đã nhận ra được chân lí của sự hoàn mĩ, thì ra đứng trước cảnh đẹp, trước
sự toàn bích, hài hòa, lãng mạn của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ có thể được thanh lọc để trở
nên trong trẻo hơn.
* Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài
- Trong khung cảnh lung linh, tuyệt mĩ của cảnh biển, Phùng ngỡ ngàng phát hiện ra cảnh bạo lực
gia đình - sự thật tàn nhẫn trong góc khuất cuộc sống của những con người nghèo khổ.
- Từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi với vẻ
ngoài cam chịu cùng một người đàn ông hung dữ, độc ác lấy việc đánh vợ làm phương thức giải tỏa
mọi đau khổ.
-> Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp "toàn bích, toàn thiện" mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện
ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng đã "kinh ngạc đến
mức, trong mấy phút đầu... vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy ào tới".
-> Phùng đã cay đắng nhận ra rằng đằng sau vẻ đẹp toàn bích, hoàn thiện kia lại là những góc khuất
đầy ngang trái, đau khổ của cuộc sống.
=> Phùng ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ, người nghệ sĩ đích thực không phải chỉ nhìn
cuộc sống như chiếc thuyền ngoài xa mà cần thực sự thấu hiểu, đi sâu khám phá cuộc sống của con
người.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Tình huống truyện nghịch lí độc đáo
- Diễn biến tình tiết giàu kịch tính, chi tiết đối lập
- Giọng điệu thay đổi linh hoạt
- Sắc thái suy tư, chiêm nghiệm, suy tư - triết lí nổi bật
- Lời văn giản dị, mộc mạc mà nhiều dư vị
c) Kết bài
- Khái quát giá trị hai phát hiện của Phùng: Thông qua hai phát hiện của nhân vật Phùng, tác giả
Nguyễn Minh Châu đã đặt ra mối trăn trở về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa người
nghệ sĩ và người dân.
( xem nội dung ở đề 5 )

PHÂN TÍCH NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI QUA ĐOẠN TRÍCH SAU. TỪ ĐÓ HÃY
NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI CỦA NHÀ VĂN/ ĐẶC ĐIỂM
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại vẫn là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt,
nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà
tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có
mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão
chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ
đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng
con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng
mụ đỏ mặt - nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
- Vậy sao không lên bờ mà ở - Đẩu hỏi.
- Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về,
cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
- Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.
- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão...
đưa tôi lên bờ mà đánh...
- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt lên.
- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...
- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu, - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền
phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?
- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:
- Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
(Trích Chiếc thuyền ngoài xa của NMC)

( BÀI LÀM Ở MỨC ĐỘ NÂNG CAO)


MB 1: Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương giành cho
những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại càng
nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong tim
những nghệ sĩ đến với thị Nở, người vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu. Ở đây tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà
hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi
sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông
và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của người phụ nữ. Điều đó được NMC thể hiện
qua đoạn trích từ câu văn Trong phút chốc, trước mặt chúng tôi là một người đàn bà cho đến câu
văn Vui nhất là nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no. Qua đây, người đọc hiểu rõ cách nhìn của
nhà văn về cuộc sống và con người/ đặc điểm truyện ngắn NMC.
MB 2: Nguyễn Minh Châu(1930-1989) được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong
nền văn học nước nhà. Là nhà văn luôn đi tìm tòi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên
những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn chỉ “Cắt lấy một lát”, “cưa lấy
một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và đưa ra triết
lí nhân sinh. Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới,
cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Tác giả đã xây
dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên
phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách,
cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc nhất
là đoạn trích-câu chuyện của mụ ở tòa án. Qua đây chúng ta thấy được cách nhìn nhận về cuộc sống
và con người của nhà văn NMC/ đặc điểm truyện ngắn NMC.
MB 3: Nguyễn Văn Hạnh từng nhận xét “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu
thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng vai trò nào đáng kể, nhà văn thường tập
trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật, đã huy động và đẩy tâm hồn của con
người đa cảm rồi tạo ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống. Bút pháp chân tình và giọng văn
đầy trầm ấm, ấm áp.” Quả đúng, từ sau năm 1975 mỗi tác phẩm của ông đã có sự thay đổi mạnh mẽ
về quan niệm nghệ thuật, về con người và những đóng góp của ông trong công cuộc đổi mới với
văn học nước nhà. Tất cả những băn khoăn được vẽ tràn trên trang sách, đặt trong từng câu văn
dưới tác phẩm mang Chiếc thuyền ngoài xa. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn
cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta
phải băn khoăn. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật
lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính
cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc
nhất là đoạn trích - câu chuyện của mụ ở tòa án. Qua đây chúng ta thấy được cách nhìn nhận về
cuộc sống và con người của nhà văn NMC/ Đặc điểm truyện ngắn NMC.
1. Thân bài: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích.
LĐ 1: Phân tích những cho tiết về nhân vật
* Hoàn cảnh xuất hiện: Nguyễn Minh Châu đã từng chia sẻ trên con đường đi tới chủ nghĩa hiện
thực, đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình.
Mở đầu đoạn trích tác giả miêu tả sự xuất hiện của người đàn bà. Mụ xuất hiện ở Tòa án, ở nơi
công sở. Mụ xuất hiện ở đây vì được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị
chồng đánh, vừa là nhân chứng vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng
vẻ lúng túng, sợ sệt khác hẳn với vẻ cam chịu nhẫn nhục lúc ở bãi biển.
* Hoàn cảnh sống: Người đàn bà có hoàn cảnh éo le.
- Trong lời kể của người đàn bà, lúc nhỏ mụ sống trên bờ, sống trong một gia đình khá giả ở trong
phố. Sau khi lấy anh con trai hàng chài, mụ xuống thuyền ở, con thuyền chật, mụ làm nghề thuyền
lưới vó.
- Mụ đối mặt với khó khăn về thời tiết đó là khi vào vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng
tháng. Mụ đối mặt với nghèo khó, túng quẫn vì chồng trốn lính, vì mụ đẻ nhiều.
- Hoàn cảnh sống éo le của mụ gợi nỗi xót xa trong lòng người đọc về cuộc sống lam lũ vất vả của
những người dân hàng chài miền Trung.
* Tên gọi:
- Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi
một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như
một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện
để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên.
- Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này,
cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị
cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh
tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những
miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất
hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị.
- Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ
nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự
sống thật mong manh? Thật cảm thương thay cho số phận những con người.
* Ngoại hình: Khác với một số nhân vật nữ có vẻ ngoại hình trẻ trung xinh đẹp trong các sáng tác
khác của NMC, người đàn bà là một người có ngoại hình xấu xí. Tác giả đã dùng những ngôn từ rất
đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ.
- Trong câu chuyện mụ kể, mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn nhỏ. Mụ bị rỗ mặt
vì một bận lên đậu mùa nên mụ có khuôn mặt xấu xí. Lời kể gợi nỗi xót xa của người đọc dành cho
người đàn bà. Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả
của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ.
* Cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị bạo hành…
- Từ nhỏ đã bất hạnh vì xấu, lại rỗ mặt. Chính vì xấu nên không có người đàn ông trên phố nào dám
lấy mụ dù nhà mụ khá giả. Nên mụ phải lòng anh hàng chài và có mang với anh ta. Mụ thiệt thòi,
bất hạnh từ lúc nhỏ đến lúc lớn. Tác giả cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
- Lúc lấy chồng phải đối mặt với những vất vả vì mưu sinh. Vì làm cái nghề thuyền lưới vó nên
người đàn bà không thể sống trên đất. Mụ sống trên thuyền giữa mặt nước và mụ phải đối mặt với
khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc. Vào vụ bắc, ông trời làm biển động nên mụ và gia đình có hàng
tháng phải ăn xương rồng luộc chấm muối.
- Người đàn bà sống trong nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1 sắp con, trên dưới
chục đứa con. Câu chuyện của mụ đã tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống lam lũ vất vả của
những người dân hàng chài miền Trung những năm sau chiến tranh.
- Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang
lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải
thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con
phải nhìn cảnh bố đánh mẹ….
- Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu
sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,
… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ lúc nào.
- Mụ kể rằng, lão chồng mụ ngày trước cục tính nhưng hiền lành và không bao giờ đánh mụ.
Nhưng cũng ch.ỉ vì nghèo đói, túng quẫn vì người chồng trốn lính, vì mụ để nhiều quá mà thuyền
lại chật nên người chống ấy cứ lúc nào thấy khổ quá là xách mụ ra đánh. Lão đánh mụ ngay trên
thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn. Mụ giống như cô Mị trong truyện ngắn
của Tô Hoài. Họ đều là nạn nhân của những trận đòn chồng man rợ và tàn bạo.
- Triền miên đối mặt với khổ đau, những giây phút hạnh phúc, gia đình mụ sống hòa hợp vui vẻ
trên thuyền thật hiếm hoi. Mụ trải lòng với Đẩu và Phùng, vả lại cũng có lúc trên thuyền vợ chồng
con cái chúng tôi sống vui vẻ hòa thuận. Mụ ít khi được sống trong niềm vui và giây phút mụ vui
nhất là mụ được nhìn đàn con được ăn no.
=> Nỗi bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man rợ và tàn bạo…
=> Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Mụ phải
phụ thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con. Mụ là nạn nhân của
sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời mụ dần dần hiện ra rõ nét khi mụ đến toà án
huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ. Truyện mang lại
nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng
manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc.
(Ngọc Huy)
*Tâm trạng của người đàn bà có sự diễn biến khá phức tạp: Lúc đầu lên tòa án, mụ tỏ ra sợ sệt,
lúng tùng. Nhưng sau đó, khi kể về cuộc đời của mụ, mụ sống trong tâm trạng buồn tủi vì tuổi thơ
bất hạnh, vì cuộc đời chìm trong đói nghèo. Mụ khẩn thiết van xin Đẩu đùng bắt mụ bỏ chồng. Mụ
bộc lộ rất kín đáo niềm vui nhỏ nhoi trên khuôn mặt khi nhắc đến người chồng và những giây phút
gia đình sống vui vẻ trên thuyền. Tất cả tâm trạng của mụ được quan sát qau cảm nhận của Phùng.
* Phẩm chất/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng
Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là
bởi những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc
đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý.
- Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ
đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam
chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Mụ nhận thấy rằng, các con là cuộc
sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục:
“Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền
được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái
bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh mụ còn chủ
động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa
tôi lên bờ mà đánh”. Mụ chấp nhận gánh lấy cái khổ. Mụ muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình,
không để các con bị tổn thương.
- Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn mà
nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
- Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái
sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam chịu
bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con
-Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho
riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh
khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ
một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
- Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng.
+ Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, đô ̣ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà
người chồng đã gây ra cho mụ, mụ vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn
của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
và lão đã trốn không đi lính ngụy hồi trước bảy nhăm.
+ Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng mụ cũng không oán trách vì mụ hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu
cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành
kẻ vũ phu, thô bạo. Người đàn bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ
phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu
sinh. Lão đánh mụ cũng vì lão thấy khổ quá.
+ Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng
trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người đàn ông. Chính vì thế
bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục
tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
+ Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn
bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng
tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vậy nên bà xin các chú đừng bắt
tôi bỏ nó.
+ Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người
đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây
phút vợ chồng con cái sống trên thuyền vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải
trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là
của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
+ Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho
chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ
người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười
của tình yêu thương dành cho người chồng, nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy
khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh
phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài
tầm tay.
- Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời và luôn có khát vọng sống.
+ Mụ thấu hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ hiểu cơ
cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển,
cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Mụ ước mình đẻ ít đi, hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn.
+ Mụ ý thức được vai trò của người đàn ông trên thuyền: chèo chống con thuyền trong cơn phong
ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con.
+ Mụ ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh
cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Những cái tưởng như bình
thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở
thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí. (Nhà văn Tô Hoài)
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả: Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh
Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm
và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng
chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm
chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề
ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt
chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự
xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu
và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều. NMC vừa thương, vừa trân trọng và cũng vừa trăn trở
trước con người thật của mụ.
LĐ 3: Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối
lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật
lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.
- Nhân vật được đặt trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không phản ứng;
không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức về những ngang trái, phức tạp
của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Nhân vật được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ, hành động, qua những hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ giản dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật.
LĐ 4: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
- Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
*. Tình huống đề yêu cầu nhận xét đặc điểm truyện ngắn NMC: Truyện ngắn đậm phong
cách tự sự-triết lí, ngôn ngữ đời thường dung dị (xem vở ghi)
KB: Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong
lòng mọi người. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng
vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà
Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm. Qua đó nhà văn thể hiện cách
nhìn nhận về cuộc sống và con người. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu của
NMC sau 1975. Tác phẩm thể hiện niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của
kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần. “Truyện mang lại
nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng
manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc”.
(Ngọc Huy)

II. TÌNH HUỐNG HỎI PHÂN TÍCH/CẢM NHẬN NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG ĐOẠN
TRÍCH. TỪ ĐÓ NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI CỦA NMC.
( Bài viết ở mức độ cơ bản )

1.Mở bài 1.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của văn học VN
thời kì đổi mới. Ông có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông đậm phong cách tự sự- triết
lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Tác phẩm là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, những nhận thức thấm
thía về con người và cuộc sống. Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài là nhân vật
được Nguyễn Minh Châu rất dụng tâm khi xây dựng, để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc
qua đoạn trích. Từ nhân vật người đàn bà qua đoạn trích, chúng ta hiểu được cách nhìn nhận của
tác giả về cuộc sống và con người/ đặc điểm truyện ngắn NMC.

2.Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh xuất hiện: Mụ xuất hiện ở Tòa án, ở nơi công sở. Mụ xuất hiện ở đây vì
được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị chồng đánh, vừa là nhân chứng
vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng vẻ lúng túng, sợ sệt.
* Hoàn cảnh sống: Trong lời kể của người đàn bà. Lúc nhỏ mụ sống trên bờ, sống trong một gia
đình khá giả ở trong phố. Sau khi lấy anh con trai hàng chài, mụ xuống thuyền ở, con thuyền chật,
mụ làm nghề thuyền lưới vó. Mụ đối mặt với khó khăn về thời tiết, đối mặt với nghèo khó, túng
quẫn vì chồng trốn lính, vì mụ đẻ nhiều. Vào vụ bắc, gia đình vợ chồng con cái ăn xương rồng luộc
chấm muối hàng tháng. Hoàn cảnh sống éo le của những người dân hàng chài miền Trung.
* Tên gọi: Tác giả gọi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà, mụ: không có bất cứ tên
riêng nào khác để phân biệt với những người đàn bà miền biển. Tác giả có dụng ý muốn chung hóa
nhân vật thành đại diện cho thân phận những người phụ nữ lao động nghèo, đông con. Tác giả thể
hiện sự cảm thương.
* Ngoại hình: Trong câu chuyện mụ kể: Mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn nhỏ.
Mụ bị rỗ mặt vì một bận lên đậu mùa. Lời kể gợi nỗi xót xa. Qua quan sát của Phùng: mụ có khuôn
mặt xấu xí. Chính vì xấu nên không có người đàn ông trên phố nào dám lấy mụ dù nhà mụ khá giả.
Nên mụ phải lòng anh hàng chài và có mang với anh ta. Mụ thiệt thòi, bất hạnh từ lúc nhỏ đến lúc
lớn. Tác giả cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
* Cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị bạo hành … Từ nhỏ đã bất hạnh vì
xấu, lại rỗ mặt. Lúc lấy chồng phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc, có hàng tháng
phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cuộc sống nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1
sắp con, trên dưới chục đứa con. Mụ còn bị chồng đánh: cứ lúc nào chồng thấy khổ quá là xách mụ
ra đánh. Đánh ngay trên thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn. Mụ phải phụ
thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con. Cuộc đời của mụ triền
miên đối mặt với khổ đau, cuộc đời mụ hiếm hoi có được giây phút hạnh phúc. Tác giả đã chỉ ra nỗi
bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man rợ và tàn bạo…NMC
vừa thương vừa trăn trở trước cuộc đời bất hạnh của mụ như Tô Hoài đã từng cảm thương trước nỗi
khổ đau của cô Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
*Tâm trạng của người đàn bà có sự diễn biến khá phức tạp: Lúc đầu lên tòa án, mụ tỏ ra sợ sệt,
lúng tùng. Nhưng sau đó, khi kể về cuộc đời của mụ, mụ sống trong tâm trạng buồn tủi vì tuổi thơ
bất hạnh, vì cuộc đời chìm trong đói nghèo. Mụ khẩn thiết van xin Đẩu đùng bắt mụ bỏ chồng. Mụ
bộc lộ rất kín đáo niềm vui nhỏ nhoi trên khuôn mặt khi nhắc đến người chồng và những giây phút
gia đình sống vui vẻ trên thuyền. Tất cả tâm trạng của mụ được quan sát qau cảm nhận của Phùng.

