You are on page 1of 22

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

(1983)
Nguyễn Minh Châu

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn lớn của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Từ sau 1975, ông là
nhà văn tiên phong của sự nghiệp đổi mới, là một trong số “những nhà văn mở đường tinh anh
và tài năng nhất” của văn học Việt Nam (Nguyên Ngọc)
-Hơn ba thập niên cầm bút, sống và viết trong thời kì chiến tranh giải phóng đất nước, thời
kì đổi mới, tác phẩm của ông luôn được độc giả hoan nghênh, đón nhận nhiệt thành.
-Tác phẩm có sức hấp dẫn riêng biệt, nhà văn khẳng định bản sắc cá nhân nghệ sĩ bằng nét
phong cách kết hợp hài hòa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn, hình tượng nhân vật
được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp nhưng hòa hợp và thống nhất trong tư tưởng
đề cao tôn vinh những giá trị cuộc sống của nhà văn.
- Phản ánh khá trung thành quá trình vận động, phát triển của văn xuôi Việt Nam đương đại
trong một vài thập kỉ trước và sau 1975. Sau 1975, nhà văn đã hướng sự quan tâm của mình tới
cuộc sống đời tư - thế sự, thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc với số
phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan, đau khổ kiếm tìm
hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
2. Tác phẩm
- HCST: Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai
của Nguyễn Minh Châu, khi nhà văn bắt đầu hướng sự quan tâm của mình tới cuộc sống đời tư -
thế sự. Truyện ngắn được sáng tác năm 1983, lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được nhà
văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
-Giá trị : Cũng như nhiều tác phẩm khác của Nguyễn Minh Châu giai đoạn này, truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã bộc lộ sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc của
nhà văn với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan đau
khổ tìm kiếm hạnh phúc và sự bình yên. Qua đó tác phẩm đã thể hiện những giá trị nhân đạo sâu
sắc, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp tư tưởng, nghệ thuật quan trọng.
3. Tóm tắt:
Phóng viên Phùng được trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh phong cảnh biển
trong một buổi sáng có sương để đưa vào bộ lịch năm mới. Phùng đã đến một vùng biển miền
Trung, nơi đây từng là chiến trường cũ của anh với phong cảnh thật thơ mộng. Tại đây, Phùng
gặp Đẩu, là người đồng đội cũ bây giờ làm Chánh án Tòa án huyện, .
Suốt một tuần lễ, Phùng vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Một buổi sáng, trong lúc
lang thang trên bờ biển đi tìm cảnh cho bức ảnh nghệ thuật của mình, bất chợt anh gặp một cảnh
tuyệt đẹp khi trên mặt biển hiện ra một chiếc thuyền lưới vó mơ hồ, huyền ảo trong sương sớm.
Anh sung sướng chụp vội cảnh chiếc thuyền ngoài xa và xúc động trước vẻ đẹp toàn bích, toàn
1
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
thiện của ngoại cảnh.
Nhưng ngay lúc đó, khi chiếc thuyền cập bờ, Phùng đã kinh ngạc thấy một người đàn ông
rời thuyền, dùng thắt lưng đánh đập dã man người vợ đi theo. Anh vứt máy ảnh xuống, định chạy
tới can ngăn họ thì bất ngờ nhìn thấy thằng Phác lao tới. Nó giằng cái thắt lưng đánh vào ngực

2
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
người đàn ông, lão tát cho nó hai cái rồi bỏ về thuyền, người đàn bà ôm chầm lấy thằng Phác,
chắp tay vái nó mà khóc rồi đi thật nhanh theo người đàn ông.
Lần thứ hai, Phùng lại chứng kiến người đàn ông đánh vợ, cảnh cô cô chị gái tước đoạt con
dao găm mà đứa em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương. Không thể nén
chịu, Phùng xông ra đánh nhau với người đàn ông để can không cho lão đánh vợ và anh đã bị
thương nhẹ.
Tòa án triệu tập người đàn bà đến để giải quyết việc gia đình, khi nghe Đẩu khuyên không
nên tiếp tục sống với kẻ vũ phu kia, người đàn bà hoảng sợ van xin, dứt khoát không muốn bỏ
chồng. Rồi chị ta đã kể về cuộc đời mình, giải thích cho Phùng và Đẩu hiểu vì sao không thể bỏ
chồng dù có bị đánh đập khổ sở đến đâu, chị ta cần có người đàn ông để chèo chống khi phong
ba, để nuôi sống đàn con. Sau khi nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng và Đẩu đã
vỡ lẽ ra nhiều điều.
Tấm ảnh chụp chiếc thuyền ngoài xa Phùng mang về được đưa vào bộ lịch năm mới, mỗi
lần nhìn thấy nó, Phùng lại nhớ đến màu hồng hồng của ánh sương mai và hình ảnh người đàn bà
hàng chài bước ra từ chiếc thuyền hòa lẫn vào đám đông
4. Chủ đề
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu
sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Đồng
thời nhà văn gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật: nghệ thuật chân
chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một
cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều. Tác
phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.
5. Ý nghĩa nhan đề
Chiếc thuyền ngoài xa là một nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, hé mở tình huống và thể hiện
chủ đề tác phẩm.
- Nhan đề bao gồm cả đối tượng quan sát là “chiếc thuyền” và cự ly quan sát “ngoài xa”.
Cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát nhưng ở những cự ly khác nhau sẽ cho
những kết quả khác nhau, dẫn đến những xúc cảm và nhận thức khác nhau.
- Chiếc thuyền ngoài xa xuất hiện trong truyện ngắn trước hết là hình ảnh thực với “cái đẹp
tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”. Đó là hình ảnh một cánh buồm nhòa mờ trong màn sương huyền ảo
của buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa toàn bích như trong “một bức tranh mực tàu
của một danh họa thời cổ”. Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ rung động như vừa “khám phá thấy
chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”
- Nhưng khi chiếc thuyền tới gần, phía sau vẻ đẹp tuyệt diệu kia lại là cuộc sống của những
người dân chài bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực.
- Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự ly và góc độ quan
sát khác nhau khiến hình ảnh của chiếc thuyền ngoài xa trong nhan đề tác phẩm đưa đến những ý
nghĩa biểu tượng sâu sắc.

3
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
II. PHÂN TÍCH
1. Hai phát hiện đầy nghịch lí của nghệ sĩ Phùng
a/ Phát hiện thứ nhất: bức tranh thiên nhiên hoàn mĩ, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh -cảnh
chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong biển sớm mờ sương.
- Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh cảnh
biển buổi sáng có sương. Suốt một tuần kiên nhẫn trên một vùng biển miền Trung, nơi có phong
cảnh đẹp thơ mộng, có sương mù tháng bảy, cũng là chiến trường xưa, anh vẫn chưa chụp được
bức ảnh nào ưng ý. Chi tiết này đã cho thấy những phẩm chất đáng quý trọng của một nghệ sĩ có
trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật -
một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu.
- Điều kì diệu của nghệ thuật đã bất chợt đến với Phùng vào một buổi sáng, khi anh nhìn
thấy một chiếc thuyền trên mặt biển xa:
+mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút
màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trong cảm nhận của Phùng, đó là cái đẹp tuyệt đỉnh
của ngoại cảnh;
+là cảnh đắt trời cho quý giá, hi hữu, kì diệu;
+là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng chỉ có
trong một thời quá vãng nay bất ngờ hiện hữu ngay trước mắt, trong hiện tại;
+ là một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích - vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện.
- Cái đẹp đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng những cảm xúc mãnh liệt:
+ khoảnh khắc tràn ngập hạnh phúc trong tâm hồn
+ anh thấy bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào. Đó là sự xúc động vì thấy mình
thật may mắn được tạo hóa ân thưởng, bởi sự may mắn này không có nhiều trong cuộc đời những
người luôn khao khát được khám phá và sáng tạo cái đẹp.
+Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, nghệ sĩ Phùng tưởng như phát hiện ra bản thân
cái đẹp chính là đạo đức, anh như vừa khám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy
cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn .
+Đó là khoảnh khắc con người cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở
nên trong sáng, thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên.
+ Đó cũng chính là sự giác ngộ, nhận thức về sức mạnh kì diệu của cái đẹp, của nghệ thuật
đối với con người. Bởi nói như quan niệm của Dostoiepxki: “cái Đẹp cứu rỗi thế giới” . Nghĩa là
khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục, tầm thường
của cuộc đời mà để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.
=> Vậy là phát hiện thứ nhất đã diễn ra trong khoảnh khắc gặp gỡ kì diệu giữa một
tâm hồn nghệ sĩ say mê sự tận thiện, tận mĩ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc
thuyền được nhìn từ ngoài xa, qua làn sương mù huyền ảo. Phát hiện ấy đã giúp Phùng có
được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi mãi về sau vẫn được treo ở nhiều
nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.

