You are on page 1of 13

ĐỀ TỔNG ÔN CHUYÊN SÂU TP CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – NGUYỄN MINH

CHÂU

ĐỀ 1. Phân tích nhân vật Phùng trong hai đoạn văn sau:
1. Có lẽ suốt cuộc đời cầm máy ảnh chưa bao giờ tôi được thấy một cảnh đất trời cho
như vậy: trước mặt tôi là một bức tranh bằng mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi
thuyền in 1m loại à nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút hồng hồng
do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khuôn khuôn đang hướngvào mặt bờ. Tất cả khung cảnh ấy được
nhìn qua mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới hình thù y hệt
một con dơi, toàn bộ khungcảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ
đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim
có cái gì bóp thắt vào. Chẳng biết ai đó lần đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp là
đạo đức? Trong giây phút bối rối tôi tưởng mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự
toàn thiện khám phá thấy khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn
2. Thế rồi người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh khỏi bãi xe tăng hỏng,
đuổi theo lão đàn ông. Cả hai lại trở về chiếc thuyền.
Khoảnh khắc sau, bãi cát lại trở về với vẻ minh mông và hoang sơ. Giữa tiếng sóng
ngoài khơi rồi những tiếng ồ ồ vào cõi imlặng, chỉ có tôi và thằng bé đứng chờ giữa
bãi xe tăng hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt
ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu.
Như trong câu chuyện cổ tích đầy quái đản, chiếc thuyền vó đã biến mất.
(Trích chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu ngữ văn 12, tập hai, NXB giáo
dục)

BÀI LÀM:
Câu 2:
I. Mở bài:
II. Thân bài:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
 Nguyễn Minh Châu là “nhà văn đã mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn
học sau năm 1975 (Nguyên Ngọc)
 Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận con người cũng như trách
nhiệm lớn lao của người nghệ sĩ đối với số phận ấy. Tiêu biểu cho đề tài và trách
nhiệm của người nghệ sĩ chính là “Chiếc thuyền ngoài xa”.
a. Tác phẩm:
- Tác phẩm thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Được viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt, đó là

1
khi kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc, hai miền Nam-Bắc sum họp một nhà, đất
nước đã hoàn toàn thống nhất trong nền độc lập.
- Truyện ngắn ban đầu được in trong tập “Bến quê” (1985) sau được nhà văn lấy
làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in 1987. Tác phẩm được viết theo
hướng đổi mới với vấn đề xã hội được đặt ra là tệ nạn bạo lực gia đình, một vấn đề
thời bấy giờ ít được người ta quan tâm, chú ý.

2. Phân tích nhân vật Phùng qua hai đoạn trích:

 Đoạn trích 1:
Luận điểm 1: Phùng từng là một người lính, từng làm việc ở chiến
trường và hiện tại anh là một nhiếp ảnh gia được giao công việc đi thực
tế để chụp một bức ảnh bổ sung vào bộ lịch năm ấy “thuyền và biển”.
 Phùng là một người nghệ sĩ trên chiến trường và bây giờ anh là người nghệ
sĩ đi tìm cái đẹp của cuộc sống.
 Anh là người nghệ sĩ hết lòng trong công cuộc sáng tạo nghệ thuật. Để hoàn
thành công việc, anh đã lặn lội tới vùng biển nơi anh từng chiến đấu, phục
kích mấy buổi sáng nhưng chưa chụp được bức ảnh ưng ý.
 Sau gần một tuần lễ, người nghệ sĩ chọn cho mình một bức tranh theo anh
đẹp cả về đường nét màu sắc, là cảnh “đắt” trời cho như là một bức Thủy
mặc xinh đẹp. Đó là cảnh biển khi trời thu gợi nhiều ấn tượng:
“Mây mùa thu, biển mùa thu
Ru lòng biển cả tương tư giữ lòng
Xa xa như áng mây hồng
Con thuyền xa mãi chòng chành mùa thu”
(Biển mùa thu)

Luận điểm 2: Với tâm hồn nghệ sĩ yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp và hết
lòng vì công việc, anh đã bắt gặp và chụp lại cảnh tuyệt mĩ thiên nhiên –
cảnh đắt trời cho. Có lẽ đó là một cảnh đẹp có một không hai trong cuộc
đời cầm máy mà anh bắt gặp được. Phùng khi đứng trước bức tranh, trái tim
anh rung động cho thấy niềm hạnh phúc tràn ngập, thấy tâm hồn mình như
được thanh lọc, trong trẻo, tinh khôi. Vốn dĩ là người nghệ sĩ với sự thăng
hoa của mình, anh dễ dàng rung động trước những cảnh đẹp mà tạo hóa ban
tặng, anh tinh tế nhận ra những chuyển biến của vạn vật dù là nhỏ nhất, để
rồi thu vào trong máy ảnh của mình cảnh đẹp toàn bích được khúc xạ qua
“tấm lưới hình cánh dơi”. Toàn bộ khung cảnh hiện ra trước mắt người
nghệ sĩ đều đẹp đến mơ hồ. Nó đẹp đến nỗi được ví như “bức tranh mực tàu

2
của danh họa thời cổ”- đó là bức tranh Thủy Mặc chỉ với vài nét chấm phá,
điểm xuyết nhưng lại nổi bật vô cùng.

