You are on page 1of 14

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

A. Giới thiệu
I. Tác giả
- “ Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, mà nhà
văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con ngươif vào các tầng sâu
lịch sử”

Có ý kiến cực đoan cho rằng Nguyễn Minh Châu phủ định nền văn học thời
chiến tranh và hình như phủ nhận thành quả sáng tác của chính mình. Đâu phải
như vậy nếu ta xét sự việc một cách bình tĩnh và khách quan.Nhà văn khẳng
định  “cái hay” của văn học cách mạng ngày nay được đúc kết từ  “bao nhiêu
trí tuệ, mồ hôi và cả máu” của các thế hệ   Ở đây có lẽ “lỗi” của nhà văn là ở
chỗ dùng ngôn từ có màu sắc “cực đoan”, lời nói còn cao giọng quyết liệt. Con
lắc dao động mạnh thường được đẩy quá sang một bên tả hoặc hữu.
rước sau, Nguyễn Minh Châu chỉ “ hành quân” trên một đại lộ: con đường
chiến đấu vì quyền sống, vì quyền hạnh phúc của con người. Nói cách khác, đó
là con đường của chủ nghĩa nhân văn cách mạng vì con người – cho con người.
Về đại thể thì đúng là có hai chặng đường lớn – trước và sau 1975, hoặc chính
xác hơn – trước và sau đổi mới. Tuy nhiên, tư tưởng cách mạng vẫn là sợi chỉ
đỏ quán xuyến.
Không phải ngẫu nhiên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói “Hãy cởi trói cho văn
nghệ” và cũng không phải ngẫu nhiên vào năm 1998, sau mấy kỳ đại hội Đảng,
Hội nghị Trung ương năm khóa VIII ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, rồi 10 năm sau
(1998), Bộ Chính trị ra Nghị quyết 23 về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,
nghệ thuật trong thời kỳ mới, khẳng định vai trò quan trọng của văn hóa
trong mối tương quan với chính trị và kinh tế, xã hội.

II. Tác phẩm


1. Hoàn cảnh sáng tác
- CTNX thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống
và con người: Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ,
không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người.
Cần một cái nhì đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau
vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
2. Bố cục
Truyện chia làm 3 đoạn:
+ Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biến mất”). Hai
phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Đoạn 2: (Từ “Ngay lúc ấy … với sóng gió giữa phá”): Câu
chuyện của người đàn bà làng chài.
+ Đoạn 3: Còn lại: Tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy.
3. Tóm tắt
4. Nhan đề

 Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh, của cuộc sống. Cuộc sống bấp bênh, dập
dềnh, trôi nổi của người dân chài. Hình ảnh ẩn dụ, hình tượng nghệ thuật: đó là
nghệ thuật, nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn cuộc đời thì ở rất gần, rất thực.

 Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh, của cuộc sống. Cuộc sống bấp
bênh, dập dềnh, trôi nổi của người dân chài. Hình ảnh ẩn dụ, hình tượng
nghệ thuật: đó là nghệ thuật, nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn cuộc đời thì ở
rất gần, rất thực.

5. Tình huống truyện


Những năm 1960, Nguyễn minh châu đã băn khoăn. “Phải chăng bên cạnh
những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, tính nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc,
vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ
liễu? Bây giờ tao phải chiến đấu cho quyền sống còn của cả dân tộc. Sau này, ta
phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày
một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài.”
a. Ở ngoài bãi biển:
- Phát hiện đầy thơ mộng: Nghệ sĩ Phùng choáng ngợp trước vẻ
đẹp tuyệt vời của thiên nhiên vùng phá nước sinh động thơ mộng
+

 Phùng hạnh phúc tột đỉnh vì bắt gặp được nét đẹp vô
cùng nghệ thuật của ngoại cảnh

+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”
 Con người xuất hiện làm cho bức tranh ngoại cảnh hài
hoà “từ đường nét đến ánh sáng”
 Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn này của thiên nhiên và con người
vùng biển đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hưng phấn nghệ
thuật đặc biệt.
Theo quan điểm nghệ thuật duy mĩ, từ đó Phùng đã thoả mãn với
“Cái đẹp của ngoại cảnh” – hình ảnh của con thuyền nhìn từ xa

