You are on page 1of 9

Chiếc thuyền ngoài xa

Mở bài:
Cách 1:
Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ là một trong những đề tài
khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho các nhà văn. Người phụ nữ Việt Nam dù ở hoàn
cảnh như thế nào vẫn ánh lên những vẻ đẹp đảng trân trọng. Đến với “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ta bắt gặp một người phụ nữ với vẻ đẹp của tình
mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người mẹ thương con. Đặc biệt, ta có
thể thấy rõ điều đó qua lời giãi bày của người đàn bà hàng chài tại tòa án huyện.
Thông qua người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên, người đọc thêm hiểu về về
cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Cách 2:
Nguyễn Minh Châu được coi là một trong những cây bút tiên phong của Văn học
Việt Nam thời kì đổi mới. Những sáng tác của ông đều xuất phát từ cảm hứng thế sự,
đời tư mang đậm chất triết lý nhân sinh trong giai đoạn mới, khác xa với cảm hứng sử
thi lãng mạn quen thuộc trước năm 1975. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là
một sáng tác thuộc giai đoạn thứ hai của ông. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của
ông chính là người đàn bà hàng chài, người đàn bà ấy đã để lại trong lòng người đọc
rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về chuyện đời. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” lúc
đầu được in trong tập “Bến quê”, sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tập
truyện ngắn (in năm 1987). Truyện in đậm phong cách tự sự triết lý của Nguyễn
Minh Châu, tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn cùng
những chiêm nghiệm sâu sắc của ông về “nghệ thuật và cuộc đời”.
Thân bài
1. Khái quát tác phẩm và dẫn dắt đến chi tiết cần phân tích. + “Chiếc
thuyền ngoài xa” bày tỏ những suy tư về nghệ thuật
Nguyễn Minh Châu quan niệm rằng: “Thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm
những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Điều đó có thể thấy qua
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm bày tỏ những suy tư về nghệ thuật
cùng cách nhìn nhận đánh giá về hiện thực và con người qua tình huống truyện đầy
nghịch lý. Đó là việc nghệ sĩ Phùng bất ngờ phát hiện một cảnh đẹp “trời cho” —
cảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa biển mù sương, khiến cho tâm hồn anh như được
thăng hoa trong cái đẹp, trong niềm hạnh phúc ngọt ngào. Nhưng rồi chính chiếc
thuyền ấy, anh lại bất ngờ chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài, khiến
cho anh phải sững sờ, kinh ngạc. Đó là việc nghệ sĩ Phùng và chánh án Đầu tìm cách
giúp người đàn bà thoát khỏi người chồng vũ phu nhưng họ lại bị ngỡ ngàng trước
thái độ nhất quyết từ chối bỏ chồng của người đàn bà ở tòa án huyện... Câu chuyện và
diễn biến phức tạp, đầy éo le, nghịch lý của người đàn bà hàng chài giúp họ có những
khám phá, phát hiện mới mẻ, sâu sắc về đời sống và con người.
2. Phân tích chi tiết: Người đàn bà hàng chài
Dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài hiện lên có số phân
éo le, bất hạnh; là nạn nhân của cái nghèo, cái đói và bạo lực gia đình. Chị gây ấn
tượng với người đọc bởi ngoại hình khó coi “Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch.
Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Ở chị còn
phơi lộ sự nghèo đói nhếch nhác “tấm lưng áo bạc phếch rách rưới nửa thân dưới ướt
sũng”. Mới nhìn thoáng qua người đọc nhận thấy điều gì đó bất ổn ở chị dường như
đó là vẻ cam chịu ở con người quen với nhọc nhằn lam lũ, cho nên chị chẳng còn
quan tâm gì đến bản thân nữa ngay cả ý định “Đưa cánh tay lên có lẽ định gãi hay
xõa lại mái tóc” cũng xao xác tan mau “chị lại buông thõng xuống”. Đi suốt chiều dài
thiên truyện người đọc không hề biết đến tên của chị khi thì nhà văn gọi bằng “chị ta”
lúc thì gọi bằng “Mụ”, lúc lại gọi là “người đàn bà hàng chài”. Vì sao Nguyễn Minh
Châu không đặt tên cho người đàn bà này? Bởi chị cũng như bao người đàn bà ở
vùng biển nghèo khổ này chị là người vô danh. “Đây chính là một lối viết rất quen
thuộc của Nguyễn Minh Châu sau 1975, nhà văn không hề tô vẽ cho nhân vật của
mình. Người phụ nữ hiện lên không phải tấm gương lung linh thể hiện phẩm chất lý
tưởng của con người. Nhân vật xuất hiện với sự nhẫn nhục câm lặng trước trận đòn
tàn bạo của chồng gợi cảm giác bức bối. Nhưng kiên trì theo dõi cuộc đời nhân vật
người đọc khám phá ra những vẻ đẹp rất người lặng lẽ nhưng đáng trân trọng ở bà”.
(Đinh Hà Triều)

