Đề 1: Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng Mị trong cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài (Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019). Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh buổi sáng đầu tiên khi tỉnh rượu (Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để nhận xét về cách nhìn và nhìn tình cảm của các nhà văn đối với người lao động nghèo trong xã hội cũ. Gợi ý: 1. Mở bài Đã có lần nhà văn Tô Hoài – nhà văn có duyên nợ gắn bó với đề tài miền núi Tây Bắc tâm sự rằng: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên. Không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi làng Tà Xùa và vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!” (“Trờ lại! Trở lại”). Và hình ảnh Tây Bắc đau thương lúc nào cũng thành nét, thành hình, thành điểm trong tâm trí tôi và tôi thấy cần phải trở lại cho những người thương ấy của tôi một kỉ niệm tấm lòng mình dành cho những người Mèo “chí tình, trung thực”. Và đó là lí do để Vợ chồng A Phủ ra đời với tất cả những thương quý của nhà văn Tô Hoài. 2. Thân bài 2.1 Khái quát chung Tô Hoài (1920 – 2014), là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, nhất là miền núi. Phong cách văn chương: hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ giàu có. Tác phẩm Vợ chồng A Phủ là kết quả của một chuyến đi tham gia chiến dịch Tây Bắc của tác giả, ra đời và năm 1952. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Truyện Vợ chồng A Phủ nằm trong tập Truyện Tây Bắc là thành công tốt đẹp đầu tiên của Tô Hoài sau Các mạng tháng Tám. Tập truyện được tặng giải Nhất – giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Qua cuộc đời tủi nhục đau khổ của Mị và A Phủ hai nô lệ của thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ của người Mèo trong chế độ cũ và sự vùng dậy của họ để giành lấy tự do, hạnh phúc, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến. 2.2 Phân tích Trước đêm mùa xuan, do bị đày đọa, áp chế, Mị trở thành người phụ nữ vô hồn, mất cảm giác về thời gian lẫn không gian. Kiếp sống của Mị chẳng khác nào kiếp sống con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra. Tuy nhiên, sức sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Mỗi khi bước vào buồng, Mị lại ngồi xuống giường trông ra cửa sổ. Điều ấy cho thấy Mị luôn hướng ra bên ngoài, ẩn chứa một khát khao, dù khá mong manh và mơ hồ. Sức sống có thể bị dập tắt vĩnh viến, nhưng cũng có thể sẽ trỗi dậy khi có điều kiện. Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với Mị trong đêm mùa xuân. Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa... Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ... Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”. Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ. “Mị nghe tiếng sao vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị ngồi nhầm thầm bài hát của người đang thổi... Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa. Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương. Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống. Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: “Mị thổi sáo giỏi... Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị. Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương? Mải mê chìm đắm trong quá khứ nên Mị tạm quên hiện tại: “Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Tâm trạng Mị “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi. Khát vọng sống như ngọn lửa bùng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị úa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi... Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi. Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ; Mị lặng lẽ, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời. Những hành động nổi loạn diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa... là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp. Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa. Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: “Mày muốn đi chơi à?”, A Sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị. Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn. Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”. Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách... Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. Mị đang sống với con người bên trong của mình: “Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng: “Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ”. Mị bàng hoàng tỉnh... Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan... Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: “Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà bà ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt”. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, du chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng trốn khỏi Hồng Ngài. Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngằn Vợ chồng A Phủ. 2.3 Liên hệ Cùng xây dựng những chi tiết nghệ thuật đặc sắc để làm rõ đời sống nội tâm nhân vật, Nam Cao và Tô Hoài đã chung nhau một điểm đó là mượn âm thanh để gợi dậy những âm thanh vốn dĩ bị chìm khuất trong nhân vật. Đấy cũng là những chi tiết đặc sắc góp phần khẳng định giá trị nhân đạo sâu sắc mới mẻ trong hai tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài. Cùng xây dựng chi tiết nghệ thuật ấy nhưng do quan niệm và cách viết khác nhau, đề tài khác nhau nên ở hai chi tiết nghệ thuật trong Chí Phèo và Vợ chồng A phủ lại mang những ý kiến riêng. Ở tác phẩm Chí Phèo là những âm thanh quen thuộc của cuộc sống xung quanh hôm nào cả có. Đó là tiếng chim hót ngoài vườn, tiếng mấy bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự hay đổi hẳn cả về tâm sinh lí. Từ khi đi tù về, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống... Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Tiếng mấy bà đi chợ về những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe được bởi vì đến bây giờ hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang, từ tiếng chim hót, tiếng mái chèo, tiếng người nói... như những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn Chí, như dòng nước mát lành, như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất tâm hồn khô cằn sỏi đá của Chí, vùng đất khô hạn tình thương ấy, vùng đất chỉ biết đến thứ nước luôn tưới lên nó là rượu và nước mắt của người lương thiện, nay đọc được những thứ nhựa sống của cuộc đời tưới vào thẳm sâu tâm hồn của Chí, từ đó tâm hồn của anh bùng lên đầy xúc cảm, anh như con chim trong chiếc lồng giam cầm, xa cuộc sống đồng loại, bỗng một ngày được nghe tiếng hót ca của bạn bầu bỗng như tìm lại được mình lại vui ca hót. Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra ngoài cái lều ẩm ướt thấp vấn mới chỉ hơi lờ mờ của mình rằng: “Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn, nhưng với anh, đây là cảm giác, cảm xúc vừa bị đánh thức. Khi Chí Phèo nghe những âm thanh của cuộc sống chính là anh đã dần ý thức về cuộc sống. Âm thanh cuộc sống y như âm thanh của chiếc kim đồng hồ quay ngược thời gian đã đánh trong Chí về giấc mơ thời trai trẻ. Âm thanh của cuộc sống bình dị đã đưa anh nhớ về quá khứ: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Cả kí ức ấy sống lại trong Chí thật đẹp, thật dung dị đời thường xiết bao, quá khứ càng đẹp thì Chí lại càng cô đơn trong hiện tại bấy nhiêu. Thông thường, người ta nhớ lại thời gian quá vãng để hiểu hiện tại. Chí cũng vậy, đến lúc hắn chợt nhận ra rằng hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Cũng chính âm thanh bình dị mà Chí nghe được lại làm cho anh phải nghĩ suy nhiều hơn, sâu xa hơn. Chí hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước. “Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến... Cũng may thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ nghĩ mãi, thì đến khóc được mất”. Đến đây, không ai nghĩ Chí Phèo là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nữa, một người không những giàu cảm giác, cảm xúc, mà còn ý thức có phần sâu sắc về cuộc đời, về bản thân phải là con người bình thường. Với bàn tay yêu thương giản dị của thị Nở, Chí như được lột bỏ vỏ quỷ để trở lại hình hài của con người. Bát cháo hành có thể là liều thuốc giải cực mạnh đã góp phần tẩy ố men rượu, tẩy ố những nhơ nhuốc của cuộc đời bất hạnh, trả lại cho anh những điều đã mất. Lòng yêu của thị Nở là lòng yêu của một người làm ơn và có cả lòng yêu của người chịu ơn. Còn Chí Phèo, anh cảm nhận được một điều thật chua chát xưa nay nếu muốn có cái ăn thì phải dọa nạt, giật cướp; cuộc đời hắn chưa bao giờ được bàn tay đàn bà nào cho. Lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bàn cho, được sống trong tình cảm yêu thương thực sự, bát cháo hành đã ngấm càng làm hắn suy nghĩ nhiều. Từ cảm nhận về tình yêu của thị Nở, cảm xúc, cảm giác càng được đánh thức sâu sắc hơn. Lúc này hắn thấy mắt hình như ươn ướt... hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng... hắn thấy vừa vui vừa buồn... Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền... không những thế, ở Chí còn giống một cái gì nữa như ăn năn, hối hận về tội ác khi không đủ sức mà ác nữa. Và có lẽ sự bùng nổ trong tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp thị Nở là khát vọng lương thiện. Đấy cũng là đỉnh điểm của sự thức tỉnh của Chí Phèo: “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”... Đoạn văn ngắn nhưng chứa đựng trong đó là sự khao khát cháy bỏng của Chí Phèo. Tình người của thị Nở đánh thức tính người ở Chí. Tình người vẫy gọi Chí trở về với đồng loại, bởi con người chỉ thực sự là con người khi đồng loại chấp nhận. Khát vọng ấy ở con người như Chí thật cảm động biết bao. Cũng chính nhờ âm thanh ấy mà Chí Phèo đã tự ý thức và trở về với một Chí Phèo hiền lành, lương thiện. Cũng chính nhờ âm thanh ấy cũng với những ngày hạnh phúc trong tình yêu, tình người với thị Nở mà Chí Phèo đã trở lại là chính mình. Cuối tác phẩm, Chí Phèo xách dao đi đòi lương thiện, giết chết con cáo già bá Kiến, trừ hại cho dân và cũng chính Chí cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng cũng là do âm thanh ấy trong cuộc sống ấy đã thức tỉnh Chí để đi đến một hành động đầy đau đớn nhưng cũng rất tất yếu và hợp lí? Đánh giá về giá trị nghệ thuật của chi tiết ấy, ta thấy âm thanh “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng mấy bà đi chợ về” là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bi kịch của nhân vật. Chi tiết ấy nhỏ, chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bàn làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác. Nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nửa cuộc đời của Chí. Qua việc tập trung vào chi tiết đắt giá ấy, Nam Cao đã tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc mang đến cho người đọc những trang viết đẹp, xúc động. Cuộc trỗi dậy trong Chí Phèo vì Mị có nhiều điểu tương đồng như một đợt sóng dâng lên rồi tràn ra sau nhiều ngày tháng câm nín trong bóng tối. Nó không làm mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết, bằng chứng là hành động cởi trói cho A Phủ và cùng anh ta trốn khỏi Hồng Ngài sau này. Nam Cao nhìn con người trong số phận bi kịch, nhân vật của ông chưa tìm được con đường đi, con đường giải phóng cho chính mình. Tô Hoài nhìn con người trong sự vận động đến với cuộc sống tốt đẹp, tương lai tươi sáng. Thành công của nhà văn là khắc họa một nhân vật sống chủ yếu bằng tâm trạng, với tâm trạng. Cả đêm mùa xuân, Mị hành động được rất ít, nhưng người đọc vẫn thực sự hấp dẫn với một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy. Không gian, thời gian, giọng kể của tác phẩm theo một tiết tấu của chính tâm trạng ấy, khi tha thiết, khi nghẹn ngào xót xa? 3. Kết bài Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị. Vốn sống, sự hiểu biết tinh tế và đặc biệt tình yêu con người đã tạo cho ngòi bút của Tô Hoài rất vững vàng khi lí giải những đột biến về sự thức tỉnh trong nhân vật Mị. Qua đó, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhân sinh sâu sắc: chế độ phong kiến là chế độ trói buộc, giam hãm sức sống con người nhưng sức sống con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng không bị mất đi. Điều ấy càng khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Và ta càng thấm thía về cái giá của tự do. Cái mùi vị của tự do là “cái vị ngọt ngào và có mùi tanh nồng” như Hê- minh-uê đã nói. Đề 2: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ chi tiết tiếng sáo là chi tiết đặc sắc được nhà văn Tô Hoài nhắc lại nhiều lần: Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái Mày đi nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. ... Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị... Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước... tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường... Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”... (Trích Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài, SGK Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, trang 7, 8) Cảm nhận của anh (chị) về tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích trên. Từ đó, anh (chị) hãy liên hệ với âm thanh: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” (trích Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2019, trang 149) và hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy (Ngữ văn 10, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019) để bình luận về ý kiến: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Gợi ý: 1. Mở bài - Giới thiệu vấn đề nghị luận + Không phải ngẫu nhiên mà văn hào vĩ đại người Nga M. Goor-ki từng phát biểu: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Nhà văn chỉ thực sự là “người thư kí trung thành của thời đại” (Banzắc) khi anh ta có khả năng làm sống dậy cuộc đời trên trang sách bắt đầu từ những chi tiết nhỏ. Lựa chọn chi tiết để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật không chỉ thể hiện bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ tài năng, tầm vóc tư tưởng của người cầm bút. Hơn ai hết, tác giả những thiên truyện viết ra từ trường đại học cuộc sống là người hiểu rõ tầm quan trọng của những chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương. – Dẫn ra vấn đề nghị luận + Chi tiết nghệ thuật không chỉ là yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là nơi gửi gắm những quan niệm nghệ thuật về con người, về cuộc đời... của nhà văn, nơi kí thác niềm ưu tư, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Vợ chồng A Phủ là một trong số không nhiều những tác phẩm văn xuôi viết thành công trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Có thể xem đó là gương mặt tiêu biểu của văn học thời đại mà cả dân tộc cùng “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước, Nguyễn Đình Thi). Trong đó chi tiết “tiếng sáo đêm tình mùa xuân” là lát cắt ngang giữa nhân tế bào của tác phẩm. Vẻ đẹp nội dung, nghệ thuật cùng lộ ra từ chi tiết ấy. 2. Thân bài 2.1. Khái quát chung – Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như: O chuột, Dế Mèn phiêu lưu kí... Sau Cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như: Truyện Tây Bắc, Miền Tây, Cát bụi chân ai... Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị - người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do. - Tác phẩm Vợ chồng A Phủ được nhà văn Tô Hoài viết vào những năm 1952, 1953 sau chuyến đi thực tế cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Đây là tác phẩm được nhà văn xây dựng bằng những chuyện mắt thấy tai nghe, chan chứa tình cảm sâu nặng của tác giả đối với đồng bào miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của các thế lực thực dân, phong kiến. Vợ chồng A Phủ còn là bài ca về sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người miền núi trên con đường đấu tranh giải phóng cho bản thân và quê hương. 