b/ Phát hiện thứ hai: nghệ sĩ Phùng đã kinh ngạc khi chứng kiến cảnh người đàn ông đánh
vợ dã man trên bờ biển.
-Phát hiện thứ hai thật trớ trêu với người nghệ sĩ. Mới trước đó ít phút, Phùng “bối rối” xúc
động bởi cảm giác cái đẹp chính là đạo đức. Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến nghệ
sĩ kinh hoàng, sợ hãi, phẫn nộ đã hiện ra khi chiếc thuyền không còn ở ngoài xa, trong làn sương
mù huyền ảo để hiện lên như “cái Đẹp” hi hữu trời cho.
4
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
- Chiếc thuyền ở ngoài xa tiến lại gần và hiện hữu trên đó là bi kịch của cuộc sống thường
ngày. Đó là cái xấu, cái ác do con người tạo ra khi hai vợ chồng hàng chài rời thuyền và người
chồng đánh đập vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng. Hình ảnh hiện lên quả thật cũng khiến người
đọc kinh ngạc: một người đàn bà mệt mỏi, cam chịu và một lão đàn ông dữ dằn, ác độc, coi việc
đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ đau: Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,
mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng… lão trút cơn giận như lửa cháy bằng
cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két…
-Sự thật còn đáng sợ hơn khi Phùng tiếp tục chứng kiến cảnh đứa con trai đánh lại bố để
bênh vực mẹ. Thằng bé cứ chạy một mạch, sự giận dữ căng thẳng… lập tức nhảy xổ vào cái lão
đàn ông... liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ
cháy nắng của lão đàn ông. Không những thế, cảnh người mẹ nhẫn nhục trước trận đòn khủng
khiếp của chồng, xấu hổ và đau đớn trước đứa con càng làm cho Phùng thêm ngạc nhiên. Phùng
còn phải chứng kiến những cảnh tượng đau lòng ấy lần thứ hai, và được biết đó là chuyện thường
ngày của gia đình họ khi người chồng vũ phu cứ đánh vợ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một
trận nặng.
- Thái độ, cảm xúc của Phùng:
+ Lúc ấy Phùng từ hết sức “ngạc nhiên”, “đứng há hốc mồm ra” đến sửng sốt và không thể
nào chấp nhận được. Phùng không thể ngờ rằng sau cái vẻ đẹp kì của hóa công kia lại là cái
diêụ ác, cái xấu đến không thể tin nổi
+ Niềm tin về cuộc sống trong anh bị đổ vỡ, anh cảm thấy: sự thật trớ trêu, ngang trái, bi
kịch trong gia đình thuyền chài kia là “thứ thuốc rửa quái đản” làm những thước phim huyền
diệu mà anh dày công sáng tạo bỗng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa.
=> Như vậy, cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan
sát, nhưng với hai cự li và góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát hiện hai bức tranh hoàn
toàn tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu
xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch lí đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu
sắc, mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách nhìn với hiện thực cuộc đời.

c.Ý nghĩa hai phát hiện


- Hai phát hiện của Phùng đầy nghịch lí đã đặt ra vấn đề đối với người nghệ sĩ đó là phải
nhìn cuộc đời một cách toàn diện, đa chiều, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ
thuật không phải là ánh trăng lừa dối (Nam Cao).
- Gửi đến bạn đọc thông điệp về cách nhìn cuộc sống
+ Từ sự đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn
của cuộc sống, nhà văn cho thấy không phải bao giờ cái đẹp cũng thống nhất với cái thiện, không
phải bao giờ cái bên ngoài cũng là sự thể hiện bản chất thật bên trong.
+Vì vậy, muốn đúng về bản chất cuộc sống, con người, phải có cái nhìn thấu đáo, toàn diện,
sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét, đánh giá đơn giản, dễ dãi, một chiều căn cứ vào kết
quả cảm tính của cái nhìn hời hợt, nông cạn bên ngoài sự vật, sự việc.
+ Chiếc thyền ngoài xa “đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh đã trở nên quen
thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo trong không gian xa rộng của biển cả” (I. Nikulin -
1988) để đưa đến một cách nhìn khác, sâu sắc hơn, thực hơn và cũng chua xót hơn về cuộc sống
con người.