Luận điểm 3: Không chỉ vậy, anh còn mang trong mình một trái tim yêu
cái đẹp, biết rung cảm trước cái đẹp và nghệ thuật, đó chính là những
tình cảm thẩm mĩ được hun đúc ở người nghệ sĩ. Phùng thực sự xúc
động, ngỡ ngàng, bối rối trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc bình
minh. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám
phá và sáng tạo “Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm
lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một
con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và
đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên
bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”Tận mắt chứng kiến cái
đẹp, người nghệ sĩ như Phùng không khỏi cảm thấy “bối rối”- anh tưởng
chừng như “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”.

Luận điểm 4: Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời
biển mờ sương, Phùng đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn
mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài
hòa, lãng mạn của cuộc đời. Bức tranh xinh đẹp ấy làm cho con người trở
nên “người hơn” với chân lý “cái đẹp chính là đạo đức”, có sứ mệnh thanh
lọc, thanh tẩy con người, đó là “khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”.
Cũng giống như trong truyện ngắn “Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, cái
đẹp đã soi rọi cho viên quan cai ngục ở một nơi tăm tối, bẩn thỉu, nơi mà
cái ác đang ngự trị.

 Đoạn trích 2:

Luận điểm 5: Anh còn là người nghệ sĩ tốt bụng, luôn quan tâm, trăn
trở trước số phận, hạnh phúc, cuộc đời của mỗi con người. Đứng trước
nghịch cảnh, bức tranh người chồng vũ phu đánh vợ dã man tàn bạo, mất
nhân tính, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc, sững sờ, đứng há hốc mồm “chẳng biết
từ bao giờ tôi đã nhào tới”. Dường như người nghệ sĩ này trong bất kỳ tình
huống nào dù là bất ngờ đều vẫn sẵn sàng can thiệp vào cuộc sống của con
người dù họ xa lạ. Đối với người nghệ sĩ ấy, đó như là một câu chuyện cổ
tích “đầy quái đản”. “chỉ có tôi và thằng bé đứng chờ giữa bãi xe tăng
hỏng, trên tay thằng nhỏ vẫn cầm chiếc thắt lưng, hai chúng tôi đưa mắt
ngơ ngác nhìn ra một quãng bờ phá vừa ban nãy chiếc thuyền đậu. Như
trong câu chuyện cổ tích đầy quái đản, chiếc thuyền vó đã biến mất” Ba
ngày sau, một lần nữa chứng kiến cảnh người chồng đánh vợ, anh đã không
thể chịu đựng và xông ra buộc gã đàn ông chấm dứt hành động độc ác, anh

3
bị lão đàn ông đánh trả và bị thương. Chất lính trong anh vẫn còn tồn tại,
thôi thúc anh hành động vì cái nghĩa, vì sự an lành và hạnh phúc của con
người. Anh không còn là người ngoài cuộc mà vô tình trở thành nạn nhân
dưới sự tàn bạo của người đàn ông. Thế nhưng ta lại thấy được sự chính trực
và dũng cảm của Phùng, dám đứng lên lấy lại công lí cho người đàn bà khốn
khổ kia.

Luận điểm 6: Hình ảnh Phùng và thằng Phác đứng giữa Bãi xe tăng
hỏng với chiếc thắt lưng ngụy đã phần nào cho người đọc thấy được hiện
thực cuộc sống vất vả, nghèo đói, khó khăn khi mà chiến tranh vừa qua
chưa xa. Chiếc xe tăng giống như một vật chứng của một thời kì gian khổ
đã hủy hoại khiến cả một đất nước rơi vào tình cảnh đói nghèo, mất mát. Nó
cũng giống như nhân chứng, chứng kiến tất cả cuộc sống của người dân
chài, chứng kiến cái vẻ đẹp yên bình và cả những hành động đánh đập vợ
của ông chồng sau cái vẻ đẹp. Tuy chiến tranh đã qua, những người lính như
Phùng đã cố gắng hết sức chiến đấu mang lại tự do cho nhân dân, mang lại
độc lập cho đất nước, thế nhưng anh lại không thể giải phóng cho những
người phụ nữ nghèo khỏi đói khổ, khỏi cảnh tượng bạo lực gia đình. Đấy
chính là những trăn trở, nhức nhối và vấn đề lớn của cuộc sống thực tại.