* Phẩm chất/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng


- Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Mụ tâm niệm: “đàn bà trên thuyền chúng tôi phải
sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được” nên mụ hi sinh vì con. Mụ không nghĩ
đến bản thân, không quan tâm đến nỗi khổ cực hằng ngày cũng như nỗi đau thể xác. Mụ chấp nhận
gánh lấy cái khổ. Mụ không muốn các con nhìn thấy cảnh bố đánh mẹ nên khi các con lớn, mụ xin
chồng được lên bờ để đánh. Sự cam chịu, nhẫn nhịn của chị có cội rễ từ tình yêu thương con vô bờ
bến. Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn
mà nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con
cái sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam
chịu bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con. Tình yêu thương của mụ cao
đẹp như chính tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
- Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng. Mụ hiểu được bản chất của người
chồng, mụ vẫn thấy được cái “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi” trong hình bóng lão chồng hiện tại. Mụ nhận thấy lão cũng tích cực vì không đi lính ngụy hồi
bảy nhăm. Mụ nhận mọi lỗi lầm về mình, nghĩ sự hung bạo của chồng cũng vì mụ mà ra cái lỗi
chính là đám đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều. Bị người chồng đánh đập mà chị vẫn không hề
căm giận, oán trách hay muốn trả mối hận. Mụ biết những lúc ấy là do lão thấy khổ quá. Mụ còn
biết ơn người đã cùng chị chèo chống con thuyền trong cơn phong ba và lão có trách nhiệm để nuôi
con. Mụ nhìn cuộc đời bằng đôi mắt hi vọng và nhìn con người bằng lòng nhân hậu, mụ hạnh phúc
khi nhắc đến lão trên khuôn mặt xấu xí ửng sáng lên như một nụ cười. Nguyễn Minh Châu vừa trân
trọng vừa trăn trở trước tấm lòng bao dung của mụ.
- Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời và luôn có khát vọng sống. Mụ thấu
hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ ước mình đẻ ít đi,
hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn. Mụ ý thức được vai trò của người đnà ông trên thuyền: chèo
chống con thuyền trong cơn phong ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con. Mụ ý thức được thiên chức
của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và
nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Ở tòa án huyện, mụ làm Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này đến
ngỡ ngàng khác. Qua câu chuyện đời chị, Phùng và Đẩu nhận ra vì sao mụ không thể li hôn, vì sao
mụ cam chịu đến đáng thương như thế. Mụ cũng dạy cho hai nhân vật này một bài học về cách nhìn
đời, nhìn người. Chẳng những thế, người đàn bà còn khiến người đọc có cái nhìn thực tế hơn về
bản thân, cuộc sống. Mọi chuyện không đơn giản như vẻ ngoài của nó, nếu muốn suy xét và đánh
giá một ai phải thấu hiểu và tường tận mọi thứ về họ.
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả: Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh
Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm
và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng
chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm
chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề
ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt
chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự
xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu
và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều. NMC vừa thương, vừa trân trọng và cũng vừa trăn trở
trước con người thật của mụ.

LĐ 3: Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:


- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối
lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật
lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.
- Nhân vật được đặt trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không phản ứng;
không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức về những ngang trái, phức tạp
của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Nhân vật được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ, hành động, qua những hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ giản dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật.
LĐ 4: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
- Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
3.KB: Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong
lòng mọi người. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng
vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà
Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm. Qua đó nhà văn thể hiện cách
nhìn nhận về cuộc sống và con người. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu của
NMC sau 1975. Tác phẩm thể hiện niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của
kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần.
II. TÌNH HUỐNG ĐỀ HỎI: PHÂN TÍCH/CẢM NHẬN VẺ ĐẸP TÂM HỒN NGƯỜI ĐÀN
BÀ QUA ĐOẠN TRÍCH. TỪ ĐÓ NHẬN XÉT CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI
CỦA NMC.
1.Mở bài 1.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của văn học VN
thời kì đổi mới. Ông có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông đậm phong cách tự sự- triết
lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Tác phẩm là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, những nhận thức thấm
thía về con người và cuộc sống. Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài là nhân vật
được Nguyễn Minh Châu rất dụng tâm khi xây dựng, để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc về
vẻ đẹp tâm hồn của mụ. Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích. Từ nhân vật người đàn bà qua
đoạn trích, chúng ta hiểu được cách nhìn nhận của tác giả về cuộc sống và con người/ đặc điểm
truyện ngắn NMC.

2.Thân bài
* Khái quát hoàn cảnh xuất hiện: Mụ xuất hiện ở Tòa án, ở nơi công sở. Mụ xuất hiện ở đây vì
được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị chồng đánh, vừa là nhân chứng
vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng vẻ lúng túng, sợ sệt..
* Khái quát tên gọi và ngoại hình. Tác giả gọi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà, mụ:
không có bất cứ tên riêng nào khác để phân biệt với những người đàn bà miền biển. Tác giả có
dụng ý muốn chung hóa nhân vật thành đại diện cho thân phận những người phụ nữ lao động
nghèo, đông con. Trong câu chuyện mụ kể: Mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn
nhỏ. Mụ bị rỗ mặt vì một bận lên đậu mùa. Lời kể gợi nỗi xót xa. Mụ thiệt thòi, bất hạnh từ lúc nhỏ
đến lúc lớn. Tác giả cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
* Cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị bạo hành … Từ nhỏ đã bất hạnh vì
xấu, lại rỗ mặt. Lúc lấy chồng phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc, có hàng tháng
phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cuộc sống nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1
sắp con, trên dưới chục đứa con. Mụ còn bị chồng đánh: cứ lúc nào chồng thấy khổ quá là xách mụ
ra đánh. Đánh ngay trên thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn. Mụ phải phụ
thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con. Cuộc đời của mụ triền
miên đối mặt với khổ đau, cuộc đời mụ hiếm hoi có được giây phút hạnh phúc. Tác giả đã chỉ ra nỗi
bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man rợ và tàn bạo…NMC
vừa thương vừa trăn trở trước cuộc đời bất hạnh của mụ như Tô Hoài đã từng cảm thương trước nỗi
khổ đau của cô Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
*Tâm trạng của người đàn bà có sự diễn biến khá phức tạp: Lúc đầu lên tòa án, mụ tỏ ra sợ sệt,
lúng tùng. Nhưng sau đó, khi kể về cuộc đời của mụ, mụ sống trong tâm trạng buồn tủi vì tuổi thơ
bất hạnh, vì cuộc đời chìm trong đói nghèo. Mụ khẩn thiết van xin Đẩu đùng bắt mụ bỏ chồng. Mụ
bộc lộ rất kín đáo niềm vui nhỏ nhoi trên khuôn mặt khi nhắc đến người chồng và những giây phút
gia đình sống vui vẻ trên thuyền. Tất cả tâm trạng của mụ được quan sát qau cảm nhận của Phùng.

* Phẩm chất/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng.


- Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ
đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam
chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Mụ nhận thấy rằng, các con là cuộc
sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ.
Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục:
“Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền
được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái
bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh mụ còn chủ
động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa
tôi lên bờ mà đánh”. Mụ chấp nhận gánh lấy cái khổ. Mụ muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình,
không để các con bị tổn thương.
- Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn mà
nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
- Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái
sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam chịu
bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con
-Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho
riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh
khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ
một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
- Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng.
+ Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, đô ̣ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà
người chồng đã gây ra cho mụ, mụ vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn
của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
và lão đã trốn không đi lính ngụy hồi trước bảy nhăm.
+ Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng mụ cũng không oán trách vì mụ hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu
cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành
kẻ vũ phu, thô bạo. Người đàn bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ
phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu
sinh. Lão đánh mụ cũng vì lão thấy khổ quá.
+ Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng
trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người đàn ông. Chính vì thế
bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục
tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
+ Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn
bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng
tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vậy nên bà xin các chú đừng bắt
tôi bỏ nó.
+ Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người
đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây
phút vợ chồng con cái sống trên thuyền vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải
trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là
của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
+ Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho
chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ
người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười
của tình yêu thương dành cho người chồng, nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy
khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh
phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài
tầm tay.
- Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời và luôn có khát vọng sống.
+ Mụ thấu hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ hiểu cơ
cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển,
cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Mụ ước mình đẻ ít đi, hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn.
+ Mụ ý thức được vai trò của người đàn ông trên thuyền: chèo chống con thuyền trong cơn phong
ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con.
+ Mụ ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh
cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Những cái tưởng như bình
thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở
thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí. (Nhà văn Tô Hoài)
LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả: Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh
Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm
và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng
chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm
chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề
ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt
chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự
xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo
không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu
và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều. NMC vừa thương, vừa trân trọng và cũng vừa trăn trở
trước con người thật của mụ.
LĐ 3: Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật:
- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối
lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật
lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.
- Nhân vật được đặt trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không phản ứng;
không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức về những ngang trái, phức tạp
của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Nhân vật được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ, hành động, qua những hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ giản dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật.
LĐ 4: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
- Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
*. Tình huống đề yêu cầu nhận xét đặc điểm truyện ngắn NMC: Truyện ngắn đậm phong
cách tự sự-triết lí, ngôn ngữ đời thường dung dị (xem vở ghi)
KB: Người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu, để lại ấn tượng mạnh trong
lòng mọi người về vẻ đẹp tâm hồn rất đáng trân trọng. Đó chính là hình ảnh người lao động khổ
cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng vẫn ngời lên những phẩm chất tốt đẹp. Người đàn bà là
biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua
tác phẩm. Qua đó nhà văn thể hiện cách nhìn nhận về cuộc sống và con người. Tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu của NMC sau 1975. Tác phẩm thể hiện niềm thương cảm,
thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của kiếp người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi
đau thể xác và tinh thần. “Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc giả, khắc khoải về số
phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như “chiếc thuyền ngoài
xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc”. (Ngọc Huy)
III.TÌNH HUỐNG ĐỀ HỎI PHÂN TÍCH/CẢM NHẬN ĐOẠN VĂN. TỪ ĐÓ NHẬN XÉT
CÁCH NHÌN CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI CỦA NMC
1.Mở bài 1.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. Ông là nhà văn tiên phong của văn học VN
thời kì đổi mới. Ông có phong cách nghệ thuật độc đáo, truyện của ông đậm phong cách tự sự- triết
lí. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983. Tác phẩm là một trong những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu để lại cho ta những ấn tượng sâu sắc, những nhận thức thấm
thía về con người và cuộc sống. Đoạn trích thuộc phần cuối của truyện. Đoạn trích miêu tả hình
ảnh người đàn bà ở tào án và câu chuyện cuộc đời của mụ. Từ đoạn trích, chúng ta hiểu được cách
nhìn nhận của tác giả về cuộc sống và con người/ đặc điểm truyện ngắn NMC.
2.Thân bài: Phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
LĐ 1: Phân tích nội dung đoạn trích: Đoạn trích miêu tả nhân vật người đàn bà ở tòa án và
câu chuyện cuộc đời của mụ.
* Mở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu sự xuất hiện của mụ. Mụ xuất hiện ở Tòa án, ở nơi công
sở. Mụ xuất hiện ở đây vì được Đẩu mời lên về công việc gia đình. Mụ vừa là nạn nhân vì bị chồng
đánh, vừa là nhân chứng vì chứng kiến cảnh lão chồng đánh Phùng. Mụ xuất hiện với dáng vẻ lúng
túng, sợ sệt..
*Tên gọi và ngoại hình. Tác giả gọi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà, mụ: không có
bất cứ tên riêng nào khác để phân biệt với những người đàn bà miền biển. Tác giả có dụng ý muốn
chung hóa nhân vật thành đại diện cho thân phận những người phụ nữ lao động nghèo, đông con.
Trong câu chuyện mụ kể: Mụ tự nhận mình là một đứa con gái xấu từ khi còn nhỏ. Mụ bị rỗ mặt vì
một bận lên đậu mùa. Lời kể gợi nỗi xót xa. Mụ thiệt thòi, bất hạnh từ lúc nhỏ đến lúc lớn. Tác giả
cảm thương cho nỗi thiệt thòi bất hạnh đó.
* Cuộc đời đầy những khổ đau vì xấu xí, vì đói nghèo, vì bị bạo hành … Từ nhỏ đã bất hạnh vì
xấu, lại rỗ mặt. Lúc lấy chồng phải đối mặt với khí hậu khắc nghiệt khi vào vụ bắc, có hàng tháng
phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Cuộc sống nghèo đói, đông con, thuyền chật: nhà nào cũng 1
sắp con, trên dưới chục đứa con. Mụ còn bị chồng đánh: cứ lúc nào chồng thấy khổ quá là xách mụ
ra đánh. Đánh ngay trên thuyền, đánh từ khi các con còn nhỏ đến khi các con lớn. Mụ phải phụ
thuộc lão đàn ông. Mụ cần lão để chèo chống con thuyền và cùng nuôi con. Cuộc đời của mụ triền
miên đối mặt với khổ đau, cuộc đời mụ hiếm hoi có được giây phút hạnh phúc. Tác giả đã chỉ ra nỗi
bất hạnh, khổ đau của mụ là vì chiến tranh, vì người chồng khổ quá mà man rợ và tàn bạo…NMC
vừa thương vừa trăn trở trước cuộc đời bất hạnh của mụ như Tô Hoài đã từng cảm thương trước nỗi
khổ đau của cô Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
*Tâm trạng của người đàn bà có sự diễn biến khá phức tạp: Lúc đầu lên tòa án, mụ tỏ ra sợ sệt,
lúng tùng. Nhưng sau đó, khi kể về cuộc đời của mụ, mụ sống trong tâm trạng buồn tủi vì tuổi thơ
bất hạnh, vì cuộc đời chìm trong đói nghèo. Mụ khẩn thiết van xin Đẩu đùng bắt mụ bỏ chồng. Mụ
bộc lộ rất kín đáo niềm vui nhỏ nhoi trên khuôn mặt khi nhắc đến người chồng và những giây phút
gia đình sống vui vẻ trên thuyền. Tất cả tâm trạng của mụ được quan sát qau cảm nhận của Phùng.
* Phẩm chất/ Vẻ đẹp tâm hồn đáng trân trọng.
- Mụ là một người mẹ giàu tình yêu thương: Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ
đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam
chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Mụ nhận thấy rằng, các con là cuộc
sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ.Tình yêu thương của người mẹ dành
cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động
nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào
nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh mụ còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm
đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Mụ chấp nhận
gánh lấy cái khổ. Mụ muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương.
- Mụ xin Đẩu đừng bắt tôi bỏ nó là đừng bắt mụ bỏ chồng vì mụ cần chồng để cùng mụ làm ăn mà
nuôi nấng đặng một sắp con. Cái mụ đau đáu chính là con được ăn no, được sống trên một cái
thuyền rộng hơn. Quan trọng nhất là chúng có một gia đình đầy đủ.
- Mụ trân trọng và muốn níu giữ gia đình cho các con vì cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái
sống vui vẻ. Mụ nâng niu niềm vui ít ỏi. Mụ vui nhất khi nhìn các con được ăn no. Mụ cam chịu
bao nhiêu trái đắng để chắt chiu từng chút quả ngọt cho các con
-Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho
riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh
khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ
một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc
sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái
Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.
- Mụ là một người vợ vị tha, bao dung và thấu hiểu chồng.
+ Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, đô ̣ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà
người chồng đã gây ra cho mụ, mụ vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn
của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”
và lão đã trốn không đi lính ngụy hồi trước bảy nhăm.
+ Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng mụ cũng không oán trách vì mụ hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu
cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành
kẻ vũ phu, thô bạo. Người đàn bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ
phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu
sinh. Lão đánh mụ cũng vì lão thấy khổ quá.
+ Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng
trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng trên dưới chục
đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người đàn ông. Chính vì thế
bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục
tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
+ Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn
bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ
một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng
tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người
đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vậy nên bà xin các chú đừng bắt
tôi bỏ nó.
+ Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người
đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây
phút vợ chồng con cái sống trên thuyền vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải
trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là
của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.
+ Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho
chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ
người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười
của tình yêu thương dành cho người chồng, nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy
khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh
phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài
tầm tay.
- Mụ là người làm ăn lam lũ, vất vả nhưng thấu hiểu lẽ đời và luôn có khát vọng sống.
+ Mụ thấu hiểu nỗi vất vả của người đàn bà khi trên thuyền không có người đàn ông. Mụ hiểu cơ
cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển,
cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người
đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Mụ ước mình đẻ ít đi, hoặc sắm được chiếc thuyền rộng hơn.
+ Mụ ý thức được vai trò của người đàn ông trên thuyền: chèo chống con thuyền trong cơn phong
ba, cùng vợ làm ăn nuôi nấng con.
+ Mụ ý thức được thiên chức của người phụ nữ và quy luật ngàn đời của tạo hóa: “Ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh
cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch. Những cái tưởng như bình
thường, lặt vặt trong cuộc sống hàng ngày, dưới con mắt và ngòi bút Nguyễn Minh Châu đều trở
thành những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lí. (Nhà văn Tô Hoài)
LĐ 2: Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích:
- Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối
lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật
lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca.
- Nhân vật được đặt trong những tình huống nghịch lý (bị chồng đánh nhưng không phản ứng;
không chịu bỏ chồng…), mang đến cho người đọc những nhận thức về những ngang trái, phức tạp
của cuộc sống và những éo le, đáng thương trong số phận con người.
- Nhân vật được khắc họa chân thực, sống động qua ngôn ngữ, hành động, qua những hình ảnh,
biểu tượng, ngôn ngữ giản dị mà giàu ý vị, triết lí.
- Đặc biệt, với nghệ thuật tạo tình huống truyện độc đáo-tình huống nhận thức mang tính phát hiện
của Phùng, nhà văn đã giúp người đọc hiểu rõ bản chất con người của nhân vật.
LĐ 3: Nhận xét cách nhìn nhận về cuộc sống và con người của nhà văn:
- Qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích, người đọc hiểu được cách nhìn nhận của
NMC về cuộc sống và con người. Quan điểm của nhà văn là nhìn cuộc sống và con người một cách
nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
– Nhìn cuộc sống ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: cuộc sống không hề đơn giản xuôi chiều mà luôn
có những mặt đối lập, những nghịch lí. Con người luôn phải chấp nhận.
+ Cuộc sống của người dân hàng chài còn nhiều nghịch lí: Sau chiến tranh, cuộc sống con người
vẫn còn nhiều những khó khăn, gian khổ: cái nghèo, cái đói chi phối cuộc sống của con người. Bởi
vậy vấn đề cần thiết đặt ra là phải làm sao cho cuộc sống ấy ngày càng tốt đẹp hơn.
-Nhìn con người ở góc nhìn đa diện nhiều chiều: Con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội nên
để đánh giá nhận xét, nhìn nhận con người theo NMC cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để
phát hiện ra bản chất của con người.
+ Hình tượng người đàn bà hàng chài có vẻ ngoài xấu xí nhưng có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Người
đàn bà vừa chịu đựng nhẫn nhục đến phi lí, vừa có lòng bao dung vị tha…Do vậy chúng ta không
thể có cái nhìn hời hợt, cái nhìn của kẻ đứng bên ngoài mà phán xét theo quan điểm cá nhân. Đặc
biệt là người nghệ sĩ.
-Quan điểm cách nhìn về cuộc sống và con người của NMC rất tích cực giống như quan điểm của
Nam Cao trong Đôi mắt.
KB: Đoạn trích miêu tả hình ảnh người đàn bà là chân dung thành công của Nguyễn Minh Châu,
để lại ấn tượng mạnh trong lòng mọi người về vẻ đẹp tâm hồn rất đáng trân trọng. Đó chính là
hình ảnh người lao động khổ cực, sống cuộc đời lầm lũi, bình dị nhưng vẫn ngời lên những phẩm
chất tốt đẹp. Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh Châu muốn
truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm. Qua đó nhà văn thể hiện cách nhìn nhận về cuộc sống
và con người. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu của NMC sau 1975. Tác phẩm
thể hiện niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của kiếp người đói nghèo, bế tắc
bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần.
ĐOẠN 4:
Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm,
và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết
trắng.
Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn
thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.
Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết.
Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa
trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.
Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung quanh
chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên:
- Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?
- Ừ, ừ... ! - Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng
gió giữa phá.
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở
nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần
ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ
bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ
bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.