CÓ THỂ VIẾT NHƯ SAU:

Chị tự nhận thức: vì mình bị cái xấu đeo đuổi như định mệnh, từ lúc còn nhỏ trận đậu
mùa để lại di chứng trên mặt chị là những nốt rỗ chằng chịt theo năm tháng, càng lớn
lại càng xấu, càng già đi lại càng khó coi. Và vì xấu nên việc có mang với anh hàng
chài là một ân huệ. Còn việc hắn đưa chị lên thuyền để chung sống đã đem hẳn trở
thành ân nhân. Vì là ân nhân cho nên chị không thể bỏ. Chị cũng nhận phần thua thiệt
về mình “cũng tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá”. Lại thêm thuyền chật con
đông nên cuộc sống khốn khó “có lúc phải ăn xương rồng luộc chấm muối”. Trong
suốt câu chuyện dài dằng dặc của đời mình, tuy khó khăn nhưng người đàn bà không
tỏ ra oán giận chồng. Ngược lại còn bênh vực chồng, bởi chị cho rằng lão chồng chị
không xấu “trước kia là một anh con trai hiền lành nhưng cục tính”, từ ngày lấy chị
thì cuộc sống khốn khó, vất vả hơn cho nên lão chồng đã xem việc đánh vợ là một
phương thức giải tỏa những bức bí trong lòng. Như vậy chị là người rất hiểu chồng,
thương chồng và chị hiểu, chồng chị là nạn nhân của sự đói nghèo, nạn thất học, hắn
vừa đáng thương lại vừa đáng tội, đáng tội vì hắn gây ra biết bao đau thương cho
người thân; đáng thương vì hẳn là nạn nhân. Mặc dù, cuộc sống có nghèo khổ, bị
đánh đập thường xuyên nhưng “người đàn bà với vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không
hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trón chay".

- Tuy nghèo khổ, bất hạnh nhưng trong chị hội tự những phẩm chất
vô cùng tốt đẹp, đúng quý và đáng trân trọng
Tuy nghèo khổ, bất hạnh nhưng trong chị hội tụ những phẩm chất vô cùng tốt đẹp,
đáng quý và đáng trân trọng. Điều đó được thể hiện qua những lời giãi bày của chị ở
tòa án huyện: “Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời
mình”. Ở tòa án huyện, lúc đầu thì chị xuất hiện với hình ảnh rụt rè. Chị tìm đến góc
công đường để ngồi. Chị ngồi trong thế ngồi bị động như một con thú xù lông để tự
vệ, mặc dù đã được Phùng và Đẩu cảm thông chia sẻ. Lúc đầu chị xưng hô “Con -
quý tòa” sau khi lấy lại được sự thăng bằng thì chị đột ngột chuyển đổi cách xung hô:
“Chị - các chú”. Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh sự thay đổi ngôn ngữ và thân thế
người đàn bà với ý nghĩa: Giờ đây chính chị là quan tòa đang phán xét Phùng và Đấu
dạy cho Phùng và Đẩu một bài học về cách nhìn đời nhìn cuộc sống. Thật thế chăng?
Sở dĩ, người đàn bà chấp nhận chuyện bị chồng đánh đập như việc những người đàn
bà trên thuyền vẫn chấp nhận chuyện người đàn ông uống rượu là bởi vì chị là một
người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, vị tha, chấp nhận tất cả thua thiệt về mình. Khi
người đàn bà nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được phạt tù con cũng được, đừng bắt
con bỏ nó”, đây là câu nói khiến Phùng và Đẩu ngac nhiên và vỡ lẽ đằng sau câu
chuyện của người đàn bà hàng chài. Lão chồng vũ phu ấy đối với chị có hai cái “Ân”:
ân huệ và ân nhân.