Luận điểm 7: (Luận điểm mở rộng) Phùng có cái nhìn đa dạng và nhiều
chiều về cuộc sống sau quá trình đi sâu khám phá phát hiện, đồng thời
anh cũng là một người nghệ sĩ chân chính khi phát hiện mối quan hệ
biện chứng giữa nghệ thuật và cuộc đời. Người nghệ sĩ này khẳng định cái
đẹp phải xuất phát từ hiện thực cuộc sống và con người bởi “cuộc đời chính
là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu). Nghệ thuật và
cuộc đời phải luôn song hành, đi đôi để cùng soi chiếu cho nhau. Và đối với
người nghệ sĩ, họ phải nhìn cuộc sống trên nhiều bình diện, không được
công thức hay phiến diện từ đó mới có thể cảm nhận được mọi ngóc ngách,
kẻ hở của cuộc sống. Khi ấy, chúng ta mới có thể nhận ra và thấu hiểu hết
được những gam màu sáng tối trong hiện thực cuộc sống bởi lẽ còn biết bao
gia đình như gia đình hàng chài này, họ cũng đang vất vả, lam lũ, cực nhọc
để có cuộc sống ấm no.

3. Tổng kết nội dung:


Sau hai phát hiện mang tính nhận thức, tác giả đã truyền tải những quan niệm và thông
điệp vô cùng ý nghĩa thông qua sự vỡ ra nhận thức của nghệ sĩ Phùng.Con người cũng
giống như cuộc sống, vô cùng phức tạp, để nhận thức đánh giá cái con người không thể
chỉ nhìn vẻ bề ngoài, càng đi sâu càng phát hiện ra vẻ đẹp lấp lánh ẩn sâu trong mỗi con
người, càng phát hiện ra thế giới nội tâm con người bề bộn, đa dạng, phức tạp. Vẻ đẹp
chân thiện mỹ không phải nằm ở bức tranh nghệ thuật chụp từ xa mà nó là những phát
hiện từ hiện thực cuộc sống. Cho nên nghệ thuật và người nghệ sĩ phải luôn gắn bó với

4
cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời đúng như quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh”. Đến
đây, ta lại nhớ đến quan niệm về cái đẹp và nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong “Chữ
người tử tù” đồng điệu với Nguyễn Minh Châu với ý niệm cái đẹp phải đi liền với cái
thiện. Có điều, nếu Nguyễn Tuân cho rằng cái đẹp có thể sản sinh ra từ cái xấu, nơi cái
ác ngự trị nhưng cái đẹp lại tách bạch hoàn toàn với hiện thức tối tăm ấy thì Nguyễn
Minh Châu lại cho rằng nghệ thuật hòa lẫn trong những cái xấu xí, lấm lem của cuộc
sống đời thường.

4. Tổng kết nghệ thuật:


 Tác phẩm ghi lại dấu ấn đậm sâu trong lòng người đọc với tình huống truyện được
xây dựng vô cùng độc đáo, qua đó bộc lộ tâm trạng và phẩm chất con người cũng
như thông điệp về cách nhìn cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm.
 Hình ảnh biểu tượng là chiếc thuyền để nói lên mối tương quan giữa nghệ thuật và
cuộc đời.
 Nhà văn đã hóa thân vào nhân vật Phùng để miêu tả, cảm nhận và phản ánh. Nó tạo
ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo, khách quan chân thực và giàu sức thuyết phục.
Đồng thời ngôn ngữ nhân vật cũng phù hợp với đặc điểm từng nhân vật và Nguyễn
Minh Châu đã thực sự trở thành “thần viết” khi khắc họa nhân vật với ngòi bút sắc
sảo nhưng nồng đượm tinh thần nhân đạo.

III. Kết bài:


ĐỀ 2. Nêu cảm nhận của anh/chị về câu chuyện của người đàn bà hàng chài trong
đoạn trích sau:
Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi
nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn
bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn
bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất
được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó! - Lần
đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở
trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
- Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? Đột nhiên tôi hỏi.
- Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...
Viên chánh án huyện rời chiếc bàn xếp đến phát ngốt lên những chồng hồ sơ,
giấy má. Đẩu đi đi lại lại trong phòng, hai tay thọc sâu vào hai bên túi chiếc quần
quân phục đã cũ. Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện
vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 76)

5
BÀI LÀM:
Câu 2.
I. Mở bài:
II. Thân bài:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
a. Tác giả
 Nguyễn Minh Châu là “nhà văn đã mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn
học sau năm 1975 (Nguyên Ngọc)
 Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận con người cũng như trách
nhiệm lớn lao của người nghệ sĩ đối với số phận ấy. Tiêu biểu cho đề tài và trách
nhiệm của người nghệ sĩ chính là “Chiếc thuyền ngoài xa”.
b. Tác phẩm:
- Tác phẩm thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Được viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt, đó là
khi kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc, hai miền Nam-Bắc sum họp một nhà, đất
nước đã hoàn toàn thống nhất trong nền độc lập.
- Truyện ngắn ban đầu được in trong tập “Bến quê” (1985) sau được nhà văn lấy
làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in 1987. Tác phẩm được viết theo
hướng đổi mới với vấn đề xã hội được đặt ra là tệ nạn bạo lực gia đình, một vấn đề
thời bấy giờ ít được người ta quan tâm, chú ý.

2. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện:

Luận điểm1 dẫn dắt: Người đàn bà trạc ngoài 40 tuổi, là một người phụ nữ xấu
xí, có thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch, lam lũ và có số phận bất hạnh và khổ cực. Là một trong
những dân chài lưới vùng ven biển vô cùng nghèo khổ, khó khăn, cả gia đình chen
chúc nhau trên một chiếc thuyền nhỏ, quanh năm lênh đênh trên biển. Xót xa hơn,
người đàn bà là nạn nhân của nạn bạo hành gia đình, chịu nhiều trận đòn vô nhân tính
của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chị còn là người
phụ nữ nhẫn nhục và cam chịu, tội nghiệp đến mức phi lý, có cảm giác người đàn bà
này vô cùng bất lực, buông xuôi trước cuộc sống. Khi chịu những đòn roi từ chồng,
chị không kêu, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn. Chao ôi, đáng
thương làm sao người phụ nữ nhẫn nhục, cam chịu ấy. Và chính những khổ đau bất
hạnh đó là lí do tại sao chị xuất hiện trên tòa án, đối diện với nghệ sĩ Phùng và chánh
án Đẩu.

Luận điểm 2: Chị là người đàn bà, người mẹ, người vợ, nạn nhân đáng thương,
người dân trong bối cảnh đất nước vừa giành lại hòa bình còn chồng chất khó
khăn, xấu xí, dốt nát, nghèo nàn. Ban đầu khi xuất hiện ở tòa án, người phụ nữ lộ ra

6
dáng vẻ rụt rè, thụ động, ngơ ngác của một người thất học, có vị trí thấp trong xã hội.
Chị tìm ngồi vào góc và xưng hô một cách tội nghiệp: con- quý tòa. Điều này cho
thấy tuy ít học nhưng chị vẫn nhận thức được hoàn cảnh, vị thế xã hội của bản thân.
đoạn văn đã phản ánh số phận đau khổ của chị, nhà văn thể hiện sự trăn trở của mình
về hạnh phúc đích thực của con người, chưa bao giờ nhà văn cho phép mình bằng
lòng với những gì đã đạt được. Số phận của người phụ nữ như một câu hỏi nhức nhối
đặt ra cho xã hội, phải làm gì để cuộc sống của người dân được ấm no, hạnh phúc sau
khi giành độc lập.

Luận điểm 3: người đàn bà miền biển ấy còn mang trong mình vẻ đẹp ở sâu
trong tâm hồn với vô vàn những phẩm chất tốt đẹp thông qua câu chuyện ở tòa
án huyện. Người phụ nữ có một tấm lòng nhân hậu, vị tha nghĩa tình, từng trải
và thấu hiểu lẽ đời và giàu đức hi sinh. Chị không bao giờ quên câu chuyện nghĩa
tình ở quá khứ của người chồng. Lúc đó chị là một người phụ nữ xấu xí vì di chứng
bệnh đậu mùa, nhưng người đàn ông là chồng chị bây giờ - người đàn ông khỏe mạnh
đã thông cảm, chấp nhận sự thiệt thòi này về nhan sắc của chị. Chị kể về câu chuyện
nhắc đến nguyên nhân không thể bỏ chồng đó là chị luôn tự nhắc bản thân về lòng
biết ơn sâu sắc đối với người đàn ông này. Người chồng chính là người mang đến
hạnh phúc lứa đôi và sau đó là hạnh phúc gia đình cho chị. Chị cố biện minh cho
chồng, biện minh cho hành động của chồng mình bằng cách tự nhận hết lỗi về
bản thân như là do đẻ quá nhiều hay do gia đình đông con. Chị cho rằng vì thuyền
chật, con đông nên cuộc sống khốn khó lại càng khốn khó, gia đình không đóng nổi
một chiếc thuyền to lớn hơn, có những lúc phải ăn xương rồng chấm muốn thay cơm.
Trong suốt câu chuyện dài của mình, chị không buông lời trách móc với người đàn
ông vũ phu. Thậm chí còn cố gắng phân tích, biện minh để khẳng định người chồng
không xấu mà là do hoàn cảnh bởi trước kia anh là người hiền lành nhưng để giải tỏa
khó khăn thì mới đánh vợ. Chị xem hành động dã man của người đàn ông là một cách
để giải tỏa bức bí của cuộc đời. đồng thời c thuyết phục Phùng và Đẩu bằng sự hiểu biết
và từng trải của một người làm ăn lam lũ “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần
phải có người đàn ông để chèo chống phong ba”. Những người phụ nữ không thể sống
một mình chèo chống tất cả những vất vả, khó khăn trên một chiếc thuyền mà thay vào
đó phải cần đến sự gánh vác của một người đàn ông cho dù người đó có cộc cằn hay vũ
phu, tàn bạo đến mức nào.