5
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
2. Nhân vật người đàn bà hàng chài
a/Tên gọi:
-Người đàn bà hàng chài
-Nguyễn Minh Châu đã không gọi chị bằng môṭ cái tên riêng như những người đàn bà khác, nhà
văn chỉ gọi phiếm định là bà, là mụ ... Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong
chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ.
Người đàn bà vô danh như là một đại diện cho rất nhiều thân phận người phụ nữ cũng
phải chịu một số phận như vậy trong cuộc sống.
b/Ngoại hình:
-Trạc ngoài bốn mươi… cao lớn với những đường nét thô kệch… rỗ mặt.
-Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ.
-> gợi ấn tượng về cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, đầy khổ đau.
c/ Số phận bất hạnh, cay đắng và sống trong tăm tối, nghèo khổ; luôn cam chịu, nhẫn
nhục
-Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị: xấu xí, nghèo khổ, lam lũ, lại
phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con
phải nhìn cảnh bố đánh mẹ...
+Thuở nhỏ, chị đã là một đứa con gái xấu xí lại rỗ mặt sau một trận đậu mùa. Vì xấu không có ai
lấy, chị liều lĩnh có mang với anh con trai một nhà hàng chài hay đến nhà chị mua bả về đan lưới.
Thua thiệt về nhan sắc, éo le về tình duyên nhưng may mắn cho chị, người đàn ông ấy lại gắn bó
cuộc đời với chị. Tuy nhiên hạnh phúc cũng thật mong manh vì cái đói, cái nghèo đeo đuổi gia
đình chị. Những đứa con lần lượt ra đời, con thuyên mưu sinh chật hẹp, cuộc sống lạc hậu vì xa
đất liền, gia đình chị cứ mãi luẩn quẩn trong cái đói nghèo và đông con. Và chị cứ luôn phải cam
chịu cái cảnh “lúc nào thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh như đàn ông thuyền khac uống
rượu”. Chị phải chịu “3 ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
+Đau khổ hơn là chị luôn tự nhận lỗi là do mình về những hành động vũ phu của người chồng.
chị cho rằng mình đẻ nhiều quá nên cuộc sống gia đình mới khốn khó như vậy “cái lỗi chính là
đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Bị những trận đòn roi của chồng, chị cứ mãi chấp nhận như
một lẽ đương nhiên. Trước lời khuyên phải bỏ chồng của Đẩu, chị còn lo sợ, vái lạy vì quan tòa
“bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”.
-Từ khi có chồng, theo chồng làm nghề lưới vó, cuộc sống hạnh phúc gia đình của chị thật
mong manh bởi cái đói, cái nghèo cứ đeo bám.
+Cùng với cả gia đình, người đàn bà hàng chài phải chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của
cuộc sống mưu sinh với những đêm thức trắng kéo lưới; những giày vò đau khổ bởi tình trạng
sống bấp bênh đói nghèo tăm tối kéo dài gây ra tâm lí bế tắc, u uất.
+Mỗi khi biển động, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây sương rồng luộc chấm muối, từ
khi cách mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn chưa lúc nào buông
tha. Cuộc sống của những ngư dân trên biển không hề thơ mộng lãng mạn như những bức tranh
xưa nay về hình ảnh thuyền ngư phủ lạc trong sương (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng
mưu sinh. Họ bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội
bấp bênh trên mặt biển đầy sóng gió; tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học, bạo lực nặng nề.
- Đọc những trang văn miêu tả ngoại hình diện mạo về người đàn bà hàng chài, người đọc
có thể nhận ra đây chính là hình ảnh của một người lao động lam lũ, đau khổ sau một đêm nhọc
6
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
nhằn và trước một trận đòn nhục nhã ê chề. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên
biển cả cùng những bất hạnh cay đắng trong cuộc đời đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm
vui, trên gương mặt mệt mỏi, tái ngắt dường như không còn mảy may chút sự sống. Sự nghèo
khổ, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện ra trong tấm lưng áo bạc phếch và rách
rưới, nửa thân dưới ướt sũng vì khi rời thuyền phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá
đầu gối.
-Ấn tượng lớn nhất về sự đau khổ bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính
là chị thường xuyên phải chịu đựng nỗi nhục nhã, đau đớn bởi những trận đòn tàn bạo của người
chồng vũ phu. Chị là nạn nhân của tấn bi kịch gia đình.
+Sau khi xuống thuyền, người đàn đi thẳng tới bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến chiếc xe rà
phá mìn, chị đứng lại ngước mắt ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi
đưa một cánh tay lên có lẽ định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống, đưa
cặp mắt nhìn xuống chân.
+Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp
bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng vũ phu, thô bạo cứ ba ngày một trận nhẹ, năm
ngày một trận nặng. Vì thế nên dù đã chấp nhận, người đàn bà vẫn không nén nổi cảm giác cay
đắng. Chị nhìn lại con thuyền dường như để tìm ở các con một chút an ủi ấm áp, mong được tiếp
thêm một chút sức lực có thể giúp chị vượt qua nỗi đau khổ nhục nhã sắp tới.
+ Cử chỉ đưa một cánh tay lên như vô thức của chị có lẽ muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay
trì hoãn dù chỉ một thoáng. Nhưng rồi chị cũng hiểu ngay rằng đó là điều không thể. Cánh tay chị
buông thõng phó mặc, cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi, chán chường buông xuôi như một kẻ
tội đồ nhẫn nhục chờ hình phạt không tránh khỏi.
+ Khi bị chồng đánh dã man với những lời nguyền rủa “ mày chết đi cho ông nhờ. Chúng
mày chết hết đi cho ông nhờ”, chị chịu đòn với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu
một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy. Đó là thái độ của một người đang
nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình - không oán thán, bất bình hay tránh né. Cuộc
sống đau khổ hình như đã làm mất đi ở người đàn bà kể cả những phản xạ bản năng tối thiểu.
- Những trận đòn của người chồng vũ phu mới chỉ khiến chị đau đớn về thân xác nhưng nỗi
đau lớn hơn không thể chịu đựng được đó là khi chị luôn khổ sở, nơm nớp lo sợ con cái bị tổn
thương. Chị luôn sợ hãi, đau xót khi phải chứng kiến cảnh đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm
ghét, đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc, vừa phải chắp tay vái lấy vái để đứa
con để nó đừng phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện
sự xót thương vô cùng cho nỗi đau khổ tưởng như vượt quá sức chịu đựng của con người.
- Sự khốn khổ, cam chịu của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ lúng túng, sợ sệt lúc ở Tòa
án.
+Trong chi tết miêu tả người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong
phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi, thậm chí khi Đẩu phải mời tới
lần thứ hai, chị mới dám rón rén đến ngồi ghé vào mép ghế và cố thu người lại . Đó là dáng vẻ
của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này hình như đã là phi
lí, là dáng vẻ của một con người luôn phải nghe những lời nguyền rủa độc địa và đau khổ của
người chồng vũ phu
+ Vì thế chị luôn mang một mặc cảm có lỗi, luôn muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền
phức hay khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh. Cũng có thể đó là tư thế tự
vệ bản năng của một con người khốn khổ luôn gặp quá nhiều những rủi ro, bất hạnh, luôn bị đe
dọa bởi những bất ưng hiểm họa từ cả con người và thiên nhiên sóng gió.
7
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
(-Nhìn lại toàn bộ tác phẩm, bạn đọc hẳn sẽ ngạc nhiên và tò mò khi thấy đa số bi kịch với những khổ đau
thường ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra phía sau bãi xe tăng hỏng của chiến trường xưa. Phải chăng
Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy ngẫm:
+ cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực có lẽ sẽ còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu
chống ngoại xâm.
+ Khi nào chúng ta chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo, tăm tối, khi đó con người còn phải chung sống với cái
xấu, cái ác.
+Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để dành được độc lập, tự do trong cuộc chiến đấu cho quyền sống
của dân tộc; nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con
người, làm gì để đem đến cơm ăn áo mặc, ánh sáng văn hóa và hạnh phúc cho biết bao con người vẫn đang chìm
đắm trong kiếp sống đói nghèo, lam lũ và u tối? Đây chính là nỗi niềm đau đáu không chỉ của nhà văn mà còn của
biết bao con người những năm 1980.)
d/ Vẻ đẹp tâm hồn
Qua nhân vật người đàn bà hàng chài đau khổ, bất hạnh, nhà văn cũng đồng thời bộc lộ niềm tin
yêu với những vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn, tính cách con người.
* Là người nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha
- Trước hết, người đàn bà nhân hậu ấy thấu hiểu, cảm thông và xót thương cho nỗi khổ sở u
uất trong lòng chồng.
+Chị hiểu rõ cuộc mưu sinh vất vả, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió; sự nghèo đói
khốn quẫn trên một con thuyền chật chội; những cay đắng, bế tắc, phất uất triền miên đã vượt
khỏi giới hạn chịu đựng của con người, khiến một anh con trai cục tính nhưng hiền lành…
không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành vũ phu độc ác.
+ Chị cũng hiểu lão đánh vợ không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ chỉ
như người khác uống rượu cho nguôi quên nỗi khổ sở của mình.
+Chị không căm giận người chồng vũ phu, ngược lại chị còn cảm thông chia sẻ. Chị đã
hiểu rất rõ hành động vũ phu ấy không phải bắt nguồn từ bản chất độc ác. Thậm chí, chị còn coi
người chồng như là một ân nhân suốt đời. Trong lúc chị cô đơn, bất hạnh không ai lấy, người đàn
ông ấy đã mang đến cho chị một gia đình, một mái ấm.
- Do đó, chị chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn của chồng không phải vì thói quen cam
chịu, nhẫn nhục; cũng không chỉ vì trên thuyền phải có một người đàn ông, mà còn như một cách
giúp người chồng khốn khổ vơi dịu bớt những u uất, khổ sở dồn nén, chất chứa trong lòng. Chính
vì thế mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ lên bờ, lặng lẽ đi sâu vào phía sau bãi xe tăng hỏng,
lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa cháy của chồng, lặng lẽ chịu đòn với một vẻ cam
chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy.
Để rồi, sau đó, chị lại đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai
người lại trở về thuyền. Đó là cách xử sự của một người phụ nữ vị tha, nhân hậu, con người có
đức hi sinh tới kì lạ, người hiểu rõ bổn phận, nghĩa vụ của mình, và gắng thực hiện cho xong (dẫu
đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi lí, phi nhân tính).
- Không chỉ thấu hiểu, xót thương cho nỗi khổ sở của người chồng, cũng không chỉ chia sẻ
nỗi khổ sở ấy bằng sự chịu đựng kì lạ, người đàn bà nhân hậu còn mang một mặc cảm có lỗi khi
cho rằng: giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn… lỗi chính là đám
đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật. Nếu cả Đẩu và Phùng đã kinh ngạc, bất bình
trước sự cam chịu, nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu nguyên nhân của thái
độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu vị tha trong tấm lòng người đàn bà ấy cũng lớn lao, kì lạ
tới mức không thể nào hiểu được.
* Giàu lòng tự trọng:
+ khi biết chuyện mình bị chồng đánh đã bị Phác và nghệ sĩ Phùng chứng kiến, chị cảm thấy
8
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
“vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”.

+ Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương hại cho tình cảnh trớ trêu mà chị đang chịu
đựng, dù cho đó là đứa con trai của chị.
+ Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng chị không bận tâm, sẵn sàng nhẫn nhục
chịu đựng.
+ Và chị không muốn đứa con trai của mình chứng kiến cảnh cha nó đánh đập mẹ nó tàn nhẫn
như thế, huống hồ chi lại có sự chứng kiến của một người lạ mặt.
 Đó chính là lòng tự trọng, là nhân cách tốt đẹp của người phụ nữ đáng thương và đáng
quý này.
*Là người giàu đức hi sinh thầm lặng, lòng thương con vô bờ bến(vẻ đẹp của tình mẫu tử )
-Tình mẫu tử được chị ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ:
Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh
lấy cái khổ.
+ Có lẽ theo chị, khi gánh lấy cái khổ vì con là lẽ đương nhiên thì việc chị vất vả thức trắng
đêm kéo lưới hay chịu đựng những trận đòn như cơm bữa của chồng cũng là điều tất yếu phải
chấp nhận. Cuộc sống trên mặt biển đầy sóng gió, những đứa trẻ luôn cần sự che trở, bảo vệ của
người mẹ, đó cũng là nguyên nhân khiến chị cho rằng: Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho
con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được.
+ Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục chịu sự đày ải tàn
nhẫn của người chồng để con thuyền có người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề, và quan trọng hơn,
đó là người bố của những đứa con, người duy nhất trên đời có thể tận tâm, tận lực cùng chị chèo
chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con.
+ Cũng vì thương con, muốn bảo vệ các con khỏi bị tổn thương đau đớn mà chị phải xin
chồng đưa mình lên bờ mà đánh. Cũng vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, sợ thằng bé
có thể làm điều gì đó dại dột với bố nó mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất
lên rừng sống với ông ngoại.
- Tình mẫu tử thiêng liêng cũng là nguyên nhân cho những đau đớn tột cùng của người
mẹ.
+ Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi
thằng Phác lao đến đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn . Chị mếu máo gọi con,
ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi
lại ôm chầm lấy…
+Thằng bé đã xuất hiện trước mặt mẹ với sự non nớt ngây thơ , thằng bé đã từng như một
viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ xuống
những dòng nước mắt…
+Tình thương con đã khiến người mẹ vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Nỗi đau
khi không che chắn nổi cho tuổi thơ của các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con
khi phải chứng kiến cảnh bố hành hạ mẹ tàn nhẫn, càng đau hơn bởi từng ngày phải chứng kiến
một cách bất lực sự phát triển tính cách của con trong một môi trường tăm tối, bạo lực.
- Tình mẫu tử của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn hiện ra qua niềm vui,
dẫu là hiếm hoi, ít ỏi.
+Khi nhắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận ở trên thuyền, khuôn mặt xấu xí
của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười . Đó là ánh sáng kì diệu tỏa ra từ vẻ đẹp cảm động
của tình mẫu tử.
9
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
+ Cam chịu, nhẫn nhục vì con; đau đớn, vất vả vì con, và tất nhiên niềm vui của chị cũng
xuất phát từ con cái. Chị bày tỏ chân thành, cảm động: Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi
chúng nó được ăn no.
->Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người
phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
*Là một người sâu sắc, từng trải và thấu hiểu lẽ đời
- Ở tòa án huyện, khi nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa, thất
học nhưng lại có con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình, có sự thâm trầm trong việc hiểu thấu
các lẽ đời đã khiến các anh trở thành những người nông nổi, ngây thơ. Những nhận xét giận dữ,
bất bình, những lời khuyên đầy thiện chí thấm đẫm lòng nhân hậu, những giải pháp tưởng như
duy nhất đúng đắn, tưởng như là lẽ đương nhiên không cần bàn cãi đều lần lượt vấp phải những lí
lẽ bình dị của người đàn bà hàng chài. Với những những thấu trải, chiêm nghiệm sâu xa của
người đàn bà, chị hiểu lời khuyên của Đẩu và Phùng “Cả nước này không có một người chồng
nào như hắn… Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu đấy đâu…”. Thế nhưng cuộc sống
vốn nghiệt ngã, khó có thể thay đổi được hiện thực, chị biết chấp nhận với thực tại đầy đau hổ và
giãi bày cho cho hai con người trẻ tuổi hiểu. Từ cách xưng hô “con” và “quý tòa”, chị đổi giọng
thân mật “chị” và “các chú” để đưa ra những lí lẽ sâu sắc khiến vị quan tòa và người nghệ sĩ
nhiếp ảnh hiểu ra nhiều lẽ của thực tế cuộc đời.
+ Chị đã giúp họ hiểu ra hiện thực của đời sống, chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ: Lòng các
chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… đâu có hiểu được cái việc của các người
làm ăn lam lũ, khó nhọc…
+Chị cũng cho họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc mưu sinh
bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe dọa bất ưng trên mặt biển: các chú không phải là đàn bà,
chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông….
+ Chị cũng giúp họ hiểu rằng với người đàn bà ở thuyền thì hạnh phúc cá nhân không quan
trọng bằng sự sống, sự tồn tại cho các con: đám đàn bà hàng chài chúng tôi cần có người đàn
ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con…Lấy thiên chức
làm mẹ và đức hi sinh vì con làm lý lẽ phản biện, lời lẽ thật bình dị mà như lưỡi dao sắc nhọn
giúp Đẩu và Phùng tự mổ xẻ để khám phá vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn người đàn bà lam lũ.
+Chị đã giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn, bế tắc trong cuộc sống của ngư
dân: ở thuyền thì chật chội, bức bối, bấp bênh nhưng lên bờ thì lại phải bỏ nghề, mà sự tồn tại
của ngư dân thì gắn chặt với nghề. Vì vậy, nhiều chính sách nhân đạo tốt đẹp của Nhà nước có
khi vẫn bất cập với thực tế cuộc sống của họ: Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được
cái thuyền lưới vó? Từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì
không bỏ nghề được!
- Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: Bây giờ tôi đã hiểu … trên
thuyền phải có một người đàn ông.. dù hắn man rợ, tàn bạo, người đàn bà sông nước đã có một
lời đáp thật nhẹ nhàng, thấm thía, sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người khi những chiêm
nghiệm được rút ra từ cuộc đời gian truân, vất vả: Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú. Tiếng
thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, ái ngại của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi
nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế đã tạo ra một
đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu tất cả những sự có thể và không thể
của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc của chị khiến cho người đọc cảm phục nhưng cũng xót

10
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
thương hơn cho một kiếp người khi chính nó được đổi bằng mồ hôi, nước mắt và cay đắng, nhọc
nhằn.
-Như vậy, chính cái tâm cao đẹp và đức hi sinh thầm lặng của người đàn bà hàng chài là thứ
quyền uy có sức mạnh lớn lao đã khiến đẩu và Phùng ngộ ra nhiều điều.
+Từ chỗ thất vọng , ngạc nhiên, thương hại, bất bình, Đẩu và Phùng đã thấu hiểu , chia sẻ
và cảm phục trước phẩm chất cao quý của chị. Từ chỗ muốn can thiệp vào cuộc đời của chị bằng
giải pháp li hôn, Đẩu đã học được cách nhìn nhận về con người và đời sống. Anh bỗng hiểu bên
trong ngoại hình xấu xí , thô kệch của người đàn bà là tấm lòng nhân hậu, vị tha và giàu đức hi
sinh. Phía sau vẻ quê mùa ,thất học là người phụ nữ sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Đằng sau hành
động vũ phu của người chồng, sự cam chịu , nhẫn nhục của người vợ là biết bao vấn đề nhức hối
tồn đọng trong cuộc sống của những người dân vùng biển. Muốn giúp con người thoát khỏi
những nghịch cảnh ấy, cần phải có những giải pháp thiết thực chứ không đơn thuần bằng thiện ý,
tình thương và pháp luật
+ Với Phùng, qua câu chuyện người đàn bà hàng chài, anh đã ngộ ra chân lí của nghệ thuật.
Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ đời sống, quay trở lại phục vụ đời sống, đặc
biệt không thể xa lạ với số phận con người.
*Người đàn bà hàng chài có một sức mạnh kiên cường
- Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống của mình, đó là nguyên nhân
khiến chị có được sức mạnh để có thể chịu đựng tất cả những khó khăn, thử thách.
+Từ những lam lũ vất vả trong cuộc mưu sinh, những cay đắng, giày vò của cuộc sống đói
nghèo đến những đau đớn cả về tinh thần và thể xác trong bi kịch gia đình…người đàn bà hàng
chài đều vượt qua.
+Chị lấy sức chịu đựng phi thường của mình cố gắng che chắn cho sự bình yên của gia
đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo ngây thơ cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc
nhằn, cay đắng, lo cho các con có áo mặc, cơm ăn… Cho dù tất cả những cố gắng ấy vẫn luôn
thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống.
- Nhiều năm sau, mỗi khi nhìn lại bức ảnh về Chiếc thuyền ngoài xa, bao giờ nghệ sĩ
Phùng cũng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao
lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng,
khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm
trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh,
khốn khổ trong cuộc sống lầm lụi đời thường, họ đã kiên cường vượt lên trên tất cả những gian
truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu, những người làm
nên ý nghĩa cuộc sống của họ, là lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của
họ.
e/ Nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Nhân vật được khắc họa sắc nét theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân
phận và phẩm chất. Nhờ vậy , nhân vật vừa có nét cá tính vừa điển hình cho người lao động vùng
biển
-Giọng văn tự sự, triết lí
-Ngôn từ dung dị, đời thường, giàu ý nghĩa
-Tác giả sử dụng linh hoạt điểm nhìn và phương thức trần thuật khiến lời kể khách quan, chân
thực.
- Xây dựng cốt truyện đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa nhận thức, khám phá về
mối quan hệ giữa đời sống và nghệ thuật.
11
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
=> Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình, dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành
động…, nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng giúp nhà văn Nguyễn
Minh Châu thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm
thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất hạnh, khốn khổ trong cuộc sống đói
nghèo, tăm tối. Mặt khác, tác giả cũng lên án thói bạo hành-vấn đề nhức nhối đang tồn tại
trong xã hội. Đồng thời, nhà văn cũng ngợi ca phẩm chất cao quý trong tâm hồn tính cách
của người đàn bà hàng chài. Chị là hiện thân của tình mẫu tử cao cả, giàu đức hi sinh, bao
dung, nhân hậu, vị tha, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời . Đây cũng chính là phẩm chất cao quý của
người phụ nữ VN-chất ngọc khuất lấp trong những góc cạnh xù xì của cuộc sống. Đó cũng là
cội nguồn nhân bản nghìn đời kêt tinh trong tâm hồn người lao động mà Nguyễn Minh Châu
đã khám phá và trân trọng.
3. Nhân vật Phùng
a/ Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh nhạy cảm với cái đẹp, yêu cái đẹp. (xem phát hiện 1)
-Trong chuyến công tác, Phùng đã trở lại vùng biển nơi chiến trường cũ của anh thời đánh
Mỹ. Cảnh biển buổi sáng có sương mù mà anh “phục kích” mấy buổi sáng vẫn chưa tìm ra. Anh
háo hức muốn thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh
thì sáng nay anh đã gặp một cảnh “trời cho”, có lẽ suốt một đời cầm mấy chưa bao giờ dám mơ
tưởng đến. Đó là cảnh biển buổi sớm ban mai đầy thơ mộng. Phùng nhìn ra xa, và bắt gặp một
khung cảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên “thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu
trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Và bóng người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả
khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới
một hình thù y hệt cánh một con dơi…”.
-Trong ánh mắt của người nghệ sĩ, Phùng cảm thấy trước mặt mình là “một bức tranh mực
tàu của một danh hoạ thời cổ”. Bao mĩ cảm đã dâng lên dào dạt trong lòng, anh xúc động “bối
rối”, và trái tim của anh “như có cái gì bóp thắt vào”. Đối diện với bức tranh “thật đẹp và toàn
bích” ấy, nghệ sĩ Phùng cảm thấy vô cùng hạnh phúc, anh mới thấm thía “bản thân cái đẹp
chính là đạo đức” như ai đó lần đầu đã phát hiện ra. Trong giây phút bối rối đó, anh“tưởng chính
mình vừa khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Cái đẹp và nghệ thuật đã
thanh lọc tâm hồn con người, làm cho con người trở nên thánh thiện, trong sáng hơn. Và khi đã
chạm tới gấu áo của vị thần nghệ thuật, Phùng đã bấm “liên thanh” một hồi hết một phần tư cuộn
phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca. Cái khoảnh khắc ấy đối với anh là vô cùng hạnh phúc, và anh đã
“ngộ” ra một “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa
mang lại”. Điều đáng nói là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy chẳng phải Lầu Hoàng Hạc, chẳng
phải là một chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe
tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải “rúc vào bên
bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa”. Chi tiết này cho thấy cảnh biển mù sương và
chiếc thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh
còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Nhưng, với tâm hồn lãng mạn, tràn ngập tình yêu
cái đẹp, của người nghệ sĩ, Phùng đã thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa,
khiến người đọc như đang cùng anh thả trí tưởng tượng bay bổng về một không gian đẹp tuyệt
vời của biển Việt Nam.
b/Đang ngập chìm trong niềm hạnh phúc được tận hưởng vẻ đẹp “trời cho” ấy thì
một tình huống đầy bi kịch đã xảy ra làm cho người nghệ sĩ hụt hẫng. (xem phát hiện 2)

