You are on page 1of 30

Chiếc thuyền ngoài xa

Văn học chính là cầu nối giữa trái tim với trái tim giữa tâm hồn với tâm hồn. Văn học
là “người thư kí trung thành của trái tim” luôn thấu hiểu những tâm tư tình cảm những niềm
ngưỡng vọng muôn thuở của nhân loại. Mà khát vọng muôn đời của nhân loại chính là vươn
đến những giá trị Chân – Thiện – Mỹ, vượt thoát khỏi giới hạn tồn tại của không gian và thời
gian để hướng đến những giá trị vĩnh hằng, bất diệt. Những cái đẹp độc đáo, khác thường
xuất hiện trong văn học như một lẽ tự nhiên. “Cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của
nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần
có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá
những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào
bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời”. Qua truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhà
văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện quan điểm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời
thông qua số phận của người đàn bà hàng chài. Truyện mang lại nhiều dư âm trong lòng độc
giả, khắc khoải về số phận một người đàn bà như thế, thật mỏng manh, xa vời, chấp chới như
“chiếc thuyền ngoài xa” không biết đâu là bến bờ hạnh phúc.
​“Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là
tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ
trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng
trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” Có thể nói “Chiếc thuyền ngoài xa” là một biểu hiện
của xu hướng tìm tòi khám phá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với
mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong
cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh
Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không
phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn
thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn
mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” không phải là bức tranh hoành tráng
của mảnh đất chiến trường xưa từng ghi dấu bao chiến công, cũng không phải là những con
người tạc dáng đứng hào hùng của mình vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất
từng chiến đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp
cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động
khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn
sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế nhưng, những gì anh chứng
kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của
những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông.
Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng
không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh
đất nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu
chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn
chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều
đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ
xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho
chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn
phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hòa với nó. Cách lý giải về con người của
Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải qua những khổ
đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh
đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng người xem về cái đẹp có
thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung
thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan
chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong
bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng
rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những
đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía
trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và
một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai
chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy hiện lên thật đáng
yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con người gặp gỡ thật
đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của
chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung
cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây
lưng quật thẳng tay vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại
diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng
cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra
nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng
con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như
“gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị
là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn
ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào
ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một
người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối
cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép
hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín
đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh
choáng váng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”.
Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt nhưng “các
chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người
làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích
thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng
kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi
gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng,
như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là
cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh.
Nỗi xót xa cho nhân vật đã thể hiện ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về
ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, thái độ. Người đàn bà hàng chài "trạc ngoài bốn mươi, một thân
hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch...rỗ mặt.
Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ". Đây
chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lé gánh nặng của cuộc mưu sinh
đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui. Trên "gương mặt mệt
mỏi, tái ngắt ấy" dường như còn không mảy may chút sức sống. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn
đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa
thân dưới ướt sũng" vì khi rời khỏi thuyền "phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu
gối". Sự khốn khổ của chị còn hiện ra trong dáng vẻ "lúng túng, sợ sệt" ở toà án huyện, thậm
chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị "mới dám rón rén đến ngồi ghét vào mép chiếc ghết
và cố thu người lại" - hình như đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có
mặt của mình trong cuộc đời này là phi lý, luôn mặc cảm và muốn giảm thiểu sự vướng víu,
phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà
người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị. Khi đi qua
bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị "đứng lại ngước mắt nhìn ra
ngoài mặt phá nước, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ đang
gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có
thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi
những trận đòn đã thành lệ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận năng" của người chồng
vũ phu, thô bạo. Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị không nén nổi cay đắng - cử chỉ của chị như
muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoảng, nhưng rồi cũng chị cũng hiểu
rằng đó là điều không thể, cánh tay chị "buông thõng" chán chường, cặp mắt nhìn xuống chân
cam chịu và mệt mỏi. Khi bị chồng đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với "một vẻ cam
chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn
chạy". Đó là thái độ của một người đang thực hiện những nghĩa vụ cực khổ của mình - không
cảm thán, bất bình hay tránh né.
Sau này, qua câu chuyện của chị với Đẩu, Phùng, người đọc càng xót xa hơn cho thân
phận con người khốn khổ ấy khi hiểu nguyên nhân thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới kỳ lạ của
chị. Chị chấp nhận chịu đòn, tất nhiên không phải vì rạn đòn , càng không phải để trả giá cho
những tội lỗi sai lầm của mình, cũng không phải vì quá dốt nát đến mức không còn chút ý
thức về bất hạnh; về quyền sống như một con người - chị lặng lẽ chịu đựng những đau đớn về
cả thể xác và tinh thần chỉ vì "bất kể lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng
như đàn ông thuyền khác uống rượu ... Giá mà lão uống rượu ... thì tôi còn đỡ khổ ...Sau này
con cái lớn lên, tôi mới xin được lão .. đưa tôi lên bờ mà đánh..." Vậy là cùng một lúc, người
đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà
còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để
chịu đựng một mình.
Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo
của người chồng vũ phu mà còn giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử
như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau khổ khi luôn phải
chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một
người mẹ vừa khóc, vừa phải "chắp tay vái lấy vái để đứa con" để nó đừng phạm phải một tội
ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ
cùng cực mà con người có thể chịu đựng. Người đàn bà đã không trốn chạy khi bị chồng
đánh đập dã man trên bờ biển . Chị càng không có ý định tự giải thoát mình khỏi người
chồng tàn bạo ấy. Sự chịu đựng của chị không phải chỉ trong một, hai lần chịu đòn mà kéo
dài trong suốt cả cuộc đời. Chị khẩn thiết van xin không phải li hô dù biết rằng những trận
đòn cũng sẽ tiếp diễn với cuộc sống ấy, bên người chồng ấy. Hình ảnh người đàn bà "chắp tay
vái lia lịa quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó" cho thấy
sự cay đắng trong số phận con người - giữa các lựa chọn, chị chấp nhận chịu đựng những đầy
ải , những đòn roi của chồng "vì nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có
đàn ông" còn đáng sợ hơn cả đòn roi đầy ải; cuộc mưu sinh trên biển cả luôn tiềm ẩn những
đe dọa thậm chí còn khủng khiếp hơn cả những đau đớn về thể xác, tinh thần do người chồng
mang đến. Nếu "tiếng thở dài" đầy chua chát của Đẩu đã gợi ra rất cả những bất lực của thiện
chí, những bế tắc của kiếp người.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất
trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dào
trên mặt biển gây ra tâm lí bế tắc, u uất. Trước năm 1975, mỗi khi biển động "cả nhà vợ
chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối", từ khi Cách Mạng về, cuộc sống của
họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo chưa lúc nào buông tha. Cuộc sống của những người
ngư dân trên biển hoá ra không hề thơ mộng, lãng mạn như bức tranh trong thời xưa về hình
ảnh "thuyền ngư phủ lạc trong sương" (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh,
bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội, tăm tối,
nhục nhã vì tình trạng thất học và bạo lực nặng nề...Đề bi kịch thương ngày của người đàn bà
hàng chài diễn ra sau những bãi xe tăng đổ nát của chiến trường xưa, có lẽ NMC muốn gợi ra
cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo
lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Chừng nào chưa thoát khỏi
đói nghèo thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác. Chúng đã đổ
xương máu bao nhiêu năm qua để giành được độc lập, tự do trong "cuộc chiến đấu cho quyền
sống của cả dân tộc", cho quyền sống của từng con người, để đem lại cơm cơm ăn áo mặc và
ánh sáng văn hóa đến cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống tăm tối, đói
nghèo.
Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có "con mắt
như đang nhìn suốt cuộc đời mình", có "sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời", đã
khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ. Những sự giận giữ, bất bình, thấm đẫm lòng nhân
hậu, những lời khuyên đầy thiện chí, những giải pháp tưởng như đúng đắn: "Cả nước này
không có người chồng nào như hắn...chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu" đều
lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị, nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc
sống. Chị chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ "lòng các chú tốt nhưng các đâu có phải là người làm
ăn cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Chị cũng cho
họ thấy sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm
ẩn những đe dọa bất thường trên mặt biển: "Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các
chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn
ông"..."đàn bà hàng chài chúng tôi cần có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba để
cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con"...Chị còn giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng
luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuyền thì bực bội, bức bối
nhưng lên bờ thị lại phải bỏ nghề mà sự phụ thuộc của họ lại gắn chặt với nghề này vì vậy
những chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ:
"làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái thuyền lưới vó. Từ ngày Cách mạng về,
Cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được!". Trước kết luận chua
chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: "Trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ
tàn bạo", người đàn bà sông nước có một lời đáp thật sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng
người đọc bởi những chiêm nghiệm rút ra từ một cuộc đời gian truân vất vả: "Cũng có khi
biển động sóng gió chứ chú!", tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng,
cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện
chí của họ trở nên phi thực tế ... đã tạo ra sự đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời,
hiểu người, hiểu những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc của chị
chiến người đọc khâm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người.
Chị chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn của chồng không chỉ vì bản tính nhẫn nhục
cam chịu mà con như một cách giúp lão làm vơi đi những u uất, khổ sở chất chứa trong lòng.
Chính vì thế, mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi vào sâu phía
sau bãi xe tăng , lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn
"không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy", để rồi sau đó đi
thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Cả hai người trở về thuyền, đó là
cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là
những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn
mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng "lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà
thuyền lại chật". Người vợ hiểu rõ nỗi hi sinh, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự
nghèo đói, túng quẫn trên một con thuyền chật chội, những cay đắng bế tắc triền miên đã
vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến "Anh con trai cục tính nhưng hiền lành"
không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành lão chồng vũ phu, độc ác không phải vì thù ghét
gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của
mình. Nếu cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu, nhẫn nhục của
người vợ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về sự nhân hậu vị
tha trong tấm lòng người đàn bà hàng chài cũng lớn lao kì lạ bởi mức "không thể nào hiểu
được" - cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài.
Tình mẫu tử được chị coi như một thiên tính đương nhiên nhiên của người phụ nữ:
"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải
gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình
như ở trên đất được".
Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng đầy
ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có đàn ông khỏe mạnh, biết nghề cùng mình
"chèo chống khi phong ba" để cùng làm ăn nuôi nấng con cái, cũng vì thương con sợ các con
bị tổn thương vì cảnh bạo lực đau lòng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi
vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, "Sao thằng bé có thể làm những điều dại dột với
ba nó", mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại.
Ở người đàn bà thầm lặng ấy "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm
trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như cũng chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài".
Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà
khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị "mếu máo"
gọi con, "ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái
lấy vái để rồi ôm chầm lấy". Thằng bé đã từng "như một viên đạn bắn vào tâm hồn người đàn
ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà , làm rỏ xuống những dòng nước mắt".
Tới khi nói chuyện với Đẩu và Phùng, nhắc tới thằng Phác, chị vẫn khóc - tiếng khóc của tình
thương con nỗi đau đớn quặn thắt trong trái tim người mẹ: nỗi đau khi không che chắn nổi
cho tuổi thơ các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh
bạo lực gia đình, càng đau hơn bởi nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi
trường tăm tối, bạo lực..., bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong
con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống no ấm, bình yên.
Tình mẫu của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn thể hiện ra qua niềm
vui vùi dẫu hiếm hoi, ít ỏi - những niềm vui chắt ra từ những cay đắng, nhọc nhằn...Khi chắc
tới những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận trên thuyền, "khuôn mặt xấu xí của mụ chợt
ửng sáng lên như một nụ cười". Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất vả vì con, cho nên
riêng niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ chân thành, cảm động: "vui
sướng nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Thấp thoáng trong hình ảnh
người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung,
giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Nhân vật người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc những ấn tượng thật đặc
biệt. Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống, về thiên chức của mình, đó là
những nguyên nhân khiến chị có thể chịu đựng tất cả những lúc khó khăn, thử thách, từ
những lam lũ, vất vả của đói nghèo đến những đau đớn khổ ải trong bi kịch gia đình, lấy sự
chịu đựng phi thường của mình, cố gắng che chở cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm
tin trong trẻo, ngây thơ ấy cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chồng những nhọc nhằn, cay
đắng - dù những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống. Mỗi
khi nhìn lại bức ảnh về "Chiếc thuyền ngoài xa", bao giờ nghệ sĩ Phùng "cũng thấy người đàn
bà bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô
kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt
trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc
chắn, hoà lẫn trong đám đông...". Đó là hình ảnh những con người vô danh, khốn khổ, lầm
lũi, họ đã vượt lên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì
những người thân yêu - lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.
Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục
súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây
quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành
trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau
với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia
gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải
nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự
hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ
đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng
biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về
lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì
bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác
động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự
vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều
hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy
không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con
đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như
một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu
sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề
mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những
vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn
nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ
nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con
người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê
chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả
năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra
cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con
người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn
khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc
đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài
xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn
thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo
hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm
để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy
hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng,
và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là
một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có
miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước
những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc
sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn
khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô
nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận
sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người. Nhà phê bình Nikolai
Nikulin cũng từng nhận xét: "Niềm tin vào tính bất khả chiến bại của cái đẹp tinh thần, cái
thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh (Nguyễn Minh Châu) đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của
mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng".
Có thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật
hoàn toàn có dụng ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ẩn dụ đó, người
đọc sẽ nhận ra một thông điệp mà nhà văn muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ là nơi sản
sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng
con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu
muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với
đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời. "Đọc truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu, người ta thấy cuộc đời và trang sách liền nhau. Chặng đường đời hôm nay cũng như
từng đoạn sáng tạo trên trang giấy của tài năng. Những cái tưởng như bình thường lặt vặt
trong cuộc sống hằng ngày dưới con mắt và ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đều trở thành
những gợi ý đáng suy nghĩ và có tầm triết lý" (Tô Hoài).