Luận điểm 4: Những lời bộc bạch chân thành ấy hé mở một hình ảnh thật cao
quý của một người mẹ suốt đời hi sinh bản thân và luôn dành tình yêu thương
con vô bờ bến cho những đứa con của mình.

 Rồi chị lại động viên, lại lạc quan rằng gia đình vui vẻ hạnh phúc đó là lúc
các con của chị được ăn no. Người đàn bà ấy thực sự biết chắt chiu nhưng
giọt hạnh phúc quý giá, dẫu đang ở trong hoàn cảnh khó khăn vất vả, chị vẫn
cảm nhận được tia hạnh phúc nhỏ nhoi lóe lên từ những đứa con. Ta thấy có sự
đồng điệu giữa chị và ông Mộc trong “Người chú dượng” (Kim Lân) khi ông

7
dù mang tiếng xấu nhưng vẫn sống vì con mình: “Tôi nghiệm ra mỗi lần có
những đứa con về nhà, ông ta lại vui hẳn lên và có một vẻ tự hào đặc biệt”.
Dường như đối với người làm cha, làm mẹ, những đứa con chính là người níu
giữ chân họ lại các cuộc đời túng quẫn, cơ cực này. Chị như chỉ muốn nói với
chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng rằng người chồng đó sẽ thực sự tốt nếu gia
đình bớt khó khăn hơn, và ngay cả hiện tại chị vẫn thấy nhiều mặt tích cực của
chồng mình. Người chồng đó hiền lành, không sa vào tệ nạn xã hội hay nghiện
ngập bia rượu. Chính cuộc sống nghèo khổ, cơ cực đã khiến con người thay đổi
tiêu cực, xấu xa che lấp đi bản tính lương thiện vốn có.

 Với khát vọng “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong chiều sâu tâm hồn của con
người”, Nguyễn Minh Châu đã khám phá vẻ đẹp khuất lấp của con người bị
những lam lũ, khó khăn, nghèo túng của cuộc sống làm nhòa đi. Người phụ nữ
xấu xí, thô kệch và cam chịu đó không chỉ mang vẻ đẹp của lòng nhân hậu
vị tha, thấu hiểu và từng trải mà chỉ còn là một người vượt lên trên sự cay
đắng, cơ cực ấy vì đức hy sinh của người mẹ, tình mẫu tử thiêng liêng, vì
thiên chức cao quý của người mẹ, chị hy sinh cuộc đời cho các con. Quả
thực, ngay từ đầu trang truyện, thấy chị xuất hiện trong trận đòn của chồng và
thằng Phác xuất hiện, người đọc đã thực sự xúc động trước tấm lòng người mẹ
nơi chị. Chị đau đớn, nghẹn ngào, xót xa và tủi nhục khi chứng kiến cảnh con
trai mình hết mực yêu quý đã xông vào đánh cha, chị khóc mếu máo và chắp
tay vái lạy. Chị có thể chịu đựng mọi nỗi đau diễn ra với bản thân nhưng không
đủ sức chịu đựng nỗi đau mà con cái mình phải gánh chịu… chị nói: “Ông trời
sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên
phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ
không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho
cái sự lạc hậu” Dù chị phải chịu đòn roi nhưng có người chồng vũ phu bên
cạnh chị không bị đẩy vào tình thế thê thảm hơn, có lẽ đối với chị- một người
phụ nữ sâu sắc hơn ai hết chị hiểu rằng ly hôn là nỗi bất hạnh đối với con cái.
Nó không đơn thuần là nỗi đau vật chất mà nó còn là những vết thương trong
tâm hồn những đứa trẻ khi có bố thì chúng sẽ mất mẹ và ngược lại, đời sống
tâm hồn của chúng sẽ luôn có cảm giác mất mát và tổn thương. Chính vì lẽ đó
nên chị một mực xin “Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!”. Rồi khi nghĩ đến những
đứa con lần đầu tiên thấy chị hạnh phúc hiện rõ trên khuôn mặt xấu xí ấy “Lần
đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả
lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa
thuận, vui vẻ” Đó chính là điều chị lo sợ nhất, đó chính là lý do dẫu đau lòng
chị vẫn phải gửi thằng Phác lên ở với ông bà, chị luôn muốn bảo vệ cho các
con, không muốn chúng bị tổn thương tâm hồn. Chị và bà Tú trong “Thương
vợ” (Trần Tế Xương) đều mang trong mình vẻ đẹp của người vợ, người mẹ.
Họ giàu đức hy sinh, nhân hậu, vị tha, sống vì con, vì chồng. Họ âm thầm gánh
vác những cực nhọc, lam lũ để nuôi gia đình.