12
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
-Một cảnh đời ngang trái, phũ phàng và vô cùng tàn nhẫn đã diễn ra khi chiếc thuyền “đâm
thẳng” vào bờ, vào ngay trước chỗ nhà nhiếp ảnh đứng. Phùng không chỉ nhìn thấy, được chứng
kiến mà còn được tham dự vào những chuyện trớ trêu, đau lòng ấy.
- Còn đâu nữa cái màu trắng, màu hồng của bức tranh “toàn bích” khi một người đàn ông
và một người đàn bà rời thuyền lội qua một quãng bờ phá đi lên bãi cát. Một tiếng nói chõ như
quát cất lên: “Cứ ngồi nguyên đấy, động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Người đàn bà ngoài
bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, rỗ mặt, mệt mỏi, tái ngắt… Người đàn ông đi sau “lưng rộng
và cong như lưng một chiếc thuyền; mái tóc tổ quạ, chân chữ bát, lông mày cháy nắng, rủ
xuống”,“hai con mắt đầy vẻ độc dữ “ Thế là, bãi cát, nơi xác chiếc xe rà phá mìn đã trở thành
nơi hành tội.
-Lão đàn ông “trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay”, gào lên như một con thú dữ. Lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, cái vũ khí thường ngày của kẻ gần như
mất hết cả nhân tính, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Hắn “vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két”. Lão “trút cơn giận như lửa cháy” vào người đàn bà tội nghiệp,
đáng thương. Lão nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:“Mày chết đi cho ông nhờ, chúng
mày chết đi cho ông nhờ!”. “Mày” và “chúng mày” mà lão nói đến là vợ con của lão.Thật kì lạ là
người đàn bà ấy không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn chạy mà “cam chịu đầy nhẫn
nhục”.
- Hình ảnh đau lòng đó đã làm cho nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh “kinh ngạc”, “đứng há mồm ra
mà nhìn” trong mấy phút. Khi “Phùng vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới” thì có một
thằng bé con giận dữ “như một viên đạn lao tới đích đã nhắm” lao thẳng vào cái lão đàn ông.
Đứa bé với một sức mạnh ghê gớm đã giằng được chiếc thắt lưng, vung chiếc khoá sắt quật vào
giữa ngực trần vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen loăn xoăn của lão đàn ông.
Giằng không được cái dây thắt lưng da, lão ta dang thẳng cánh cho thằng bé hai tát khiến thằng
bé ngã dúi xuống cát. Tiếng gọi: “Phác, con ơi!” của người mẹ tội nghiệp cất lên. Hình ảnh
người đàn bà “ôm chầm lấy thằng bé, rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm
lấy…”. Và hình ảnh thằng nhỏ “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ” lau
đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt.
- Tất cả đã làm cho nhà nhiếp ảnh Phùng, cho mỗi chúng ta tê tái, bàng hoàng. Đứa con đến
để cứu mẹ, để chặn bàn tay của cha giáng xuống người mẹ đáng thương của nó. Phùng “ngơ
ngác nhìn” ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa
đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ạt cất
lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra “như trong truyện cổ quái đản”, chiếc thuyền vó đã biến mất,
chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi?
-Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh
Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là
sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời
còn nhiều mồ hôi và nước mắt! Phùng nhận ra mối quan hệ giữa văn chương , nghệ thuật với
cuộc sống. Nghệ thuật phải gắn liền với cưộc sống, phản ánh chân thật cuộc sống và góp phần cải
tạo cuộc sống, làm cho cuộc sống ngày càng có ý nghĩa hơn.
->Với Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì
ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay
trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ chân lí cuộc đời có lúc, có nơi không phải là chân lí nghệ
thuật. Nguyễn Minh Châu qua“Chiếc thuyền ngoài xa” đã nêu lên bài học về cái nhìn đa