Đề: Phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét mối quan hệ giữa nghệ
thuật với hiện thực cuộc sống.

– Tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa của Phùng có giá trị nghệ thuật cao: Những tấm ảnh tôi mang
về… rất bằng lòng.

– Tấm ảnh có giá trị lâu bền, được mọi người yêu thích. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức
Phùng đã bỏ ra để  “phục kích” nhiều ngày mới  “chộp” được.

– Nội dung được phản ánh trong bức ảnh:

+ “cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là
biểu tượng của nghệ thuật.

+ Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”, đó là
hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời.

+ Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc
đời và phải vì cuộc đời.

– Qua đây tác giả muốn nói: người nghệ sĩ phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng và nhìn sâu sắc
vào hiện thực; hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời.

Đề bài :Sự biến đổi nhận thức của nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu trong tác phẩm
Đặt vấn đề:
– Nguyễn minh Châu (1930 – 1989) thuộc lớp nhà văn chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến
chống Mĩ. Sau năm 1975, ông chủ yếu tiếp cận đời sống ở góc độ thế sự. Các nhà nghiên cứu đánh
giá NMC là một trong những cây bút tiên phong “người mở đường tinh anh và tài năng nhất” của
văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
– Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn minh Châu sáng tác năm 1983, sau đưa vào
tập truyện ngắn cùng tên xuất bản năm 1987. Tác phẩm là một minh chứng tiêu biểu, thể hiện
những nhận thức mới mẻ của ông trong cách nhìn hiện thực. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua
tìm hiểu sự biến đổi nhận thức của hai nhân vật nghệ sĩ Phùng và Chánh án Đẩu trong tác phẩm.
Giải quyết vấn đề:
Giới thiệu chung:
Tuy là hai nhân vật, hai con người khác nhau – một người là nghệ sĩ, một người là chánh án toà án,
nhưng hành trình biến đổi nhận thức lại giống nhau. Đều xuất phát từ những mục đích tốt đẹp và
đầy thiện ý song cả hai đều ngạc nhiên, ngỡ ngàng… rồi vỡ ra nhiều điều mới mẻ: cuộc đời này còn
có nhiều góc khuất mà nghệ thuật cần vươn tới; còn có nhiều trái ngang mà lí thuyết sách vở chưa
soi tỏ.
Phân tích:
* Nghệ sĩ Phùng:     
– Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời của hoá công:
+ Người nghệ sĩ trở nên “bối rối” và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Tức là bức ảnh đã
khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung dộng thật sự và một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong
lòng anh.
+ Trong giây lát, người nghệ sĩ còn “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống,
nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ của cuộc đời, thấy tâm hồn mình như
được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh
lọc tâm hồn con người. (Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là “đạo đức” hay sao?).
– Tuy nhiên, ngay sau những phút giây bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ ấy, khi chiếc
thuyền vào bờ, Phùng đã chứng kiến một bức ảnh phong cảnh khác, không thơ mộng, không hài
hoà, mà là sự thực trần trụi, sự thực thô bạo, sự thực méo mó chênh vênh, và nó chính là “cận cảnh”
từ cái bức tượng đài thơ mộng kia:
+ Trước hết là hai con người với những nét thô kệch bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong
mơ.
+ Sau đó, một cảnh tượng khủng khiếp, tàn nhẫn, không thể nào tin nổi và không thể nào chấp
nhận: người chồng đánh vợ.
Ò Điều đáng sợ không chỉ ở chỗ lão dân chài đánh vợ, mà ở cách đánh bài bản như thói quen, coi
việc hành hạ, đánh đập, nguyền rủa vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau,
nhọc nhằn. Còn đáng sợ hơn nữa, người đàn bà cam chịu một cách bình tĩnh như thực hiện một
nghĩa vụ.
+ Rồi đến sự xuất hiện của thằng bé Phác. Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai
cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát…
Ò Bức ảnh biển cả buổi sớm có sương thì đẹp như bức cổ hoạ bằng mực tàu, còn bức ảnh nhân sinh
lại như một vết nhơ của cuộc sống, một nỗi sỉ nhục nhân loại.
– Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng ngạc nhiên đến thẫn thờ. Người nghệ sĩ như
“chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Phùng đã từng là người lính cầm súng
chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng
kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thì thằng
Phác xuất hiện che chở cho người mẹ đáng thương. Đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh
ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính là không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái
ác. Phùng trở thành người hùng, anh quật ngã người đàn ông vũ phu.
Ò Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ kì diệu của tạo
hoá lại có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Vừa mới lúc trước anh còn cảm thấy “bản
thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự hoàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn
cái gì là “đạo đức” là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng cay đắng nhận thấy những cái trái
ngang, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài làm cho tấm ảnh mà anh chụp được kia
như nhuốm màu đau thương, ghê sợ.
– Phùng nhờ Đẩu mời người đàn bà đến toà án huyện vì muốn giúp đỡ. Và tại đây, anh đã tận mắt
chứng kiến cuộc gặp gỡ giữa người đàn bà ấy với chánh án Đẩu, nghe những lời trải lòng và biết
được câu chuyện cuộc đời của người đàn bà. Phùng đã lặng im sau câu chuyện của chị. Có lẽ,
người nghệ sĩ nhiếp ảnh cũng đang trầm ngâm suy nghĩ sau những gì vừa diễn ra. Câu chuyện mà
người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng hiểu rõ hơn về Đẩu, về người
đàn bà hàng chài và ngay cả chính mình:
+ Người đàn bà: Không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà
thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn,
lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ
đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài. Đây là người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch
nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung,
giàu đức hi sinh và lòng vị tha.
+ Người đồng đội cũ – chánh án Đẩu: Anh có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa
thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết
nhưng cần phải đi vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ
thể, không thể áp dụng với mọi đối tượng.
+ Chính mình: Mình đơn giản khi đã nhìn nhận cuộc đời và con người.
* Chánh án Đẩu:
Đẩu là một chánh án, vừa làm công việc, vừa thực hiện mệnh lệnh của trái tim. Sau khi thấy các
biện pháp giáo dục, răn đe người chồng không có kết quả, thẩm phán Đẩu đã mới người đàn bà
hàng chài đến toà án giải quyết chuyện gia đình.
– Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà vùng biển, thái độ của anh là rất cương quyết. Anh
muốn giải thoát khỏi những trận đòn bất công người đàn bà khỏi những trận đòn bất công, ngược
đãi bằng một “phán quyết”: li hôn. Anh khuyên người vợ bỏ chồng để giảI thoát cho chị khỏi cảnh
bị ngược đãi và nạn bạo hành trong gia đình. Anh hào hứng, say mê và tin tưởng vào giải pháp của
mình. Cái lí lẽ của pháp luật và lí lẽ của trái tim làm cơ sở, chỗ dựa vững vàng để anh tự tin, chủ
động và ngạo nghễ.
– Nhưng anh đã lầm. Người đàn bà khốn khổ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu cũng như Phùng,
chị cầu xin đừng bắt chị phải bỏ chồng vì cuộc sống tăm tối của chị còn những lí lẽ khác. Sau khi
nghe những gì mà người phụ nữ vùng biển giãi bày, trong đầu “vị Bao Công của cái phố huyện
vùng biển” có “một cái gì mới vừa vỡ ra”, “lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ”. Có
lẽ Đẩu đã vỡ lẽ ra rằng lòng tốt của anh là phi thực tế; kiến thức sách vở mà anh đã được học trở
thành vô nghĩa trước những lí lẽ sâu sắc nhưng đầy nhân sinh của người đàn bà quê mùa, thất học.
Anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông hiểu sách vở nhưng trước cuộc sống, anh thành kẻ quá nông
nổi, ngây thơ. Qua thái độ và sự lí giải của người đàn bà khốn khổ làng vạn chài có thể trong Đẩu
vừa mới giác ngộ ra những nghịch lí của đời sống, cái nghịch lí buộc những con người khốn khổ
phải chấp nhận một cách thật bất công: “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà
hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm
ăn, nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Trên thuyền phải có một người
đàn ông…, dù hắn man rợ, tàn bạo”. Cũng có thể, Đẩu bắt đầu hiểu ra rằng, muốn con người thoát
ra khỏi cảnh man rợ, tăm tối, cơ cực thì cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không phải chỉ
là thiện chí hoặc các lí thuyết  đẹp đẽ, xa rời thực tiễn.
Ò Đến đây có thể nói, thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời mà Nguyễn
minh Châu muốn chuyển đến người đọc, nhất là người nghệ sĩ là: Đừng bao giờ nhìn nhận cuộc đời
và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn
cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa
Kết bài:
Với sự biến đổi nhận thức của hai nhân vật Đẩu và Phùng, “Chiếc thuyền ngoài xa” một lần nữa
khẳng định vẻ đẹp của văn xuôi Nguyễn minh Châu giai đoạn sau năm 1975: vẻ đẹp toát ra từ tình
yêu tha thiết đối với con người và sự sống, trong đó bao hàm cả khát vọng kiếm tìm, phát hiện, tôn
vinh những vẻ đẹp con người còn lẫn trong lấm láp, lam lũ thường ngày, và cả những nguy cơ tiềm
ẩn của cái xấu, cái ác,…

MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO


- Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...
Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ... Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão...
đưa tôi lên bờ mà đánh...

- Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được! - Đấu và tôi cùng một lúc thốt lên.

- Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của
người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông...

- Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu. - bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát, - trên thuyền
phải có một người đàn ông... dù hắn man rợ, tàn bạo?

- Phải - Người đàn bà đáp - Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?

Lát lâu sau mụ lại mới nói tiếp:

- Mông các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà  hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có
người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào
cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi
khôn lơn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không
thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lương tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng
bắt tôi bỏ nó! - Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chơi ửng sáng lên như một nụ cười - vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.

- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.

- Có chư, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam,
tr.76)

ĐỀ 1: Phân tích hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó, anh/chị cảm nhận
gì về vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Trong phần đầu đoạn trích “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã miêu tả hai
trạng thái cảm xúc của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Khi nhìn thấy chiếc thuyền ở ngoài khơi xa,
Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng khi chiếc thuyền lại gần bờ, Phùng đã chứng kiến
cảnh lão đàn ông hùng hổ đánh vợ, khiến anh “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng
há mồm ra mà nhìn” và “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.

Đề 2: Phân tích hai trạng thái cảm xúc trên của nghệ sĩ Phùng. Từ đó làm rõ quan niệm của nhà
văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống

Bài Làm

Được coi là người mở đầu tinh anh và tài năng nhất của nền văn học Việt Nam đương thời sau
1975, các sáng tác của Nguyễn minh châu thời kì này tập trung vào những câu chuyện đời thường,
tìm kiếm cái đẹp hiện hữu trong cuộc sống. Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn đặc sắc mang
đậm khuynh hướng đó, qua những trải nghiệm và cảm xúc của nhân vật Phùng trong chuyến đi săn
ảnh mà tác giả nêu lên quan niệm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống.

Câu chuyện mở đầu bằng một tình huống tưởng chừng rất bình thường: nhiếp ảnh gia Phùng theo
yêu cầu của cấp trên về vùng duyên hải để tìm kiếm, phát hiện và chụp những bức ảnh thật độc đáo
đặc sắc cho bộ lịch năm tới. Đó thực chất chỉ là một cái cớ để mở ra những diễn biến của câu
chuyện đầy nghịch lí phía sau và những nhận thức vỡ lẽ của anh. Suốt mấy buổi sáng “phục kích”
mà vẫn chưa thu được chút thành quả nào, Phùng suy nghĩ suốt một tuần lễ và quyết định sẽ thu
vào máy ảnh cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh.