Vợ chồng A Phủ
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài.
Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình
với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về
cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn
thực dân phong kiến miền núi.
Về nội dung, “Vợ chồng A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa
phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm
tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc. Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn
cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô
gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới
khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc
vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng
cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé
mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.
Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa,
hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì
nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao
nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi
nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào
vòng tuần hoàn của khổ đau.
Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử.
Qua những chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số
phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng,
buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự
do, khát khao hạnh phúc.
Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô
không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình,
không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu
đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu,
mình cũng là con ngựa...”.
Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không
những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc
của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị
tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục.
Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi
một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt.
Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu
núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ
về kỷ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương.
Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng
trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A
Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng,
tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà
cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ
phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con
trâu, con ngựa.
Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao
động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A
Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan
góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của
bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.
Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ
vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt
nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng. Đây là chi tiết vô cùng đắt giá.
Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên
niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị.
Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà.
Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của
chính mình. Dòng nước mắt của A Phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị
lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà
thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con
người bị áp bức
Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình
tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ
miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì
A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất
phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do.
Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối
của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng
tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là
cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu
hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi
viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,
Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí
nhân vật của Tô Hoài. Đặc biệt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phác họa
cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã
man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật,
cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh
hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động.
Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu
mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã
khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người
đọc bao thế hệ.

Ai đã đặt tên cho dòng sông


“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi
viết về dòng sông Hương trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ
đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc
trưng của Huế này.
Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất
phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc
thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khoác lên bài kí một màu sắc,
âm hưởng riêng có của Huế.
Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố
Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Vẻ
đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Digan phóng khoáng, mê dại,
đầy sức hút.
Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kỳ vĩ “sông Hương tựa như một
bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều
ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa
những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết mà Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính
là đặc trưng của sông Hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.
Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông Hương tựa như “Cô gái di gan phóng
khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân
hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể
thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên
vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá vẻ
đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu
dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng
và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy
tính nghệ thuật như vậy.
Người lái đò Sông Đà
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt
Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng nền văn hoá dân tộc,
ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá trị. Nếu như trước cách mạng, văn
học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của những con người "một
thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn Tuân khiến người đọc rung cảm
bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị
với thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một thành công
tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.
Trong tùy bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu
dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương diện
mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi bóng hàng
tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm buông xuống mà
sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như được xem là "kẻ thù số
một của con người". Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước từ Vạn Yên về xuôi thật
mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô
chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ
trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành
những tiếng ghê rợn, khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như
tiếng dầu sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy
hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của
mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con con sông, không
làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến bao con thuyền đi qua
phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông Đà bố trí sẵn: “Không thuyền
nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”,
biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con
thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ
mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng dấp đẹp
đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn núi rừng Tây
Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang tràn với bao cảm xúc nồng
nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xuân". Vẻ đẹp của dòng sông thật yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng
người đến với những rung cảm trong tâm hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi
lúc, sông Đà cũng có những cảm xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ
tình của dòng sông còn được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không
trộn lẫn, bởi vậy dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn
say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn
xuống dòng nước sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi sắc
nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh
màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì
mỗi độ thu về".
Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn
chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn búp. Đó đây những đàn
hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm sương đêm, mọi vật như đang hòa
mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô điểm nên một vẻ đẹp gọi mời khiến lòng người
thổn thức: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ
trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói
riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng
còi sương?”. Sông Đà như một "người cố nhân" lại như một" người nghệ sĩ tài hoa". Qua
cách miêu tả thật độc đáo với những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng niu từ những
điều bình dị, nhỏ nhặt, Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà
say đắm lòng người với vẻ tuyệt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình
ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò ấy không phải là
một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã gần bảy mươi
tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu
chục lần". Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình suốt mười năm làm việc
đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như
đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở". Người
lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa: Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân
hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn", con người ông là con người của chốn
sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là những "củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với
con sông Đà dữ dội, với tác giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng
cho sức lao động của con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh
hoàng, những thạch trận hiểm nguy, ông không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú
hơn: "Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá... Và một mình
một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận bằng dũng
cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao động và cuộc sống
bình yên: "Thế là hết thác... Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hàng đá,
nướng ống cơm lam...".
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo,
một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những trang văn của tùy bút
“Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn mình, có
chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong lòng mình
những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một người nghệ sĩ suốt đời
đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của đời sống lao động và của dân tộc.