13
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính, giàu bản
lĩnh.
c/ Câu chuyện người đàn bà làng chài ở trụ sở toà án huyện đã lí giải cho Phùng và
Đẩu, đã giúp chúng ta hiểu rõ sự thật trần trụi trước mọi bi kịch bạo hành trong gia đình,
hiểu sâu hơn tấm lòng và tâm lí của người phụ nữ trong nỗi éo le cuộc đời.
- Người đàn bà hàng chài lúc đầu chỉ dám ngồi ở góc tường, khi được Đẩu mời, mụ
mới “rón rén” đến ngồi vào mép chiếc ghế và cố thu người lại. Khi nghe vị Chánh án nói, mụ
ngước lên nhìn rồi lại “cúi mặt xuống”. Có lẽ lần đầu đến cơ quan nhà nước, mụ mới sợ như vậy.
chị chắp tay vái lia lịa Đẩu và xưng là con: “Con lạy quý toà…”. Chị nhấp nhổm xoay mình như
bị kiến đốt. Nghe mụ van xin mà xót xa:“Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
đừng bắt con bỏ nó…”. Sống với một kẻ vũ phu, “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng” thế mà mụ vẫn van xin quý toà “đừng bắt con bỏ nó”. Chánh án Đẩu làm sao hiểu được
nỗi éo le đó. Nhà nhiếp ảnh Phùng thì cảm thấy “ngột ngạt quá!”.
-Khi nghe vị chánh án gọi bằng bà, và nói rõ chủ trương của toà án là kêu gọi hoà thuận, chị
ta “ngơ ngác” nhìn Đẩu, nhìn Phùng, chị ta thay đổi cách xưng hô, tự xưng là chị, gọi Đẩu và
Phùng là chú rất khẩn thiết, rất chân thành.
-Chị kể về thời con gái của mình, mụ tâm sự về chuyện lấy chồng của mình: mặt rỗ, xấu
gái, không ai lấy, rồi có mang với anh con trai… “lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục
tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.
-Chị kể chuyện từ ngày cách mạng về đỡ khổ, chứ trước đây những lần biển động, vợ
chồng con cái toàn ăn xương rồng luộc chấm muối suốt hàng tháng trời.
+Chị than thở gia cảnh nghèo, thuyền quá nhỏ… Đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá; đàn ông ở
thuyền hoặc uống rượu hoặc đánh vợ, bất kể lúc nào, hễ thấy khổ quá là xách vợ ra đánh.
+Chị ta cho biết nỗi vẫt vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông, nhất
là những khi biển động sóng gió để chèo chống. “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi
phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được…”.
+Chị cho biết chồng chị ngày trước cũng trốn đi lính nguỵ.
+ Chị cũng có niềm vui là khi vợ chồng con cái “sống hoà thuận vui vẻ”, “vui nhất là lúc
ngồi nhìn đàn con được ăn no”, v.v…
+ nhẫn nhục, đức hi sinh của người đàn bà thật bao la. Chị ta cam chịu khi bị chồng đánh.
Chị ta chỉ xin chồng đừng đánh mình trước mặt đàn con. Chị ta sợ đứa con trai tên là Phác làm
điều gì dại dột đối với bố nó nên phải gửi nó lên rừng ở với ông ngoại. Chị ta đã khóc khi
nghe Phùng nhắc đến tên thằng Phác.
-Qua những lời giãi bày chân thật đó, Phùng hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục,
đức hi sinh thầm lặng, tình thương con mênh mông của người đàn bà làng chài đáng thương.
Phùng thấu hiểu được cái căn nguyên sâu xa của tệ nạn bạo hành trong các gia đình nghèo khổ.
Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu, chỉ kí quyết định bắt người đàn bà
bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn chuyện đời một cách thấu suốt, rất nhân tình, rất đời, thì ta sẽ
thấy cách nghĩ, cách sống, cách xử sự của người vợ, người mẹ ở trong truyện là không thể khác
được.
-Biết được đáy vực nông, sâu là đã khó. Biết được lòng người xấu, tốt, biết được nỗi lòng,
nỗi đời, cảnh ngộ của con người đâu dễ. Qua câu chuyện người đàn bà ở toà án huyện, Phùng
nhận thấy rõ: không thể đơn giản, dễ dãi khi nhìn người, nhìn đời, khi đánh giá hiện tượng trong
xã hội, trong cuộc sống. Không thể hấp tấp vội vàng. Nếu thiên kiến, định kiến, duy ý chí là sai.
14
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
Có lòng tốt, ý định tốt chưa đủ. Mà phải suy xét, cân nhắc vừa có tình vừa có lí, vừa được việc
vừa được người.
Nhân vật Phùng là hiện thân của tác giả, thể hiện quan điểm của tác giả về nghệ
thuật và cuộc sống. Phùng không chỉ là một người nghệ sĩ biết yêu cái đẹp mà còn là người
biết căm ghét sự bất công. Chỉ bằng sự quan sát, rồi giống như kể lại câu chuyện với những
tình huống độc đáo, nhiếp ảnh Phùng để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên về
người làm công tác nghệ thuật.
 “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một
trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong một số
gia đình Việt Nam lâu nay? Qua nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn thể hiện cái
nhìn về cuộc sống và về nghệ thuật. Cuộc sống luôn tồn tại những mâu thuẫn, những
nghịch lí: giữa cái đẹp vẫn có cảnh sống tăm tối, cực nhọc; đằng sau cái vô lí là cái có lí
(người đàn bà dù bị đánh đập tàn bạo cũng buộc phải chấp nhận vì các con), đằng sau cái
tưởng chừng đơn giản lại chứa nhiều phức tạp. Do vậy mà nghệ thuật phải gắn liền với
cuộc sống, vì cuộc sống; phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều về cuộc sống thì mới hiểu hết
ý nghĩa và các mối quan hệ của nó.
4. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy :
-Khép lại tác phẩm“Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu viết : “Không những
trong bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp của tôi vẫn còn được treo ở nhiều nơi,
nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ,
tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe
tăng hỏng và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh, đó
là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông…”
-Ấn tượng lạ lùng chính là cái nhìn mang sự ám ảnh sâu sắc của người nghệ sĩ . Phùng
nhìn bức ảnh qua sự ám ảnh đó chứ không nhìn bằng đôi mắt khách quan. Thế nên “ mỗi lần
ngắm kĩ” là anh đang sống lại kỉ niệm, hồi ức về tất cả những điều đã xảy ra. Màn sương màu
hồng tượng trưng cho nghệ thuật, cho cảnh tuyệt đẹp, kì thú của thiên nhiên, là vẻ đẹp thơ mộng
mà Phùng đã cất công tìm kiếm; cũng có thể là niềm hân hoan khi anh phát hiện ra vẻ đẹp nên
thơ nơi bờ biển.
- Nhưng nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi
tấm ảnh”. -> Hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường, là sự thật cuộc đời đằng sau
bức tranh, là hiện thực cuộc sống.

Nghệ thuật chân chính phải bắt nguồn từ cuộc sống. Nếu nghệ sĩ mang trái tim
tình yêu sâu nặng với con người, anh ta cần phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện
thực, nhìn vào số phận con người. Nghệ thuật chân chính luôn gắn với cuộc đời và phải vì
cuộc đời.
6. Tình huống nghệ thuật đặc sắc
***Vài nét về tình huống truyện
-Khái niệm:
( Hegel trong tác phẩm nổi tiếng Mỹ học đã định nghĩa: “Tình huống là một trạng thái có tính
chất riêng biệt.”)

15
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
+Tình huống truyện là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt trong truyện
khiến tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc
nét nhất.
(Hoặc: Tình huống truyện là cái tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc được tạo nên bởi một sự
kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng
được bộc lộ sắc nét nhất)
-Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn: tình huống hành động, tình huống tâm trạng
và tình huống nhận thức. Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước
ngoặt của nhân vật, tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm xúc của
nhân vật thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ" chân lí của nhân vật.
- Tình huống của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thuộc loại tình huống nhận thức,
khám phá. Đó là tình huống nhận thức của người phóng viên ảnh tên là Phùng (và ít nhiều là
của cả nhân vật Đẩu nữa). Nhân vật Phùng đã đi từ sự nhận thức chưa đầy đủ đến nhận thức
đầy đủ trong cách nhìn về cuộc sống và con người, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
đời.
- Tình huống mở ra từ đầu tác phẩm, kéo dài theo diễn biến của truyện và khép lại bằng một
nhận thức vừa đau xót vừa hân hoan ở phần kết thúc (nhận thức này được bộc lộ gián tiếp qua
việc Nguyễn Minh Châu để hiện lên trong tâm thức người phóng viên Phùng bức ảnh lẽ ra phải
chụp được về cảnh thuyền và biển buổi sớm thay cho bức ảnh đã chụp được).
- Tình huống nhận thức (từ chưa đầy đủ đến đầy đủ chứ không phải là từ ngộ nhận đến nhìn nhận
một cách đúng đắn) trong “Chiếc thuyền ngoài xa” diễn ra trong cả một quá trình tự nhận thức
của nhân vật trên cả hai góc độ cuộc đời và nghệ thuật.
- Quan niệm NMC về tình huống:
+"Tình huống chính là thứ nước rửa ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng nhà văn,
là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người".
+ "Tình huống truyện là một lát cắt trên thân cây mà qua đó thấy được trăm năm đời thảo mộc".
a/ Tình huống được hé mở ngay trong nhan đề tác phẩm
- Nội dung: xem thêm mục “ý nghĩa nhan đề”
=> Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự li và góc độ
quan sát khác nhau khiến nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng khơi gợi
những ý nghĩa, nhưng thông điệp sâu sắc về cách nhìn cuộc sống, về trách nhiệm của người nghệ
sĩ với nghệ thuật và con người.
b. Tình huống trong chuyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được tạo dựng bởi những
phát hiện đầy nghịch lí
* Hai phát hiện của Phùng trên bờ biển( xem ở mục 1)
-Nội dung: mục 1
➔ Vậy là phát hiện thứ nhất đã diễn ra trong khoảnh khắc gặp gỡ kì diệu giữa một tâm hồn
nghệ sĩ say mê sự tận thiện, tận mĩ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được
nhìn từ ngoài xa, qua làn sương mù huyền ảo - phát hiện đã giúp Phùng có được một tác phẩm
nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi mãi về sau… vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các
gia đình sành nghệ thuật.
➔ Nhưng ngay lập tức là phát biện thứ hai thật trớ trêu với người nghệ sĩ đang bàng
hoàng xúc động . Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến nghệ sĩ kinh hoàng, sợ hãi, phẫn
nộ đã hiện ra khi chiếc thuyền tiến lại gần và hiện hữu trên đó là bi kịch của cuộc sống thường
ngày, là cái xấu, cái ác do con người tạo ra khi hai vợ chồng hàng chài rời thuyền và người chồng
16
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
đánh đập vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng.