Và rồi, một sáng sớm trời đầy sương, Phùng bất chợt phát hiện ra một “cảnh đắt trời cho”, một cảnh
đẹp mà có lẽ cả đời bấm máy anh mới được diễm phúc gặp một lần, đó là khoảnh khắc một chiếc
thuyền lưới vó đang chèo lại chỗ anh trên biển cả mênh mông hùng vĩ, tươi đẹp trong ánh bình
minh rực rỡ “đẹp như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”.

Hình ảnh con thuyền được nhà văn khắc họa vô cùng ấn tượng: “mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lần trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ”.

Tất cả khung cảnh ấy “nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra
dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, mọi thứ từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp,
một vẻ đẹp đơn giản mà toàn bích”. Là người nhạy cảm với cái đẹp, đứng trước bức tranh hoàn mĩ
đến ngỡ ngàng ấy, Phùng không thể giữ mình khỏi bối rối, xao xuyến, “trong trái tim như có cái gì
bóp thắt vào”, anh tưởng như chính mình vừa khám phá thấy cái “chân lí của sự toàn diện, thấy cái
khoảnh khắc trong ngần trong tâm hồn”.

Cảm xúc thẩm mĩ dấy lên trong lòng và tâm hồn như được gột rửa trở nên thật trong trẻo, tinh khôi,
điều này mang ý nghĩa rằng cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Qua khoảnh khắc
đáng giá và “cảnh đắt trời cho” của chiếc thuyền lưới vó mà Phùng may mắn phát hiện được, nhà
văn muốn nhắn gửi tới độc giả thông điệp về nghệ thuật chân chính: người nghệ là luôn luôn khát
khao đi tìm cái đẹp, cái đẹp tuy hiện hữu ở mọi nơi nhưng muốn thấy được nó thì phải kiên nhẫn
đầu tư nhiều thời gian và công sức lao động nghệ thuật, phải thực sự lăn mình vào cuộc sống, hòa
nhập và cảm nhận hết dư vị của nó. Tác giả cũng muốn khẳng định cái đẹp tồn tại ở chính cuộc
sống con người, giữa thiên nhiên hùng vĩ, chinh phục hoàn toàn những khát vọng thẩm mĩ của
người nghệ sĩ trẻ. 

Nhưng ngay khi con thuyền tiến lại gần chỗ anh đứng,  một cảnh tượng mà anh không bao giờ ngờ
đến có thể xảy ra ngay trước mặt anh, ngay trong cái khoảnh khắc rực rỡ của cái đẹp ngàn năm mới
gặp, một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền, đi qua chỗ nhà nhiếp ảnh đang đứng
rồi bỗng người đàn ông trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
trong cơn giận dữ như lửa cháy quật tới tấp lên lưng người đàn bà kia, vừa đánh đập dã man vừa
chửi rủa không ngớt; người đàn bà thi cam chịu đầy nhẫn nhục, không kêu van cũng không chống
trả.

Cảnh tượng kinh hoàng ấy khiến Phùng ngạc nhiên tới mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn”. Đó là điều rất dễ hiểu, bất cứ ai khi gặp cảnh đó cũng sẽ phản ứng như vậy,
huống chi anh lại là một người làm nghệ thuật có con tim nhạy cảm dễ xúc động; và thậm chí vừa
mới lúc nãy đây thôi, anh đã bị xúc động bởi vẻ đẹp toàn bích, hoàn hảo tựa tranh vẽ của con
thuyền thì lúc này, chính từ trong con thuyền ấy lại xuất hiện một cảnh tượng bạo lực hãi hùng.

Có lẽ Phùng không thể ngờ đằng sau cái đẹp tưởng như toàn mĩ lại là một sự thật xấu xa tăm tối;
đằng sau những thước phim đẹp huyền diệu lại là cuộc sống đầy ngang trái, bi kịch của gia đình
thuyền chài. Rồi không biết tự lúc nào Phùng đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới, hành
động này xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, luôn bảo vệ lẽ phải và cũng cho thấy sự dũng cảm đấu
tranh cho công lí trong con người anh. Phùng không chỉ là người nghệ sĩ đam mê nghệ thuật chân
chính mà anh còn là người có lòng nhân ái, giàu tình yêu thương.

Từ tình huống nhận thức đầy ngỡ ngàng của nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm
đến bạn đọc quan niệm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Rằng cuộc sống đời
thường là nơi sản sinh ra nghệ thuật nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng là nghệ thuật; hình
tượng chiếc thuyền là cái đẹp của nghệ thuật thì ở ngoài xa – một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ
đẹp, còn bản chất của cuộc đời thì lại ở rất gần.

Khát vọng tìm đến cái đẹp để mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng
không thể vì nghệ thuật mà quên đi cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì
cuộc đời. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để khám phá cuộc sống. Trước khi là
một  nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn  trước mọi
lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Đừng vì nghệ
thuật mà quên cuộc đời.

Việc chọn điểm nhìn trần thuật khéo léo từ nhân vật Phùng đã giúp tăng cường khả năng khám phá
đời sống của tình huống truyện, tác giả dễ dàng gửi gắm tới độc giả quan niệm về mối quan hệ
khăng khít giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Nghê thuật không phải là ánh trăng lừa dối,
cũng không phải thứ gì xa vời trừu tượng, nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc sống và phản ánh lại
cuộc sống.

ĐỀ 3:           Phân tích diễn biến tâm trạng của Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh  – khi nghe câu
chuyện của người phụ nữ hàng chài ở tòa án huyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu. Từ đó, anh/ chị  hãy nêu bài học về cách nhìn nhận, đánh giá con người và
cuộc sống.

ĐỀ 4: Trong phần mở đầu truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn Nguyễn Minh Châu viết:

    (1)  Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên
bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim, lúc ngẩng lên thấy một
chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo
thẳng vào trước mặt tôi.

    Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh  “đắt” trời cho như vậy :
trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe
nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang
hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai
chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét
đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi
trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra
bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá
thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.( … )

Và kết thúc :

    (2) Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.

     Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo
ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ , tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi
lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy
từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ
bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…

         (Trích –  Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục,2008, tr.70 và tr.77-78)

    Anh/chị hãy trình bày cảm nhận của mình về những khám phá, suy ngẫm của nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng trong những đoạn văn trên. Từ đó làm nổi bật nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn.

a.Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận.

b. Cảm nhận

Đoạn (1):

–Quan sát, cảm nhận của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng về khung cảnh tự nhiên vùng biển, anh phát hiện
một chuyện lạ: một chiếc thuyền lưới vó tiến thẳng vào chỗ anh:

Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. … chèo thẳng vào trước mặt tôi.

-Nghệ sĩ Phùng phát hiện  ra một vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm
máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc gặp được một lần, đó là vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng, vẻ đẹp
giản dị, toàn bích

…trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu… hướng mặt vào bờ.

-Phùng thực sự xúc động, ngỡ ngàng, bối rối trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình minh.
Anh  “ngất ngây” trong sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là
cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo

Tất cả khung cảnh ấy… như có cái gì bóp thắt vào

–Dường như trong hình ảnh CTNX giữa trời biển mờ sương, Phùng đã bắt gặp cái tận Thiện, tận
Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hòa, lãng
mạn của cuộc đời

Chẳng biết ai đó… trong ngần của tâm hồn


*Nghệ thuật: sử dụng câu văn ngắn, dài linh hoạt, lối so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, các
hình ảnh vừa hiện thực vừa lãng mạn, khả năng quan sát tinh tế…

Đoạn (2) :

-Tấm ảnh CTNX  của Phùng có giá trị nghệ thuật cao: Những tấm ảnh tôi mang về… rất bằng lòng.

-Tấm ảnh có giá trị lâu bền, được mọi người yêu thích, được treo rất nhiều nơi, nhất là trong các gia
đình sành nghệ thuật. Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức Phùng đã bỏ ra để  “phục kích”
nhiều ngày mới  “Chộp” được

Không những trong bộ lịch năm ấy… sành nghệ thuật

–Nghệ sĩ Phùng đặc biệt ấn tượng về hiệu ứng màu sắc lúc anh chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh
phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt trần của ngoại cảnh. Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp
sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng nhưng nó
không hoàn toàn xám xịt, đen tối mà nếu để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có thể phát hiện ra
những điểm hồng nào đó như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ kia … có rất nhiều
phẩm chất đáng quý.

…tuy là ảnh đen trắng … màu hồng hồng của ánh sương mai

–Đối với nghệ sĩ Phùng tuy chụp được tấm ảnh toàn Mĩ nhưng

dường như tâm trạng của anh vẫn còn nhiều băn khoăn ray rứt. Bởi vì mỗi lần “ngắm kĩ” rồi lại
“nhìn lâu hơn”, Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh, hình ảnh người đàn bà hàng
chài, những con người khốn khổ… Đó là hiện thực đời sống. Nghệ thuật phải bắt nguồn từ cuộc
đời, từ hiện thực đời sống.

… và nếu nhìn lâu hơn… đang bước ra khỏi tấm ảnh

–Hình ảnh người đàn bà cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau mỗi lần ngắm nhìn vẻ đẹp của
bức ảnh, anh luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống gia đình hàng chài. Đó là một người mẹ giàu đức hi sinh
và thấu hiểu lẽ đời. Chị là đại diện cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều:

… một người đàn bà vùng biển cao lớn… kéo lưới suốt đêm.

-Những bước đi chắc chắn hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của
Phùng về sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.

*Nghệ thuật: ngoài những câu văn ngắn còn có câu văn dài ngắt ra nhiều vế thể hiện nhiều ý của
hiện thực đời sống con người, phép điệp từ ngữ , phép thế… được sử dụng thích hợp…

*Mối liên hệ giữa hai đoạn văn:

-Tấm ảnh nghệ thuật CTNX đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những cuộc
sống, thân phận đầy bi kịch, những mảnh đời lam lũ, vất vả, đói nghèo…

-Giữa nghệ thuật và cuộc sống vẫn còn một khoảng cách. Phùng muốn thấu hiểu, chia sẻ, cảm
thông nhiều hơn với nỗi đau của người khác bằng tất cả tấm lòng, vì thề mà anh “ngắm kĩ” rồi
“nhìn lâu hơn” tấm ảnh quen thuộc của mình. Đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người
phụ nữ này là trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ.
-Phùng muốn nghệ thuật gắn liến với cuộc đời, nếu không thì tấm ảnh đẹp như mơ kia mãi mãi vẫn
chỉ là CTNX !

*Nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn:

-Người kể chuyện là nhân vật Phùng, cũng chính là sự hóa thân của tác giả, tạo điểm nhìn trần thuật
sắc sảo, giúp lời kể chuyện trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết phục

-Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
đời sống (Với Phùng , đó là việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ không chỉ một lần, sau phát hiện
thứ nhất- vẻ đẹp của thuyền biển lúc sớm mai)

-Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sáng tạo … phù hợp với việc thể hiện tính cách nhân vật.

àChính tất cả những điều đó giúp cho Phùng có sự thay đổi trong nhận thức, suy ngẫm, anh có cách
nhìn đời khác hẳn, anh hiểu sâu thêm về tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, người bạn-
đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình.

c. Đánh giá chung:

-Khái quát lại về nhân vật Phùng

-Khẳng định thành công nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong việc khắc họa nhân vật.

ĐỀ 5: Anh/ chị hãy phân tích hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa để thấy
được quan niện về nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Từ đó liên hệ với quan niệm về
nghệ thuật của vũ Như Tô trong Vĩnh biệt cửu trùng đài của nhà văn nguyễn Huy Tưởng.

 c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp lí lẽ
và dẫn chứng

* Hai phát hiện của ngệ sĩ Phùng:

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, đoạn trích

– Nội dung hai phát hiện của ngệ sĩ Phùng:

+ Về nội dung:

++ Phát hiện vẻ đẹp của một bức tranh thiên nhiên trên biển trong buổi sớm mai.

++ Phát hiện một cảnh bạo lực gia đình.

+ Quan niệm về nghệ thuật:

++ Lao động nghệ thuật là vô cùng khổ nhọc, nghiêm túc; cần phải có cái tâm với nghề, sống hết
mình với nghệ thuật thì mới thành công.
++ nghệ thuật  được sinh ra từ chính cuộc sống và chỉ khi nó gắn với cuộc sống thì mới có ý nghĩa.

+ Về nghệ thuật: Tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập, kết cấu truyện lồng trong truyện, ngôn ngữ
miêu tả sinh động giàu hình ảnh.

* Liên hệ quan niệm nghệ thuật của Vũ Như Tô:

– Nét tương đồng:

+ Cả hai nhân vật đều có khát vọng theo đuổi nghệ thuật chân chính, mong muốn cống hiến cho
đời.

+ Nghệ thuật đối lập được khai thác triệt để và hiệu quả.

– Khác nhau:

+ Nghệ sĩ Phùng: Qua hai phát hiện nhận ra được triết lí nghệ thuật không thể tách rời thực tế cuộc
sống. Nghệ thuật chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó xuật phát từ thực tế cuộc sống và phục vụ cho cuộc
sống của con người.

+ Vũ Như Tô là một nghệ sĩ có nhân cách và có lý tưởng nghệ thuật hết sức cao đẹp, không phải là
người ham sống sợ chết hay chỉ vì chút công danh mà phải bán thân mình cho nghệ thuật. Trong
đoạn trích, Vũ Như Tô đến tận lúc bị giải ra pháp trường vẫn chưa nhận ra được sai lầm của bản
thân.

ĐỀ 6: Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tô Hoài viết Vợ chồng A Phủ; sau năm 1975,
Nguyễn Minh Châu viết Chiếc thuyền ngoài xa. Đều viết về nỗi khốn khổ của người phụ nữ nhưng
cách nhìn nhận, cách giải quyết vấn đề và thông điệp mà hai nhà văn muốn gửi đến bạn đọc có khác
nhau.

Anh (chị) hãy làm sáng tỏ điều đó.

*Mở bài:  Giới thiệu vấn đề


*Thân bài:

– Cách nhìn nhận một hiện tượng đời sống cho thấy nhân sinh quan của nhà văn. Cụ thể ở đây là
trước nỗi khốn khổ của người phụ nữ, Tô Hoài và Nguyễn Minh Châu nhìn nhận thế nào? Nỗi
khổ ấy có gì giống và khác nhau? Đâu là nguyên nhân của nỗi khổ ấy?

–  Cách giải quyết vấn đề là hướng giải thoát cho nhân vật, thể hiện rõ nhất ở cách kết thúc tác
phẩm.

+ Trong Vợ chồng A Phủ, Mị thoát khỏi nỗi khổ bằng ý chí, nghị lực và sức sống tiềm tàng;
bằng cách chạy theo A Phủ đến khu du kích Phiềng Sa. Kết thúc tác phẩm là hình ảnh cuộc đời
tự do, hạnh phúc của đôi trai gái.

+ Trong Chiếc thuyền ngoài xa, người đàn bà hàng chài xin không li dị người chồng vũ phu,
nghĩa là vẫn cam chịu cảnh khốn khổ với những trận đòn để đổi lại một điều khác. Kết thúc tác
phẩm, những nhân chứng của sự việc – nhân vật “tôi” và chánh án Đẩu đã hiểu ra, “vỡ ra” nhiều
điều trong nhận thức về cuộc sống trước hành động của người phụ nữ này.

–     Thông điệp của nhà văn là ý nghĩa của hình tượng mà người viết muốn gửi gắm trong đó;
đó cũng là tư tưởng của nhà văn trước hiện thực mà ông chứng kiến, miêu tả.

+ Qua câu chuyện của Mị, thông điệp Tô Hoài muốn gửi gắm chỉ có thể hiểu là: Cuộc sống của
người phụ nữ trước Cách mạng tháng Tám là vô cùng cực khổ; người phụ nữ chỉ có thể thoát
khỏi nỗi khổ đó khi dám vùng lên và đi theo cách mạng (đơn nghĩa).