Vợ nhặt
Kim Lân được biết đến cũng chính là nhà văn của làng quê Việt Nam với người nông
dân Việt Nam. Có một cách viết chân chất, mộc mạc và ông lại chắt lọc và sáng tạo lên
những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Không sai chút nào khi người ta nói văn của
Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị và vô cùng đời thường. “Vợ nhặt” là
một trong những truyện ngắn vô cùng đặc sắc của Kim Lân khi ông đã tái hiện thành công xã
hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân thế nhưng trong đau khổ họ vẫn luôn
khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc, yêu thương.
Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm đã được ra đời trong thời
kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945. Có thể nói đời sống nhân dân lúc này đây bần
cùng, kẻ sống người chết nham nhảm. Và một khung cảnh thê lương đó dường như cũng đã
diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm biết bao nhiêu.
Độc đáo ngay từ khi đọc nhan đề của tác phẩm, Kim Lân dường như cũng đã dẫn
người đọc khám phá cuộc sống của những điều khốn khổ, cuộc sống bần hàn nhất. “Vợ nhặt”
chính là chi tiết và đồng thời cũng là tình huống truyện thắt nút làm nên cuộc đời của từng
nhân vật được hé mở ra.
Mở đầu truyện ngắn người đọc cũng nhận thấy được nhân vật anh Tràng “hắn bước đi
ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra,…” Nhà văn cũng chỉ miêu
tả một vài những chi tiết nhỏ nhưng cũng đã khiến cho người đọc cũng lại cảm nhận thấy
được diện mạo của người nông dân nghèo khổ trong xã hội. Có thể nhận thấy được chính vài
chi tiết tiêu biểu, Kim Lân đã vẽ được chính lên trước mặt người đọc hình ảnh người nông
dân nghèo đói khổ biết bao nhiêu, cái nghèo như làm họ xơ xác, bộn bề lo lâu đến cùng cực.
Tác giả Kim Lân dường như cũng đã thật khéo để xây dựng nên tình huống truyện
độc đáo và cũng vô cùng mới lạ, làm thay đổi cuộc đời của một con người. Người đọc như
cũng lại nhận thấy được chính tình huống Tràng “nhặt” được vợ như nới lên chính sự thê
thảm và vô cùng éo le của những con người chính trong xã hội lúc bấy giờ. Người đọc dường
như cũng lại cảm nhận thấy được chính hình ảnh vợ anh cu Tràng dần dần hiện ra dưới ngòi
bút miêu tả thật độc đáo của nhà văn đầy ám ảnh đó chính là chi tiết miêu tả “thị cắp cái
thúng con, đầu hơi cúi xuống và cái nón rách tàng tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa
mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Người đọc cũng nhận thấy được đây là một người đàn bà
nghèo khổ, và ở người đàn bà này không còn thứ gì giá trị gì thị lại khi đi cạnh một người
đàn ông nghèo khổ, và có một cuộc sống như thật cùng cực đúng là một đôi trời sinh vậy.
Thực sự cũng chính giữa cái đưa vợ “nhặt” được về nhà, Kim Lân đã xây dựng nên
khung cảnh đìu hiu, nó dường như cũng lại thật ảm đạm của xóm nghèo la liệt những xác
chết đói nữa. Thế rồi chính không khí lúc này đây cũng thê thảm, một buổi chiều nơi xóm
ngụ cư này bị cái đói, cái nghèo đè nén thật tang thương biết bao nhiêu. Cái đói, cái nghèo đó
như cũng đè nén sự sống đến chìm nghỉm khiến cho mọi người khi đọc câu văn cũng cảm
nhận thấy được có những phận nghèo thật long đong và bước vào đường cùng không lối
thoát. Khung cảnh mà Tràng dắt vợ về đã khiến cho điều đáng chú ý chính là cách những
người hàng xóm hỏi thăm Tràng về chính người đàn bà như đang đi bên cạnh Tràng. Người
đàn bà không còn vẻ chua ngoa như trước mà đã biết thẹn thùng đi sau Tràng khi về làm vợ.
Trong cảnh đói nghèo đó đến miếng ăn và bản thân mỗi người còn chẳng lo đủ thế mà lại lấy
vợ thì thực đây là một điều lạ. Điều lạ này lại lạ với tất cả mọi người, với lũ trẻ con, với tất cả
người dân xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ và cả với Tràng nữa.
Truyện ngắn còn đặc sắc và mang được tính nhân văn cao đó là khi trở về nhà, hình
ảnh bà cụ Tứ – mẹ Tràng dường như cũng lại được nhà văn Kim Lân khắc họa diễn biến và
có thể nhận ra được cũng chính sự chuyển đổi trong tâm tình thật tài tình và sâu sắc biết bao
nhiêu. Chắc chắn rằng chính người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền
hậu của bà cụ Tứ. Làm sao có thể quên được chi tiết đó chính là bà Tứ nhận ra được và hiểu
được mọi sự tình khi Tràng dẫn người vợ nhặt về. Những sự băn khoăn, những sự lo lắng của
bà cụ Tứ dường như cũng đã hiển hiện rõ hơn thế rồi bà cũng lại động viên các con tin tưởng
vào tương lai. Thế rồi hình ảnh đặc sắc “nồi cháo cám” chính là hiện thân của cái đói nghèo
đến cùng cực trong một gia đình ngay trong nạn đói. Tâm trạng của mỗi nhân vật như cũng
đổi khác và ai ai cũng mong vun vén cho hạnh phúc gia đình của mình ngay trong nạn đói đó.
Người đọc cũng lại nhận thấy được chính bên cạnh đó hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở
ngay cuối truyện ngắn đã mang đến chút niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn
mà nhà văn Kim Lân muốn thể hiện.
Có thể nhận thấy rằng chính bằng ngòi bút miêu tả chân thực, sinh động, cách khắc
họa tâm lí nhân vật sắc sảo và cũng vô cùng độc đáo và cốt truyện “Vợ nhặt” mang được đầy
bất ngờ. Kim Lân dường như cũng đã vẽ lại trước mắt người đọc khung cảnh đói nghèo tràn
lan của xã hội Việt Nam những năm 1945. Thông qua đó tác giả cũng nhấn mạnh tình yêu
thương giữa người với người luôn bất diệt ngay trong cả lúc cái chết chiếm lĩnh.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt


Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn
tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương
nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại
những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỷ.
Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương
Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế
mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên
che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn
và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên. Trương Ba là một
người hiền lành, chăm chỉ, có học thức lại giỏi đánh cờ nhưng lại chết một cách vô lí. Cái
chết của Trương Ba chính do bởi sự vô tâm, tắc trách nơi Nam Tào. Sau đó, để sửa sai, Nam
Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại là nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.
Nhưng không ngờ sự sửa chữa ấy lại dẫn tới một sai lầm trầm trọng hơn, Trương Ba
rơi vào hẳn đời bi kịch khi phải sống trong xác hàng thịt – một con người hoàn toàn đối lập
với mình. Sau cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết, trả lại thân xác vay mượn cho Hàng
Thịt bởi vì ông muốn “tôi muốn được là tôi của toàn vẹn” bởi “sống thế này, còn khổ hơn là
cái chết”.
Và từ đó, vĩnh viễn “không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng
thịt” nữa”. Qua đó, vở kịch đã mang đến một thông điệp to lớn: được sống làm người là quý
giá thật, nhưng càng quý giá hơn khi được sống là chính mình, theo đuổi những giá trị mình
mong muốn, sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.
Với cốt truyện như trên, trích kịch xoay cuộc đối thoại nảy lửa giữa hồn và xác.
Nguyên nhân xuất phát từ việc Trương Ba phải chịu sự lấn át của thể xác thô lỗ, chiều theo
những nhu cầu tầm thường, dung tục mà khiến tâm hồn thanh cao bị nhiễm độc, tha hóa.
Hàng thịt bây giờ là cái bình để chứa đựng linh hồn Trương Ba, hàng thịt đòi hỏi những nhu
cầu ăn uống rượu thịt, tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…và cả đời sống vợ chồng mà Trương Ba
cho là thô phàm, thấp kém.
Trong khi Trương Ba càng cố gắng chối bỏ, đề cao sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn thì hàng thịt lại càng khinh khi, phỉ nhổ: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi,
chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!” Qua
đó, Lưu Quang Vũ đã gửi đến cho người đọc những triết lí nhân sinh quý giá hai tấn bi kịch
của cuộc đời Trương Ba.
Bi kịch thứ nhất của Trương Ba là bi kịch sống, sống gửi, không được là chính mình.
Nghịch cảnh trớ trêu, sự hoán đổi bất ngờ đã xáo trộn hiện thực. Trích kịch mở đầu với
những lời kêu gào thống thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”
Trương Ba đang độc thoại trước cảnh bế tắc, u uẩn không lối thoát của hiện tại. Thân xác
kềnh càng, bản tính cục cằn thô lỗ của hàng thịt đang dần dần lấn át đi tâm hồn nhân hậu,
thanh cao của chính ông.
Đau khổ, quẫn bách, dày vò không ngờ lại trở thành cuộc đời của Trương Ba. Sự hoán
đổi quá chênh lệch, linh hồn thanh cao gửi vào xác thân phàm tục đã khiến cho ông muốn bứt
mình ra khỏi hiện tại dù chỉ là trong khoảnh khắc: “Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ,
để nó được tách khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!”
Trong chán nản tuyệt vọng, sự khát khao tách bạch trở nên tha thiết hơn bao giờ hết,
tiếng kêu gào thống thiết kia chính là lời cầu cứu của một linh hồn khát khao được nguyên
vẹn là mình. Và cũng trong giây phút đó, Hồn và Xác đã được tách ra, cuộc hội thoại giữa
Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt được bắt đầu.
Ta thấy trong cuộc đối thoại đặc biệt đó, Hồn Trương Ba đã bị nhạo báng, thách thức
và đôi lần đuối lý trước lời nói hùng hồn của Xác hàng thịt. Lời nói của Hồn Trương Ba vô
cùng ít ỏi và tất cả đều xoay quanh việc bảo vệ sự trong sạch của chính mình, đề cao tâm hồn
cao thượng, lối sống nhân hậu, thanh cao và lên án xác thân hàng thịt đã làm ông dơ bẩn, tha
hóa. Xác trước những buộc tội đó không hề đuối lý mà ngược lại, còn ung dung, ngạo mạn
thách thức linh hồn.
Trước lời khinh miệt thân xác vô hồn, đui mù “mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”,
hàng thịt đã nghiễm nhiên đáp lại: “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm
khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!” Ta thấy, mỗi lời hàng thịt nói ra đều buộc Trương
Ba phải thừa nhận có sự tồn tại của thể xác, hơn nữa, ông đang bị thể xác mà mình khinh khi,
xem thường kia trói buộc.
Hồn im lặng và đau đớn thừa nhận sự thắng thế của Xác, nhiều lần phải bất lực đáp
lại: “Im đi”, “Ta… ta… đã bảo mày im đi!”, “Ta không muốn nghe mày nữa!”,… Trong suốt
cuộc đối thoại, Xác hàng thịt lần lượt kể lại những hành động, những việc làm, những thói
quen nhuốm màu phàm tục như “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng
rực, cổ nghẹn lại…”, “ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi
không?” để cuối cùng khẳng định một điều chắc nịch với Hồn Trương Ba: “Nhưng tôi là cái
hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!”.
Bên cạnh đó, Xác hàng thịt còn lần lượt kể lể về những lí lẽ vô cùng thuyết phục như
“những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con
người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”, kể về những
“trò chơi tâm hồn” mà mình đã nhân nhượng với Trương Ba. Cuộc đối thoại đến hồi kết, hồn
Trương Ba cam cảnh thua cuộc và phải quay về với xác hàng thịt.
Qua tấn bi kịch sống nhờ sống gửi này, chúng ta thấy hình tượng Hồn Trương Ba và
Xác hàng thịt chính là ẩn dụ cho hai lối sống đối lập, một bên đại diện cho sự thanh cao, nhân
hậu, khát vọng sống cao khiết, một bên là sự tầm thường, dung tục. Đó đồng thời cũng là sự
đấu tranh, đối thoại gay gắt trong một con người. Khi con người sống trong thể xác tầm
thường dung tục thì ắt sẽ bị nó ngự trị. Ngược lại, nếu chỉ một mực chăm chút linh hồn mà
xem thường thể xác thì thể xác cũng nhếch nhác, tầm thường.
Bi kịch thứ hai của Trương Ba là bi kịch bị người thân cự tuyệt. Có thể nói, đây mới
là tấn bi kịch đau đớn nhất, sâu sắc nhất của Trương Ba. Ông tuyệt vọng, khổ đau không chỉ
bởi sự thay đổi ngỡ ngàng đến không thể nhận ra của chính mình mà còn bởi sự xa lánh, rời
bỏ của người thân. Khoảng cách gia đình, những vết rạn nứt đã mơ hồ xuất hiện.
Từng nhớ, trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, từng có một Chí Phèo bị
người thân bỏ rơi từ lúc nhỏ, bị Thị Nở ngoe nguẩy cự tuyệt trên con đường hoàn lương để
rồi đi vào một hướng giải thoát mang tính chất đánh đổi: đó là mạng sống, là cái chết. Hoàn
cảnh Trương Ba cũng tương tự khi vợ, khi cháu và khi cả con dâu lần lượt rời xa ông. Làm
sao Trương Ba có thể thanh minh cho hoàn cảnh hiện tại của chính mình? Làm sao ông có thể
giải quyết sự mâu thuẫn giữa hồn và xác đang ngự trị?
Tình thân bị đặt vào giữa bi kịch nghiệt ngã, càng đẩy Trương Ba rơi sâu hơn vào bế
tắc của chính mình. Người vợ mà ông hết mực yêu thương cũng không hiểu được ông: “Ông
bây giờ còn biết đến ai nữa!”, đòi bỏ ông ra đi “để ông được thảnh thơi… với cô vợ người
hàng thịt”, “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”… Mỗi lời
nói ra của người vợ như một vết cắt, cắt sâu vào nỗi đau của Trương Ba. Ngay cả đứa cháu
ông – Gái cũng đã lên tiếng khước từ, phủ nhận “Tôi không phải là cháu của ông!”
Chính lời nói của đứa trẻ ngây thơ, vô tội đã cáo buộc đanh thép “bàn tay giết lợn của
ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới
ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng cả cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”…Nó xua
đuổi ông như đuổi một tên hung thần, một tên ác quỷ, nó gọi ông bằng những danh xưng xấu
xa, bằng lão đồ tể.
Cuối cùng, đến cả chị con dâu – người mà ông tin tưởng nhất cũng đã tỏ ra nghi ngờ:
“mỗi ngày con thấy thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần
đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Chị vẫn tự nhủ mình phải kính
trọng, phải yêu thương, phải cảm thông cho người bố chồng bất hạnh nhưng hiện thực giờ
đây là cửa nhà tan hoang, là nỗi đau khổ của từng người từng người một “nhưng thầy ơi, làm
sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”
Bây giờ đây, Trương Ba hoàn toàn tuyệt vọng, ông không còn chút niềm tin nào để
bấu víu, không còn thiết tha gì một mạng sống đã làm khổ chính mình, hành hạ người thân.
Bi kịch nhường ấy là quá đủ. Nỗi đau này phải tiếp tục cho đến bao giờ, Trương Ba “mặt lặng
ngắt như tảng đá”, từ chối bỏ, nghi ngờ, chịu ép vế nay đã phải hoàn toàn thừa nhận sự thắng
thế của thân xác. Bi kịch bị người thân cự tuyệt đã giúp ông có những suy nghĩ dứt khoát,
những hành động quyết liệt nhất để tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Cuối cùng, ông đã xin
với Đế Thích cái chết bởi “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.
Sở dĩ Trương Ba từ chối cơ hội cuối cùng mà Đế Thích ban cho, đó là nhập hồn vào
xác Cu Tị vừa mới chết là vì ông không muốn một lần nào nữa xảy ra bi kịch oái oăm tương
tự. Làm có thể sống một cách bình thường, làm sao có thể dung hòa sự khi bên ngoài và bên
trong hoàn toàn trái ngược?
Tâm hồn của Trương Ba là một tâm hồn hoàn toàn khác so với thân xác đang trú ngụ
kia. Sẽ chẳng có một lối thoát, một cứu cánh nào vẹn toàn cả “trẻ con phải ra trẻ con, người
lớn phải ra người lớn”. Đế Thích quan niệm cuộc sống khác ông, sống chỉ đơn giản là không
chết, chẳng cần phải vẹn toàn, phải ý nghĩa, phải như mong muốn gì cả “tôi đâu có được sống
theo những điều tôi nghĩ bên trong”, “dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông”.
Cái chết của Trương Ba chính là cuộc hồi sinh ngắn ngủi trong lòng những người
thân, khi người chồng, người ông, người cha kính yêu, hiền lành khi xưa đã quay trở về. Từ
bỏ cuộc sống giả tạo, mệt mỏi, Hồn Trương Ba quay về với nếp nhà hiền hậu ban đầu, với
cuộc sống của chính mình, với bậc cửa ở nhà, với ánh lửa, với cầu ao, với cơi trầu, con ao…
Trương Ba đã nói một câu hết sức bình thường giản dị nhưng lại vô cùng thấm thía
cảm động: “Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những
điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có nhiều đặc điểm nghệ thuật nổi trội và đã
gặt hái thành công rực rỡ ở những buổi công diễn sân khấu kịch. Từ cốt truyện dân gian, Lưu
Quang Vũ đã lồng ghép vào triết lí nhân sinh quý giá về cuộc sống, cách sống của mỗi con
người. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, xúc động và gay cấn qua các
màn độc thoại, đối thoại đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.
Tóm lại, thông qua trích kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ đã khắc
họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống
thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Và trong
bất kì hoàn cảnh nào, con người phải biết đấu tranh vươn lên những giá trị chân thiện mỹ,
biết tự hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện chính là thông điệp nhân sinh quý giá mà
vở kịch mang lại.

Việt Bắc
(trong tờ VB)