17
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
=> Như vậy, cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát,
nhưng với hai cự li và góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát hiện hai bức tranh hoàn toàn
tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối
trong cuộc sống con người. Nghịch lí đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu sắc, mới mẻ
cho người nghệ sĩ về cách nhìn với hiện thực cuộc đời.
* Phát hiện ở Tòa án huyện
Từ thực tế nhìn thấy trên bờ biển đến thực tế nghe thấy trong câu chuyện của người đàn bà
hàng chài trong Tòa án huyện, Phùng và Đẩu đã có những nhận thức sâu sắc hơn bởi những phát
hiện đầy nghịch lí của cuộc đời.
-Với tấm lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái ác của bạo lực gia đình, cả Phùng và Đẩu
đều hi vọng góp phần giải thoát người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn, và
thái độ của người đàn bà khốn khổ đã khiến các anh phát hiện ra nghịch lí không thể hiểu nổi của
cuộc sống con người. Cả Phùng và Đẩu đề tin rằng việc khuyên người đàn bà khốn khổ li hôn là
giải pháp đúng đắn và nhân đạo nhất; họ cũng hoàn toàn tin vào thiện chí của mình chắc chắn sẽ
được người đàn bà chấp nhận, thậm chí biết ơn. Nhưng họ đã kinh ngạc khi phát hiện ra một
nghịch lí trớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy lại không hề muốn bỏ người chồng tàn nhẫn, con
người bị cầm tù bởi đói ghèo, tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không muộn được giải thoát,
thậm chí chị còn khẩn thiết van xin: Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng
bắt con bỏ nó.
- Sau khi đã có sự tin cậy và cảm thông, người đàn bà hàng chài đã kẻ cho Đẩu và Phùng
nghe về cuộc đời mình, giải thích cho họ hiểu vì sao dù có khổ sở đến đâu chị cũng không thể bỏ
chồng, không thể đi tìm sự giải thoát cho riêng mình, giúp các anh phát hiện ra sự giản đơn chua
xót của nghịch lí. Hiện thực với những lí lẽ giản dị mà nghiệt ngã, những mâu thuẫn, éo le qua
câu chuyện của người đàn bà thất học, quê mùa nhưng sâu sắc từng trải khiến Đẩu và Phùng
bỗng trở thành những người nông nổi, ngây thơ; lòng tốt của các anh mới chỉ dừng lại ở những lí
thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế khi giải pháp các anh đưa ra chỉ có thể giúp người đàn bà bỏ
chồng để thoát khỏi đòn roi mà chưa thể giúp chị thoát khỏi cuộc sống lam lũ, vất vả, đói
nghèo… Câu chuyện của người đàn bà hàng chài làm vỡ ra nhiều điều trong suy nghĩ của Đẩu và
Phùng, đó chính là sự nhận thức, giác ngộ về những nghịch lí vẫn luôn tồn tại đâu đó trong cuộc
sống, những nghịch lí mà dù có đau đớn hay phẫn nộ, con người nhiều khi vẫn buộc phải chấp
nhận.
*Tình huống còn được đẩy tới cao độ của nhận thức và xúc cảm qua trải nghiệm của
nghệ sĩ Phùng trước trận bão biển.
- Nếu phát hiện kinh hoàng trên bờ biển về bức tranh bạo lực tăm tối của cuộc sống gia
đình người hàng chài là những điều nhìn thấy, phát hiện chua xót trong tòa án huyện về bi kịch
của họ là những điều nghe thấy thì tình huống nhận thức trong tác phẩm đã được đẩy đến tận
cùng khi Phùng bắt đầu sống và trải nghiệm với cuộc sống người dân chài trong trận bão biển.
- Trong đoạn cuối tác phẩm, khi biển động, trời trở gió đột ngột, Phùng lang thang một
mình trên bờ biển. Anh chia sẻ cảm giác lo lắng với ông lão làm nghề sơn tràng, anh trăn trở
trước một chiếc thuyền vó bè đang đậu trơ trọi giữa phá nước, một mình chống chọi với sóng gió.
Anh gào lên vì nỗi lo lắng trước những diễn biến bất thường của cơn bão….Đó là những biểu
hiện của một tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu sắc với tất cả những buồn vui của cuộc đời và số phận
con người. Nhà văn miêu tả hình ảnh một nghệ sĩ đang bối rối vì vừa nhận ra những nghịch lí trớ
trêu với những bất lực, bế tắc của cuộc đời; một ông lão sơn tràng ngoài sáu mươi tuổi vẫn phải
lo lắng nhìn ra mặt phá, một chiếc thuyền trơ trọi, một “cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp
18
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên… một xoong cơm đã sống nhăn…” đặt trong sự đối
lập với một bức tranh thiên nhiên khủng khiếp “những tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt
biển đen ngòm… biển gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như những ngọn
núi tuyết trắng”. Hình ảnh đã gieo vào lòng người đọc những dự cảm lo âu đầy bất ổn: trước cái
mênh mông rộng lớn của thiên nhiên, trước những đe dọa, cuồng nộ của sóng gió và bão táp, con
người hình như vẫn thật nhỏ bé, yếu đuối và đơn độc.
-Khi đã “chạm” vào cuộc sống của những người dân chài, dù chỉ thoáng qua trong trận
bão biển với những dự cảm lo âu mong manh chới với, có lẽ Phùng đã thấu hiểu thấm thía hơn
câu nói của người đàn bà hàng chài sâu sắc, từng trải: Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú.
Phùng càng thấu hiểu một cách chua xót rằng hành trình tìm kiếm một bến bờ bình yên ấm áp
hình như vẫn quá mong manh, xa vời. Có lẽ anh đã hiểu thêm phần nào những nghịch lí mà trước
đó mà cả Đẩu đều không thể nào hiểu được: không chỉ khi đứng trước cái đẹp, người ta mới quên
đi cái xấu, cái ác để say đắm hướng thiện; mà kể cả khi đứng trước sự cuồng bạo khốc liệt của
thiên nhiên, khi da diết hướng về sự sống thì mọi sự tầm thường, xấu xa, bi kịch, đau khổ của con
người trong cuộc sống đời thường cũng đều trở nên nhỏ bé, không đáng kể. Họ đều có thể quên
đi hoặc đơn giản là chấp nhận nó để cùng nhau chung vai sát cánh, để nương tựa vào nhau, bất
chấp những đau khổ, nhục nhã, vượt qua cơn cuồng nộ của thiên nhiên, cùng nhau sống và tồn
tại.
c/Tình huống đặc sắc trong Chiếc thuyền ngoài xa đã giúp nhà văn gửi gắm những
thông điệp lớn lao, thấm đẫm giá trị nhân đạo tới cuộc đời
* Trước hết là thông điệp về cách nhìn cuộc sống
- Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài, tình huống cũng đưa đến một thức nhận
thấm thía nỗi chua xót: cái xấu, cái ác nhiều khi vẫn tồn tại trong cuộc sống con người như một lẽ
bất khả kháng; con người cần có cái nhìn thấu đạt nhân tình, không phải để chấp nhận, dung túng
mà để tìm ra cội nguồn phát sinh nhằm loại bỏ nó, đem lại sự bình yên, tốt đẹp cho cuộc sống
con người.
- Không chỉ đưa ra thông điệp về cái nhìn toàn diện, sâu sắc, thấu đáo với cuộc sống, tình
huống truyện còn đưa đến một nhận thức quan trọng: để giải phóng con người khỏi cảnh đói
nghèo, khổ đau, tăm tối cần phải có những giải pháp thiết thực mang tính toàn xã hội chứ không
phải chỉ bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn, những phương cách cực đoan duy ý chí.
* Tình huống còn đưa đến một thông điệp quan trọng về trách nhiệm của người nghệ sĩ
với nghệ thuật và con người
- Không thể tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người; hãy rút ngắn khoảng
cách giữa nghệ thuật với hiện thực bởi nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít và phản ánh
chân thực cuộc sống con người. Nguyễn Minh Châu cũng từng nói “Văn học và đời sống là hai
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ
biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn
thiện”
- Nghệ sĩ không chỉ cần những phẩm chất đáng quý trọng trong lao động nghệ thuật và sứ
mệnh sáng tạo nghệ thuật, cũng không chỉ cần có tư chất nghệ sĩ biết rung động trước cái Đẹp.
Người nghệ sĩ cần phải có tấm lòng nhân ái, có tình thương yêu sâu nặng với con người; biết trăn
trở cho số phận con người, có đủ sự sắc sảo, tinh tế để có thể nhìn ra những mảng khuất tối trong
cuộc sống; có sự dũng cảm và bản lĩnh trung thực để khám phá và phản ánh những hiện thực dẫu
là tàn nhẫn của cuộc sống con người. Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: Nhà văn không có