+ Ý nghĩa của câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong truyện của Nguyễn Minh Châu thì rất
đa dạng, phong phú (đa thanh):

•     Tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu: nghệ thuật cần gắn liền với cuộc sống;
người nghệ sĩ không thể nhìn cuộc sống bằng con mắt đơn giản, chỉ thấy được hình thức bề
ngoài;…

•     Cuộc sống vốn đầy những nghịch lí và bi kịch mà nhiều khi chỉ người trong cuộc mới hiểu
hết và có quyết định phù hợp.

•     Tâm hồn, tình cảm và ý chí của người phụ nữ, dù chỉ là người phụ nữ bình thường, cũng là
một bí ẩn, một thế giới kì lạ, sâu thẳm, không dễ gì hiểu hết…

2. ĐOẠN VĂN 1 :


.Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa. Tôi rúc vào bên
bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa, đang lúi húi thay phim lúc ngẩng lên thấy một
chuyện hơi lạ: một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo
thẳng vào trước mặt tôi.
Có lẽ suốt một đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh "đắt" trời cho như
vậy: trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ
hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới
nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh
từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng
trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần đầu đã
phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình
vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần tâm
hồn.
Chẳng phải lựa chọn xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm
"liên thanh" một hồi hết một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc
tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
Tôi chắc mẩm ngay trong ngày hôm nay hoặc sáng mai đã có thể nhẩy lên tàu hỏa trở về,
nếu cái anh bạn đồng ngũ không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa.
ĐỀ 1: Phân tích/cảm nhận. hình ảnh con thuyền vó bè. Từ đó, anh chị hãy nhận xét đặc điểm
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
ĐỀ 2: Phân tích/ cảm nhân vật Phùng. Từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống và con người của
người của Nguyễn Minh Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
Đề 3: Phân tích phát hiện lần một (phát hiện của Phùng về vẻ đẹp của chiếc thuyền) của Phùng
trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét…..

MB: Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê Nghệ An. NMC là nhà văn tiên phong của
nền VHVN thời kì đổi mới….NMC có phong cách viết truyện ngắn độc đáo đậm chất tự sự-triết lí,
ngôn ngữ dung dị đời thường. Tác phẩm CTNX được viết năm 1983, khi ấy đất nước còn lạc hậu,
nghèo nàn. Tác phẩm viết về cuộc sống của người dân hàng chài miền Trung. Trong tác phẩm
NMC xây dựng hình tượng người nghệ sĩ Phùng và phát hiện lần một của Phùng- phát hiện vẻ
đẹp của chiếc thuyền trên biển trong sương sớm. Điều đó được tác giả miêu tả qua đoạn trích từ
câu văn Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào đến câu văn nếu cái anh bạn đồng ngũ
không cố níu giữ ở lại chơi thêm vài bữa. Qua đây, người đọc nhận thấy rõ cách nhìn cuộc sống và
con người của Nguyễn Minh Châu.

TB: 4 luận điểm.


-Lđ 1: Phân tích phát hiện của nhân vật Phùng- phát hiện lần 1- phát hiện vẻ đẹp của con thuyền
trên biển trong sương sớm.
*.Hoàn cảnh nhân vật xuất hiện: Phùng xuất hiện trên bãi biển vào buổi sáng sớm.
+ Thời gian Phùng xuất hiện: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian: trên bờ biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ mộng,
lãng mạn của vùng biển.
->Nhận xét: Nghệ thuật giới thiệu nhân vật độc đáo. Phùng xuất hiện trong không gian, thời gian
nghệ thuật. Qua nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên: chi tiết, chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của thiên
nhiên qua cảm nhận của Phùng.
-> Không gian phù hợp với tâm hồn của P đang trong hành trình tìm kiếm cái đẹp.
-> So sánh: Nhà văn Tô Hoài xây nhân vật Mị, giới thiệu Mị xuất ngay từ đầu tác phẩm, không
gian nghệ thuật độc đáo, hé mở cuộc đời thân phận tủi nhục của Mị.
-> NMC có dụng ý để người đọc cảm nhận tài năng, khát vọng của P.
-> Tài năng nghệ thuật .

*.Nghề nghiệp: Trong chiến tranh Phùng là người lính, thiên chức, nhiệm vụ giải phóng quê
hương. Sau chiến tranh Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, thiên chức, nhiệm vụ; đi chụp một bức ảnh về
biển làm bộ lịch. P hoạt làm nghệ thuật, mang cái đẹp đến cho con người. Thiên chức rất cao quý.
->So sánh Vũ Như Tô, nghệ sĩ, kiến trúc sư sáng tạo cái đẹp. Thiên chức rất quý. NMC trân trọng
đề cao vai trò thiên chức của họ.
*.Sự phát hiện của Phùng- Phùng phát hiện ra vẻ đẹp của con thuyền vó bè trên biển trong sương
sớm.
-Hoàn cảnh phát hiện: Phát hiện con thuyền này vào lúc sáng sớm khi Phùng đang đi trên bãi
biển.
- Sự xuất hiện của con thuyền.
+ Hình ảnh con thuyền : Vẻ đẹp của con thuyền vó bè: hài hòa đến toàn bích.
+ Con thuyền đẹp như một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Tác giả đã so
sánh vẻ đẹp của con thuyền như vẻ đẹp của bức tranh…đỉnh cao hội họa TQ. Phùng có năng khiếu
hội họa, nghệ sĩ nhiếp ảnh cảm nhận vẻ đẹp bằng tài năng, tâm hồn. Phùng thể hiện tình yêu với
thiên nhiên MT.
+ Hình ảnh chiếc mũi thuyền: Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Tg sử nghệ thuật tả cảnh,
tả hình ảnh chiếc mũi thuyền đẹp mơ hồ bởi bầu sương mù. Phùng cảm nhận rất tinh tế. Hình ảnh
mũi thuyền gây ấn tượng cho P.
+ Hình ảnh mui thuyền: Khum khum rất tọa hình. Hình ảnh vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng. Sự xuất hiện của con người khiến thiên nhiên hữu tình. Sự im lặng
của con người rất phù hợp với hoàn cảnh thời gian không gian. Sự xuất hiện của con người, con
thuyền vó bè chính là không gian sống của gia đình hàng chài. Tg khẳng định thiên nhiên và con
người có mqh hài hòa mật thiết.
+ Hình ảnh 2 cái gọng vó được tg so sánh như cánh con dơi. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua
những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh
một con dơi. Câu văn giàu hình ảnh giúp người hình dung 2 cái gọng vó. Những mắt lưới, tấm lưới
phản chiếu vẻ đẹp con thuyền từ xa. Phùng cảm nhận vẻ đẹp con từ xa, gián tiếp.
+ Đường nét, ánh sáng hài hòa, đơn giản, toàn bích. Vẻ đẹp như một bức tranh mực tầu.
Phùng là người nhạy cảm, yêu thiên nhiên.
->Nhận xét: tả vẻ đẹp con thuyền tg sử dụng tả cảnh: chi tiết, chân thực sinh động. Tg sử câu văn
giàu hình ảnh, phép tu từ rất hiệu quả giúp ng đọc cảm nhận vẻ đẹp của con thuyền, cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên m Trung.
->So sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên: vẻ đẹp của cánh rừng xà nu qua truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Cánh rừng đặc trưng của Tây Nguyên. Vẻ đẹp của quê
hương đất nước là cảm hứng cho ng nghệ sĩ-> tình yêu quê hương đất nc của họ.
->So sánh hình ảnh phố huyện Cẩm Giàng trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
-Tâm trạng của người nghệ sĩ ở lần phát hiện thứ nhất (khi phát hiện hình ảnh con thuyền.)
+ Vẻ đẹp của con thuyền khiến Phùng bối rối: khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong
trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Tâm trạng của P là tâm trạng của người nghệ sĩ sau rât nhiều
ngày săn ảnh, tâm tạng của một một chờ đời thì gặp được điều mình mong muốn. Tác giả miêu tả
tâm trạng của Phùng bằng lời độc nội tâm. Qua tâm tạng của Phùng chúng ta thấy Phùng là một
người nghệ sĩ chân chính……
-Ý nghĩa của sự phát hiện lần thứ nhất:
+ Khi nhìn thấy con thuyền, Phùng đã nhận thức được bản chất của cái đẹp: Nhận thức bản
thân cái đẹp là đạo đức. Câu văn thể hiện chất triết lí trong truyện ngắn của tg. Nhận thức của P
rất chủ quan.
+ Khi nhìn phát hiện vẻ đẹp của chiếc thuyền, Phùng nhận thức được sự thay đổi trong tâm
hồn: Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn
thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần tâm hồn. Tác giả ca ngợi vai trò của cái đẹp, cái
đẹp làm cho tâm hồn trong ngần…
->So sánh: Viên quản ngục trong Chữ người tử tù: Cái đẹp của cái chữ, cái thiên lương của
Huấn Cao khiến tâm hồn QN trong ngần. Người nghệ sĩ nhạy cảm trước cái đẹp đề cao cái đẹp.
->Nghệ thuật miêu tả sự phát hiện của Phùng, tác giả sử dụng miêu tả tâm trạng bằng lời độ
thoại nội tâm-> Tâm trạng của P-> P yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên.
+ Sự phát hiện lần thứ nhất của Phùng khẳng định tài năng: P là nghệ sĩ có tài: phát hiện.
1.được vẻ đẹp của con thuyền, lưu giữ vẻ đẹp đó. Tài của P được thủ trưởng đánh giá cao, tài năng
thể hiện qua bức ảnh.
++ Hành động chuyên nghiệp của Phùng khiến người đọc ngưỡng mộ: .Chẳng phải lựa chọn
xê dịch gì nữa, tôi gác máy lên bánh xích của chiếc xe tăng hỏng bấm "liên thanh" một hồi hết
một phần tư cuốn phim, thu vào chiếc Pratica cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn
mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại.
+ +Ý nghĩa: Phùng đã chụp được bức tranh mực tàu, Phùng lưu giữ vẻ đẹp hài hòa toàn bích của
con thuyền-> Thủ trưởng rất ưng. Bức ảnh được chọn làm bộ lịch. Bức ảnh rất có giá, được treo
trong những gia đình sành nghệ thuật.
->Đây là kết quả rất xứng đáng của người nghệ sĩ trong quá trình săn tìm sáng tạo cái đẹp. Tác
gải trân trọng tài năng của Phùng.
+ Từ sự phát hiện của Phùng về cái đẹp, Phùng thể hiện được phẩm chất: tình yêu thiên nhiên,
yêu quê hương. Nghệ chân chính, tôn thờ cái đẹp. Tình yêu thiên nhiên của Phùng, Phùng phát hiện
ra vẻ đẹp của con thuyền, Phùng ví con thuyền như bức tranh mực tàu. Phùng lưu giữ vẻ đẹp của
thiên nhiên ->Tình yêu quê hương đất nước.

-Qua phát hiện lần thứ nhất, chúng ta thấy nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ
thuật” của nhà văn:
+ Là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa
tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm.
+ Những thông điệp nghệ thuật về cách nhìn nhận con người và cuộc đời: Đừng bao giờ nhìn nhận
cuộc đời và con người một cách dễ dãi, xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng
trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa.
-LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả với nhân vật ở phát hiện lần thứ nhất.
+ Trân trọng trước tài năng, phẩm chất của P.
+ Tác ngợi ca khát vọng của P.
+ NMC đặt niềm tin vào người nghệ sĩ phải có cách nhìn đa diện nhiều chiều, nghệ sĩ cần
bám sát hiện thực cuộc sống khi sáng tạo nghệ thuật.
- Lđ 3: Nhận xét nghệ thuật xây dựng nhân vật Phùng ở lần phát hiện thứ nhất.
+ Tình huống truyện: Tình huống nhận thức mang tính phát hiện của Phùng: Phùng phát hiện vẻ
đẹp của con thuyền, Phùng nhận thức bản thân cái đẹp là đạo đức.
+ Đặc điểm; tự sự, triết lí.
+ Ngôn ngữ dung dị đời thường.
+ Nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật bằng lời độc thoại nội tâm
+ Tả cảnh.
+ Câu văn giàu hình ảnh…
- LĐ 4: Nhận xét làm sáng tỏ yêu cầu của đề. Cách nhìn cuộc sống và con người của tg trong tác
phẩm.
+ Nhìn đa diện, nhiều chiều
+ Phát hiện bản chất của sự vật sau vẻ đẹp
+ Trong tác phẩm: cuộc sống k hề đơn giản, đối lập-> nhìn đa diện, nhiều chiều. Cuộc sống của ng
hàng chài rất phức tạp sau chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu-> cách nhìn đa diện, nhiều chiều -> bản
chất của cuộc sống của người lao động: đông con, đói nghèo…
+ Nhìn con người : nhìn đa diện, nhiều chiều: con người rất phức tạp, dung hòa những mqh. Con
người có sự đối lập-> nhìn đa diện nhiều chiều-> bản chất của con người. Người đàn bà xấu, tâm
hồn đẹp.
+ Nhìn đa diện, nhiều chiều phát hiện bản chất sau vẻ đẹp: Hình ảnh con con thuyền: nhìn xa, đẹp,
gần: chật chội, không gian sống của 1 gđ, tồn tại đói nghèo, bạo lực.
+ Cách nhìn tích cực, tiến bộ của NMC. Giống như quan điểm của NC trong Đôi mắt.
KB:
- Khái quát đặc điểm của nhân vật P trong đoạn trích: P là người nghệ sĩ tài và tâm.
- Cách nhìn của tg. ….
- Nêu cảm xúc về tác phẩm. …

ĐOẠN VĂN 2 :


-Nội dung tái hiện cảnh bạo lực gia đình người hàng chài.
- Hình ảnh người đàn bà trên bãi biển- bị chồng đánh.
- Sự phát hiện của Phùng- lần thứ 2- cảnh bạo lực.
- Hình ảnh lão đàn ông.
- Hình ảnh thằng Phác.
Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ tôi đứng. Một người đàn ông và một
người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất
giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết
cả mày đi bây giờ”.
Chắc chắn họ không trông thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen
thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt
mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau.
Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng
bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn
dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.
Từ chỗ chiếc xe tăng mà tôi đang đứng với chiếc máy ảnh, đi quá mươi bước sâu vào phía
trong có một chiếc xe rà phá mìn của công binh Mỹ, chiếc xe sơn màu vàng tươi và to lớn gấp đôi
một chiếc xe tăng. Hai người đi qua trước mặt tôi. Họ đi đến bên chiếc xe rà phá mìn. Người đàn
bà đứng lại, ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa
một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa cặp mắt
nhìn xuống chân.
Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng
của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng
rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người
đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão
lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi
cho ông nhờ!”.
Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả,
cũng không tìm cách trốn chạy.
Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há
mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
Bóng một đứa con nít lao qua trước mặt tôi. Tôi vừa kịp nhận ra thằng Phác - thằng bé trên
rừng xuống vừa nằm ngủ với tôi từ lúc nửa đêm. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng
thẳng làm nó khi chạy qua không nhìn thấy tôi. Như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm,
mặc cho tôi gọi nó vẫn không hề ngoảnh lại, nó chạy tiếp một quãng ngắn giữa những chiếc xe
tăng rồi lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn ông.
Cũng y hệt người đàn bà, thằng bé của tôi cũng như một người câm, và đến lúc này tôi biết
là nó khỏe đến thế!
Khi tôi chạy đến nơi thì chiếc thắt lưng da đã nằm trong tay thằng bé, không biết làm thế
nào nó đã giằng được chiếc thắt lưng, liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa
khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc
ngược lên. Lão đàn ông định giằng lại chiếc thắt lưng nhưng chẳng được nữa, liền giang thẳng
cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về
phía bờ nước để trở về thuyền. Không hề quay mặt nhìn lại, chỉ có tảng lưng khum khum và vạm vỡ
càng có vẻ cúi thấp hơn, nom lão như một con gấu đang đi tìm nguồn nước uống, hai bàn chân chữ
bát để lại những vết chân to và sâu trên bãi cát hoang vắng.

Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ,
nhục nhã.
- Phác, con ơi!
Miệng mếu máo gọi, người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi
lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy. Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn chẳng hề
hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn
bà, làm rỏ xuống những dòng nước mắt, nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người
mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
Thế rồi bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát xe tăng hỏng,
đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền.
Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng ngoài
khơi dội những tiếng kêu ồ ồ vào cõi im lặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng trơ giữa bãi xe tăng
hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt ngơ ngác nhìn ra một
quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.
Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.
ĐỀ 1: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó hãy nhận xét tấm
lòng của nhà văn đối với những người lao động làm ăn lam lũ vất vả.
MB: NMC…..CTNX….Nhân vật người đàn..đoạn trích….Qua đây, người đọc cảm nhận được tấm
lòng của nhà văn ….

….Nguyễn Minh Châu ( 1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất
nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người
đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. ( 1983) Tác phẩm phản ánh chân
thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng chài miền Trung những năm sau chiến trạnh. Nhân
vật trung tâm của tác phẩm chính là người đàn bà hàng chài. Hình ảnh người đàn bà hàng chài bị
chồng đánh trên bãi biển trong đoạn trích từ câu văn…..đến câu văn…..Qua đây, người đọc cảm
nhận được tấm lòng của nhà văn đối với những người lao động làm ăn lam lũ vất vả.
TB: 4 luận điểm:
1. LĐ 1: Phân tích nhân vật người đàn bà trong đoạn trích.
- Hoàn cảnh xuất hiện
- Tên gọi
- Ngoại hình
- Nghề ngiệp
- Cuộc đời: bất hạnh: nỗi đau thể xác, nỗi đau tinh thần.
- Tâm trạng.
- Phẩm chất.
2. LĐ 2: Nhận xét thái độ của tác giả
3. .LĐ 3: Nghệ thuật
4. Nhận xét tấm lòng của nhà văn: Tấm lòng nhân đạo( giá trị nhân đạo)
KB: - Hình ảnh người đàn bà trên bãi biển…..
- Tấm lòng nhân đạo của nhà văn..
- Nêu cảm xúc về tác phẩm.
Đề 2: Phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích. Từ đó nhận xét….
MB….Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất
nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người
đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. (1983) Tác phẩm phản ánh chân
thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng chài miền Trung những năm sau chiến trạnh. Trong
tác phẩm bên cạnh nhân vật trung tâm là người đàn bà hàng chài, nhân vật Phùng cũng tác giả
miêu tả cho tiết. Nhân vật Phùng được miêu tả là một nghệ sĩ có tài, có tâm qua đoạn trích từ câu
văn…..đến câu văn…..Qua đây, người đọc cảm nhận được tấm lòng của nhà văn đối với những
người lao động làm ăn lam lũ vất vả.
TB: 4 luận điểm.

1.LĐ 1: Phân tích nhân vật nhân vật Phùng trong đoạn trích.
a. Hoàn cảnh xuất hiện: Phùng xuất hiện trên bãi biển vào buổi sáng sớm.
+ Thời gian Phùng xuất hiện: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian: trên bờ biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ mộng,
lãng mạn của vùng biển.
->Nhận xét: Nghệ thuật giới thiệu nhân vật độc đáo. Phùng xuất hiện trong không gian, thời gian
nghệ thuật. Qua nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên: chi tiết, chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của thiên
nhiên qua cảm nhận của Phùng.
-> Không gian phù hợp với tâm hồn của P đang trong hành trình tìm kiếm cái đẹp.
-> So sánh: Nhà văn Tô Hoài xây nhân vật Mị, giới thiệu Mị xuất ngay từ đầu tác phẩm, không
gian nghệ thuật độc đáo, hé mở cuộc đời thân phận tủi nhục của Mị.
-> NMC có dụng ý để người đọc cảm nhận tài năng, khát vọng của P.
-> Tài năng nghệ thuật .

1.2.Nghề nghiệp: Trong chiến tranh Phùng là người lính, thiên chức, nhiệm vụ giải phóng quê
hương. Sau chiến tranh Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, thiên chức, nhiệm vụ; đi chụp một bức ảnh về
biển làm bộ lịch. P hoạt làm nghệ thuật, mang cái đẹp đến cho con người. Thiên chức rất cao quý.
->So sánh Vũ Như Tô, nghệ sĩ, kiến trúc sư sáng tạo cái đẹp. Thiên chức rất quý. NMC trân trọng
đề cao vai trò thiên chức của họ.
1.3.Tâm trạng khi nhìn thấy gia đình người đàn bà hàng chài đánh nhau như kẻ thù.
- Tâm trạng của Phùng khi nhìn cặp vợ chồng bước lên từ con thuyền đẹp như bức tranh mực tàu:
tâm trạng hụt hẫng, ngạc nhiên.
+ Phùng nhìn thấy cặp vợ chồng bước lên từ chiếc thuyền với tiếng quát của người chồng: Một
người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập
đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên
đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
-> Vợ chồng người đàn bà bước lên từ con thuyền, họ lội qua một quãng nước-> lưng áo ướt sung.
->Phùng ngạc nhiên: Họ lên bờ làm gì? Phùng quan sát những hành động của họ ở khoảng cách gần
ngay trước mặt tôi.
-> Phùng ngạc nhiên khi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy.
Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Câu nói của lão thể hiện mệnh lệnh, lão ra lệnh ngồi nguyên.
Câu nói có lời đe dọa.
- Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ngoại hình của vợ chồng người hàng chài gợi Phùng cảm nhận
được sự lam lũ, sự xấu xí, sự độc ác….đối lập với vẻ đẹp của con thuyền.
+ Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy ngoại hình xấu xí, lam lũ của người đàn bà:
++ Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ lại
quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. lưng áo
bạc phếch và ướt sũng. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình gợi sự thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của
tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn sử dụng nghệ
thuật miêu tả khá chi tiết ngoại hình của nhân vật giúp người đọc hình dung rõ nỗi vất vả của mụ.
Ngoại hình của mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt hiện lên
trong cảnh đói khủng khiếp. Điều đó minh chứng cho sự tàn phá , hủy hoại ghê gớm của các nghèo,
cái đói
->Nhận xét: Ngạc nhiên vì sự đối lập vẻ đẹp chiếc thuyền với sự xấu xí của người đàn bà.
+ Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy lão đàn ông lam lũ vừa độc dữ: Lão có mái tóc tổ quạ, đôi lông
mày cháy nắng, cái lưng cong như lưng con thuyền, đôi mắt độc dữ . Khi miêu tả lão đàn ông,
Phùng cảm nhận được lão là một người khổ những độc dữ. Hình ảnh lão đối lập với con thuyền.
-Tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh.
+ Mụ bị chồng đánh vào buổi sáng sớm sau một đêm thức trắng để kéo lưới.
+ Nơi mụ bị người chồng đánh là ở bãi biển, nơi bãi xe tăng hỏng, cạnh chiếc xe rà phá mìn của
công binh Mĩ.
+ Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ.
+ Hành động man rợ, tàn bạo của người chồng: Người chồng đánh tới tấp: lão trở nên hùng hổ
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách quất tới tấp chiếc dây thắt lưng của lính ngụy lên lưng người
đàn bà.
+ Mụ bị người chồng nguyền rủa bằng cái giọng vừa rên rỉ vừa đau đớn: chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ. Mày chết đi cho ông nhờ. Người chồng gọi mụ là mày xưng ông. Điều đó thể hiện sự coi
thường của người chồng với mụ. Người chồng nguyền rủa mụ chết đi để ông nhờ. Người chồng
nguyền rủa như vậy vì nếu mụ chết đi thì mụ sẽ không đẻ nữa và người chồng sẽ được nhờ. Người
chồng đã rất căm hận mụ và mong mụ chết đi, người chồng sẽ đánh mụ để mụ chết đi.
->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
-> Chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng ngạc nhiên: há hốc mồm, đánh rơi cả máy ảnh. Không thể
giải thích được.
- Tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cảnh bố con lão đánh nhau như kẻ thù: ngạc nhiên.
+ Sự xuất hiện của Phác: Phác là con trai của vợ chồng, nó giống lão, nó hận bố, thề bảo vệ mẹ…
Phác xuất hiện nhanh, bất ngờ; lao nhanh, như một viên đan, giằng được dây thắt lựng, quật móc
sắt vào ngực lão….Tác giả miêu tả sự xuất hiện của Phác khiến câu chuyện hấp dẫn…
+ Hành động: đánh bố, bảo vệ mẹ_ Phùng ngạc nhiên không thể lí giải .
+ Hành động lão đánh Phác: tát Phác 2 cái, ngã xuống ->Tàn bạo vì lão bị xúc phạm, lão thấy hành
vi bất hiếu.
 Tác giả sử dụng nghệ thuật tả cảnh – cảnh bạo lực, tả chi tiết….
 Thấy được cảnh man rợ, tàn bạo của gia đình người hàng chài.
 Nỗi đau của người người phụ nữ và Phác.
-Tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cách hành xử của mụ với thằng Phác: Phùng ngạc
nhiên.
.
+ Phùng ngạc nhiên vì người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn
vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.
++ Lúc bị đánh, đau nỗi đau thể xác mụ không khóc, cam nhịu một cách nhẫn nhục vì mụ chủ
động. Khi nhìn thấy con bị đáng mụ đau đớn, xấu hổ, mụ nhục nhã. Vì nỗi đau là nôi đau tinh thần
mụ gánh đc cho con. Vì xấu hổ vì mụ không thể che đạy được hành vi bạo lực của gia đình của nhà
mụ. Mụ thấy nhục nhã vì không thể che che đạy được hành vi man rợ, tàn bạo của lão.
+ Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy mụ khóc. Miệng mếu máo gọi tên đứa con.
+ Phùng càng ngạc nhiên vì hành động của mụ , người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé,
ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.
++ Mụ ôm lấy con để xoa dịu nỗi đau của con.
++ Mụ chắp tay vái nó, ôm lấy con xin lỗi con vì không bảo vệ con, vì van xin con dừng hành
động đó lại. Mụ đau đớn.
+ Phùng ngạc nhiên khi thấy người đàn bà bất ngờ buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát
xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông.
 Phùng cảm thấy trống trải như thằng Phác.
+ Phùng ngạc nhiên khi chứng kiến hành động của Phác “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn
chẳng hề hé răng (...) nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi
những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.”
 Phùng rất cảm động bởi thái độ, hành động của Phác-> Phác rất thương mẹ , tình thương của
Phác khác với thái độ của chị gái Phác.
- Phùng ngạc nhiên khi con thuyền biến mất “Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc
thuyền lưới vó đã biến mất.
->Tất cả những sự việc đó diễn ra rất nhanh. Những sự việc đó được Phùn quan sát, miêu tả lại
rất chi tiết, chân thực-> chất tự sự của truyện.
1.4.Phẩm chất. Phùng là người nghệ sĩ có tâm- tấm lòng nhân ái.
- Cái tâm của Phùng để hiện qua suy nghĩ và hành động định chạy đến để can ngăn hành vi bạo
lực của lão chồng Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
-> Suy nghĩ và hành động của Phùng thể hiện tấm lòng nhân ái: anh bảo vệ và bênh vực người đàn
bà, kẻ yếu thế.
-> Phùng sẵn sang hi sinh sản phẩm nghệ thuật tôi đã vứt máy ảnh xuống đất.
- Cái tâm của Phùng thể hiện qua sự ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh bạo lực, khi chứng kiến thái
độ hành vi của mụ và đứa con. Phùng không hề vô cảm cảm trước cái xấu. Phùng không hề vô cảm
trước tình mẫu tử. Phùng cảm thấy giữa Phùng với Phác rất gần gũi, Phùng nhận Phác là thằng bé
của tôi, tôi và thằn bé.
1.5. Phát hiện của Phùng: Phát hiện lần thứ 2-cảnh bạo lực của gia đình người hàng chài.
- Thời gian: Sự phát hiện lần diễn ra sau phát hiện lần 1.
- Không gian: Trên bãi biển.
- Diễn biến của sự phát hiện: diễn ra theo quan sát của Phùng.
- Tâm trạng ngạc nhiên.
- Nhận thức của Phùng về bạo lực: Bạo lực gia đình gây tổn thương cho người phụ nữ:
đau đớn, xấu hổ, nhục nhã. Bạo lực gia đình tổn thương cho đứa trẻ: hận thù, xấu hổ.
LĐ 2: Thái độ của tác giả:
-Tác giả ca ngợi suy nghĩ, hàng động rất đẹp: bảo vệ người đàn bà:
- Nhân vật tư tưởng của tác giả, thể hiện cách nhìn của tác giả, điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn.
LĐ 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật Phùng ở đoạn trích.
-Tạo tình huống truyện: tình nhận thức mang tính phát hiện của Phùng- tình huống phát hiện lần 2.
Đây là sở trường, tài năng của tác giả.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, lôi cuốn.
- Ngôn từ dung dụ đời thường.
- Nhân vật người kể chuyện- Phùng, quan sát, kể lại ở điểm nhìn rất gần.
- Yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật độc đáo….
LĐ 4: Nhận xét…..
KB:
- Phùng là người nghệ trên hành trình đi tìm cái đẹp, anh khám phá được cái đẹp. Phùng là người
nghệ sĩ có cái tâm, lòng nhân ái….
-Qua nhân vật Phùng, chúng ta thấy được…..
-Tác phẩm CTNX…..
Đề 3: Phân tích phát hiện của Phùng qua đoạn trích trên. Từ đó nhận xét…
MB: ….Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất
nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người
đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. (1983) Tác phẩm phản ánh chân
thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng chài miền Trung những năm sau chiến trạnh. Trong
tác phẩm tác giả xây dựng thành công nhân vật Phùng qua lần phát hiện lần hai của Phùng. Qua
lần phát hiện thứ hai, nhân vật Phùng được miêu tả là một nghệ sĩ có tâm qua đoạn trích từ câu
văn…..đến câu văn…..Qua đây, người đọc cảm nhận được tấm lòng của nhà văn đối với những
người lao động làm ăn lam lũ vất vả.

TB: 4 luận điểm.


LĐ 1: Phân tích phát hiện của Phùng: Phát hiện lần thứ 2-cảnh bạo lực của gia đình người hàng
chài.
*. Phát hiện lần thứ 2 của Phùng trong đoạn trích diễn ra trong một thời gian, không
gian đặc biệt.
+ Thời gian Phùng xuất hiện: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài biển bay vào.
Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian: trên bờ biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ mộng,
lãng mạn của vùng biển.
->Nhận xét: Sự phát hiện của Phùng trong không gian, thời gian nghệ thuật độc đáo. Qua nghệ
thuật tả cảnh thiên nhiên: chi tiết, chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của thiên nhiên qua cảm nhận của
Phùng.
-> Không gian phù hợp với hoàn cảnh của phát hiện lần 2.