8
Luận điểm 5: Chị ghi nhận lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng càng rất thẳng thắn
và chân thật khi chỉ ra hạn chế của họ để họ nhận ra mối quan hệ giữa con người
và cuộc sống từ đó có cái nhìn đa dạng, nhiều chiều. . Người phụ nữ này cũng vô
cùng sắc sảo khi có chiến thuật thuyết phục của riêng mình, làm chủ được tình thế và
tất cả những gì mình nói, giản dị nhưng câu chuyện của chị đã để lại cho Phùng và
Đẩu nhận thức sâu sắc.Chị không phải là một người thất học, cam chịu đến vô lý và
chị không phải là một nạn nhâ n cần được sự giúp đỡ, chị hiểu mình, hiểu đời, nhận
thức chồng mình vừa đáng trách vừa đáng thương. Chị vị tha, đồng cảm và rất thấu
hiểu cho chồng, chị còn sắc sảo, từng trải khi phân tích về lẽ đời, cuộc sống và gia
đình. Một nạn nhân cần giúp đỡ như chị lại giúp cho Phùng và Đẩu ngộ ra nhiều điều
về cuộc sống “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện
vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ.” Phùng đã phát hiện
ra cái đẹp của đời thực, của nghệ thuật trong đời sống nội tâm của con người- thế giới
con người là thế giới phức tạp, khám phá về con người, muốn giúp đỡ con người
không phải là điều đơn giản. Còn chánh án Đẩu, vị bao công của phố huyện nghèo
cũng sẽ thấy pháp luật và công lý không nằm trong đống sách vở thô cứng, lẽ phải ở
chính lòng người, luật pháp là cần thiết, lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, cần phải
thấu hiểu, thâm nhập sâu vào đời sống của nhân dân hơn để tìm cách phù hợp giúp đỡ
họ.

3. Nghệ thuật.
Thật đúng là: “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người
qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông
thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ
nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự - triết lí,
Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà
làng chài.. Bằng nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện đặc sắc và sử dụng ngôn ngữ trần
thuật linh hoạt, ngôn ngữ đối thoại và những nét phác họa về ngoại hình sinh động, tác
giả đã xây dựng thành công chân dung người đàn bà hàng chài với vẻ đẹp độc đáo. Nhà
văn đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính
cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh
của chị. Đồng thời ông đã hóa thân vào nhân vật để miêu tả, cảm nhận và phản ánh. Nó
tạo ra điểm nhìn trần thuật sắc sảo hơn, khách quan chân thực và giàu sức thuyết phục.
Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm và tính cách từng nhân vật: người đàn bà trong
lời nói thể hiện được sự dịu dàng, xót xa, đau đớn, từng trải Người đàn bà ấy đã mang
đến cho tất cả bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người
và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam

9
ĐỀ 3: Phân tích ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng trong đoạn trích sau để
thấy quan niệm của tác giả về nghệ thuật:
Không những trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi
vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy
là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của
ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao
giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà
vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá,
nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
(Trích “Chiếc thuyền ngoài xa”-Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập hai, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2017)

BÀI LÀM:

Câu 2:
I. Mở bài:
II. Thân bài:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
c. Tác giả
 Nguyễn Minh Châu là “nhà văn đã mở đường tinh anh và tài năng nhất” của văn
học sau năm 1975 (Nguyên Ngọc)
 Cả đời ông cầm bút lúc nào cũng trăn trở về số phận con người cũng như trách
nhiệm lớn lao của người nghệ sĩ đối với số phận ấy. Tiêu biểu cho đề tài và trách
nhiệm của người nghệ sĩ chính là “Chiếc thuyền ngoài xa”.
d. Tác phẩm:
- Tác phẩm thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Được viết vào tháng 8/1983, tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh rất đặc biệt, đó là