Đất Nước
Quê hương, đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như những
nhà thơ cùng chọn điểm nhìn về đất nước bằng những hình ảnh núi sông , thiên nhiên kì vĩ,
thơ mộng hay những chiến công vẻ vang của dân tộc, thì đến Nguyễn Khoa Điềm lại như
cánh chim lạc bầy khi chọn điểm nhìn bằng những hình ảnh rất bình dị, gần gũi để miêu tả
đất nước. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành
thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đoạn trích “ Đất nước” là một bài thơ tiêu biểu
được trích trong tập thơ “ Mặt đường khát vọng”, đây được xem như một khúc tráng ca để
nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về những gì nhân dân đã cống hiến cho đất nước
.Đồng thời thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính
luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức,tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân
dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả sáng tác và hoàn thành ở chiến khu
Trị-Thiên vào năm 1971. Đoạn trích “Đất nước” là phần đầu chương V của bản trường ca
này. Đoạn trích là những suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều góc độ , với
tư tưởng chủ đạo là “Đất nước của nhân dân”. “Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư ,
cảm xúc lắng đọng thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu
của nhân dân”, có lẽ vì thế mà tư tưởng “Đất nước của nhân dân” được nhà thơ gửi gắm vào
đứa con tinh thần của mình.
Đất nước vốn được xây dựng nên bởi những giá trị vĩnh hằng , được vun đắp và giữ
gìn qua nhiều thế hệ tiếp nối . Vì vậy mà mở đầu bài thơ tác giả đã lý giải về nguồn gốc của
đất nước một cách đầy mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi , thân quen :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó..”
Câu thơ mộc mạc, chân thành ,giản dị như một lời trò chuyện từ sâu thẳm trái tim nhà
thơ muốn gửi tới người đọc. Danh từ “ Đất nước” ở đây được viết hoa tạo nên cảm giác
thiêng liêng, thành kính ,từ đó mà đất nước trong trái tim mỗi người càng trở nên thiêng liêng
hơn cả. Cách nói “ Khi ta lớn lên” là để sự trưởng thành của mỗi người,song song với đó là
sự trưởng thành trong nhận thức, là ý thức trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất
nước, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ba chữ “ đã có rồi” vừa là lười khẳng định vừa bộc bạch
niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước của nhà thơ.
Sau lời khẳng định về sự tồn tại và phát triển lâu đời của đất nước, nhà thơ đã lí giải
nguồn gốc của đất nước một cách đầy mới mẻ nhưng rất thuyết phục. Đất nước có trong
“ngày xửa ngày xưa”, bắt đầu với “miếng trầu”, “lớn lên khi dân biết trồng tre”. Cụm từ
“ngày xửa ngày xưa” gợi cho ta nhớ đến những câu chuyện cổ tích bà, mẹ kể khi còn thơ bé
như: con Rồng cháu Tiên , Thạch sanh , Tấm Cám,…Chính những câu chuyện ấy càng làm ta
thêm xao xuyến,bồi hồi, bồi đắp cho ta tình cảm với quê hương, đất nước. Bởi truyện cổ tích
nước ta mang đầy tính nhân văn, dân tộc, ấy vậy mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng từng viết:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn được thể hiện ở nét sống đơn giản nhưng
đậm đà bản sắc dân tộc của những người bà, người mẹ Việt Nam. Đó là tục ăn trầu , hình ảnh
“miếng trầu” gợi lên mối quan hệ tình nghĩa , truyền thống tốt đẹp của người dân nước ta.
Trong các tục cúng lễ, miếng trầu, quả cau là biểu tượng cho lòng thành của con cháu dâng
lên tổ tiên, nó còn là biểu tượng của hôn nhân,tình yêu , gia đình , là mối quan hệ vợ chồng
thủy chung son sắt.
Một đất nước không thể thiếu truyền thống và một trong những truyền thống quý báu
của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước “ đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng
tre đánh giặc”. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh
giặc-một vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam.Hình ảnh cây tre cũng gợi lên
những vẻ đẹp phẩm chất của nhân dân ta: thật thà, chất phác, kiên cường, dũng cảm kiên
quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm, tác giả lại tiếp tục khai thác thêm những nét
đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt Nam. Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ khi
“búi tóc sau đầu”,ca dao xưa cũng từng nhắc tới hình ảnh này :
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”
Đạo lí ân nghĩa ngàn đời của cha mẹ cũng được nhà thơ khéo léo đưa vào bài thơ “cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” như một cách riêng để khẳng định tình nghĩa son
sắt ấy là nguồn gốc của mọi tình yêu thương , như suối nguồn chảy qua bao thế hệ.
Ngoài ra , câu thơ “ cái kèo cái cột thành lên” còn gợi nhắc đến một nền văn hóa của
người Việt đó là truyền thống làm nhà bằng kèo, cột . Đất nước ta với nền văn minh lúa nước
cùng truyền thống cần cù lao động “ một nắng hai sương” để làm ra hạt gạo trắng ngần , hình
ảnh ấy đã gợi lên bao sự lam lũ, cơ cực của người nông dân Việt Nam . Qua đó tác giả cũng
khéo léo nhắc nhở thế hệ sau này về truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn”, ăn hạt cơm dẻo
thơm hôm nay phải biết nhớ ơn công lao của người làm ra nó. Khép lại khổ thơ đầu , nhà thơ
khẳng định sự ra đời của đất nước một cách đầy tự hào “ Đất nước có từ ngày đó…” , ngày
nào không cụ thể nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống , có phong tục tập
quán,có nền văn hóa riêng. Đoạn thơ được vận dụng khéo léo những chất liệu văn hóa dân
gian như phong tục ăn trầu, sự tích Thánh Gióng , nền văn minh lúa nước…. Nhà thơ cũng
sáng tạo nhuần nhuyễn thành ngữ , ca dao ,tục ngữ cùng các biện pháp điệp từ, so sánh … Tất
cả đã tạo nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Cũng viết về những
truyền thống của đất nước ta lại liên tưởng tới những vần thơ của nhà thơ Tố Hữu, thế nhưng
ông lại khai thác sâu hơn về truyền thống đánh giặc của nhân dân ta :
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên, đánh đuổi giặc Ân.
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.”
“Chính chiều sâu của những giá trị văn hóa đã tạo nên nét phong cách riêng làm nên
gương mặt thơ Nguyễn Khoa Điềm”( Nguyễn Văn Nam). Bởi lẽ vậy, ông cũng đã thể hiện
những cảm xúc, suy tư để rồi cắt nghĩa khái niệm đất nước mới mẻ từ nhiều phương diện như
địa lí, lịch sử, văn hóa trong hai mươi câu thơ tiếp theo một cách đầy đặc sắc. Ở sáu câu thơ
đầu, tác giả đã giải thích về đất nước theo lối chiết tự đi từ cái riêng đến cái chung,qua
phương diện địa lý:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””
Đất nước trong định nghĩa của nhà thơ không phải là thứ gì đó cao siêu ,xa vời mà
đơn giản đó là không gian sinh hoạt gần gũi với mỗi người “ Đất là nơi anh đến trường”, “
nước là nơi em tắm”. Ở đây, tác giả đã cắt nghĩa hai từ “ đất” , “nước” để xoáy sâu vào nhiều
mặt của đất nước. Đất nước gắn liền với tuổi thơ mỗi người, là con đường đi học,là ngôi
trường cung cấp hành trang,tri thức tương lai,là dòng sông, cánh đồng nương ngô,… gần
gũi,quen thuộc.
Không chỉ vậy, Đất nước còn gắn với tình yêu đôi lứa ,là chốn hẹn hò của những đôi
uyên ương. “Nơi ta hẹn hò” đó là không gian của làng quê thanh bình, là giếng nước, gốc
đa…tất cả hòa quyện hài hòa với nhau. Nếu ở hai câu thơ trên Đất nước bị chia thành hai từ
riêng biệt thì ở hai câu thơ tiếp theo đất nước lại hòa lại làm một,trở thành không gian hẹn
hò,nâng bước, minh chứng cho tình yêu đôi lứa. Khi hai người yêu nhau thì đất nước cũng
cùng sống trong nỗi nhớ thầm của cả hai: “ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”, câu thơ mang đậm đặc trưng của ca dao xưa:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”
Vận dụng hình ảnh trong ca dao, nhà thơ đã ngầm khẳng định: đất nước cũng là nơi
cất lên những câu ca dao hằng ngày trong mỗi miền quê yên bình. Đó là một ý thơ đẹp, bởi lẽ
mấy ai lớn lên từ vành nôi mà không nghe những lời ru, những câu ca dao ngọt ngào của mẹ.
Năm câu thơ tiếp theo , Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải sâu sắc hơn về đất nước trên
phương diện địa lý:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Đất nước gắn với không gian tráng lệ, mênh mông của một vùng lãnh thổ. Không chỉ
mượn hình ảnh trong ca dao quen thuộc, ở ý thơ trên tác giả tiếp tục sử dụng những câu dân
ca Huế sâu lắng, ý nhị như “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “ con cá ngư ông
móng nước biển khơi” để nêu quan niệm về đất nước. Những hình ảnh ấy gợi cho ta liên
tưởng về dãy Trường Sơn hùng vĩ, về Biển Đông mênh mông ….tất cả tạo nên một đất nước
giàu tài nguyên thiên nhiên, rừng vàng biển bạc .