*Sự phát hiện của Phùng diễn ra theo quan sát của Phùng.
- Phùng phát hiện cặp vợ chồng bước lên từ con thuyền đẹp như bức tranh mực tàu tron tâm trạng
hụt hẫng, ngạc nhiên.
+ Phùng nhìn thấy cặp vợ chồng bước lên từ chiếc thuyền với tiếng quát của người chồng: Một
người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập
đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên
đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
-> Vợ chồng người đàn bà bước lên từ con thuyền, họ lội qua một quãng nước-> lưng áo ướt sũng.
->Phùng ngạc nhiên: Họ lên bờ làm gì? Phùng quan sát những hành động của họ ở khoảng cách gần
ngay trước mặt tôi.
-> Phùng ngạc nhiên khi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy.
Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Câu nói của lão thể hiện mệnh lệnh, lão ra lệnh ngồi nguyên.
Câu nói có lời đe dọa.
- Phùng phát hiện ngoại hình của vợ chồng người hàng chài. Ngoại hình đó gợi Phùng cảm nhận
được sự lam lũ, sự xấu xí, sự độc ác….đối lập với vẻ đẹp của con thuyền.
+ Phùng phát hiện ngoại hình xấu xí, lam lũ của người đàn bà đối lập với con thuyền.
++ Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ lại
quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. lưng áo
bạc phếch và ướt sũng. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình gợi sự thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của
tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn sử dụng nghệ
thuật miêu tả khá chi tiết ngoại hình của nhân vật giúp người đọc hình dung rõ nỗi vất vả của mụ.
Ngoại hình của mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt hiện lên
trong cảnh đói khủng khiếp. Điều đó minh chứng cho sự tàn phá , hủy hoại ghê gớm của các nghèo,
cái đói
->Nhận xét: Ngạc nhiên vì sự đối lập vẻ đẹp chiếc thuyền với sự xấu xí của người đàn bà.
+ Phùng phát hiện ngoại hình của lão đàn ông lam lũ vừa độc dữ: Lão có mái tóc tổ quạ, đôi lông
mày cháy nắng, cái lưng cong như lưng con thuyền, đôi mắt độc dữ . Khi miêu tả lão đàn ông,
Phùng cảm nhận được lão là một người khổ những độc dữ. Hình ảnh lão đối lập với con thuyền.
- Phùng phát hiện cảnh người đàn bà bị đánh.
+ Mụ bị chồng đánh vào buổi sáng sớm sau một đêm thức trắng để kéo lưới.
+ Nơi mụ bị người chồng đánh là ở bãi biển, nơi bãi xe tăng hỏng, cạnh chiếc xe rà phá mìn của
công binh Mĩ.
+ Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ.
+ Hành động man rợ, tàn bạo của người chồng: Người chồng đánh tới tấp: lão trở nên hùng hổ
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách quất tới tấp chiếc dây thắt lưng của lính ngụy lên lưng người
đàn bà.
+ Mụ bị người chồng nguyền rủa bằng cái giọng vừa rên rỉ vừa đau đớn: chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ. Mày chết đi cho ông nhờ. Người chồng gọi mụ là mày xưng ông. Điều đó thể hiện sự coi
thường của người chồng với mụ. Người chồng nguyền rủa mụ chết đi để ông nhờ. Người chồng
nguyền rủa như vậy vì nếu mụ chết đi thì mụ sẽ không đẻ nữa và người chồng sẽ được nhờ. Người
chồng đã rất căm hận mụ và mong mụ chết đi, người chồng sẽ đánh mụ để mụ chết đi.
->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
-> Chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng ngạc nhiên: há hốc mồm, đánh rơi cả máy ảnh. Không thể
giải thích được.
- Phùng phát hiện cảnh bố con lão đánh nhau như kẻ thù: ngạc nhiên.
+ Sự xuất hiện của Phác: Phác là con trai của vợ chồng, nó giống lão, nó hận bố, thề bảo vệ mẹ…
Phác xuất hiện nhanh, bất ngờ; lao nhanh, như một viên đan, giằng được dây thắt lựng, quật móc
sắt vào ngực lão….Tác giả miêu tả sự xuất hiện của Phác khiến câu chuyện hấp dẫn…
+ Hành động: đánh bố, bảo vệ mẹ_ Phùng ngạc nhiên không thể lí giải .
+ Hành động lão đánh Phác: tát Phác 2 cái, ngã xuống ->Tàn bạo vì lão bị xúc phạm, lão thấy hành
vi bất hiếu.
 Tác giả sử dụng nghệ thuật tả cảnh – cảnh bạo lực, tả chi tiết….
 Thấy được cảnh man rợ, tàn bạo của gia đình người hàng chài.
 Nỗi đau của người người phụ nữ và Phác.
- Phùng phát hiện cách hành xử của mụ với thằng Phác: Phùng ngạc nhiên.
.
+ Phùng ngạc nhiên vì người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn
vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.
++ Lúc bị đánh, đau nỗi đau thể xác mụ không khóc, cam nhịu một cách nhẫn nhục vì mụ chủ
động. Khi nhìn thấy con bị đáng mụ đau đớn, xấu hổ, mụ nhục nhã. Vì nỗi đau là nôi đau tinh thần
mụ gánh đc cho con. Vì xấu hổ vì mụ không thể che đạy được hành vi bạo lực của gia đình của nhà
mụ. Mụ thấy nhục nhã vì không thể che che đạy được hành vi man rợ, tàn bạo của lão.
+ Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy mụ khóc. Miệng mếu máo gọi tên đứa con.
+ Phùng càng ngạc nhiên vì hành động của mụ , người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé,
ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.
++ Mụ ôm lấy con để xoa dịu nỗi đau của con.
++ Mụ chắp tay vái nó, ôm lấy con xin lỗi con vì không bảo vệ con, vì van xin con dừng hành
động đó lại. Mụ đau đớn.
+ Phùng ngạc nhiên khi thấy người đàn bà bất ngờ buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát
xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông.
 Phùng cảm thấy trống trải như thằng Phác.
+ Phùng ngạc nhiên khi chứng kiến hành động của Phác “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn
chẳng hề hé răng (...) nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi
những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.”
 Phùng rất cảm động bởi thái độ, hành động của Phác-> Phác rất thương mẹ , tình thương của
Phác khác với thái độ của chị gái Phác.
- Phùng phát hiện và rất ngạc nhiên khi con thuyền biến mất “Như trong câu chuyện cổ đầy
quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất.
->Tất cả những sự việc đó diễn ra rất nhanh. Những sự việc đó được Phùn quan sát, miêu tả lại
rất chi tiết, chân thực-> chất tự sự của truyện.

-Tâm trạng của Phùng ở phát hiện lần 2: Phùng rất ngạc nhiên:
+ Phùng ngạc nhiên vì sự đối lập giữa ngoại ngoại hình của cặp vợ chồng hàng chài: lam lũ, xấu xí,
độc ác với con thuyền.
+ Phùng ngạc nhiên vì thái độ của người vợ: cam chịu nhẫn nhục khi bị đánh, mục đau đớn, xấu hổ,
nhục nhã khi chứng kiến chồng và con đánh nhau như kẻ thù.
+ Phùng ngạc nhiên vì hành đọng của Phác với người bố, với mẹ.
-Phẩm chất của Phùng qua sự phát hiện lần hai: Người có tâm.
+ Cái tâm của Phùng để hiện qua suy nghĩ và hành động định chạy đến để can ngăn hành vi bạo
lực của lão chồng Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới.
-> Suy nghĩ và hành động của Phùng thể hiện tấm lòng nhân ái: anh bảo vệ và bênh vực người đàn
bà, kẻ yếu thế.
-> Phùng sẵn sang hi sinh sản phẩm nghệ thuật tôi đã vứt máy ảnh xuống đất.
+ Cái tâm của Phùng thể hiện qua sự ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh bạo lực, khi chứng kiến thái
độ hành vi của mụ và đứa con. Phùng không hề vô cảm cảm trước cái xấu. Phùng không hề vô cảm
trước tình mẫu tử. Phùng cảm thấy giữa Phùng với Phác rất gần gũi, Phùng nhận Phác là thằng bé
của tôi, tôi và thằn bé.
-Từ phát hiện lần hai của Phùng, Phùng nhận thức được hậu quả của bạo lực: Bạo lực gia đình
gây tổn thương cho người phụ nữ: đau đớn, xấu hổ, nhục nhã. Bạo lực gia đình tổn thương cho đứa
trẻ: hận thù, xấu hổ.

LĐ 2: Thái độ của tác giả trước sự phát hiện lần 2:


-Tác giả ca ngợi suy nghĩ, hàng động rất đẹp: bảo vệ người đàn bà:
- Nhân vật tư tưởng của tác giả, thể hiện cách nhìn của tác giả, điểm nhìn nghệ thuật của nhà văn.
LĐ 3: Nghệ thuật miêu tả phát hiện lần hai của Phùng.( Đền 2)
LĐ 4: Nhận xét yêu cầu của đề: Qua sự phát hiện lần 2 của Phùng, chúng ta thấy được…..
KB:
- Sự phát hiện lần hai của Phùng- Phùng phát hiện cảnh bạo lực gia đình của người hàng chài.
- Qua đây, Phùng là người nghệ sĩ có tâm….Qua đấy, chúng ta thấy được….
- Tác phẩm CTNX….
Đề 4: Phân tích cảnh bạo lực gia đình của gia đình người hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó
nhận xét….
MB: Tác giả…..Tác phẩm….Trong tác phẩm, tác giả miêu tả cảnh bạo lực gia đình của gia đình
người đàn bà hàng chài- cảnh tượng man rợ và tàn bạo. Cảnh tượng đó được thể hiện trong đoạn
trích từ câu văn…..đến câu văn….Qua đây, chúng ta thấy được…..
TB: 4 luận điểm.
LĐ 1: Phân tích cảnh bạo lực gia đình qua những chi tiết sau.
*. Hoàn cảnh bạo lực gia đình: Cảnh bạo lực gia đình diễn ra trong một hoàn cảnh tg, kg đặc biệt.
+ Thời gian diễn ra cảnh bạo lực gia đình: Vào buổi sáng sớm Lúc bấy giờ trời đầy mù từ ngoài
biển bay vào. Thời gian sớm-> khung cảnh vắng vẻ, âm u.
+ Không gian;
++ Trên bờ biển, không gian của bầu trời lác đác mấy hạt mưa -> không gian thơ mộng, lãng mạn
của vùng biển-> đối lập với sự man rợ tàn bạo của cảnh bạo lực.
++ Bãi xe tăng hỏng, cạnh chiếc xe rà phá mìn của Mĩ-> dấu tích của chiến tranh vẫn còn hiện hữu
trong cuộc sống, ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, gây hậu quả cho họ.
->Nhận xét: Nghệ thuật tả cảnh bạo lực gia đình: chi tiết, chân thực, sinh động-.Vẻ đẹp của thiên
nhiên qua cảm nhận của Phùng đối lập với hiện thực phũ phàng của cuộc sống.
-> So sánh: Cảnh Mị bị đánh: Nhà văn Tô Hoài miêu tả hoàn cảnh Mị bị đánh: Mị bị ngay trong
đêm tình mùa- đêm hạnh phúc, bị đánh ngay trong căn buồng, tổ ấm, ngục tù…thân phận khổ nhục
của Mị.
-> NMC có dụng ý để người đọc cảm nhận cuộc sống khổ cực của mụ
-> Tài năng nghệ thuật tả cảnh.
*. Diễn biến của cảnh bạo lực gia đình. Diễn biến của cảnh bạo lực được quan sát, tường
thuật lại bởi nghệ sĩ Phùng.
- Cảnh bạo lực gia đình được Phùng phát hiện từ khi cặp vợ chồng bước lên từ con thuyền đẹp
như bức tranh mực tàu tron tâm trạng hụt hẫng, ngạc nhiên.
+ Phùng nhìn thấy cặp vợ chồng bước lên từ chiếc thuyền với tiếng quát của người chồng: Một
người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải lội qua một quãng bờ phá nước ngập
đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên
đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”.
-> Vợ chồng người đàn bà bước lên từ con thuyền, họ lội qua một quãng nước-> lưng áo ướt sũng.
->Phùng ngạc nhiên: Họ lên bờ làm gì? Phùng quan sát những hành động của họ ở khoảng cách gần
ngay trước mặt tôi.
-> Phùng ngạc nhiên khi nghe người đàn ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy.
Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Câu nói của lão thể hiện mệnh lệnh, lão ra lệnh ngồi nguyên.
Câu nói có lời đe dọa.
- Cảnh bạo lực gia đình được Phùng phát hiện khi nhìn thấy ngoại hình của vợ chồng người hàng
chài. Ngoại hình đó gợi Phùng cảm nhận được sự lam lũ, sự xấu xí, sự độc ác….đối lập với vẻ đẹp
của con thuyền.
+ Phùng phát hiện ngoại hình xấu xí, lam lũ của người đàn bà đối lập với con thuyền.
++ Tuổi: trạc ngoài 40 tuổi: Với người đàn bà , tuổi đó là đã cao, sức khỏe cũng yếu nhưng mụ lại
quá vất vả và già nua hơn. Cơ cực hơn khi thường xuyên bị đánh.
+ Hình dáng: thân hình cao lớn thô kệch, khuôn mặt có nhiều vết rỗ, tái mét và buồn ngủ. lưng áo
bạc phếch và ướt sũng. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình gợi sự thô mộc, xấu xí, như nét vẽ vội của
tạo hoá, mang những đặc trưng của một người đàn bà miền biển lam lũ. Nhà văn sử dụng nghệ
thuật miêu tả khá chi tiết ngoại hình của nhân vật giúp người đọc hình dung rõ nỗi vất vả của mụ.
Ngoại hình của mụ hiện lên trong cái đói nghèo giống như ngoại hình người vợ nhặt hiện lên
trong cảnh đói khủng khiếp. Điều đó minh chứng cho sự tàn phá , hủy hoại ghê gớm của các nghèo,
cái đói
->Nhận xét: Ngạc nhiên vì sự đối lập vẻ đẹp chiếc thuyền với sự xấu xí của người đàn bà.
+ Phùng phát hiện ngoại hình của lão đàn ông lam lũ vừa độc dữ: Lão có mái tóc tổ quạ, đôi lông
mày cháy nắng, cái lưng cong như lưng con thuyền, đôi mắt độc dữ . Khi miêu tả lão đàn ông,
Phùng cảm nhận được lão là một người khổ những độc dữ. Hình ảnh lão đối lập với con thuyền.
- Cảnh bạo lực gia đình được Phùng tái hiện cảnh người đàn bà bị đánh.
+ Mụ bị chồng đánh vào buổi sáng sớm sau một đêm thức trắng để kéo lưới.
+ Nơi mụ bị người chồng đánh là ở bãi biển, nơi bãi xe tăng hỏng, cạnh chiếc xe rà phá mìn của
công binh Mĩ.
+ Vũ khí mà người chồng dùng để đánh là cái dây thắt lưng của lính nguỵ.
+ Hành động man rợ, tàn bạo của người chồng: Người chồng đánh tới tấp: lão trở nên hùng hổ
trút cơn giận như lửa cháy bằng cách quất tới tấp chiếc dây thắt lưng của lính ngụy lên lưng người
đàn bà.
+ Mụ bị người chồng nguyền rủa bằng cái giọng vừa rên rỉ vừa đau đớn: chúng mày chết hết đi cho
ông nhờ. Mày chết đi cho ông nhờ. Người chồng gọi mụ là mày xưng ông. Điều đó thể hiện sự coi
thường của người chồng với mụ. Người chồng nguyền rủa mụ chết đi để ông nhờ. Người chồng
nguyền rủa như vậy vì nếu mụ chết đi thì mụ sẽ không đẻ nữa và người chồng sẽ được nhờ. Người
chồng đã rất căm hận mụ và mong mụ chết đi, người chồng sẽ đánh mụ để mụ chết đi.
->So sánh với Mị để thấy được mụ giống Mị đều là nạn nhân của những trận đòn chồng.
-> Chứng kiến cảnh tượng đó, Phùng ngạc nhiên: há hốc mồm, đánh rơi cả máy ảnh. Không thể
giải thích được.
- Cảnh bạo lực gia đình được Phùng phát hiện khi bố con lão đánh nhau như kẻ thù:
+ Sự xuất hiện của Phác: Phác là con trai của vợ chồng, nó giống lão, nó hận bố, thề bảo vệ mẹ…
Phác xuất hiện nhanh, bất ngờ; lao nhanh, như một viên đan, giằng được dây thắt lựng, quật móc
sắt vào ngực lão….Tác giả miêu tả sự xuất hiện của Phác khiến câu chuyện hấp dẫn…
+ Hành động: đánh bố, bảo vệ mẹ_ Phùng ngạc nhiên không thể lí giải .
+ Hành động lão đánh Phác: tát Phác 2 cái, ngã xuống ->Tàn bạo vì lão bị xúc phạm, lão thấy hành
vi bất hiếu.
 Tác giả sử dụng nghệ thuật tả cảnh – cảnh bạo lực, tả chi tiết….
 Thấy được cảnh man rợ, tàn bạo của gia đình người hàng chài.
 Nỗi đau của người người phụ nữ và Phác.
*Kết thúc của cảnh bạo lực gia đình; người mẹ khó, lạy con và bỏ con theo chồng xuống thuyền.
-Cách hành xử của mụ với thằng Phác: Phùng ngạc nhiên.
.
+ Phùng ngạc nhiên vì người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn
vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã.
++ Lúc bị đánh, đau nỗi đau thể xác mụ không khóc, cam nhịu một cách nhẫn nhục vì mụ chủ
động. Khi nhìn thấy con bị đáng mụ đau đớn, xấu hổ, mụ nhục nhã. Vì nỗi đau là nôi đau tinh thần
mụ gánh đc cho con. Vì xấu hổ vì mụ không thể che đạy được hành vi bạo lực của gia đình của nhà
mụ. Mụ thấy nhục nhã vì không thể che che đạy được hành vi man rợ, tàn bạo của lão.
+ Phùng ngạc nhiên khi nhìn thấy mụ khóc. Miệng mếu máo gọi tên đứa con.
+ Phùng càng ngạc nhiên vì hành động của mụ , người đàn bà ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé,
ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy.
++ Mụ ôm lấy con để xoa dịu nỗi đau của con.
++ Mụ chắp tay vái nó, ôm lấy con xin lỗi con vì không bảo vệ con, vì van xin con dừng hành
động đó lại. Mụ đau đớn.
+ Phùng ngạc nhiên khi thấy người đàn bà bất ngờ buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi cát
xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông.
 Phùng cảm thấy trống trải như thằng Phác.
+ Phùng ngạc nhiên khi chứng kiến hành động của Phác “Thằng nhỏ cho đến lúc này vẫn
chẳng hề hé răng (...) nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi
những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.”
 Phùng rất cảm động bởi thái độ, hành động của Phác-> Phác rất thương mẹ , tình thương của
Phác khác với thái độ của chị gái Phác.
- Phùng rất ngạc nhiên khi con thuyền biến mất “Như trong câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc
thuyền lưới vó đã biến mất.
->Tất cả những sự việc đó diễn ra rất nhanh. Những sự việc đó được Phùn quan sát, miêu tả lại
rất chi tiết, chân thực-> chất tự sự của truyện.