- Là một người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhục.


Qua lời kể, người đàn bà làng chài hiện lên là một người phụ nữ cam chịu, nhẫn
nhục. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh
mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như
Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết
bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không
tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, chị đã quá quen và chấp nhận cuộc
đời của chị sẽ phải chịu đựng cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng",
không né tránh, không phản kháng, không chống trả.
- Là người phụ nữ có lòng tự trọng, vị tha, độ lượng và giàu đức hi
sinh.
Người đàn bà còn bộc lộ nhiều phẩm chất đáng quý mà tiêu biểu là lòng tự trọng, vị
tha, độ lượng, giàu đức hi sinh. Chị giàu lòng tự trọng. Chị cũng là người đàn bà giàu
lòng tự trọng. Chỉ sau khi biết được hành động vũ phu của tên chồng bị thằng Phác và
người lạ chứng kiến chị mới thấy “đau đớn” – vừa đau đớn, vừa xấu hổ nhục nhã.
Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người
đàn bà trào ra, chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót, kể cả thằng Phác
(đứa con yêu của chị) và nhất là với một người lạ. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị
xúc phạm, nhưng người đàn bà ấy không hề bận tâm – một sự nhẫn nhục của con
người có nhân cách có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời có một tình thương con vô bờ
bến” (Nguyễn Duy Kha. Để con chứng kiến cảnh bố đánh mẹ, và phản ứng lại hành
động vũ phu của bố, người đàn bà lúc này cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô
cùng xấu hổ, nhục nhã. “Đau đớn” vì để con phải chứng kiến cảnh đau lòng, điều đó
vô tình làm tổn thương tâm hồn con. “Xấu hổ và nhục nhã” bởi không giữ được mái
ấm gia đình hạnh phúc giữa bố và mẹ, có thể người đàn bà ấy hiểu sâu sắc câu nói:
“Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, tổ ấm của chị không êm ấm là do chị, nên chị
“xấu hổ và nhục nhã” với con cũng là lẽ đương nhiên. Sau đó chị “ôm chầm lấy đứa
con rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy nó”. Chị ôm nó như
một hình thức xoa dịu tâm hồn tổn thương của con, khi chứng kiến tình cảnh này. Và
đó là cách duy nhất để chị xin lỗi con, đồng thời xoa dịu đi cảm giác “đau đớn, nhục
nhã, xấu hổ” của mình.

Có thể viết như sau:

Chị còn giàu vị tha và sự độ lượng, bởi chị thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu
tại sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy.
Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống
ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng,
cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột
trong gia đình, là một người chồng, người cha nên chẳng có người đàn ông nào lại
dửng dưng, vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ không phải vì
thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời, khi không thể lo cho gia
đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng
tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi được
chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng, thì chị đã “chắp tay lạy
vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa ... Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và
tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giả tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc
thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà
thuyền lại chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người
phụ nữ nào không đau đớn, nhưng người đàn bà