Đất nước hùng vĩ ấy còn gắn với không gian sinh tồn thiêng liêng của dân tộc ,là
chiều dài thời gian “ đằng đẵng” với bao thế hệ cha anh thay nhau nằm xuống bảo vệ, giữ gìn
đất nước,toàn vẹn lãnh thổ. Lý Thường Kiệt cũng đã nói :
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Nhân dân ta từ bao đời nay đều có truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó bảo vệ
từng tấc đất ,tấc vàng của nước non. Vốn là người có kiến thức am hiểu sâu rộng, cách lý giải
của nhà thơ về đất nước thật tinh tế, sâu sắc.
Vẫn theo mạch cảm xúc ấy, nhà thơ tiếp tục cắt nghĩa đất nước trên phương diện lịch
sử, cội nguồn văn hóa dân tộc qua những câu thơ tiếp theo :
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.””
Tác giả nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi đất lành chim đậu, nơi có Rồng thiêng
ngự trị, có cội nguồn lâu dài gắn với truyền thuyết dân gian. Đó là truyền thuyết “ Con Rồng
cháu Tiên”, từ đó ta càng tự hào là con Rồng, cháu Tiên, là con cháu Vua Hùng. Đất nước
còn là sự tiếp nối giữa các thế hệ: quá khứ- hiện tại – tương lai. “Những ai đã khuất” là những
người trong quá trình gây dựng đất nước đã anh dũng hy sinh, “những ai bây giờ” trong hiện
tại-tương lai những thế hệ người dân cứ tiếp nối từ đời này sang đời khác , tất cả đều ý thức
sâu sắc về sứ mệnh của mình là phải bảo vệ dân tộc toàn vẹn. Hơn hết đó là ý thức về trách
nhiệm duy trì giống nòi, từ đó góp phần vào một nhiệm vụ to lớn,thiêng liêng đó là “gánh vác
phần người đi trước để lại”, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước những tinh hoa dân tộc và “dặn
dò con cháu đời sau”, biết “cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành
kính , thiêng liêng mà cũng rất đỗi tự hào về truyền thống nguồn gốc cha ông ta. Người dân
Việt Nam dù đi khắp bốn phương nhưng trong tâm linh họ luôn có một mái nhà chung để
quay về “dù chim ham trái chín ăn xa , thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về”. Thành công
của đoạn thơ là sự vận dụng khéo léo chất văn hóa, văn học dân gian khiến cho hình tượng
đất nước trở nên gần gũi ,giàu sức gợi cảm. Điểm nổi bật ở nghệ thuật trong khổ thơ là lối
giải thích khi tách danh từ đất nước thành hai yếu tố riêng, khi lại kết hợp để làm nổi bật, lý
giải sâu sắc hơn về nguồn gốc,sự phát triển của đất nước , vừa cụ thể vừa khái quát.
Khổ thơ tiếp theo , Nguyễn Khoa Điềm đã khơi dậy cho người đọc trách nhiệm đối
với Đất nước trong mỗi cá nhân, về mối quan hệ cá nhân, cộng đồng, sự tiếp nối của các thế
hệ trong một đất nước :
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”
Nhà thơ Sóng Hồng từng nhận xét: “Thơ là tình cảm, lí trí kết hợp một cách nhuần
nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ
qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường” , qua những dòng thơ đầy trăn
trở của Nguyễn Khoa Điềm ta thấy ở đó không chỉ đơn thuần là những vần thơ mà còn là tư
tưởng, cảm xúc ,tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi gắm tâm tư của mình vào đất nước , đất
nước trong “ anh và em” hôm nay. Vì sao “ trong anh và em” lại có một phần của đất nước?
Vì đất nước là nơi ta sinh ra , nơi ta lớn lên ,sinh hoạt và học tập ,là chủ quyền lãnh thổ ,là
máu thịt thiêng liêng của chúng ta. Vì vậy nên trong ta luôn có một phần của lãnh thổ.
Bốn câu thơ tiếp theo tiếp tục mở rộng ý cho những câu thơ đầu, ý thơ được viết theo
cấu trúc câu điều kiện “ khi…đất nước” kết hợp với điệp ngữ “cầm tay”đã mang đến những ý
nghĩa cao đẹp. Khi hai người cầm tay nhau là lúc thấu hiểu được nhau,yêu thương ,san sẻ mọi
khó khăn ngọt bùi với nhau .Nói cách khác, khi anh và em cầm tay là đã có sự giao thoa cảm
xúc , giao thoa giữa tình yêu đất nước giữa hai trái tim. Ý thơ gợi cho ta tinh thần đoàn kết
giữa con người với con người “Một cây làm chẳng nên non , ba cây chụm lại nên hòn núi
cao”. Nhất là trong những năm tháng kháng chiến , đất nước bị chia cắt Bắc –Nam thì cái “
cầm tay’ giữa mọi người thật ý nghĩa biết bao. Sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi
cá nhân đối với đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình
vào thế hệ tương lai, những mầm non của đất nước. Ước mơ về thế hệ sáu, thế hệ tương lai sẽ
“mang đất nước đi xa”,kế tụng phát huy nền tinh hoa văn hóa nước nhà là điều bất cứ ai cũng
mong muốn.Lời nhắn nhủ của tác giả như một lời mong ước tha thiết :hãy đưa đất nước tiến
về phía trước, đến “những ngày tháng mơ mộng”, tháng ngày tự do,hòa bình…
Bốn câu thơ cuối nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ giữa đất nước và tâm hồn
con người, cũng là trách nhiệm của người dân với đất nước. Cấu trúc thơ đầy suy luận “ Đất
nước là…’’ là tiêu đề, từ tiêu đề ấy “phải biết…để làm nên”. Câu thơ giàu suy luận nhưng
không khô khan,cứng nhắc. Các từ ngữ mang tính biểu tượng cao “ máu xương”, “gắn bó”,
“san sẻ”, “ hóa thân”, “dáng hình”…mang ý nghĩa ẩn dụ cho sự hi sinh, mất mát . Điệp từ
“phải biết” cùng các động từ giàu biểu cảm, nhằm nhấn mạnh tinh thần tự nguyện của ta đối
với sứ mệnh đất nước. Những lời nhắn nhủ chân thành,tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm làm ta nhớ tới những câu thơ trong bài “ Khát vọng tuổi trẻ”: “ đừng hỏi tổ quốc đã làm
gì cho ta ,mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, rồi lại day dứt với những khát
vọng cống hiến trong bài “ Tự nguyện”:
“Nếu là chim,tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người,tôi sẽ chết cho quê hương”
Tư tưởng Đất nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử
dân tộc nói chung và văn học nói riêng. Điều này đã được thể hiện qua nhiều cây bút tiêu
biểu như Đất nước( Nguyễn Đình Thi), đường tới thành phố ( Hữu Thỉnh)… thế nhưng khi
đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng đất nước của nhân dân mới thành tư
tưởng chủ đạo. Tư tưởng ấy là cái nhìn đầy chiều sâu mang tính phát hiện mới mẻ về không
gian địa lý: thiên nhiên,đất nước trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết :
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Tám câu thơ đầu, tác giả đã nêu ra những địa danh, thắng cảnh, in đậm trong dấu ấn,
lối sống của nhân dân từ miền xuôi đến miền ngược: núi vọng Phu , hòn Trống Mái , vịnh Hạ
Long ,đất tổ Hùng Vương và những địa danh mang tên : ông Đốc ,ông Trang , bà Đen , bà
Điểm…đâu đâu cũng mang bóng hình nhân dân. Bằng biện pháp liệt kê, nhà thơ đã diễn tả
hình ảnh nhân dân đã hóa thân thành các danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp cho đất nước thêm
phần rõ nét. Trước tiên nhà thơ đưa chúng ta đến miền Bắc thân yêu với sự xuất hiện của núi
Vọng Phu, hòn Trống mái, biểu tượng cho tình cảm vợ chồng thủy chung, son sắt , bất chấp
sự khắc nghiệt của thời gian. Ta quên sao được vẻ đẹp của người anh hùng Thánh Gióng với
chứng tích “ Trăm ao đầm để lại” ở vùng đất Sóc Sơn, thể hiện sự bất khuất,tinh thần yêu
nước nồng nàn ,khí phách anh hùng của con người nước Nam . Hay phải nhắc tới quần thể
núi non hùng vĩ “ chín mươi chín con voi” bao quanh Hi cương – Phú Thọ nơi đền thờ vua
Hùng ngự trị …Tất cả đã nhắc nhở chúng ta về truyền thống đánh giặc,yêu nước ,xây dựng,
bảo vệ đất nước của cha ông. Ở miền Trung,nhà thơ lại đưa ta về mảnh đất Quảng Ngãi để
chiêm ngưỡng “núi Bút non Nghiên” do những cậu học trò nghèo dựng nên, đó là biểu tượng
của truyền thống hiếu học do nhân dân ta góp nên cho đất nước bao tên tuổi. Cuối cùng,
Nguyễn Khoa Điềm đưa ta về vùng đất phía Nam với dòng sông Cửu Long hiền hòa , tươi
đẹp: “ những con rồng nằm im dòng sông xanh thẳm”, hay là “ ông Đốc, ông Trang,Bà đen ,
Bà Điểm…” – tên đất , tên làng đều mang hình bóng của nhân dân ta đã góp phần xây dựng
nên nét đẹp văn hóa , truyền thống để con cháu mai sau chiêm ngưỡng và tự hào.
Từ đó tác giả đã đưa đến một kết luận: Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt
tên, ghi dấu ấn vào cuộc đời mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông, đặc biệt là họ đã hóa thân vào
bóng hình đất nước như một sứ mệnh thiêng liêng. Bóng dáng của nhân dân gắn liền với đất
nước “và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi – Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một
lối sống ông cha”. Họ đã góp phần tạo nên những giá trị văn hóa,phong tục tập quán,truyền
thống vẻ vang của dân tộc. Không chỉ đơn giản là đóng góp tên tuổi mà ở đây là góp cả cuộc
đời và số phận của mình. Ý thơ tuy đơn giản mà lại vô cùng sâu sắc khiến người đọc hình
dung đất nước một cách gần gũi, thân thuộc hơn.
Sau khi bày tỏ những suy tư về quan điểm “ Đất nước của nhân dân” thì nhà thơ tiếp
tục nhìn vào chiều dài lịch sử trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta
đầy niềm tự hào,thán phục. Ở chín câu thơ tiếp theo ,nhà thơ nhấn mạnh tới những con người
vô danh, không tên, không tuổi nhưng đã tạo dựng nên đất nước yên bình như hôm nay :
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã sử dụng lời gọi đầy tâm tình “ em ơi em” như đi vào
cảm xúc của tất cả mọi người. “Em” là nhân vật trữ tình không xác định , cũng có thể hiểu
đây là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình . Nhà thơ đang nhìn vào lịch sự
bốn ngàn năm và tự hào về những cô gái,những chàng trai xung phong ra mặt trận mà thời
nào cũng có.Cách dùng từ “ Năm tháng nào” và điệp từ “ người người lớp lớp” chỉ ý thức nối
tiếp nhau làm nên lịch sử dân tộc. Từ đó , nhà thơ rút ra quan niệm rằng ; những người làm
nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những người dân vô danh , bình
dị .Những phẩm chất đáng quý của họ hiện lên qua từng sự kiện lịch sử , họ “cần cù làm
lụng” , hay khi đất nước có giặc ngoại xâm thì họ vẫn sẵn sàng xung phong đánh giặc , bảo
vệ quê hương , đất nước .
Và “ ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” làm ta liên tưởng đến hình ảnh Bà
Trưng , Bà Triệu, chị Võ Thị Sáu, chị út Tịch…Tuy họ là những người con gái nhưng khi đất
nước có giặc xâm lăng thì họ vẫn đứng lên chống trả quyết liệt. Từ đó đã làm nên vẻ đẹp của
người phụ nữ Việt Nam “ giỏi việc nước,đảm việc nhà”.
Nhìn vào lịch sử nước ta, nhà thơ đã không nhắc lại những vị Vua hùng mà những
người được kể lại là những người vô danh trong cuộc sống đời thường, nhưng họ lại góp
phần làm nên một đất nước hòa bình, tự do như hôm nay:
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Ở đây đối tượng mà nhà thơ nhắc tới là những “ người con gái,con trai” , điệp từ “
con gái- con trai” được lặp lại ba lần đã nhấn mạnh vẻ đẹp tầm quan trọng của thế hệ trẻ ,thế
hệ sẽ tiếp nối truyền thống cha ông. Trong “ bốn nghìn lớp người” ấy , có vô số những con
người “không ai nhớ mặt đặt tên” những công lao và sự nghiệp họ để lại là một phần của đất
nước ngày nay, họ đã hóa thân vào đất nước như một phần máu thịt. Đọc những câu thơ trên ,
ta lại nhớ tới những vần thơ của Nguyễn Đình Thi , cũng viết về những con người không tên
bất tử , góp phần tạo dựng đất nước:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”
Không những thế,những người vô danh, bình dị ấy còn giữ gìn và truyền lại cho các
thế hệ sau mọi giá trị văn hóa,văn minh,tinh thần cũng như vật chất của đất nước , dân tộc :
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”
Ở đoạn thơ này, điệp từ “họ” cùng cách nói “ họ giữ”, “họ truyền”, “ họ đắp đập be
bờ” cho thấy sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân
dân đã mang đến giá trị vật chất,văn hóa tinh hoa của dân tộc từ nền văn minh lúa nước.
Không chỉ vậy họ còn mang những giá trị tinh thần quý báu “ họ truyền giọng điệu cho con
tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc ,phong tục,tập quán ,nét đẹp quê hương trên mọi nẻo
đường. Họ còn “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân” , động từ “gánh’ ở đây
làm cho tình yêu quê hương,đất nước trong trái tim nhân dân càng thêm tha thiết. Nhân dân
còn là những người sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước trước những thế lực xâm lăng:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Cấu trúc hô ứng “ có…thì” cùng cách điệp liên tiếp hai lần trong câu thơ với sự phối
hợp các động từ mạnh “ chống, vùng lên,đánh bại…” làm cho giọng thơ thêm khỏe
khoắn,cương quyết,đanh thép.Qua đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vai trò của lịch
sử bằng những hình ảnh thơ mộc mạc , giản dị, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình khẳng định
sức mạnh lớn lao của nhân dân trong sự nghiệp gây dựng đất nước.
Có thể nói “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca về sự nhận thức về
nguồn gốc sâu xa của đất nước, về tâm hồn, ý chí của nhân dân. Ở mười câu thơ cuối,tác giả
lại càng khẳng định chắc chắn hơn tư tưởng “ đất nước là của nhân dân”, Đất nước của ca dao
thần thoại:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”[11]
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội[12]
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
Một lần nữa tác giả lại đưa ra lời khẳng định chắc nịch “ đất nước này là đất nước của
nhân dân”, lời khẳng định ấy là nguồn cảm hứng cho cả đoạn thơ nói riêng và cho đoạn trích
“ Đất nước” nói chung . Ở đó còn là tình cảm chân thành , mãnh liệt của nhà thơ đối với đất
nước. Hơn ai hết nhà thơ hiểu rằng để có được đất nước như ngày hôm nay thì nhân dân
chính là những người đã đổ máu xương làm nên hình hài của đất nước .Vì thế đất nước không
của riêng ai mà là của nhân dân. Câu thơ thứ hai nhà thơ tiếp tục khẳng định tư tưởng ấy một
lần nữa, điệp cụm từ “đất nước của nhân dân” như càng nhấn mạnh về sứ mệnh thiêng liêng
của nhân dân đối với đất nước. Không chỉ vậy, “ đất nước của ca dao thần thoại” là hình ảnh
hoán dụ cho văn hóa , dân gian, mà văn hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân
gian ,là nơi lưu trữ tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn ,tính cách của nhân dân. Chính vì vậy ,nhà thơ
thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân” là hoàn toàn có căn cứ bởi đất nước được tạo
dựng ,được giữ gìn, bảo vệ , tồn tại và phát triển …là từ tình yêu và nỗi đau,từ mồ hôi nước
mắt của những người thầm lặng . Qua ca dao thần thoại ,nhân dân đã đem đến và lưu truyền
cho biết bao thế hệ mai sau những bài học đạo lí sâu sắc “ dạy anh biết yêu em từ thuở trong
nôi”. Điều này khẳng định tình cảm giữa con người với con người; yêu thương , đùm bọc che
chở. Ở phương diện thứ hai , nhà thơ đã nêu lên quan niệm sống đẹp “Biết quý công cầm
vàng những ngày lặn lội”, được lấy từ ý ca dao:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”
Ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc châu báu đó là tình nghĩa giữa con người với
con người, bởi vậy tình nghĩa còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất. Phương diện thứ ba nhà
thơ nhắc tới tinh thần yêu nước và bảo vệ non sông, phải quyết liệt chống kẻ thù xâm lược “
trồng tre đánh giặc” đó là truyền thống anh hùng , bất khuất của nhân dân ta từ thuở lập nước
vẫn hiên ngang ,kiên cường. Ý thơ đã gợi lên biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt , trường kì
của nhân dân , thử hỏi nếu không có kiên trì,bền bỉ ,thì dân tộc ta liệu có tồn tại và phát triển
được như ngày hôm nay không? Chính vì vậy , bốn câu thơ cuối đã nhấn mạnh của nhân dân
dưới mọi khó khăn, thách thức cùng tinh thần lạc quan sẽ đưa đất nước đi tới “ sánh vai với
các cường quốc năm châu” :
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò trên sông Mã , ca Huế
trên sông Hương hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Hậu …và “dòng sông ấy” vừa có nghĩa
là dòng sông quê hương , đất nước cũng như chính là dòng sông văn hóa, lịch sử của 54 dân
tộc anh em hòa vào nhau “ trăm màu”. Chính sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam
đã vun đắp phù sa qua bao thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc .
Cả chương V của trường ca “ Mặt đường khát vọng” như được bao bọc bởi không khí
của văn hóa dân gian .Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng khéo léo và linh hoạt các chất liệu văn
hóa dân gian: từ ca dao,tục ngữ đến truyền thuyết,cổ tích ,… những chất liệu ấy đã tạo nên
một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi,quen thuộc vừa sâu sắc gợi nên hồn thiêng sông núi nước
Nam.Có thể nói tư tưởng “ đất nước của nhân dân” đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm
xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ. Những vần thơ của Nguyễn Khoa
Điềm mang một nỗi niềm, suy tư riêng không thể lẫn với bất kì nhà thơ nào , có thể ta đọc
được bài thơ về quan niệm đất nước như trong thơ của Giang Nam nhưng có lẽ thật khó thể
quên những cảm xúc dạt dào trong thơ ông:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”
(Giang Nam)
Trần Đình Sử cũng đã nhận xét “… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng
bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên
tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn
Đất Nước trong chính tâm hồn họ..." và bài thơ Đất nước chính là bài thơ như thế. Qua bài
thơ Đất nước , người đọc có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hóa, sự ảnh hưởng của
một phong cách thơ độc đáo,mới mẻ. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động ,âm vang
trong lòng người đọc về tư tưởng đất nước của nhân dân ,từ đó để lại những suy nghĩ chung
của thế hệ mai sau về “đất nước” và trách nhiệm bảo vệ, phát triển, gây dựng quê hương đất
nước giàu mạnh.