2.2. Cảm nhận chi tiết tiếng sáo thông qua đoạn trích trong đề a. Hoàn cảnh xuất hiện của tiếng sáo – Mị từ khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra đã trở thành người khác hẳn. Không còn là cô Mị trẻ trung, yêu đời, có biết bao người mê ngày đêm thổi sáo đi theo. Mị trở nên câm lặng, chỉ biết vùi mình vào việc, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Mị mất hết ý niệm về thời gian, bản thân, cảm xúc và tinh thần phản kháng cũng bị tê liệt. - Những đêm tình mùa xuân trên núi cao đã trở lại, ngày Tết trai gái rủ nhau đánh pao, đánh quay rồi thổi sáo gọi bạn đi chơi. Ngày Tết Mị lén lấy rượu uống, rồi say lịm mặt ngồi đấy, Mị nghe thấy tiếng sáo, Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, Mị uốn chiếc là trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, tiếng sáo trở trành nguồn sống trong tâm hồn Mị... b. Vai trò của tiếng sáo * Tiếng sáo là một chi tiết nghệ thuật được nhà văn nhắc đến nhiều lần với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. - Tiếng sáo là âm thanh gợi lên cảnh sắc đặc trưng, phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi. Tiếng sáo mở ra một không gian xa xôi của núi rừng Tây Bắc. Tiếng sáo gọi bạn, gọi người yêu là nét đẹp văn hóa của người dân miền núi: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi... Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng... tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường...”. – Tiếng sáo đại diện cho tài năng của con người: “Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị...”. - Âm thanh của tiếng sáo khiến Mị nhớ về một quá khứ tươi đẹp, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, đồng thời tiếng sáo là chất xúc tác trực tiếp khơi gợi sức sống tiềm tàng của Mị: “Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào...”. Mị vùng bước đi”. - Tiếng sáo là biểu tượng cho cuộc sống, tình yêu, nó lay gọi khát vọng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị, có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân. - Tiếng sáo thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Sức sống của con người bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên. Và dù bị trói suốt đêm nhưng dây trói chỉ giữ được thể xác của Mị còn tiếng sáo đã đem tâm hồn Mị trở lại với thời con gái, với những cuộc chơi ngày trước. Đây là giá trị nhân đạo sâu xa của truyện. - Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi, cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người. Nếu tiếng chân ngựa đạp vào vách là sự lên tiếng của hiện thực phũ phàng thì tiếng sáo lại là hiện thân của những ước mơ, hoài niệm. 2.3. Bình luận về chi tiết tiếng sáo - Chi tiết tiếng sáo đêm tình mùa xuân là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo nhằm khám phá, thể hiện vẻ đẹp nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm. - Chính nhờ tiếng sáo mùa xuân mà Mị có được sự thức tỉnh trong tâm hồn, giả sử không có tiếng sáo mùa xuân thì có lẽ tâm hồn Mị không bao giờ thức dậy được. Nó là cú hích để Mị dũng cảm làm một cuộc vượt ngục trong tâm hồn, nó khơi dậy sức sống tinh thần phản kháng lâu nay bị vùi lấp trong Mị. - Tiếng sáo đã trở thành điểm tựa và Mị đã vững vàng hơn. Chi tiết tiếng sáo là sản phẩm của một sự am tường cặn kẽ, tinh thông về phong tục, lối sống của đồng bào rẻo cao. Là sản phẩm của một ngòi bút tài hoa: văn như nhạc, như tranh, tải được cả sắc màu, hương vị, âm điệu, linh hồn của núi rừng Tây Bắc: Trong sáng, hồn nhiên mà tình tứ, réo rắt da diết, mà khỏe khoắn lạ thường. Thật trọn vẹn, ngọt ngào và đầy dư vị! 2.4. Liên hệ a. Âm thanh trong Chí Phèo của Nam Cao - Chí Phèo là tác phẩm tiêu biểu cho những sáng tác về đề tài người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám của Nam Cao. Nam Cao miêu tả Chí Phèo từ đứa trẻ bị bỏ rơi, được người làng nuôi, lớn lên thành anh canh điền khỏe mạnh lương thiện. Rồi Chí bị bá Kiến ghen tuông và đẩy vào tù. Khi ra tù trở về làng Chí trượt dài trong tội lỗi, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với thị Nở và trận ốm đã làm cho con quỷ dữ có sự thay đổi hẳn cả về tâm sinh lí. Từ khi đi tù về, đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí hết say, hoàn toàn tỉnh táo và có được một khoảng ngưng lặng để nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” những âm thanh thường nhật ấy ngày nào mà chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe được bởi vì bây giờ hắn mới được tỉnh sau những cơn say dài mênh mang. - “Tiếng chim hót”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”... “tiếng mấy bà đi chợ hỏi nhau” là những âm thanh nhỏ giọt vào tâm hồn Chí, như dòng nước mát lành, như cơn mưa mùa hạ đang đổ xuống thớ đất khô cằn sỏi đá, thiếu vắng tình thương yêu đồng cảm chia sẻ của Chí. Âm thanh đó đã đánh thức trong Chí những cảm xúc của con người. Chí nhận ra cái lều ẩm thấp chỉ có hơi lờ mờ của mình rằng: “Mặt trời chắc đã lên cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ”. Cũng như những ngày người say tỉnh dậy, Chí Phèo thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. - Những âm thanh của cuộc sống đã làm cho chí dần lấy lại ý thức về cuộc sống, đưa Chí về quá khứ tươi đẹp và hạnh phúc một thời với giấc mơ bình dị về một cuộc sống gia đình nho nhỏ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. - Cũng chính những âm thanh của cuộc sống ấy cũng khiến Chí nhận ra hắn già mà vẫn còn cô độc, khiến Chí suy nghĩ nhiều hơn, sâu xa hơn, hình dung được tương lai đầy bất ổn ở phía trước để rồi lo sợ... -> Âm thanh “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá... một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Định về” là chi tiết quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách tâm lí và bị kịch của nhân vật. Chi tiết nhỏ chỉ thoáng qua vài câu văn ngắn nhưng lại là yếu tố nội liên văn bản làm cho mạch truyện từ đây bất ngờ rẽ sang hướng khác. Nhờ nó mà ta có thể nhìn thấy hai nửa cuộc đời của Chí Phèo. Đó là chi tiết đắt giá thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. b. Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy - Nhắc đến Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là nhắc đến một trong những truyền thuyết hay nhất của dân tộc Việt Nam. Cái hay của truyện không chỉ nằm ở tư tưởng nhân văn hoặc những chi tiết kì ảo, hấp dẫn mà còn ở sự sáng tạo tuyệt vời của dân gian trong hình ảnh “ngọc trai – giếng nước”. - Có thể thấy hình ảnh “ngọc trai” được sáng tạo trong tương quan với lời của Mị Châu khấn nguyện trước lúc chết, còn hình ảnh “giếng nước” có hồn Trọng Thủy hòa cùng nỗi hối hận vô hạn: + Hình ảnh “ngọc trai” là nhằm chiêu tuyết cho danh dự của Mị Châu, nó chứng thực tấm lòng trong sáng của nàng. + Hình ảnh “giếng nước” là sự chứng nhận cho mong muốn hóa giải tội lỗi của Trọng Thủy. -> Chi tiết “ngọc trai” đem rửa trong giếng nước này lại càng sáng đẹp hơn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được sự hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia. Đó chính là ý nghĩa biểu trưng của hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong câu chuyện. Qua đây, chúng ta được chứng kiến tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhân dân. Phải có một lòng bao dung, cảm thông, độ lượng, phải có một trái tim nhân ái, cao cả, dân gian mới đem trí tuệ của mình sáng tạo nên một kết cục hoàn mĩ, duy nhất hợp lí cho số phận của đôi trai gái. 2.5. Bình luận về vai trò của chi tiết trong tác phẩm - Trong tác phẩm văn học, chi tiết nghệ thuật cực kì quan trọng, nếu không có nó, tác phẩm dường như chưa