*Cảnh bạo bực gia đình này khiến tâm trạng của Phùng ngạc nhiên.
- Phùng ngạc nhiên vì sự đối lập giữa ngoại ngoại hình của cặp vợ chồng hàng chài: lam lũ, xấu xí,
độc ác với con thuyền.
- Phùng ngạc nhiên vì thái độ của người vợ: cam chịu nhẫn nhục khi bị đánh, mục đau đớn, xấu hổ,
nhục nhã khi chứng kiến chồng và con đánh nhau như kẻ thù.
- Phùng ngạc nhiên vì hành đọng của Phác với người bố, với mẹ.
LĐ 2: Thái độ của tác giả trước cảnh bạo lực gia đình;
-Tác giả thể hiện sự ngạc nhiên của mình trước cảnh man rợ tàn bạo.
- Tác giả tố cáo chiến tranh: chiến tranh khiến họ nghèo khó.
- Tác lên án hành vi man rợ của lão đàn ông đánh vợ, đánh con như kẻ thù.
- Tác giả đồng cảm với nỗi đau của người phụ nữ. Ông không đòng tình với cách hành xử của mụ.
- Tác giả thương vừa trách Phác.
LĐ 3: Nghệ thuật miêu tả cảnh bạo lực gia đình.
- Cảnh bạo gđ được miêu tả qua nghệ thuật tả cảnh: thiên nhiên, cảnh bạo lực: chi tiết,
chân thực, sinh động-> tài năng của TG.
- Nghệ thuật đối lập: vẻ đẹp của thiên nhiên, copn thuyền>< với vẻ xấu xí của con
người, hiện thực cuộc sống phũ phàng.
- Nghệ thuật kể hấp dẫn, lôi cuốn, ngôn ngữ dung dị , triết lí
- Tình huống truyện: nhận thức mang tính phát hiện của Phùng…
LĐ 4: Nhận xét yêu cầu: Qua cảnh bạo lực gia đình, chúng ta thấy được….
KB:
-Cảnh bạo lực gia đình diễn ngay trên bờ biển vào buổi sáng sớm. Cảnh tượng man rợ, tàn bạo.
- Cảnh tượng gây hậu quả….chúng ta thấy được…
- Tác phẩm CTNX…..
ĐOẠN 5
Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm,
và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết
trắng.
Cảnh biển động
Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn
còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.
Sự xuất hiện của con thuyền của gia đình mụ chài
Gió rú ào ào chung quanh chiếc xe Reo vừa mới ở trên rừng xuống, chưa giỡ gỗ xuống hết.
Cái ông lão đã ngoài sáu mươi mà vẫn còn theo đuổi nghề sơn tràng đang ngồi bên bếp lửa giữa
trời, vẫn đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền.
Khung cảnh trễn bãi biển.
Cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên chung
quanh chỗ tôi và ông lão ngồi. Tôi xem lại xoong cơm đã sống nhăn hộ ông lão, đoạn gào lên:
- Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?
- Ừ, ừ... ! - Ông lão lẩm bẩm, vẫn không rời mắt khỏi chiếc thuyền đang chống chọi với sóng
gió giữa phá.
Sự xuất hiện của cơn bão.
Những tấm ảnh tôi mang về, đã được chọn lấy một tấm. Trưởng phòng rất bằng lòng về tôi.
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được
treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng
mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn
thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra
khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo
bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm.
Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
Tâm trạng của Phùng khi xem lại bức ảnh
Đề: Phân tích nhân vật Phùng trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét mối quan hệ giữa nghệ thuật
với hiện thực cuộc sống.
MB:
-Tg…
- Tp….
- Nhân vật Phùng…đoạn trích
- Nêu yêu cầu của đề.
TB:
1. Phân tích nhân vật Phùng
- Hoàn cảnh xuất hiện
- Nghề nghiệp
- Tâm trạng
- Phẩm chất
- Nhận thức của Phùng
2. Thái độ của tg
3. Nghệ thuật
4. Nhận xét yêu cầu đề
KB: - Khái quát nhân vật Phùng trong đoạn trích
_ Nhận xét mqh giữa hiện thực cuộc sống với nghệ thuật
- Nêu giá trị của tp.
MB: ….Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989 ) là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất
nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Ông đã để lại cho lớp người
đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên Chiếc thuyền ngoài xa. (1983) Tác phẩm phản ánh chân
thực cuộc sống nghèo khổ của người dân hàng chài miền Trung những năm sau chiến trạnh. Trong
tác phẩm tác giả xây dựng thành công nhân vật Phùng -nhân vật Phùng được miêu tả là một nghệ
sĩ có tâm qua đoạn trích từ câu văn…..đến câu văn…..Qua đây, người đọc cảm nhận được mối
quan hệ giữa hiện thực cuộc sống và nghệ thuật.
TB: Phân tích nhân vật Phùng
*. Giới thiệu khái quát về Phùng:
- Nghề nghiệp: Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh.
- Nhận lệnh của thủ trưởng, Phùng đến vùng biển miền Trung- chiến trường cũ- nơi làm việc của
Đẩu-đồng đội cũ của Phùng.
- Phùng đến đây để chụp một bức ảnh cho bộ lịch cuối năm.
- Phùng chụp được bức ảnh-bức ảnh chiếc thuyền vó bè trên biển trong sương sớm.
- Phùng chứng kiến và can thiệp cảnh bạo lực của gia đình người hàng chài.
- Phùng được nghe câu chuyện của mụ ở tòa án. Phùng thấu hiểu được rất nhiều vấn đề.
*Hoàn cảnh xuất hiện: Phùng xuất hiện trong một khoảng thời gian không gian đặc biệt.
Phùng xuất hiện trên bãi biển vào một sáng biển động: Gần sáng trời trở gió đột ngột, từng tảng
mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu ngoài
cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi tuyết trắng.
- Tác giả giới thiệu hoàn cảnh thời gian: vào lúc gần sáng trời trở gió đột ngột.
-> Đây là một thói quen của Phùng từ đặt chân đến vùng biển, anh hay ngủ trên rừng. Phùng
thường dậy rất sớm để ngắm biển.
-> Sự xuất hiện của Phùng trong khoảng thời gian là sáng sớm, buổi sáng sớm khác với buổi
sáng mà Phùng phát hiện cảnh đắt trời.
-> Sáng hôm nay, dự báo một hiện tượng tự nhiên đặc trưng của vùng biển, có thể xuất hiện
cơn bão biển.
- Tác giả giới không gian nghệ thuật; không gian trên bãi biển, không gian dữ dội không hề
thơ mộng, không hề lãng mạn.
-> Tả giả sử dụng nghệ thuật tả cảnh để tái hiện khung cảnh dữ dữ dội của biển khi trở gió.
-> Tác giả miêu tả hình ảnh những đám mây từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt
biển đen ngòm. Đám mây đen dự báo sự xuất hiện của cơn mưa. Những đám mây gợi vẻ đẹp kì vĩ
nhưng dữ dội biển miền Trung.
-> So sánh: Mặt đất mây đùn cửa ải sa ( Đỗ Phủ)
-> Nghệ thuật nhân hóa, tác giả hiện âm thanh dữ dội của biển trong ngày trời trở gió: biển
bắt đầu gào thét.
->Hình ảnh những con sóng: sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên cao như những ngọn núi
tuyết trắng. Hình ảnh con sóng không phải là con sóng dịu êm, con sắng lặng lẽ trong thơ Xuân
Quỳnh mà là những con sóng lớn. Con sóng như những ngọn núi tuyết trắng gợi vẻ đẹp kì vĩ dữ dội
của thiên nhiên.
=>Phùng xuất hiện trong hoàn cảnh đặc biệt là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
=> Phùng có cơ hội để trải nghiệm khí hậu khắc nghiệt. Phùng hiểu được cuộc sống khó khăn của
người hàng chài miền Trung như lời của mụ nói ở tòa cũng có lúc phong ba bão táp.
*Tâm trạng của Phùng: Phùng có những diễn biến tâm trạng phức tạp khi chứng kiến cảnh biển
động, nhìn lại bức ảnh trong nhà mình
- Tâm trạng của Phùng khi chứng kiến cảnh biển động: Phùng ngạc nhiên trăn trở khi thấy con
thuyền vó bè xuất hiện một mình trên biển Trong phá, các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú,
duy ở giữa phá chẳng hiểu vì sao vẫn còn thấy một chiếc thuyền vó bè đang đậu.
+ Sự xuất hiện của con thuyền của gia đình mụ chài:
++ Con thuyền có bè đơn độc trên biển vì các thứ tầu thuyền đều tìm vào bờ để trú.
++ Con thuyền đang đang đối mặt với sự giận dữ của thiên nhiên đó là tiếng gào thét của biển, đó
những con sóng cao…
++ Con thuyền chao đảo trong không gian dữ dội, con thuyền nhỏ bé, đang đối mặt với hiểm nguy.
++ Trên con thuyền có một gia đình, gia đình đang đối mặt với sự dữ dội của thiên nhiên, gia đình
này đang cố đợi để có thêm cơ hội kéo lưới…
+ Phùng rất ngạc nhiên chẳng hiểu vì sao. Phải chăng Phùng chưa cảm nhận hết cuộc sống của họ.
Phùng rất quan tâm đến con thuyền giống như ông lão. Họ quan tâm đến tính mạng, tài sản của gia
đình hàng chài.
+ Sự xuất hiện của những trận gió khiến Phùng cảm nhận cơn bão sắp đến:
- Chiều gió này không khéo bão cấp 11 rồi?
-> Phùng đã có sự trải nghiệm, Phùng hiểu được đặc điểm của khí hậu miền Trung. Phùng dự cảm
được những hiểm nguy với con thuyền, với gia đình người hàng chài.
=> Tâm trạng của Phùng cho thấy Phùng là người rất cảm trước thiên nhiên, Phùng rất quan tâm
đến sự hiện diện của gia đình hàng chài.
- Tâm trạng của Phùng mỗi khi nhìn tấm ảnh chụp chiếc thuyền vó bè được treo trong nhà
mình, Phùng không khỏi day dứt, ám ảnh, trăn trở.
Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng
hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao
giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển
cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng
khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm
trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
+ Phùng day dứt trăn trở, ám ảnh, ngạc nhiên mỗi khi nhìn ảnh đen trắng Quái lạ, tuy là ảnh đen
trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy
giờ
->Phùng day dứt, ngạc nhiên vì cái màu hồng hồng của ánh sáng sương mai. Màu đó là màu sắc
của thiên nhiên mà Phùng quan sát và phát hiện khi trên bãi biển. Phùng có một ấn tượng rất đậm
của vẻ đẹp của thiên nhiên miền Trung.
-> Tác giả thể hiện sự đối lập giữa nghệ thuật với hiện thực cuộc sống: bức ảnh đen trắng là nghệ
thuật, cái màu hồng hồng của ánh sương mai là hiện thực cuộc sống- vẻ đẹp của thiên nhiên
-> Hiện thực cuộc sống khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, là nền tảng, cái gốc cảu nghệ thuật.
->Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận.
+ Phùng ngạc nhiên khi thấy người đàn bước ra từ tấm ảnh.
++ Sự xuất hiện của đàn bà trong bức ảnh là một người đàn bà lam lũ, xấu xí, thô kệch đó là
một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
->Hình ảnh người đàn bà qua kí ức của Phùng- kí ức sâu đậm.
->Mụ ám ảnh Phùng bởi ngoại hình. Mụ thô kệch bởi thân hình to lớn của mụ.
-> Mụ ám ảnh Phùng chiếc áo rách rưới tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt
sung.
-> Mụ ám ảnh Phùng bởi khuôn mặt rỗ khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm.
=> Sự ám ảnh đó chỉ duy nhất Phùng có. Những gia đình sành nghệ thuật không có sự ám ảnh đó.
Vì họ không được tận mắt chứng kiến sự xuất hiện của người đàn bà bước lên từ con thuyền. Họ
cũng giống như Phùng lần đầu nhìn thấy con thuyền trên biển. Họ cảm nhận được vẻ đẹp bên ngoài
của con thuyền, vẻ đẹp của thiên nhiên.
=>Phùng rất quan tâm đến cuộc sống của mụ. Phùng có tấm lòng nhân hậu. Phùng biết hướng về
hiện thực cuộc sống, thoát ly nghệ thuật.
=> Sự đối lập giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống của nhân dân, hiện thực khắc nghiệt.
=> Nghệ thuật miêu tả tâm trạng của Phùng, tác giả sử dụng nghệ đối thoại, lời độc thoại nội tâm.
Chúng ta thấy được những rung cảm của người nghệ sĩ trước hiện thực cuộc sống.
=> So sánh: Tâm trạng của nhân vật tôi trong tùy bút Người lái đò Sông Đà.
=> So sánh tâm trạng của viên quản ngục, Huấn Cao.
*Phẩm chất của người nghệ sĩ biết yêu cái đẹp. Phùng biết rung cảm trước thiên nhiên. Phùng có
tấm lòng yêu thương con người – nỗi ám ảnh về người đàn bà hàng chài. Quan điểm của NMC, với
người nghệ sĩ biết rung cảm trước cuộc sống của người dân lao động.
*Nhận thức của Phùng: Có sự thay đổi:
-Trân trọng hiện thực cuộc sống, thấu cảm được nỗi vất vả của những người lao động.
- Khi nhìn lại con thuyền, Phùng không còn cảm bối rối, không còn cảm nhận được niềm hạnh phúc
như lần đầu tiên, Phùng cảm thấy day dứt ám ảnh.
- Phùng đã phát hiện vai trò của hiện thực cuộc sống. Phùng hướng suy nghĩ, cảm xúc về phía
người dân lao động.
…..
LĐ 2: Thái độ của tác giả: Trân trọng những thay đổi trong nhận thức của Phùng.
LĐ 3: Nghệ thuật:
- Tả cảnh: không gian thời gian…
- Nghệ thuật đối thoaị
- Miêu tả tâm trạng bằng lời độc thoại nội tâm
- …..
LĐ 4: Mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cs.
-Hiện thực cuộc sống là nguồn gốc khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật
-Người nghệ sĩ có cái nhìn đa diện nhiều chiều….
-Nghệ sĩ phải biết hướng về phía nhân dân lao động
….
KB:
- Phùng trong đoạn trích là người sĩ có tấm lòng nhân hậu.
-MQH giữa hiện thực cuộc sống và nghệ thuật
-Tác phẩm…..

You might also like