Đó còn là một người phụ nữ giàu đức hi sinh. Bằng trái tim ấm áp của mình, chị chấp
nhận cho chồng đánh để giải tỏa những uẩn ức, áp lực trong cuộc sống mưu sinh này.
Chị cam chịu như một cách trả ơn, vì dù gì thì nhờ có lão, chị mới có một gia đình.
Bởi vốn xấu xí, lỡ làng, nếu không có lão, làm sao chị có được những phút giây “vợ
chồng con cái có lúc vui, nhất là khi được nhìn thấy chúng được ăn no”. Chị nhẫn
nhục, hi sinh bản thân vì đàn con thơ ngây của chị: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi
phải sống cho con chứ không sống cho mình như trên mặt đất được.”
- Là người phụ nữ thương con, thấu hiểu, trải đời và rất sâu sắc lẽ đời.
Vượt lên trên tất cả sự tủi nhục và đau đớn, ở người đàn bà tỏa sáng lên là người phụ
nữ thương con, thấu hiểu, trải đời và rất sâu sắc lẽ đời. Chị gồng mình gánh chịu đòn
roi của chồng là bởi vì những đứa con “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con,
chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Chị hiểu rằng: bất kỳ một cuộc
hôn nhân tan vỡ nào thì người buồn đau nhất chính là những đứa con đứa có bố thì
mất mẹ, có mẹ thì mất bố, chia đàn xẻ nghé. Chị quan niệm rằng: một gia đình hạnh
phúc là gia đình đầy đủ các thành viên, dù đâu đó trong gia đình còn nhiều khiếm
khuyết. Vì thương con, mà chị quặn lòng gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại. Vì
thương con và tránh sự tổn thương cho những tâm hồn thơ bé, nên chị đã bảo lão
chồng “có đánh thì đưa chị lên bờ mà đánh”. Chị giống như con gà mẹ xòe đôi cánh
che chở cho đàn con trước sự tấn công của loài chim ăn thịt. Chính tình mẫu tử thiêng
liêng cao thượng đã chắp cánh cho chị đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói
kém, nhọc nhằn và lam lũ. Chị chắt chiu dành dụm từ những niềm vui nhỏ nhất “vui
nhất là thấy đàn con chúng tôi được ăn no” để khỏa lấp những nội đau đê xoa dịu nội
đời cay cực. Khi thăng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp”
vào lưng mẹ, thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ
vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi ngay lập tức “lảo đảo ngã dúi xuống
cát” vì hai cái tát của bố. Người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay
vái lấy vải để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không
muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nên người đàn bà
hàng chài phải gửi nó lên rừng với ông ngoại, chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì
dại dột đối với bố nó”.

Thấu hiểu, trải đời và sâu sắc lẽ đời:


Chị thấu hiểu cho sự vũ phu và cọc cằn của người chồng. Chị hiểu chồng và thương
chồng, chị cho rằng: Chung quy chồng chị cũng là nạn nhân của sự đói nghèo và nạn
thất học mà ra. Bởi rằng, “trước kia là một gã con trai hiền lành nhưng cục tính”. Từ
ngày lấy chị vì cuộc sống khốn khó, vất vả quá, cho nên lão mới đánh chị như một
phương thức giải tỏa “cứ mỗi lần thấy khổ quá là lão lại xách tôi ra đánh”. Vì chị đẻ
nhiều, thuyền chật con đông nên cuộc sống khó khăn, chật vật cũng từ chị mà ra. Chị
chấp nhận lỗi, chấp nhận mọi phần thua thiệt về mình như một lẽ đương nhiên “cũng
tại đàn bà ở thuyền chúng tôi đẻ nhiều quá...”