thực sự có được tầm vóc. - Chi tiết nghệ thuật giống như một hạt cát nhưng đủ để mang đến một sa mạc mênh mông; chi tiết nghệ thuật như một giọt nước nhưng có thể làm đồng hiện cả đại dương bao la. - Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng lại mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm xúc và góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ ở chi tiết. Chi tiết bao giờ cũng có khả năng thuyết minh, biểu hiện cái toàn thể. Kết bài: - Có thể nói, “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”, với tiếng sáo trong Vợ chồng A Phủ, tiếng chim hót trong Chí Phèo và hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là những chi tiết nghệ thuật có sức dư ba, làm trụ cột cho cả ba tác phẩm, góp phần tạo nên ba thiên truyện ngắn đặc sắc nhất của văn chương Việt Nam. - Qua ba chi tiết nghệ thuật ấy, người đọc càng hiểu sâu sắc hơn tấm lòng nhân đạo của hai nhà văn và các tác giả dân gian của văn học dân tộc. Đề 3: Cảm nhận về hành động nhân vật Mị chạy theo A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) “Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: - A Phủ cho tôi đi. A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói: - Ở đây thì chết mất”. (Trích Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài) Gợi ý: Mở bài: - Nhà văn Tô Hoài có sự nghiệp trải dài hơn bảy thập niên, khi ông ra đi, tưởng chừng như một ngôi sao rất sáng đã vụt tắt trên bầu trời văn học. Tô Hoài là bút danh, ông tên thật là Nguyễn Sen. Thời trẻ, ông kiếm sống bằng nhiều nghề, từ gia sư, thư ký cho tới bán hàng, làm chân kế toán cho một hiệu buôn... Đây chính là quãng thời gian ông bắt đầu khơi mạch cho vốn sống ngồn ngộn của mình tuôn trào trên những trang văn. Tô Hoài đi nhiều, trải nghiệm nhiều, với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cộng vốn hiểu biết giàu có về phong tục và đời viết không ngừng nghỉ đưa nhà văn Tô Hoài lên vị trí không thể nhầm lẫn, khó có thế thay thế. - Truyện Tây Bắc ra đời năm 1953 khơi mạch cho một dòng chảy sáng tác khác, mang lại nhiều thành công hơn cho ông. Núi rừng Tây Bắc từ đấy đã trở thành đề tài mà ông gắn bó lâu dài, nặng tình và nặng nghĩa. Vợ chồng A Phủ, một trong ba truyện in trong tập Truyện Tây Bắc, có thể nói là một tác phẩm thành công bậc nhất của nhà văn Tô Hoài khi ông khơi ngòi vào mảnh đất văn chương các dân tộc miền núi. Thân bài: - Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. + Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: Trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Thế nhưng số phận bi kịch đã không buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. + Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Quá khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhỏm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều. Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. + Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”... Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới. - Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng Cách mạng. + Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, Khi A Phủ chạy đi, Mị đứng lặng trong bóng tối, khoảnh khắc ấy, trong Mị trào lên niềm khao khát sống, lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, lúc này, cùng với nỗi sợ và lòng ham sống mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy theo A Phủ. + Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Ta hãy nhớ lại Mị của trước kia, từng nhiều lần muốn tìm đến cái chết, thì giờ đây, Mị lại thèm được sống. Con ma đã bất lực không thể giam giữ được Mị nữa, Mị đã thành người tự do, chính Mị chứ không phải ai khác, tự quyết định vận mệnh cho cuộc đời mình. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa - vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc. Đề 4: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện suy tư ám ảnh của Mị khi nghĩ về kiếp sống trâu ngựa của chính mình: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa” và khi Mị bị trói: “ Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.” (Tô Hoài – Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.6 và tr.8) Phân tích hình ảnh Mị trong hai lần suy tư trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật này. 2. Phân tích nhân vật Mị qua hai chi tiết a. Giới thiệu về nhân vật Mị: Lai lịch, chân dung, số phận của cô con dâu gạt nợ b.Phân tích suy tư ám ảnh của Mị khi nghĩ về kiếp sống trâu ngựa của chính mình * Lần 1: - Hoàn cảnh xuất hiện suy tư của Mị về kiếp sống trâu ngựa của chính mình: + Mị là cô gái trẻ, đẹp có khát khao làm chủ cuộc sống, có tình yêu đẹp. Vì món nợ của cha mẹ mà bị bắt về làm dâu nhà thống lí. + Đau khổ: Có đến hàng mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc; Mị có ý định tự tử nhưng vì thương cha Mị không đành chết. - Suy tư của Mị: + Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, cô cam chịu cuộc sống nô lệ đầy khổ đau + Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa-> Cách so sánh vật hóa nhằm nhấn mạnh thân phận trâu ngựa của Mị. Cô thấm thía kiếp sống không bằng con vật của mình. - Ý nghĩa của chi tiết: + Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra nhưng thực ra chỉ là nô lệ, là công cụ lao động trong nhà hắn. + Thái độ sống cam chịu, nhẫn nhục + Thân phận của Mị tiêu biểu cho những người phụ nữ vùng cao dưới ách thống trị của bọn chúa đất. * Lần 2: - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: + Trong đêm tình mùa xuân Mị thức tỉnh + Mị ý thức về tài năng, quyền sống, Mị muốn đi chơi + Mị bị A Sử trói đứng. - Suy tư của Mị khi bị trói: + Mị vùng bước đi-> hành động phiêu du theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, tâm hồn Mị lửng lơ, thoát xác trong đêm tình mùa xuân. + Nhưng chân tay đau không cựa được Mị không nghe tiếng sáo nữa. Mị chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. -> Âm thanh tiếng chân ngựa đạp vào vách chính là âm thanh của hiện thực cuộc sống kéo Mị về thực tại + Con ngựa đứng yên gãi chân nhai cỏ-> con vật được nghỉ ngơi còn mình không bằng con vật-> Mị thấm thía thân phận nô lệ tủi nhục của mình. - Ý nghĩa chi tiết +) Thể hiện ý thức sâu sắc của nhân vật về cảnh ngộ, thân phận của chính mình, về sự bất công trong môi trường sống tàn ác. 2. Phân tích nhân vật Mị qua hai chi tiết 2. Phân tích nhân vật Mị qua hai chi tiết a. Giới thiệu về nhân vật Mị: Lai lịch, chân dung, số phận của cô con dâu gạt nợ b.Phân tích suy tư ám ảnh của Mị khi nghĩ về kiếp sống trâu ngựa của chính mình * Lần 1: - Hoàn cảnh xuất hiện suy tư của Mị về kiếp sống trâu ngựa của chính mình: + Mị là cô gái trẻ, đẹp có khát khao làm chủ cuộc sống, có tình yêu đẹp. Vì món nợ của cha mẹ mà bị bắt về làm dâu nhà thống lí. + Đau khổ: Có đến hàng mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc; Mị có ý định tự tử nhưng vì thương cha Mị không đành chết. - Suy tư của Mị: + Ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi, cô cam chịu cuộc sống nô lệ đầy khổ đau + Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa-> Cách so sánh vật hóa nhằm nhấn mạnh thân phận trâu ngựa của Mị. Cô thấm thía kiếp sống không bằng con vật của mình. - Ý nghĩa của chi tiết: + Mị là con dâu nhà thống lí Pá Tra nhưng thực ra chỉ là nô lệ, là công cụ lao động trong nhà hắn. + Thái độ sống cam chịu, nhẫn nhục + Thân phận của Mị tiêu biểu cho những người phụ nữ vùng cao dưới ách thống trị của bọn chúa đất. * Lần 2: - Hoàn cảnh xuất hiện chi tiết: + Trong đêm tình mùa xuân Mị thức tỉnh + Mị ý thức về tài năng, quyền sống, Mị muốn đi chơi + Mị bị A Sử trói đứng. - Suy tư của Mị khi bị trói: + Mị vùng bước đi-> hành động phiêu du theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, tâm hồn Mị lửng lơ, thoát xác trong đêm tình mùa xuân. + Nhưng chân tay đau không cựa được Mị không nghe tiếng sáo nữa. Mị chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. -> Âm thanh tiếng chân ngựa đạp vào vách chính là âm thanh của hiện thực cuộc sống kéo Mị về thực tại + Con ngựa đứng yên gãi chân nhai cỏ-> con vật được nghỉ ngơi còn mình không bằng con vật-> Mị thấm thía thân phận nô lệ tủi nhục của mình. - Ý nghĩa chi tiết +) Thể hiện ý thức sâu sắc của nhân vật về cảnh ngộ, thân phận của chính mình, về sự bất công trong môi trường sống tàn ác. +) Tâm trạng uất ức tiềm tàng sức mạnh vùng lên phản kháng. 