10
khi kháng chiến chống Mỹ đã kết thúc, hai miền Nam-Bắc sum họp một nhà, đất
nước đã hoàn toàn thống nhất trong nền độc lập.
- Truyện ngắn ban đầu được in trong tập “Bến quê” (1985) sau được nhà văn lấy
làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in 1987. Tác phẩm được viết theo
hướng đổi mới với vấn đề xã hội được đặt ra là tệ nạn bạo lực gia đình, một vấn đề
thời bấy giờ ít được người ta quan tâm, chú ý.
 .
2. Phân tích đoạn trích:
 Để có một bức ảnh cho bộ lịch phong cảnh về thuyền và biển năm đó của
Phùng chính là sự phát hiện ra cái đẹp của nghệ thuật- bức tranh tuyệt mỹ
của thiên nhiên. Có lẽ đó là một cảnh đẹp có một không hai trong cuộc đời cầm
máy mà anh bắt gặp được. Phùng khi đứng trước bức tranh, trái tim anh rung động
cho thấy niềm hạnh phúc tràn ngập, thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, trong
trẻo, tinh khôi. Toàn bộ khung cảnh hiện ra trước mắt người nghệ sĩ đều đẹp đến
mơ hồ. Nó đẹp đến nỗi được ví như “bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ”- đó
là bức tranh Thủy Mặc chỉ với vài nét chấm phá, điểm xuyết nhưng lại nổi bật vô
cùng. Đây chính là “chất vàng mười” của thiên nhiên của tạo vật và cũng là qảu
ngọt của một người nghệ sĩ biết yêu cái đẹp, hết lòng vì công việc.
 Dường như, hình ảnh của người đàn bà hàng chài bước ra từ tấm ảnh chính
là hiện thực cuộc sống ẩn dấu phía sau những khung hình nghệ thuât đẹp đẽ:
o Nhưng chưa hết trong bức ảnh đó không chỉ là “màu hồng sương mai” đầy
chất thơ của cuộc sống, màu hồng của nghệ thuật. Mà ở đó còn hiện lên
hình ảnh người đàn bà hàng chài “cao lớn với những đường nét thô kệch,
tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ
đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm” trong cái nhìn lâu hơn.
o Nhìn bức ảnh điều mà Phùng thấy cuối cùng chính là hình ảnh của người
đàn bà hàng chài lam lũi cực khổ. Nhưng ta cũng có thể hiểu bởi lẽ Phùng
đã ám ảnh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài, đặc biệt là số
phận đáng thương của người phụ nữ ở vùng biển này. Đó là một người phụ
nữ cực khổ về mọi mặt: bị hành hạ về mặt thể xác: nạn nhân của nạn bạo
hành gia đình “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” hay bị
nghèo khổ về vật chất thậm chí đến cả cái nhu cầu ăn ở cũng còn khó có thể
có được.
o Chị chính là một người mẹ thương con: nhận nhục chịu đòn roi của chồng
vì con, luôn chắt chiu những hạnh phúc bình dị với con và là một người mẹ
luôn ý thức được thiên chức làm mẹ của mình. Không chỉ thế chị là người
vợ yêu chồng thấu hiểu được những nỗi khổ mà người chồng mình phải
chịu đựng và chị là người đàn bà từng trải sống sâu sắc và hiểu lẽ đời. Đó là
những điều mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng về một
người phụ nữa lam lũ; đại diện cho những kiếp người lao động vất vả trăm
chiều. Nhưng vẫn khao khát về một hạnh phúc đơn sơ bình dị cho dù đó rất
là hiếm hoi.