- Phát hiện đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Nghệ sĩ Phùng kinh
ngạc khi chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình người đàn bà hàng
chài)
+ Người đàn bà xấu xí, không có sức sống: “Hình ảnh một người
đàn bà vùng biển, cao lớn, thô kệch. Mụ rỗ mặt. Mệt mỏi”

+ Người đàn ông cục mịch, hung bạo: “ Hình ảnh người đàn ông đi
sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng thuyền. Mái tóc tổ qụa. Chân
đi chữ bát…”

+ Thiếu tính người:


 “ Lão đàn ông mặt đỏ gay, rút trong người ra một chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”.
 Người đàn bà cam chịu đầy nhẫn nhục, không van xin, cũng
không bỏ chạy
 Đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha
 Phùng kinh ngạc đến sững sờ, “cứ đứng há mồm ra mà nhìn”
 Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra: đằng sau cái đẹp cảnh “đắt”
trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn - nạn bạo
hành gia đình. Niềm tin vào cái đẹp của nghệ sĩ Phùng bắt đầu lung
lay.
Nhận ra cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều
nghịch lí. Cuộc sống thì luôn tồn tại mâu thuẫn, những mặt đối lập.

b. Trong toà án huyện: Phùng và Đẩu ngạc nhiên khi người


đàn bà nhất định không chịu bỏ chồng
- Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người
chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin
“quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt
con bỏ nó”.
- Lí lẽ của người đàn bà:
+ Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”
là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc
sóng gió ngoài biển khơi.
+ Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi
những đôi lúc “vợ chồng con cái hòa thuận vui vẻ” Chấp nhận
tất cả vì các con, sống cho con chứ không sống cho mình
 Phùng và Đẩu ngộ ra rằng: cuộc đời thì đa sự, con người thì đa
đoan.
  Câu chuyện người đàn bà khiến Phùng và Đẩu một lần nữa
nhận thức sâu hơn về cuộc đời, rằng:
 Cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thô
bạo
 Đằng sau vẻ xấu xí kia thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha,
hiểu đời
 Vị chánh án nhận ra cuộc sống hôn nhân không dễ dàng giải
quyết được bằng cách dứt khoát như anh nghĩ.Nhận ra lòng
tốt của mình phi thực tế, anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông
hiểu của sách vở, nên khi đứng trước cuộc sống đich thức
anh như kẻ nông nổi, ngây thơ “ một cái gì đó vỡ oà ra trong
đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”
 Nhà nhiếp ảnh nhận ra nghệ thuật thì đẹp đấy nhưng cuộc
đời sinh ra nghệ thuật vẫn nhiều khiếm khuyết. Hình thức
bên ngoài của người đàn bà không nói lên được lòng vị tha,
nhân hậu và nỗi đau bên trong. Người cán bộ đôi khi lại
chưa thể thấu hiểu vì còn thiếu trải nghiệm.
 Tóm lại ý nghĩa TTH:
- Tình huống truyện khiến 2 nhân vật Phùng và Đẩu có sự thay đổi
trong nhận thức: Từ lầm lẫn, ngộ nhân, đến hiểu ra chân lí
- 3 tình huống truyện thể hiện quá trình nhận thức lại của nghệ sĩ
Phùng, (cũng là một hoá thân của Nguyễn Minh Châu) về ý thức
nghệ thuật: từ quan điểm nghệ thuật duy mĩ (nghệ thuật vị nghệ
thuật) đến nghệ thuật vị nhân sinh (nghệ thuật vì cuộc sống, con
người). Giữa nghệ thuật và đơì sống cần có sự gắn kết, hãy rút
ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện thực

- Cuộc đời vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi
nhìn vẻ bề ngoài khó lòng mà đánh giá. Nên ta cần có cái nhìn đa
diện, đa chiều

B. ĐỌC – HIỂU
I. Tình huống truyện
1. Ở ngoài bãi biển:
- Phát hiện đầy thơ mộng: Nghệ sĩ Phùng choáng ngợp trước vẻ
đẹp tuyệt vời của thiên nhiên vùng phá nước sinh động thơ mộng
+


 Phùng hạnh phúc tột đỉnh vì bắt gặp được nét đẹp vô
cùng nghệ thuật của ngoại cảnh