3. Sự thay đổi của nhân vật Mị: - Trong suy tư của Mị ám ảnh là thân phận của mình như con trâu, con ngựa-> hai suy tư có sự thay đổi + Suy tư lần trước: Mị cam chịu chấp nhận là thân phận trâu ngựa-> cuộc sống tê liệt mất dần sức sống + Suy tư lần sau, khi bị A Sử trói: Thức tỉnh khát vọng sống tiềm tàng của Mị-> Mị thấy uất ức cho cảnh ngộ của mình. Đây chính là cơ sở cho sự phản kháng về sau Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ cũng là tự giải thoát cho cuộc đời nô lệ của mình. - Từ suy nghĩ của Mị, tác giả đã phản ánh hiện thực cuộc sống đau khổ bất hạnh của người dân dưới ách thống trị của bọn chúa đất và ca ngợi sức sống của tiềm tàng của nhân vật Mị - Sự am hiểu sâu sắc của nhà văn Tô Hoài về cuộc sống của người dân vùng cao. - Đặc sắc nghệ thuật: +) Ngòi bút khắc họa nhân vật chân thực, sinh động, nghệ thuật diễn tả tâm lí tinh tế. +) Nghệ thuật so sánh vật hóa khiến nỗi thống khổ, bị chà đạp, bóc lột của con người hiện lên đầy ám ảnh. +) Cách sử dụng ngôn ngữ, lối so sánh ví von độc đáo, in đậm dấu ấn cách nói, cách nghĩ của người dân vùng cao Tây Bắc. Đề 5: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài có ba lần nhắc đến phản ứng của Mị trước hình ảnh lá ngón: Lần thứ nhất, sau mấy tháng làm dâu cho nhà thống lí, Mị trốn về nhà quỳ lạy bố, “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng…”; lần thứ hai, “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa.”; lần thứ ba, trong đêm tình mùa xuân khi nghĩ đến tình cảnh của mình “Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,…”. ( Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) Vì sao có lúc Mị đã tìm đến lá ngón, nghĩ về lá ngón, có lúc Mị không còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa? Nhận xét nét tương đồng và khác biệt ở hai phản ứng tưởng chừng như đối lập trên, để làm rõ đời sống nội tâm ở nhân vật Mị và tài năng nghệ thuật của nhà văn Tô Hoài. * Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài, tác phẩm Vợ chồng A Phủ và nêu vấn đề nghị luận. (0,5 điểm) * Đời sống nội tâm của Mị qua những phản ứng với hình ảnh lá ngón (2,0 điểm) - Giới thiệu về nhân vật Mị và hình ảnh lá ngón: + Mị là hình tượng đẹp về thiếu nữ Tây Bắc được hưởng tình yêu và hạnh phúc nhưng bi kịch đến với cô một cách phũ phàng bởi cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục. + Lá ngón là lá của một dạng cây leo, hoa và quả màu vàng, lá màu xanh, rất độc, ăn chết người. Hình ảnh lá ngón xuất hiện 3 lần trong tác phẩm, mỗi lần mang một ý nghĩa khác nhau, nêu bật đời sống nội tâm đầy biến động của nhân vật Mị qua hai cách phản ứng tưởng chừng như đối lập. – Có lúc Mị đã tìm đến lá ngón, nghĩ về lá ngón: + Lần thứ nhất: ++ Hoàn cảnh: >Mị bị bắt về làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra mà thực chất là làm thân trâu, ngựa. Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc. >Mị trốn về nhà, quỳ lạy bố, chào bố lần cuối. Nhưng rồi, Mị không đành lòng. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Đây là lần thứ nhất Mị muốn ăn lá ngón. ++ Ý nghĩa của phản ứng: >Mị muốn ăn lá ngón để tự kết liễu đời mình khi không đủ khả năng thoát khỏi những xiềng gông vô hình của nhà thống lí. Cho thấy cô không thể chấp nhận và chịu đựng một kiếp sống đọa đày. >Là một sự phản kháng của ý thức, biểu hiện một khát khao tự do và hạnh phúc cháy bỏng của tuổi trẻ trong con người Mị. >Nhưng Mị đã ném nắm lá ngón xuống đất, Mị không đành lòng chết. Ý muốn của bản thân đã không thắng được những ràng buộc về bổn phận. Vì chữ hiếu, Mị tiếp tục cuộc sống mà như đã chết. - Lần thứ hai: Có lúc Mị không còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa: ++ Hoàn cảnh: >Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. >Mị âm thầm cam chịu kiếp sống người – vật trong nhà thống lí. ++ Ý nghĩa của phản ứng: >Sức phản kháng trong con người Mị đã bị đè nén đến mức tê liệt. >Mị không còn tưởng đến việc ăn lá ngón bởi tâm hồn cô như đã chết. + Lần thứ ba: ++Hoàn cảnh: > Ý nghĩ ăn lá ngón lại xuất hiện trong đêm tình mùa xuân. > Khi nghe tiếng sáo thiết tha bổi hổi, Mị ngồi nhẩm thầm lời bài hát,… Mị nhận ra mình vẫn còn trẻ, nhận thức hoàn cảnh thực tại, Mị lại muốn quyên sinh… Đây là lần thứ hai Mị muốn ăn lá ngón. ++ Ý nghĩa của phản ứng: >Tô đậm bi kịch đau khổ mà Mị phải gánh chịu. > Là tín hiệu cho thấy ý thức về thân phận chưa bao giờ bị dập tắt hoàn toàn trong Mị. Sức sống trong Mị vẫn âm ỉ, tiềm tàng. * Nét tương đồng và khác biệt ở hai phản ứng tưởng chừng như đối lập trên (1,5 điểm) – Nét tương đồng: + Phản ánh đời sống nội tâm đầy mâu thuẫn, phức tạp trong tâm hồn Mị. + Làm nổi bật hiện thực đau khổ, số phận bi đát của người phụ nữ vùng cao dưới ách thống trị của cường quyền bạo ngược và thần quyền hủ tục. + Tài năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật chân thật, tinh tế của nhà văn. + Thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc. – Nét khác biệt: + Lúc Mị ném nắm lá ngón xuống đất, không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón là sự khắc họa sâu sắc hiện thực: thương bố, chấp nhận; khắc sâu sự cam chịu tủi nhục trước sự tàn bạo của bọn lãnh chúa phong kiến. + Phản ứng muốn ăn lá ngón cho thấy sự phản kháng, tâm hồn giàu khát khao và sức sống mạnh mẽ tiềm tàng trong con người Mị. Nó không vĩnh viễn tan biến mà chỉ tạm thời chìm khuất, chỉ chờ cơ hội là bùng lên mãnh liệt. Phản ứng tô đâm sức sống tiềm tàng, ý thức phản kháng mãnh liệt. * Đánh giá: (0,25 điểm). – Những phản ứng của Mị trước sự xuất hiện của hình ảnh lá ngón là biểu hiện cho đời sống nội tâm phong phú, phức tạp và vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống, khát vọng tự do của người phụ nữ, người dân nghèo Tây Bắc trong sự đày đọa đến cùng cực của bọn chúa đất phong kiến ở xã hội cũ. ĐỀ 8: Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã hai lần miêu tả tâm trạng của Mị khi chứng kiến A Phủ bị trói: “Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa.” và “Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại.” (Tô Hoài – Ngữ văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018, tr.13 và tr.14) Phân tích nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật sự thay đổi của nhân vật. Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả: - Giới thiệu sơ lược về hoàn cảnh của Mị và A Phủ - Tâm trạng, hành động của Mị ở lần miêu tả thứ nhất: + Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị trở thành người câm lặng, tê dại trước mọi sự. + Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi người trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu không có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo. + Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. - Tâm trạng, hành động của Mị ở lần miêu tả thứ hai: + Nguyên nhân: giọt nước mắt của A Phủ “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” + Diễn biến tâm trạng: • Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ, nhớ về kí ức đau khổ rồi thương mình, thương người. • Mị từ cõi vô thức dần sống lại ý thức, nhận ra dấu hiệu về cái chết càng thương A Phủ hơn lòng thương người lấn át cả thương bản thân cắt dây cởi trói • Hốt hoảng, sợ hãi thúc đẩy bản năng tự vệ tích cực của Mị: vùng chạy theo A Phủ Sự thay đổi của nhân vật: Từ câm lặng đến cứu người và tự cứu mình. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình! Hành động táo bạo, bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi cô gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đề 12: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài miêu tả không gian sống của Mị ở nhà Pá Tra: “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”; và trong đêm tình mùa xuân, Mị nghe tiếng sáo gọi bạn tình: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng (...) Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Cảm nhận của anh/chị về chi tiết cái buồng Mị nằm và tiếng sáo gọi bạn trong các đoạn trích trên. Từ đó, hãy làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam, là nhà văn có biệt tài nắm bắt rất nhanh nhạy những nét riêng trong phong tục, tập quán của những miền đất mà ông đã đi qua. Ông có giọng văn kể chuyện hóm hỉnh, rất có duyên và đầy sức hấp dẫn; có vốn ngôn ngữ bình dân phong phú và sử dụng nó rất linh hoạt, đắc địa. - Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ được sáng tác năm 1952, in trong tập Truyện Tây Bắc - tập truyện được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, viết về dân tộc Thái; Cứu đất cứu mường, viết về dân tộc Mường; Vợ chồng A Phủ, viết về dân tộc Mèo (Mông) - mỗi truyện có một dáng vẻ, sức hấp dẫn riêng, nhưng đọng lại lâu bền trong kí ức của nhiều người đọc là truyện Vợ chồng A Phủ. Phân tích hai chi tiết * Chi tiết: Cái buồng Mị năm - Vị trí: Nằm ở phần đầu của truyện, miêu tả không gian sống của Mị trong kiếp dâu gạt nợ tại nhà thống lí Pá Tra. - Phân tích chi tiết: + Cái buồng Mị nằm là căn buồng nhỏ bé, chật hẹp, tăm tối “kín mít” → ngột ngạt và bế tắc như chính cuộc đời của Mị, hoàn toàn đối lập với căn nhà rộng lớn, giàu có và tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra. + Cái buồng Mị nằm chính là hình ảnh cuộc đời đầy đau khổ, bi kịch của Mị: ++ Mị bị đày đọa về thể xác: Mị sống quẩn quanh, im lìm như một nô lệ trong nhà thống lí. Nơi ăn, chốn ở chỉ giống như một chỗ tạm ngả lưng, không có chút ấm áp, bình yên nào. Cái buồng ấy cũng giống như cái chuồng ngựa, vốn dĩ chỉ là dành cho những kẻ bị giam cầm. Mị sống lặng lẽ như đá núi, không hề biết đến thế giới bên ngoài. ++ Mị bị hành hạ về tinh thần. Đây mới chính là sự tuyệt vọng lớn lao trong cuộc đời của Mị. +++ Mị mất hết ý niệm về thời gian, nhìn ra Mị không biết là “sương hay là nắng”, nghĩa là không biết là ngày là đêm. Mị cũng không cần biết là ngày hay đêm. Căn buồng lúc nào cũng âm u, mờ mịt, âm u như chính cuộc đời của Mị. +++ Mị mất hoàn toàn ý thức về bản thân, cam chịu và vô cảm. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc bị vùi sâu, chôn chặt. Mị hoàn toàn phó mặc cuộc đời mình cho sự tồn tại vô hồn, vô nghĩa, tồn tại trong sự mòn mỏi và quên lãng “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi” Đây là hậu quả của những ngày tháng Mị phải sống triền miên trong sự hành hạ, giày vò, trong sự áp bức, bóc lột. → Đánh giá chung: Căn buồng Mị nằm là biểu trưng cho ngục thất tinh thần, cho địa ngục trần gian đã cầm tù, giam hãm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị. Chỉ qua một chi tiết nhỏ, nhà văn đã tố cáo sâu sắc giai cấp thống trị miền núi đã đày đọa, làm tê liệt và biến những người lao động nghèo thành nô lệ. Đồng thời, qua đó, nhà văn cũng bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm với nỗi thống khổ của những người dân nghèo vùng núi cao Tây Bắc khi Cách mạng chưa về. * Chi tiết: Tiêng sáo đêm mùa xuân - Vị trí của chi tiết: Chi tiết tiếng sáo xuất hiện ở phần giữa của đoạn trích. Đây là chi tiết xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, gắn với sự biến chuyển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là tiếng sáo đến với Mị từ lúc mùa xuân bắt đầu, cho đến khi Mị vật vã và cay đắng trong vòng dây trói. - Phân tích chi tiết: + Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng: ++ Tiếng sáo là thanh âm đặc trưng của đêm tình mùa xuân. Tiếng sao vang lên khắp nơi với âm điệu gọi bạn da diết. “Tiếng sáo gọi bạn” chính là một nét văn hóa đặc trưng của đồng bào vùng núi cao Tây Bắc, nó là tiếng gọi mùa xuân, tiếng gọi tình yêu. Nó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động nghèo và thể hiện khát vọng tình yêu và hạnh phúc. ++ Tiếng gọi đó, khát vọng đó đã đến được với “tai Mị” cũng có nghĩa là cô Mị không còn vô cảm, trơ lì, chai sạn nữa, cô Mị không còn tồn tại một cách im lìm, lặng lẽ nữa, mặc kệ không gian và thời gian. Cô Mị đã bắt đầu quan tâm đến thế giới xung quanh. + Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi: ++ Sự vùng lên của Mị trong đêm tình mùa xuân đã đi đến hồi kết bởi vòng dây trói phũ phàng của A Sử. Nhưng cho dù vậy, tiếng sáo vẫn đi cùng với Mị, vẫn da diết với Mị, để Mị được sống nốt những khoảnh khắc hạnh phúc cuối cùng. ++ Mị vẫn còn say, “hơi rượu nồng nàn” vẫn cho Mị được sống trong thế giới riêng của Mị, chưa dồn đẩy Mị gấp gáp trở về với hiện thực nghiệt ngã. “Mị vẫn nghe tiếng sáo” nghĩa là lúc này tiếng sáo vẫn đang ở trong đầu Mị, trong tâm hồn Mị. Nhưng có lẽ nó không còn là tiếng sáo thực như “tiếng sáo gọi bạn đầu làng” nữa, nó chỉ là tiếng sáo mơ hồ, nửa mơ, nửa thực thôi. ++ Thế nhưng, dù chỉ là khoảnh khắc hạnh phúc ít ỏi, Mị vẫn sống thật mãnh liệt, tâm hồn Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị vẫn sống trong thế giới riêng của mình, vẫn đang chìm trong miền kí ức đẹp tươi. Tiếng sáo đã tiếp thêm sức mạnh để Mị được sống như thế. → Đánh giá chung: Tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng góp phần miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật Mị; thể hiện tài năng sáng tạo của nhà văn. Nhà văn đã đi sâu vào những miền kín đáo nhất của tâm hồn Mị để đưa lên trang văn những biến chuyển tinh vi nhất. Qua tiếng sáo và nhờ tiếng sáo, Tô Hoài vừa bày tỏ thái độ đồng cảm sâu sắc với khát vọng sống của Mị vừa khẳng định khát vọng sống mạnh mẽ và tâm hồn yêu tự do của những người dân lao động nghèo miền núi. Khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm - Hai chi tiết đã thể hiện hai mặt trong đời sống của Mị ở nhà thống lí Pá Tra: căn buồng gắn với đời sống tăm tối, ngột ngạt; tiếng sáo đêm xuân gắn với khát vọng tự do, hạnh phúc. Căn buồng là biểu tượng cho hiện thực cuộc sống đen tối, cho cuộc sống cam chịu của Mị; còn tiếng sáo lại là ước mơ tháo cũi, sổ lồng. - Đây là hai chi tiết tiêu biểu của tác phẩm, góp phần thể hiện chiều sâu nhân đạo của tác phẩm: + Phản ánh hiện thực cuộc sống bị đày đọa, bị dồn ép tận cùng của người dân lao động nghèo miền núi dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến. + Đồng cảm, chia sẻ với số phận của người lao động, với ước mơ và khát vọng của họ. + Khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của tinh thần phản kháng, tinh thần đấu tranh ở những người lao động tưởng chừng như cam chịu, nhẫn nhục. Đề 15: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài có hai lần nhắc đến hình ảnh sợi dây trói: Lần thứ nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Lần thứ hai: Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. (Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) Từ việc phân tích hai đoạn trên, anh/chị hãy cho biết và đánh giá vấn đề nhân sinh nhà văn Tô Hoài đã gửi gắm. I.Mở bài - Tô Hoài - nhà văn xuất sắc trong nền Văn học Việt Nam hiện đại. Là nhà văn giỏi về phân tích diễn biến tâm lý nhân vật, về miêu tả thiên nhiên, các phong tục tập quán, tác phẩm của Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện hóm hỉnh, sinh động, bởi vốn từ vựng giàu có. - Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông.Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể. Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất- giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955. - Tác phấm ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tác phẩm thể hiện chân thực, xúc động về cuộc sống cơ cực, tủi nhục của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách thống trị của thực dân và phong kiến cùng quá trình giác ngộ cách mạng, tự vùng lên giải phóng cuộc đời. II. Thân bài Đoạn 1: Vị trí - xuất hiện trong đêm tình mùa xuân: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong, A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. - Sợi dây trói xuất hiện trong đoạn này đã thể hiện được sức mạnh của cường quyền và thần quyền thống trị. Khi Mị ấp ủ ý định đi chơi, khao khát tự do và hạnh phúc thì A Sử về, dùng dây trói, là cưỡng bức lại ước muốn và khao khát của Mị, là chặn đứng hành động muốn đi chơi của Mị. - A Sử trói đứng Mị vào cột, hành động trói đứng người vợ của mình, cuốn luôn cả tóc và cột, không cho cúi, nghiêng, làm cho Mị nước mắt rơi xuống cổ không lau đi được, hình phạt đó chẳng khác nào sự tra tấn thời trung cổ. Sự tàn bạo đó, có lẽ đã giết chết bao cô gái cả thể xác lẫn tâm hồn. - Thế nhưng A Sử không thể trói được tâm hồn Mị, Mị bị trói nhưng Mị vẫn vùng bước đi. Cái vùng bước đi ấy, đó là cả một sức sống tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt, dù lúc này nó chưa đủ sức phá tan dây trói, nhưng cái vùng bước đi ấy là một sự phản kháng, chống lại. Đoạn 2: Vị trí - xuất hiện trong đêm mùa đông: Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết. - Mị sau đêm mùa xuân, sau những gì đã bùng cháy, nay trở lại với sự thờ ơ vô cảm, chẳng đoài hoài những gì xảy ra xung quanh. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện kể cả lúc ra sưởi lửa, bị “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước". Mị vô cảm với chính bản thân mình, Mị không đau đớn, cũng không sợ hãi. - Dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương mình rồi đến thương người trong Mị: Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại ” của A Phủ. - Và từ sự đồng cảm đó, lòng Mị dấy lên sự căm phẫn: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này ”. Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Từ “chúng nó” ở đây, hiện lên trực tiếp những cái tên như Pá Tra, A Sử, đó là những cái tên mang tính đại diện, nhưng sâu hơn, “chúng nó” chính là những kẻ thống trị, bọn chúa đất miền núi đã đày đọa những kẻ như Mị, A Phủ. - Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây. - Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Mị nghĩ đến thân phận mình, là đàn bà, bị cúng trình ma, Mị có chết cũng là tất yếu, là lẽ vốn phải vậy, nhưng A Phủ đâu bị kiếp như vậy, sao lại phải chết, sao bị ép đến chết, sao mạng người quý thế, lại chỉ đánh đổi ngang giá với một con bò. - Để đi đến hành động cắt dây trói cứu A Phủ, Mị đã phải trải cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp, với những dòng độc thoại, những chiều suy nghĩ, nhận thức và đấu tranh đầy mãnh liệt. Trong đó có cả nỗi sợ dấy lên, khi Mị tưởng tượng: A Phủ trốn đi được, Mị sẽ là người thay thế A Phủ, bị trói đứng vào cột, và rồi sẽ chết. Nhưng tình thương A Phủ, sự đồng cảm với kiếp người cùng khổ đầy khốn nạn, thêm cả lòng căm phẫn, và sự thúc bách về mặt thời gian, cô gái đó đã có một hành động hết sức táo bạo, liều lĩnh: cắt dây trói để cứu A Phủ. So sánh: - Hình ảnh sợi dây trói xuất hiện trong hai đoạn nhưng lại mang hai ý nghĩa khác nhau, nếu đoạn 1 như sự hiện lên của uy quyền và sức mạnh thì đoạn 2, nó hiện lên như chướng ngại, với bao lòng căm phẫn và phải được cắt bỏ. Nếu đoạn 1, Mị hiện lên trong sự cam chịu vì quyền uy của sợi dây trói như chính sức mạnh thần quyền và cường quyền thì đoạn 2, Mị đã vùng lên giải phóng, mà việc đầu tiên là cắt đi sợi dây trói buộc cuộc đời mình. Tô Hoài qua Vợ chồng A Phủ đã phản ánh bộ mặt giai cấp thống trị miền núi, mà ở đây là thống lý Pá Tra và A Sử. Những tên chúa đất độc ác, tàn nhẫn, vô nhân tính. Chúng dùng sợi dây thần quyền và cường quyền để trói chặt và hành hạ con người. Tác phẩm cũng đã vẽ nên bức tranh của người dân miền núi Tây Bắc trước cách mạng, đó là sự tối tăm, ngột ngạt. Nhưng qua đó, tác giả cũng đã dựng nên quá trình đấu tranh của họ, vùng lên để giành tự do, giành quyền được sống, giành quyền làm người. Đề 15: Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con bướm sặc sỡ. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi: Mày có con trai con gái rồi Mày đi nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu. Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới. Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa. Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác. Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường. Anh ném pao, em không bắt Em không yêu, quả pao rơi rồi... Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì. Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi: - Mày muốn đi chơi à? Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột. Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!".”Mị vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa. (Trích, Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ qua đoạn văn trên. Từ đó bình luâ ̣n ngắn gọn về giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. * Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và vấn đề cần nghị luận - “Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đọan sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. - Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đổng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị - người con gái xinh đẹp mà bất hạnh. * Nội dung và nghệ thuật đoạn trích - Mị là một cô gái Mèo, vì cha mẹ mắc nợ nhà thống lí nên bị bắt về làm dâu trừ nợ, làm vợ cho A Sử. Cuộc sống làm dâu, làm vợ vô cùng khổ, Mị muốn chết. Nhưng vì thương cha già không đủ sức làm nương trả nợ, Mị đành chấp nhận cuộc sống hiện tại và lâu dần trở thành con người vô cảm. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, A Sử không cho, trói Mị Lại. * Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao: - Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con đi hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một niềm mong đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi. - Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi chơi. → Vẻ đẹp gợi cảm của không khí ngày xuân cùng với lẽ sống phóng khoáng , tự do của người Mông trở thành mãnh lực tác động đến tâm hồn Mị, một tâm hồn đang khô héo. * Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu: - Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao xuyến của hiện tại. - Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo: “Mày có con trai con gái rồi Mày đi làm nương Ta không có con trai con gái Ta đi tìm người yêu”. + Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị. - Mị lén lấy hũ rượu “cứ uống ực từng bát”. Cách uống đầy tâm trạng. Mị uống như thể nuốt những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời sắp tới. - Mị lắng nghe tiếng sáo gọi bạn, Mị “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị sống lại những kí ức đẹp thời thiếu nữ, Mị thổi sáo giỏi, có biết bao nhiêu người mê, đi theo Mị. - Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh “Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên vui sướng. Mị ý thức mình còn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. Chính tiếng sáo đã làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị. - Nhưng lúc này, Mị cảm nhận sâu sắc nỗi tủi nhục của mình vì biết chồng Mị không đời nào cho Mị đi chơi tết. Mị chỉ muốn ăn lá ngón để chết ngay. Đây là một biểu hiện của một tâm hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được sống. - Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường, kéo Mị trở về nỗi khát khao tự do, hạnh phúc. Mị thắp đèn cho căn buồng sáng lên, Mị