11
 Hình ảnh bãi xe tăng hỏng với chân dung người đàn bà hàng chài nghèo khổ
đi ra từ bức tranh trong cảm nhận của Phùng đã phần nào cho người đọc
thấy được hiện thực cuộc sống vất vả, nghèo đói, khó khăn khi mà chiến
tranh vừa qua chưa xa. Chiếc xe tăng giống như một vật chứng của một thời kì
gian khổ đã hủy hoại khiến cả một đất nước rơi vào tình cảnh đói nghèo, mất mát.
Nó cũng giống như nhân chứng, chứng kiến tất cả cuộc sống của người dân chài,
chứng kiến cái vẻ đẹp yên bình và cả những hành động đánh đập vợ của ông
chồng sau cái vẻ đẹp. Tuy chiến tranh đã qua, những người lính như Phùng đã cố
gắng hết sức chiến đấu mang lại tự do cho nhân dân, mang lại độc lập cho đất
nước, thế nhưng anh lại không thể giải phóng cho những người phụ nữ nghèo khỏi
đói khổ, khỏi cảnh tượng bạo lực gia đình. Đấy chính là những trăn trở, nhức nhối
và vấn đề lớn của cuộc sống thực tại.
 Ấy vậy mà kì lạ thay, khi nhìn lại bức tranh mình đã chụp, anh lại có những
cảm xúc vô cùng kì lạ, thứ màu “ánh hồng” xuất hiện trong bức tranh “đen
trắng” chính là sự đối lập giữa nghệ thuật và cuộc đời mà tác giả muốn gửi
gắm. Sau khi hài lòng về những công sức của mình đạt được sau những lần “phục
kích” gian khổ thì ngay trong lúc nhìn thành quả của mình anh “mỗi lần ngắm kĩ”
tuy nó là ảnh đen trắng và rồi anh thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương
mai”. Đó phải chăng là “ánh hồng” của cuộc sống hay là chính niềm vui của người
nghệ sĩ khi phát hiện ra vẻ đẹp tuyết đích của ngoại cảnh? Đúng là như vậy, hình
ảnh “đen trắng” chính là hình ảnh mà Phùng chụp được – hiện thực của cuộc đời
nhưng bằng hiệu ứng màu sắc của Phùng nó ta cho thấy “ánh hồng” của niềm vui
sướng, sự hân hoan trước cái đẹp và niềm tin vào tương lai của gia đình người đàn
bà hàng chài nghèo khổ, đầy nghịch lý sống trên thuyền ấy.
 Và sau khi trải qua và cảm nhận được hoàn cảnh của người đàn bà hàng chài
Nghệ sĩ Phùng đã có một “bước ngoặt mới” trong cái nhìn giữa nghệ thuật và
cuộc sống. Giữa hai bức tranh: yêu cầu của vị trưởng phòng về bức ảnh (nghệ
thuật) và bức tranh cuộc đời và cảm nhận của người nghệ sĩ (cuộc sống) đã có sự
đối lập với nhau. Bức tranh nghệ thuật yêu cầu của vị trưởng phòng là một thức
nghệ thuật hoàn toàn tĩnh vật không có bóng dáng con người lại phải có sương mù
trong một tiết trời tháng 7. Một thứ nghệ thuật rời xa cuộc sống, bất chấp sự thật!
Qua hai bức tranh giữa nghệ thuật và cuộc sống, ta đã thấy được những “điều mới
lạ” trong hai bức ảnh: bức tranh của người trưởng phòng yêu cầu là thức yêu cầu
“Nghệ thuật vị nghệ thuật” – một thức nghệ thuật rời xa cuộc sống, chủ quan, duy
ý chí. Còn bức ảnh của cuộc sống thông qua hoàn cảnh của gia đình bà hàng chài
đó là bức ảnh “nghệ thuật vị nhân sinh” – phản ánh đúng cuộc sống, những vấn đề
đang còn tồn tại trong xã hội nước ta sau khi chiến tranh qua đi.
3. Ý nghĩa:
Qua hình tượng nhân vật, tác giả còn bày tỏ lòng cảm thông, sự chia sẻ, day dứt
của mình trước hạnh phúc, trước số phận khổ nhục của người lao động vô danh.
Nhà văn đã thực hiện được trách nhiệm của người nghệ sĩ chân chính. Văn học
không phải chỉ là vị nghệ thuật mà còn vị nhân sinh. Tác giả nhìn con người
dưới cái nhìn đa chiều và đã thành công trong con đường đổi mới của mình. Nghệ
12
thuật không được rời xa con người, không thể bất chấp sự thật mặc dù anh vẫn
giao nộp sản phẩm theo đúng yêu cầu nhưng sâu thẳm tâm hồn anh, anh đã từ bỏ
quyết liệt, li khai cái thứ nghệ thuật mà trưởng phòng áp đặt anh – nghệ thuật vị
nghệ thuật để hướng tới thứ nghệ thuật cao cả hơn đó là nghệ thuật vị nhân sinh.
Vẻ đẹp chân thiện mĩ không phải nằm ở bức tranh nghệ thuật chụp từ xa mà nó là
những phát hiện từ hiện thực cuộc sống. Cho nên nghệ thuật và người nghệ sĩ phải
luôn găn bó với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời.
+Đấu tranh cho hạnh phúc con người là một quá trình phức tạp và khó khăn. Chỉ
có sự hi sinh, chỉ có lòng tốt thì chưa đủ, cần phải hiểu biết cảm thông, có cái nhìn
toàn diện sâu sắc và cần phải làm cái gì đó cho cuộc sống, cho con người. Chủ
nghĩa nhân đạo không là một mớ lí thuyết, nó phải từ cuộc đời, vì cuộc đời, vì nỗi
đau của con người.
Những phát hiện của nghệ sĩ Phùng cũng chính là những phát hiện của NMC,
phía sau câu chuyện tưởng chừng như rất đơn giản về nạn bạo hành gia đình, tác
giả đưa ra những khám phá, kết luận mang ý nghĩa triết lí sâu sắc về cuộc đời, con
người, mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Đó là những kết luận, triết lí luôn
cần thiết cho người nghệ sĩ và mỗi con người ở mọi thời đại

4. Nghệ thuật:
Nhà văn Nga Lêônít Lêônốp có nói: "Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức
và một khám phá về nội dung". Với ý nghĩa đó, trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài
xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở
đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm. nó giống như
trong cái kết cấu truyện của nhà văn Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo. Nhưng mà ở
trong tác phẩm này nó không ảm đạm hay đau thương như trong Chí Phèo, mà ở đó nó là
cách nhìn, một sự nhận sức đầy mới mẻ, một niềm tin vào tương lai tươi sáng để nhấm
mạnh tính triết lí của truyện. Không chỉ thế với giọng văn trầm lắng, suy tư, nhiều dư vị,
nhiều liên tưởng bất ngờ đã làm sự thành công cho tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

13

You might also like