+ “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”
 Con người xuất hiện làm cho bức tranh ngoại cảnh hài
hoà “từ đường nét đến ánh sáng”
 Vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn này của thiên nhiên và con người
vùng biển đã đem đến cho nghệ sĩ Phùng niềm hưng phấn nghệ
thuật đặc biệt.
Theo quan điểm nghệ thuật duy mĩ, từ đó Phùng đã thoả mãn với
“Cái đẹp của ngoại cảnh” – hình ảnh của con thuyền nhìn từ xa
đây chính là chân lí của sự toàn thiện
- Phát hiện đầy nghịch lí, phi nghệ thuật: Nghệ sĩ Phùng kinh
ngạc khi chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình người đàn bà hàng
chài)
+ Người đàn bà xấu xí, không có sức sống: “Hình ảnh một người
đàn bà vùng biển, cao lớn, thô kệch. Mụ rỗ mặt. Mệt mỏi”

+ Người đàn ông cục mịch, hung bạo: “ Hình ảnh người đàn ông đi
sau. Tấm lưng rộng và cong như lưng thuyền. Mái tóc tổ qụa. Chân
đi chữ bát…”

+ Thiếu tính người:


 “ Lão đàn ông mặt đỏ gay, rút trong người ra một chiếc thắt
lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”.
 Người đàn bà cam chịu đầy nhẫn nhục, không van xin, cũng
không bỏ chạy
 Đứa con bảo vệ mẹ, đánh lại cha
 Phùng kinh ngạc đến sững sờ, “cứ đứng há mồm ra mà nhìn”
 Người nghệ sĩ cay đắng nhận ra: đằng sau cái đẹp cảnh “đắt”
trời cho là khung cảnh xấu xí, chứa đựng sự thật tàn nhẫn - nạn bạo
hành gia đình. Niềm tin vào cái đẹp của nghệ sĩ Phùng bắt đầu lung
lay.
Nhận ra cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều
nghịch lí. Cuộc sống thì luôn tồn tại mâu thuẫn, những mặt đối lập.

2. Trong toà án huyện: Phùng và Đẩu ngạc nhiên khi người đàn bà
nhất định không chịu bỏ chồng
- Người đàn bà dù bị đánh đập, bị nguyền rủa mỗi ngày bởi người
chồng vũ phu nhưng khi tòa khuyên bà bỏ chồng thì bà lại van xin
“quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt
con bỏ nó”.
- Lí lẽ của người đàn bà:
+ Với bà “người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”
là rất khó khăn. Dù người đó có vũ phu thì cũng cần đến những lúc
sóng gió ngoài biển khơi.
+ Niềm vui của bà là được ngắm con cái ăn no, ngủ say và chờ đợi
những đôi lúc “vợ chồng con cái hòa thuận vui vẻ” Chấp nhận
tất cả vì các con, sống cho con chứ không sống cho mình
 Phùng và Đẩu ngộ ra rằng: cuộc đời thì đa sự, con người thì đa
đoan.
  Câu chuyện người đàn bà khiến Phùng và Đẩu một lần nữa
nhận thức sâu hơn về cuộc đời, rằng:
 Cuộc sống mưu sinh có thể làm người hiền lành trở nên thô
bạo
 Đằng sau vẻ xấu xí kia thì người đàn bà lại nhân hậu, vị tha,
hiểu đời
 Vị chánh án nhận ra cuộc sống hôn nhân không dễ dàng giải
quyết được bằng cách dứt khoát như anh nghĩ.Nhận ra lòng
tốt của mình phi thực tế, anh bảo vệ luật pháp bằng sự thông
hiểu của sách vở, nên khi đứng trước cuộc sống địch thức
anh như kẻ nông nổi, ngây thơ “ một cái gì đó vỡ oà ra trong
đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”
 Nhà nhiếp ảnh nhận ra nghệ thuật thì đẹp đấy nhưng nghệ
thuật từ cuộc đời sinh ra vẫn nhiều khiếm khuyết. Hình thức
bên ngoài của người đàn bà không nói lên được lòng vị tha,
nhân hậu và nỗi đau bên trong. Người cán bộ đôi khi lại
chưa thể thấu hiểu vì còn thiếu trải nghiệm.
 Tóm lại ý nghĩa TTH:
- Tình huống truyện khiến 2 nhân vật Phùng và Đẩu có sự thay đổi
trong nhận thức: Từ lầm lẫn, ngộ nhận, đến hiểu ra chân lí
- 3 tình huống truyện thể hiện quá trình nhận thức lại của nghệ sĩ
Phùng, (cũng là một hoá thân của Nguyễn Minh Châu) về ý thức
nghệ thuật: từ quan điểm nghệ thuật duy mĩ (nghệ thuật vị nghệ
thuật) đến nghệ thuật vị nhân sinh (nghệ thuật vì cuộc sống, con
người). Giữa nghệ thuật và đơì sống cần có sự gắn kết, hãy rút
ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện thực