Tuy là người phụ nữ quê mùa, thất học nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được
lòng tốt của Phùng và Đẩu, nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lòng các chủ tốt nhưng
các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chủ đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”; “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa
bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền
không có đàn ông”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp
ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn
nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở thực
tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những
nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao
lâu nay của chị.
Chị còn là người hiểu sâu sắc lẽ đời. Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì
“đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống
khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới
chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn
nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không
tìm cách giải thoát cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị
bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với
một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn
muốn các con có một cuộc sống no đủ.
3. Nhận xét về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn
Nguyễn Minh Châu.
Qua tác phẩm, ta cũng thấy được cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Đó là sự khám phá bản chất cuộc sống và con người ở góc độ
thể sự bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều mang tính triết lý sâu sắc. Cuộc sống của
người dân hàng chài có nhiều nghịch lí: cuộc sống đông con nhưng lại nghèo khổ;
muốn con hạnh phúc, không bị tổn thương nhưng lại thường xuyên phải chứng kiến
cảnh bố đánh mẹ;... Nhân vật người đàn bà

Điều đó đã giúp ông nhận ra đời sống con người bao gồm cả quy luật tất yếu lẫn
những điều may rủi khó lường. Ông day dứt về việc con người phải chấp nhận những
nghịch lí không đáng có. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” cũng gói trọn những
suy tư, trăn trở của ông. Đó là gánh nặng mưu sinh giam hãm vợ chồng người dân
hàng chài trong cảnh tối tăm, đói khổ, bấp bênh. Điều ấy khiến người chồng trở thành
một kẻ vũ phu, thô bạo. Còn người vợ vì thương con nên nhẫn nhục, chịu đựng sự
ngược đãi của người chồng mà chị không hề biết chính việc ấy đã làm tổn thương
tâm hồn đứa con thơ dại. Đằng sau câu chuyện là cái nhìn ấm áp, nhân hậu của nhà
văn: sự trân trọng, tin yêu vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự bao dung và can
đảm của người phụ nữ. Đó không phải là vẻ đẹp chói sáng, hào hùng mà là những
“hạt ngọc khuất lấp”, lẫn lấm láp lam lũ đời thường. Theo ông, tình yêu của người
nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê vừa là nỗi đau đớn khắc khoải, một
xung quanh. Điều này đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho thiên truyện. Một điều
cao đẹp hơn nữa nhà văn muốn gửi gắm, đó chính là vấn đề tiếp cận cuộc sống: cuộc
sống muôn màu muôn vẻ. Con người luôn có những quan hệ chằng chịt phức tạp. Bởi
vậy nhìn nhận mọi sự việc hiện tượng cuộc sống và con người không được dễ dãi đơn
giản phiến diện công thức. Chính vì có cái nhìn phiến diện mà Phùng và Đẩu mới bắt
người đàn bà kia bỏ chồng. Khi và chỉ khi thấu hiểu tấm lòng người đàn bà hàng chài
thì Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ ra. Chính người đàn bà hàng chài đã dạy cho các anh bài
học về cách nhìn nhận cuộc sống: Cuộc sống muôn hình muôn vẻ nếu chỉ nhìn từ một
phía thì sẽ đánh giá lệch lạc phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều
để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản “Nghệ thuật phải gắn liền với
đạo đức”
Kết bài:
Thông qua nhân vật người đàn bà hàng chài và những lời giãi | 0.25 bày của chị ở tòa
án huyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới người đọc một thông điệp về
mối quan hệ giữa “nghệ thuật” và “cuộc đời”: Cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng,
chứa đựng nhiều nghịch li cũng như mâu thuẫn. Nếu chỉ nhìn từ một phía thì sẽ dễ
dàng đưa ra đánh giá lệch lạc, phiến diện. Vậy cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều
chiều để từ đó đưa nghệ thuật vươn tới chiều sâu nhân bản: “Nghệ thuật phải gắn liền
với đạo đức “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Nhà văn không thể có cái nhìn dễ dãi trước
cuộc sống mà phải biết nhìn thấu được bản chất bên trong của cuộc sống. Đó mới là
người nghệ sĩ chân chính. Đến đây ta càng thấm thía hơn câu nói của nhà nhân đạo
chủ nghĩa lớn Nam Cao: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những

You might also like