Tuyên ngôn độc lập


Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, người anh hùng đã giải phóng dân
tộc, đất nước Việt Nam thoát khỏi xiềng xích của nô lệ mà Người còn là một nhà thơ, nhà văn
lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm đặc sắc trên nhiều thế loại khác nhau. Đặc biệt, trong số
những sáng tác của Hồ Chí Minh, bản “Tuyên ngôn độc lập” ra đời vào năm 1945 là một
trong số những tác phẩm xuất sắc nhất, tiêu biểu cho phong cách văn chính luận của Người.
Mở đầu tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập”, tác giả Hồ Chí Minh đã khéo léo đưa ra
những cơ sở pháp lý về quyền con người và quyền dân tộc để làm nền tảng căn cứ vững chắc
cho toàn bộ bản tuyên ngôn. Hồ Chí Minh đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp
và Mỹ - hai cường quốc hùng mạnh trên thế giới. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của nước Mỹ
vào năm 1776 đã chỉ ra rằng “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho
họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Còn trong bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền” của nước Pháp vào năm 1791 cũng đã viết “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Với việc trích dẫn nguyên
văn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đã có tác dụng, ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó không chỉ
góp phần đảm bảo tính khách quan của bản tuyên ngôn mà hơn thế nữa nó còn thể hiện thái
độ tôn trọng, trân trọng những giá trị tiến bộ được cả nhân loại thừa nhận của tác giả. Thêm
vào đó, với cách trích dẫn này, tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật “gậy ông đập lưng
ông” để đánh mạnh vào dã tâm xâm lược nước ta của các lực lượng thù địch. Đặc biệt, trong
phần mở đầu còn thể hiện một cách rõ nét sự sáng tạo, tài năng và lập luận sắc bén của Hồ
Chí Minh khi người từ quyền con người được nhắc đến trong hai bản tuyên ngôn của Pháp và
Mỹ để suy ra quyền dân tộc “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Không chỉ nêu lên những cơ sở pháp lý, Hồ Chí Minh đã nêu lên những cơ sở thực
tiễn của bản tuyên ngôn. Có thể thấy, từ phần thứ nhất sang phần thứ hai, tác giả đã khéo léo
sử dụng quan hệ từ “thế mà’, nó đã phần nào hé mở sự đối lập giữa lí lẽ và hành động của
thực dân Pháp. Từ đó, Người đã đi sâu vạch rõ, tố cáo tội ác của thực dân Pháp trên đất nước
ta. Bằng việc sử dụng thủ pháp liệt kê, tác giả đã vạch ra một cách rõ nét tội ác man rợ của
thực dân Pháp trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế đến chính trị. Trước hết, trong lĩnh vực
chính trị, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách ngu dân bằng việc đưa ra hàng loạt các “luật
pháp dã man” đã được tác giả liệt kê lại “lập ba chế độ khác nhau ở ba miền Bắc Trung Nam”
để ngăn cản dân ta đoàn kết và thống nhất đất nước, “lập nhà tù nhiều hơn trường học”, “ràng
buộc dư luận”... Không chỉ dừng lại ở đó, trên lĩnh vực kinh tế, chúng cũng thi hành nhiều
chính sách dã man, “bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo đói, thiếu thốn,
nước ra xơ xác, tiêu điều’. Để chứng minh cho điều đó, tác giả Nguyễn Ái Quốc đã một lần
nữa liệt kê ra cụ thể, chi tiết những chính sách thực dân Pháp đã thi hành như cướp không
ruộng đất của nhân dân, “giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng”, đặt ra hàng
trăm thứ thuế hết sức vô lý, bóc lột công nhân vô cùng tàn nhẫn… Chính những chính sách
ấy của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề cho nhân dân, đất nước ta khi “từ năm ngoái
đến đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ có hơn 2 triệu đồng bào chết đói”. Như vậy, có
thể thấy, những tội ác của thực dân Pháp trên đất nước ta nhiều không thể nào kể xiết. Đặc
biệt với biện pháp điệp cấu trúc, tác giả đã nhấn mạnh tội ác của thực dân Pháp, đó là những
hành động trái với chính nghĩa, với lẽ phải mà chúng đã nêu lên. Thêm vào đó, tác giả cũng
đã chỉ ra sự thật về chính sách bảo hộ của thực dân Pháp trên đất nước ta như chiêu bài về
khai hóa trong kinh tế - chính trị và nhất là chiêu bài bảo hộ khi trong hai năm thực dân Pháp
đã hai lần bán nước ta cho Nhật. Cuối cùng trong phần cơ sở thực tiễn, Bác Hồ đã nêu lên sự
thật về cách mạng Việt Nam. Cuộc cách mạng của ta là cuộc cách mạng chính nghĩa khi
“Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh chống Nhật”. Đặc biệt, chúng ta còn thi hành
những chính sách khoan hồng và nhân đạo đối với người Pháp “giúp nhiều người Pháp chạy
qua biên thùy”, “cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật”... Như vậy, bằng những dẫn
chứng cụ thể, chi tiết, tác giả Hồ Chí Minh đã nêu lên những tội ác man rợ của Pháp cũng
như sự thật về cuộc cách mạng của ta. Từ đó, Người đã kết thúc phần hai của tác phẩm bằng
lời khẳng định được lặp lại hai lần “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật,
chứ không phải từ tay Pháp”, điều đó đã khẳng định thực dân Pháp không có quyền quay lại
Việt Nam.
Trên cơ sở pháp lý và thực tiễn đã nêu ra, phần cuối của tác phẩm chính là lời tuyên
bố độc lập. Lời tuyên ngôn hết sức ngắn gọn, tác giả khẳng định nước ta, nhân dân ta đã hoàn
toàn “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước, mọi đặc quyền của Pháo trên
đất nước Việt Nam”, đồng thời tuyên bố Việt Nam là một nước tự do, độc lập. Lời tuyên
ngôn dù ngắn gọn nhưng đã bày tỏ thái độ quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói riêng, nhân dân, đất nước Việt Nam nói chung.
Tóm lại, với lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép cùng những dẫn chứng thuyết phục, bản
“Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố, đánh dấu một kỉ nguyên mới
của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, qua đó cũng giúp chúng ta hiểu vì sao bản “Tuyên ngôn
độc lập” lại được xem là “áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại”.

Tây Tiến
(trong vở)
Sóng
Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kì chống
Mỹ cứu nước. Thơ của nữ sĩ dễ đi vào lòng người với vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. Trong đó,
“Sóng” là thi phẩm nổi bật của đời thơ Xuân Quỳnh.
Trong bài thơ có hai hình tượng trung tâm đó là hình tượng sóng và em. Sóng trước
hết là một sự vật thiên nhiên, nhưng hình ảnh này không chỉ mang nghĩa thực mà còn mang ý
nghĩa biểu tượng. Đó không chỉ là sóng biển mà còn là sóng tình yêu trong biển khơi tâm hồn
người phụ nữ. Tác giả mượn sóng để nói lên những cung bậc cảm xúc trong lòng người con
gái đang yêu. Hình tượng “em” là sự hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh. Nữ sĩ đã trải lòng
mình trên những trang thơ, giãi bày những cảm xúc, suy tư trong tình yêu.Sóng và em vừa
song song tồn tại vừa soi chiếu lẫn nhau và có lúc lại hòa nhập vào làm một.
Đoạn thơ “Dữ dội và dịu êm….Khi nào ta yêu nhau”. Đây là những câu thơ đầu trong
bài thơ “Sóng” mà thi sĩ đã khắc họa hình tượng sóng và hình tượng em để nói lên những
tiếng lòng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu tác giả nêu lên những trạng thái cảm xúc đối lập của
sóng: lúc thì dữ dội, mạnh mẽ xô bờ khi thì chảy trôi lững lờ, dịu êm. Đó cũng là những cảm
xúc của người con gái khi yêu. Trong tình yêu, lúc thì người con gái cuồng nhiệt, đắm say
nhưng cũng có khi e ấp, dè dặt. Những trạng thái đó mâu thuẫn nhưng lại thống nhất với
nhau. Hai câu thơ trên được tổ chức theo phép đối tạo nên một cấu trúc cân xứng, hài hòa,
làm nổi bật các thuộc tính đa dạng mà nhát quán của sóng.tác giả đặt những tính từ “dịu êm”,
“lặng lẽ” ở cuối câu thơ vì đây là con sóng nữ tính.
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Phép nhân hóa đã thổi hồn vào sóng để biến nó trở thành một con người. Sóng không
chấp nhận giới hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không tìm thấy được sự đồng
điệu, nó tìm ra đại dương mênh mông. Trong tình yêu, người phụ nữ cũng không chấp nhận
những gì tầm thường, chật hẹp mà thường hướng tới những điều cao cả, lớn lao, thường
muốn vươn đến những khát vọng vô bờ.
Trong đoạn thơ tiếp theo,tác giả thông qua quy luật của sóng để nói về quy luật của
tình yêu. “Ôi con sóng ngày xưa…Bồi hồi trong ngực trẻ”. Con sóng đã vỗ bờ từ ngàn xưa
cho đến bây giờ và mãi mãi về sau này. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Tình yêu cũng
vậy, trước đây, hiện nay và mãi mãi về sau nó vẫn khơi lên những khát khao bồi hồi, rạo rực.
Chừng nào còn con người trên cõi thế gian thì chừng ấy tình yêu còn tồn tại như món quà kì
diệu mà thượng đế ban tặng cho nhân loại.
Nhân vật trữ tình đứng trước biển khơi với những nghĩ suy sâu lắng:
“Trước muôn trùng sóng bể

Từ nơi nào sóng lên”
Người con gái đang nghĩ về bản thân mình, nghĩ về người thương và cũng suy tư về
sóng biển. Nhân vật trữ tình đang ở trong niềm khao khát lí giải nguồn gốc của sóng cũng
như nguồn gốc của tình yêu.
“Sóng bắt đầu từ gió
...........
Khi nào ta yêu nhau”
“Em” đã không phải truy tìm được căn nguyên của sóng cũng như nguồn gốc của tình
yêu. Tình yêu diệu kì, bí ẩn như thế giới tự nhiên. Nó là những rung động của con tim có
những khi lí trí không thể can thiệp và cũng chẳng giải thích được. Tình yêu vốn luôn là một
câu hỏi, một ẩn số khó tìm thấy đáp án rõ ràng. Tác giả cũng phải thốt lên thổ lộ rằng” em
cũng không biết nữa.Khi nào ta yêu nhau”. Chính cái không biết ấy lại là một bằng chứng
cho tình yêu chân thật, đắm say, không toan tính, người phụ nữ chỉ đi theo sự dẫn dắt của tâm
hồn.
Đoạn thơ trên đã khắc họa lại hình tượng sinh động hình tượng sóng và hình tượng
em. Qua hình tượng sóng tác giả muốn nói lên quy luật bất diệt tình yêu. Đoạn thơ trên rất
thành công với thể thơ 5 chữ. Các câu thơ ngũ ngôn nối tiếp nhau như những con sóng miên
man, dạt dào ngoài đại dương.

MỞ/KẾT BÀI

You might also like