- Cuộc đời vốn là bức tranh nhiều màu sắc, nhiều nghịch lý mà khi
nhìn vẻ bề ngoài khó lòng mà đánh giá. Nên ta cần có cái nhìn đa
diện, đa chiều

II. Nhận thức của Phùng


1. Nhận thức về con người và cuộc sống
- Phát hiện về người đàn bà:
+ Số phận bất hạnh:
 Ngoại hình xấu xí:
 Người đàn bà hàng chài trạc ngoài 40
 Cao lớn với những đường nét thô kệch
 Mụ rất xấu và thô kệch, lại “rỗ mặt”
 Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng
 Dáng vẻ lam lũ:
 Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới
 Nửa thân dưới ướt sũng vì lội qua bờ phá
 Nhọc nhằn đến nhếch nhác, thảm hại
 Người đàn bà vô danh
 Khi thì gọi là người đàn bà hàng chài
 Lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta
 Là đơn cử cho những nhân vật không hiếm gặp trên
những miền quê
+ Tình trạng sống tăm tối:
 Nhọc nhằn mưu sinh
 Cuộc sống bấp bênh đói nghèo tăm tối
 Mưu sinh trên mênh mông sóng nước đầy phong ba .
Biển động, cả nhà phải ăn xương rồng luộc
 Nỗi lo cơm áo chưa bao giờ buông tha’
 Nạn nhân của bi kịch gia đình
 Chịu sự đau đớn nhục nhã bởi đòn roi
 Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng
 Lão chồng cứ thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh
 Luôn phải cam chịu nhẫn nhục
 Coi việc bị đánh như phần quen thuộc của cuộc đời
 Chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy khi bị
đánh
 Nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình
 Niềm vui le lói
 Vẫn nhớ và mong về những lúc vợ chồng con cái sống
hòa thuận
 Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn
no
 Khuôn mặt xấu xí bỗn ửng sáng lên như một nụ cười
khi nói về hạnh phúc gia đình
+ Nhân hậu bao dung, thấu hiểu lẽ đời
 Đối với chồng:
 Chấp nhận hứng những trận đòn trước những cơn
nóng giận của chồng
 Thấu hiểu bản chất của chồng không phải cọc cằn, thô
bạo mà do hoàn cảnh ( nạn nhân của cuộc sống nghèo;
túng quẫn vì chốn lính) đã làm thay đổi tính nết
 Hiểu rõ cuộc sống mưu sinh vất vả nhọc nhằn trên mặt
biển khiến những phẫn uất triền miên của chồng vượt
ra khỏi giới hạn chịu đựng
 Lão đánh vợ chỉ như người khác uống rượu cho quên
khổ sở
 Đối với chình mình:
 Tự nhận lỗi là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá:
Hiểu rằng đẻ nhiều, gia đình đông con, nghèo khổ,
chỗ ở chật chội  nguyên nhân gây nên vất vả cho
chồng và túng quẫn cho gia đình
 Nhận mình từng hàm ơn chồng vì bản thân xấu xí: Từ
nhỏ đã xấu, rỗ mặt, không ai lấy, sau đó có mang với
một anh trai thuyền chài 
 Thuyền cần phải có đàn ông để chèo chống khi phong
ba  hoàn cảnh sống quyết định rất nhiều đến sự lựa
chọn cuộc sống của con người mà không phải lúc nào
con người cũng có quyền lựa chọn theo ý muốn
 Đối với con:
 Giàu tình yêu thương, sống cho con chứ không thể
sống cho mình
 Hạnh phúc khi được nhìn thấy cảnh gia đình vui vẻ
 Sợ thẳng Phác có thể làm điều gì dại dột với cha nó
 Sợ thằng Phác nhiễm tính vũ phu của cha nó nên gửi
cho ông ngoại
 Xin chồng đưa lên bờ đánh vì sợ con trông thấy
 Thấy xấu hổ nhục nhã rơi nước mắt khi Phác đánh bố
cứu mẹ
+ Là người sâu sắc từng trải
 Câu chuyện ở tòa án:
 Giúp Phùng hiểu ra những nghiệt ngã cuộc đời
 Nhận định đàn bà trên thuyền sống vì con chứ không
thể vì mình
 Hạnh phúc không quan trọng bằng sự sống, sự tồn tại
 Cuộc sống không chỉ là đấu tranh mà còn đang chịu
đựng
 Cuộc chiến đấu cho quyền con người vẫn còn đang
tiếp diễn
 Đem đến những bài học nhân sinh:
 Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm
tối, thấu hiểu lẽ đời, sâu sắc
 Chị ta chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi,
đời thường
 Chị hiểu nhìn con người cần có cái nhìn đa diện nhiều
chiều
 Người đàn bà hàng chài
+ Là đại diện cho phụ nữ miền biển có ba nỗi đau lớn: ngoại hình xấu xí, nghèo
túng đông con, bị bạo hành gia đình ( số phận)
+ Là người phụ nữ có vẻ đẹp tâm hồn ẩn sau lớp vỏ xấu xí, khốn khổ: Nhân
hậu, bao dung, thấu hiếu lẽ đời; sâu sắc từng trải; tình mẫu tử thiêng liêng ( vẻ
đẹp tâm hồn)
- Phát hiện về chánh án Đẩu và chính mình
+ Là người tốt
 Hiểu rõ luật pháp và thực thi pháp luật
 Sẵn sàng ra tay giúp đỡ người gặp khó khăn
 Cố gắng tìm giải pháp cho bi kịch gia đình
+ Thiếu thực tế
 It có kiến thức thực tế, đa phần đều là lý thuyết suông
 Chưa hiểu hết hoàn cảnh của người đàn bà
 Vận dụng luật pháp hay những thiết chế cứng nhắc
 Đánh giá về con người đơn giản, phiến diện, một chiều