19
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất của con
người vào các tầng sâu lịch sử.
* Tình huống cũng giúp nhà văn thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc nhất cho
truyện ngắn của mình
- Thấu hiểu, xót thương cho số phận bất hạnh của con người trong cuộc sống mưu sinh.,
trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và sự bình yên.
- Biết quý trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người
khốn khổ, bất hạnh.
- Thể hiện niềm tin vào sức mạnh của con người có thể vượt qua những khó khăn, thử
thách, gian truân để duy trì sự sống và tình yêu thương.
7. Nghệ thuật tác phẩm
– Tình huống truyện độc đáo.
– Giọng điệu trần thuật đa dạng: khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển; lo âu khi tái
hiện lời thoại của người đàn bà; xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược
đãi vợ con; day dứt khắc khoải khi thấy người đàn bà chưa tìm được lối thoát...
– Nghệ thuật khắc họa nhân vật (Phùng, người đàn bà hàng chài, Phác, Đẩu).
– Lựa chọn các chi tiết đặc sắc (bãi xe tăng cũ, vái lạy thằng Phác và Đẩu, chiếc thuyền xuất
hiện…).
– Lời văn giản dị, giọng văn nhỏ nhẹ mà thấm thía ý nghĩa triết lí tự nó toát ra từ đời sống, từ
trải nghiệm.
-Cách xây dựng cốt truyện độc đáo của Nguyễn Minh Châu thể hiện qua nghệ thuật tạo
tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống, được đẩy lên cao trào và ngày càng
xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời. Người kể chuyện
ở đây là nhân vật Phùng hay nói đúng hơn đó là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng. Việc
chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cường khả năng
khám phá đời sống của tình huống truyện, lời kể trở nên khách quan, chân thật, giàu sức thuyết
phục. Quá trình nhận thức của nghệ sĩ Phùng thể hiện cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Minh Châu
về cuộc sống: Muốn con người thoát khỏi đau khổ, tăm tối, cần có những giải pháp thiết thực
chứ không phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn.

III. KẾT LUẬN


1. Giá trị nhân đạo
– Nhà văn thật sự cảm thông, thương xót trước tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài,
trước bi kịch gia đình khủng khiếp, trước thân phận của người phụ nữ miền biển; bày tỏ tình yêu
thương đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, nhọc nhằn.
– Tố cáo, lên án tình trạng bạo lực trong gia đình, Nguyễn Minh Châu đã làm dấy lên trong
lòng người đọc nỗi xót thương pha lẫn lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị ngược đãi, về nguy
cơ trẻ em sẽ sớm nhiễm thói vũ phu, thô bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào
cuộc sống.
– Nhà văn không chỉ lên án bạo lực, kẻ vũ phu mà còn tỏ ra thấu hiểu, cảm thông cho gánh
năng mưu sinh và sự chịu đựng của người phụ nữ.
– Nhà văn phát hiện, khẳng định vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài, người phụ nữ Việt Nam:
chăm chỉ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
– Tác giả trăn trở và chỉ ra nguy cơ đáng sợ nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo,
tăm tối thì không thể tiêu diệt được cái xấu, cái ác.
20
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
2. Quan niệm nghệ thuật
– Tấm ảnh trên tờ lịch chỉ là bức ảnh nghệ thuật chứ không phải là bức tranh đời sống. Bằng
biểu tượng chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện thành công một quan niệm đã
trở thành chân lí: Nghệ thuật phải bắt nguồn từ mạch ngầm đời sống, văn chương nghệ thuật
phải phản ánh chân thực hiện thực. Đây không chỉ là hiện thực bên ngoài mà là hiện thực đa
chiều của cuộc sống, kể cả mảng hiện thực trừu tượng là hiện thực tâm hồn.
– Văn học nghệ thuật phải quan tâm đến vấn đề cốt lõi: số phận con người, cái đẹp không tách
rời với chân thật.
– Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Và phải chăng
qua tình huống phát hiện của nhân vật Phùng, Nguyễn Minh Châu bày tỏ quan niệm: Đừng vì
nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước
khi là một người nghệ sĩ rung động trước cái đẹp thì hãy là một người biết yêu, ghét, vui, buồn
trước mọi lẽ đời thường, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.
– Nguyễn Minh Châu là nhà văn trăn trở trên từng trang viết về chức năng của văn học và thiên
chức của người nghệ sĩ như ông đã từng tâm sự: Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách
đơn giản mà nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử.
Với tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực,
sắc sảo, Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một trong số những truyện ngắn đặc biệt
thành công của văn xuôi Việt Nam thời kỳ đổi mới. Tác phẩm thể hiện mối quan hoài
thường trực của nhà văn Nguyễn Minh Châu với số phận con người trong cuộc sống đời
tư - thế sự, niềm khao khát tìm kiếm, tôn vinh vẻ đẹp con người, những khắc khoải, lo
âu trước cái xấu, cái ác. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp của nghệ thuật văn xuôi Nguyễn
Minh Châu với lối văn giản dị mà thấm thía, nhiều dư vị, nhiều trải nghiệm thâm trầm
qua những triết lí nhân sinh sâu sắc. Cũng như nhiều tác phẩm khác của nhà văn giai đoạn
này, truyện cũng đã bộc lộ sự thấu hiểu, cảm thông và niềm xót thương sâu sắc của tác
giả với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình gian nan,
đau khổ kiếm tìm hạnh phúc và sự bình yên. Qua đó, tác phẩm đã thể hiện những giá trị
nhân đạo sâu sắc, đồng thời gửi gắm những thông điệp nghệ thuật quan trọng có giá trị
định hướng cho cả một giai đoạn sáng tác văn chương.
IV. Tham khảo thêm
1. Thằng bé Phác
– Phác không còn là môṭ cậu bé như những cậu bé cùng trang lứa nữa, mà cậu thật sự là môṭ
người lớn, hiểu biết, giàu tình cảm tuy lòng cậu đầy vết xước trong trái tim.
– Cảm động nhất là hình ảnh: Cái thằng nhỏ, lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt
người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy những nốt rỗ chằng chịt hay như chi
tiết thằng Phác từng tuyên bố rằng: Nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh.
– Có lẽ trong lòng thằng bé vẫn hết mực yêu thương mẹ và bố của mình nhưng nó cũng rất rạch
ròi, cương quyết với hành động sai trái của bố khi đối xử tàn bạo với mẹ của nó.
Với nhân vật Phác, Nguyễn Minh Châu đã đặt ra vấn đề lớn cho xã hội. Đó là tương lai của
những đứa trẻ sống trong cảnh bạo hành gia đình rồi sẽ ra sao?
2. Vị chánh án – Đẩu
– Nhân vật Đẩu chỉ là nhân vật phụ, nhưng lại không thể thiếu trong tác phẩm. Bởi chính Đẩu
đã cho chúng ta thấy được rõ nhất cái nhìn đời qua qua lí thuyết, chỉ nhìn vào cái bề ngoài của sự
việc mà quên đi tìm hiểu nguồn gốc của nó.

21
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)
– Nhân vật Đẩu – vị Bao Công của phố biển, người đại diện cho công lí, sau khi tiếp xúc với
người đàn bà hàng chài đã vỡ ra bao nhiêu điều cay đắng của cuộc đời: cuộc mưu sinh quá nghiệt
ngã đã đẩy con người vào bế tắc. Đẩu từng là một người lính. Anh từng chiến đấu để giải phóng
mảnh đất này nhưng giờ đây lại không thể giải phóng nổi số phận của người đàn bà hàng chài.
Đẩu nắm trong tay luật pháp – cán cân công lí của xã hội nhưng không thể giúp được người đàn
bà này.
Qua nhân vật Đẩu, ta như hiểu thêm rằng pháp luật đôi khi cũng bất lực nếu như con người
không tự nhận thức và cứu chính bản thân mình.
3. Lão đàn ông độc̣ ác (Người chồng của người đàn bà hàng chài)
– Vốn là anh con trai chất phác, cục mịch nhưng hiền lành.
– Giờ là một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác, khốn khổ:
+ Lưng rộng và cong như một chiếc thuyền./+ Mái tóc tổ quạ.
+ Chân đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn./+ Hàng lông mày cháy nắng.
+ Hai con mắt độc dữ.
– Là người chồng lầm lì, vũ phu, đánh vợ như một thói quen để giải tỏa tâm lí và nỗi khổ đời
thường. Người đàn ông này vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây đau
khổ cho người thân.

22
Downloaded by Luân V? Thành (vthluan2006@gmail.com)

You might also like