quấn lại tóc, định mặc cả váy hoa để đi chơi. Khát vọng tự do trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị bất chấp thực tại khổ đau. - Bị A Sử trói nghiến vào cột nhà, Mị không phản ứng vì lúc này tâm hồn Mị vẫn miên man theo tiếng sáo. Nỗi đam mê cuộc sống trỗi dậy mãnh liệt khiến Mị không còn cảm giác thể xác đau đớn. - Mị không còn nghe tiếng sáo nữa. Mị thổn thức khóc cho thân phận “mình không bằng con ngựa”. Mị nhớ về câu chuyện một người vợ bị chồng trói đến chết. Mị sợ chết. Sợ chết có nghĩa là không muốn chết. Mị vẫn rất ham sống và muốn sống. → Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, tự do, hạnh phúc. Tiếng sáo gợi kỉ niệm quá khứ, đánh thức sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị. => Nhà văn đã sử dụng bút pháp tương phản giữa hoàn cảnh tù túng, khắc nghiệt với lòng người tha thiết cuộc sống tự do để khẳng định: Sức sống của con người rất kì diệu. Dù bị đè nén, vùi dập tới đâu cũng không thể hủy diệt. Giá trị nhân đạo là mô ̣t giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dâ ̣y của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người. - Biểu hiện thứ nhất của giá trị nhân đạo trong tác phẩm này trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phâ ̣n bất hạnh, bị tước đoạt quyền sống, bị lăng nhục, đày đọa mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. - Biểu hiện thứ hai của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của nhân dân lao động Tây Bắc mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. - Biểu hiện thứ ba của giá trị nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn phát hiện và nâng niu trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất cao đẹp của nhân vật Mị và A Phủ. - Biểu hiện sau cùng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ là việc nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao đô ̣ng là đi từ tự phát đến tự giác. * Đánh giá chung - Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. - Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị. Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chổng A Phủ. Đề 16: Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…Mị phảng phất nghĩ như vậy. Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị vẫn tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: - A Phủ cho tôi đi. A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói: - Ở đây thì chết mất. A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. (Trích, Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài) Phân tích nhân vâ ̣t Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, bình luâ ̣n ngắn gọn giá trị nhân đạo trong phẩm “Vợ chồng A phủ” của nhàn văn Tô Hoài. * Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và vấn đề cần nghị luận - Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ. Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, có vốn hiểu biết phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Năm1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc, chuyến đi đem lại cảm hứng để ông sáng tác truyện “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”. - Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, tác phẩm phản ánh cuộc sống lầm than tủi nhục, khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ của người dân nghèo miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến. Sức sống tiềm tàng, sự phản kháng mạnh mẽ của Mị được thể hiện rõ nét trong đêm đông cởi trói cứu A Phủ. * Nội dung và nghệ thuật đoạn trích - Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị là một thiếu nữ xinh đẹp, có tài thổi sao, thổi lá giỏi, nhiều người theo, với nhiều phẩm chất đáng quý: chăm chỉ, hiếu thảo, tự trọng. - Từ khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhừ thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa về thể xác, áp chế về tinh thần, dần trở nên vô cảm, chai sạn, chấp nhận cuộc sống đau khổ, tủi nhục lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. - Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, trong đêm tình mùa xuân năm trước, sức sống ấy đã từng trỗi dậy nhưng bị A Sử dập tắt khi trói đứng Mị vào cột nhà, không cho đi chơi. - Diễn biến tâm trạng và hành động trong đêm đông: + A Phủ đánh A Sử nên phải làm nô lệ trả nợ cho thống lí Pá Tra. Do sơ ý để hổ bắt mất một con bò nên anh bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài. + Lúc đầu, Mị vô cảm thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Từ mùa xuân năm trước, khi bị trói đứng, Mị đã trở lại con người trước kia chai sạn, vô cảm, cam chịu. Cô đã không còn quan tâm đến chính cuộc sống của mình huống gì là người khác. + Nhưng sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của anh ta. Mị nhớ lại tình cảnh của mình năm trước khi bị trói đứng nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Sự đồng cảm bắt nguồn từ sự thương cảm bởi có thương mình thì mới thương người thương người như thể thương thân. Mị nhận ra nỗi đau đớn của mình năm trước trong nỗi đau của A Phủ. Tô Hoài miêu tả diễn biến tâm lí rất tự nhiên, phù hợp. + Mị tỉnh táo nhận ra sự độc ác của cha con nhà thống lí, của bọn chúa đất phong kiến chúng nó thật độc ác, thấy lo A Phủ sẽ chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. + Lòng trắc ẩn của người đàn bà đau khổ trỗi dậy đã đem lại sức mạnh cho Mị hành động: táo bạo, dũng cảm. + Mị cắt dây trói, cứu A Phủ rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây, nhưng Mị không cảm thấy sợ, lúc này tình thương mạnh hơn nỗi sợ. Mị giục A Phủ chạy trốn. + Mị đứng lặng trong bóng tối giằng xé, suy nghĩ đi hay ở. Ở lại thì chỉ có con đường duy nhất là chết thay A Phủ, còn bỏ trốn thì may ra tìm được một con đường sống. + Nhìn thấy hình ảnh A Phủ dù đã kiệt sức nhưng vẫn vùng lên chạy, Mị như được tiếp thêm sức mạnh và cô vụt chạy ra, băng đi, đuổi kịp A Phủ. - Mị cứu A Phủ vì thương người cùng cảnh ngộ với mình, cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là cắt đứt sợi dây trói đời mình với nhà thống lí Pá Tra. Mị cũng tự cứu đời mình vì khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc. Qua đó cũng cho thấy tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị, cũng là của người dân lao dộng bị áp bức ở vùng núi Tây Bắc. - Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo, chọn lọc chi tiết đặc sắc của Tô Hoài. - Khái quát giá trị nhân đạo của tác phẩm: Giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó. - Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở: + Nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông, thương xót trước số phận đau khổ, bất hạnh của những con người lao động nghèo khổ ở vùng núi Tây Bắc, thể hiện qua cuộc đời bất hạnh của Mị. + Nhà văn lên tiếng tố cáo, phê phán bọn chúa đất phong kiến miền núi đã dùng cường quyền, thần quyền và lợi dụng những tập tục cổ hủ của người Mèo để áp bức, bóc lột người dân. + Nhà văn cũng phát hiện, trân trọng, khẳng định và ngợi ca những vẻ đẹp phẩm chất cao quý của con người dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đó là sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân và sự phản kháng trong đêm cứu A Phủ. + Nhà văn cũng thể hiện niềm tin sâu sắc và chỉ ra cho nhân vật của nhân vật con đường đến với tự do, hạnh phúc: phản kháng và hướng đến ánh sáng cách mạng. * Đánh giá chung - Với màu sắc dân tộc đậm đà, chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, nghệ thuật miêu tả nội tam nhân vật tinh tế, sắc sảo, đoạn trích cho thấy sức sống tiềm tàng và sức mạnh phản kháng mãnh liệt của Mị khi cởi trói cứu A Phủ, đó cũng chính là khát vọng sống, tinh thần vùng dậy của nhân dân laoo động nghèo khổ dưới ách thống trị của bọn chúa đất phong kiến. - Qua tác phẩm, chúng ta thấy rằng, truyê ̣n ngắn đã thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.