 Chánh án Đẩu: là người có lòng tốt và sẵn sàng đứng ra bảo vệ


cho công lý, cho lẽ phải. Nhưng anh chưa thực sự hiểu về cuộc đời
người đàn bà khốn khổ ấy.
 Anh nhiếp ảnh Phùng: sẵn sàng ra tay làm tất cả để chống lại
cái ác nhưng anh lại nhìn sự việc dưới góc độ phiến diện và đơn
giản.

- Trận bão biển và bài học cuộc sống


+ bối rối trước hiện thực
 Khi biển động, trời gió, anh lo lắng trăn trở
 Tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu sắc với buồn vui của con người
 Dự cảm lo âu đầy bất ổn cho cái nhỏ bé đơn độc
 Sự bất lực, bế tắc trước nghịch lí trớ trêu
(liên hệ tác giả : Phùng – hoá thân của NMC)
+ bài học cuộc sống
 Con người cần có cái nhìn thấu đạt nhân tình ( cảnh bạo lực,
trận bão biển)
 Con người cần có cái nhìn toàn diện sâu sắc thấu đáo với
cuộc sống
 Để giải phóng con người cần có giải pháp thiết thực ( suy
nghĩ, trăn trở, nhận thức của Đẩu và Phùng)
 Lý thuyết tốt đẹp có thể xa rời thực tế, cực đoan duy ý chí

2. Nhận thức về chân lý nghệ thuật


- Phát hiện chiếc thuyền ngoài xa
+ tuyệt đỉnh ngoại cảnh
 Mũi thuyền in 1nét mơ hồ loè nhòe
 Bầu sương mù trắng như sữa pha chút màu hồng do ánh mặt
trời chiếu vào
 Là cảnh đắt trời cho, hi hữu, kỳ diệu
 Là bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ
+ Thăng hoa cảm xúc
 Cảm nhận được vẻ đẹp toàn bích, nguyên sơ, thuần khiết
 Thấy bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào
 Là khoảnh khắc tràn ngập hạnh phúc của người nghệ sĩ
+ Bài học nhận thức:
 Bản thân cái đẹp chính là đạo đức
 Thấy mình như khám phá ra chân lý của sự toàn thiện
 Khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn
 Cái nhìn 1 chiều, phiến diện

- Phát hiện chiếc thuyền gần bờ


+ khung cảnh đối lập
 Người đàn ông hùng hổ trút cơn giận như lửa cháy
 Người đàn bà cam chịu không hề kêu la hay chống trả
 Thằng Phác nhảy xổ vào, bị tát hai cái ngã chúi xuống cát
 Hiện thực thô ráp, trần trụi, đầy nghịch lí
+ cảm xúc người nghệ sĩ
 Kinh ngạc, đứng há hốc mồm ra mà nhìn
 Thấy chẳng còn gì là đạo đức, chân thiện của cuộc đời
 Vất máy ảnh xuống, chạy nhào tới ngăn cản
+ Bài học nhận thức
 Cái nhìn toàn diện, đa chiều

 Chân lí nghệ thuật


+ nghệ thuật
 Nghệ thuật được thăng hoa và sáng tạo từ chính hiện thực
cuộc sống
 Không thể tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống
 Không có quyền tô hồng, thi vị hóa hay bôi đen hiện thực
 Không được phép nhìn sự vật một cách đơn giản, phiến diện
+ người nghệ sĩ:
 Phải biết rung động trước cái đẹp, sự toàn mỹ ( khi chiếc
thuyền ngoài xa)
 Còn phải có tấm lòng nhân ái, tình yêu sâu nặng. ( khi chiếc
thuyền ở gần)
 Biết trăn trở về số phận con người ( khi ở toà án)
 Tinh tế để nhận ra những mảng của cuộc sống
 Có dũng cảm, bản lĩnh khám phá hiện thực dù tàn nhẫn
*Chiếc thuyền ngoài xa là hình ảnh vừa có ý nghĩa thực, vừa có ý nghĩa biểu
tượng. “Chiếc thuyền” là phương tiện làm ăn sinh sống của người dân hàng
chài. Nó cũng là biểu tượng cho số phận, cuộc đời lênh đênh trôi nổi của họ. Và
rộng hơn, chiếc thuyền ấy chính là biểu tượng cho hiện thực cuộc sống rộng
lớn. “Ngoài xa” gợi lên một không gian xa xăm mịt mù, là khoảng cách đứng
ngắm của người nghệ sĩ để quan sát hiện thực cuộc sống. Như vậy, “hình ảnh
chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng cho mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống
và nghệ thuật. Nếu ngắm chiếc thuyền ở ngoài xa ta thấy nó rất đẹp và thơ
mộng, nhưng khi đến gần ta mới thấy hết nghịch lí và đau khổ. Từ đó, ta thấy,
nghệ thuật có thể nhìn cuộc đời tươi sáng, lãng man nhưng trước hết phải ưu
tiên cho con người, phải góp phần giải phóng con người thoát khỏi sự cầm tù
của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Muốn vậy vị trí quan sát và tiếp cận của
người nghệ sĩ cần đứng ở vị trí gần để tiếp cận và tìm hiểu, gần gũi để cảm
thông chia sẻ, như vậy mới nắm được bản chất của cuộc sống, hiểu đúng về nó,
khám phá được chiều sâu hiện thực

“Vị trí của nhà văn là phải đứng trong lao khổ để đón nhận mọi vang động của
cuộc đời”
“chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là
ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những
kiếp lầm than vang dội lên mạnh mẽ trong lòng”

“không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết
ra”

III. Nhân vật trong truyện


1. Nhân vật người đàn ông
- Ngoại hình.:
+ tấm lưng rộng và công như một chiếc thuyền
+ mái tóc tổ quạ
+ chân đi chữ bát
+ hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ
 đây là dáng vẻ của một người đàn ông miền biển lam lũ, vất vả,
dữ dằn. Cuộc sống đói nghèo đã in dấu hằng lên dáng vẻ của người
đàn ông
- Tính cách: Vũ phu
+ Vũ phu: thói vũ phu của người đàn ông được đặt dưới sự phán
xét rất khác nhau
 Đẩu: nhìn dưới góc độ pháp luật
 Phùng: nhìn dưới góc độ lý lịch, thân phận thành phần trong
xã hội
 Bé Phác: nhìn với con mắt thơ ngây
 Người đàn bà: thương xót thấu hiểu
+ vốn là người hiền lành: giàu tình thương, cưu mang người đàn bà
- Hành động:
+ đánh vợ tàn nhẫn
+ chửi rủa độc địa
+ Nhung dây lưng quất vào vợ
 Đánh vợ là để giải toả u uất, bế tắc
 cuộc sống đói nghèo, đời sống bắp bên kéo dài gây ra tâm lý bế
tắc, u uất là nguyên nhân sâu xa của hành động vũ phu
 Là nạn nhân của nghèo khổ (tác giả đã đặt ra vấn đề khi nhìn
nhận cuộc sống con người cần đa diện nhiều chiều. Có như vậy
mới hiểu thấu đáo con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh)

2. Nhân vật bé Phác:


- Là một đứa trẻ ngây thơ:
+ Yêu mẹ nên trở thành thù địch với cha
+ Đánh bố để bảo vệ mẹ -> Hành động phản ứng tự nhiên xuất phát
từ tình thương mẹ nhưng trái với đạo lí
Hành động đó nói lên nỗi lo âu của Nguyễn Minh Châu về tình
trạng bạo lực trong gia đình và khát vọng được sống trong tình yêu
thương của cha mẹ. Con mắt nhân đạo của nhà văn còn thể hiện ở
nỗi lo âu đầy trách nhiệm: cậu bé sẽ trở thành người thế nào trong
môi trường sống không mấy tích cực
 Nhân vât bé Phác là nhân vật hành động – yêu mẹ nhưng mù
quáng. Việc miêu tả hành động của bé Phát nhà văn đã cho ta thấy
tình thương của cậu đối với mẹ và lỗi lầm đối với cha. Qua đó còn
thể hiện cái nhìn đầy nhân ái của nhà văn

3. Nhân vật Phùng và tấm ảnh được chọn


- Có tâm hồn nhạy cảm và say mê với cái đẹp thơ mộng của cảnh vật
( trách nhiệm với nghề nghiệp)
+ say mê nghệ thuật:
 Sẵn sàng bỏ vài tuần để đi săn lùng một bức ảnh đẹp
 Loay hoay suốt mấy ngày để tìm ra bức ảnh ưng ý  cầu
toàn với sản phẩm nghệ thuật
 Xúc động trước cái đẹp
 Phát hiện ra cái đẹp toàn bích
+ Nhạy cảm với cái đẹp
 Thoáng nhìn đã phát hiện ra cảnh đất trời cho
 Nhìn thấy vẻ đẹp toàn bình, như một bức tranh mực tàu của
danh họa thời cổ
 Bối rối trước cái đẹp
 Nhận ra “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”
 Trăn trở về nghệ thuật
- Có một tấm lòng đầy trăn trở, lo âu về thân phận con người ( trách
nhiệm với cuộc đời)
+ Chứng kiến cảnh bạo hành
 Kinh ngạc tột độ
 Vứt máy ảnh xuống chạy nhào tới
 Can ngăn bạo lực gia đình, bị thương phải vào viện  bất
bình trước cảnh bạo lực
+ Chứng kiến người đàn bà ở toà án:
 Bức xúc khi người đàn bà xin không bỏ chồng
 Vén màn bước ra ngoài nhưng mỗi người lại công lý cho chị
ta  muốn giúp đỡ người đàn bà
 Trăn trở, ám ảnh dây rứt cho số phận những gia đình hàng
chài như chị  trăn trở về giải pháp cho cuộc sống

- Nhân vật tự ý thức


+ Ban đầu:
 Thái độ dễ dàng bằng lòng
 Không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời
 Nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều
+ Sau khi nghe câu chuyện của ngừoi đàn bà
 Cảm thông cho số phận của người đàn bà
 Biết chấp nhận những điều nghịch lí ở đời
 Có một cái nhìn đa diện nhiều chiều

IV. Tổng kết


Nội dung: chiếc thuyền ngoài xa đã đặt ra vấn đề phức tạp trong cuộc
sống. Qua đó nhà văn đã thể hiện được quan niệm nghệ thuật về con
người và cuộc sống. Mỗi con người đều có những vẻ đẹp riêng nhưng
không dễ thấy mà phải đặt trong mối quan hệ đa dạng, nhiều chiều
mới có thể thấu hiểu. Người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật, không
thể nhìn đời nhìn cuộc sống đơn giản, nhìn con người ở bề ngoài, mà
phải thâm nhập vào mạch ngầm của cuộc sống để khám phá những vẻ
đẹp tìm ẩn bên trong.
Nghệ thuật:
- Xây dựng tình huống nghịch lí làm nổi bật tình huống chung 
tình huống nhận thức
- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư phù hợp với quá trình nhận thức
lại những nhân vật
- Ngôn ngữ giản dị, đằm thắm mà đầy dư vị

You might also like