You are on page 1of 12

Phân tích bài thơ Tây Tiến

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội


Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Nếu như ở đoạn thơ trên Nguyễn Đình Thi viết về khoảnh khắc lên đường chiến đấu của những
chàng trai Hà thành thì ở bài thơ “Tây Tiến”, Quang Dũng sẽ là người tái hiện trực tiếp chặng đường
hành quân đầy gian truân, vất vả đó của họ. Mà chỉ gọi Quang Dũng là nhà thơ thôi thì chưa đủ, bởi
ông đa tài lắm, từ viết văn, làm thơ cho đến vẽ tranh, soạn nhạc. Đa tài là thế nhưng đời sống của ông
vẫn luôn xoay quanh những câu chuyện bình dị, giản đơn. Độc giả biết đến tên tuổi của Quang Dũng
qua những bài thơ nổi tiếng như “Đôi mắt người Sơn Tây”, “Đôi bờ” và có thể nói để lại nhiều ấn
tượng sâu sắc nhất chắc chắn hẳn là bài thơ “Tây Tiến”. Nói như Chế Lan Viên thì “vóc nhà thơ đứng
ngang tầm chiến lũy”. Quang Dũng đã cầm bút đứng hiên ngang như thế trong mấy thập kỷ. “Tây
Tiến” đã đưa tên tuổi ông vào hàng đầu các nhà thơ thời kỳ chống Pháp. Với một hồn thơ đôn hậu,
lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của
người lính giữa núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.
“Hành trình sáng tạo có thể là độc hành trong một giai đoạn nào đó, nó có thể chưa được tiếp nhận
ngay nhưng chính sự độc đáo lại là cái còn mãi.” Vũ Quần Phương đã dành những lời này để nói về
hành trình sáng tác thơ của Quang Dũng, bởi thơ ông được cho là chưa đủ tiêu chuẩn văn chương
thép, chưa rắn rỏi như súng đạn nơi biên cương nên thời đó làm gì được cấp phép lưu hành. Ấy vậy
mà vẫn được truyền lưu rộng rãi bởi chất liệu bên trong tác phẩm là một bức tranh chân thực, làm sao
có thể ngăn được bước đi của nghệ thuật cho được. Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm
đại đội trưởng từ đầu năm 1947 cho đến cuối năm 1948 thì phải chuyển đơn vị. Nỗi nhớ ngày một
dâng trào và dòng cảm xúc mãnh liệt đã thôi thúc ông đặt bút sáng tác “Nhớ Tây Tiến” ngay trong
đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu Thanh (Hà Tây). Về sau, bài thơ được chính tác giả đổi tên
thành “Tây Tiến” và chính thức in lần đầu trong tập “Mây đầu ô” năm 1986. Ông đã giải thích với con
trai mình là Quang Vĩnh về sự thay đổi này: “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nhớ rồi. Thế nên để chữ
nhớ là thừa, không cần thiết con trai ạ”. Đúng như thế, “Tây Tiến” nghĩa là đoàn quân tiến về phía
tây, chỉ hai từ mà đã làm sống dậy cả một khúc quân hành, cô đọng hơn nhiều, nỗi nhớ da diết hơn
nhiều.
Phần đầu của tác phẩm là nỗi nhớ của Quang Dũng về những cuộc hành quân gian khổ gắn với
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội. Nhắc đến Tây Tắc ta lại nhớ đến cuộc vận động văn nghệ sĩ năm
nào dùng ngòi bút mở đường tìm thắng lợi, ghi dấu bao chiến công oanh tác của quân đội ta. Và thế là
Quang Dũng mở đầu một lời gọi tha thiết:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nỗi nhớ day dứt ấy đã nhanh chóng được khái quát qua địa danh sông Mã, hay còn được gọi là sông
La, con sông như một dòng chảy xuôi ngược kí ức chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Một cái
cớ vô cùng duyên dáng để Quang Dũng khơi gợi tâm tư của mình, bao nhiêu kỉ niệm cùng đồng đội
cũ, bao giọt nước mắt ly tan hay vỡ òa thắng trận đều từ đó mà ra. Tiếp tục với một tâm hồn hoài
niệm, điệp từ “nhớ” lúc này phát huy cực điểm tác dụng chính của mình là bộc lộ nỗi nhớ, ta có thể
hình dung về những tháng ngày cùng đồng đội vào sinh ra tử của tác giả khiến cho nỗi nhớ kia ngày
càng thêm cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. Rừng núi Tây Bắc vừa bí ẩn, hoang vuu vừa lãng mạn
trong đôi mắt nghệ sĩ trẻ, “nhớ rừng núi” cũng chính là nhớ về những gương mặt sát cánh trên con
đường hành quân, là nhớ về Tây Tiến. Từ láy “chơi vơi” đặt cuối câu thơ là một sáng tạo độc đáo, nỗi
nhớ không cạn, cũng chẳng tận trời cao, cứ “chơi vơi” lơ lửng, huyền ảo như một làn sương hoài niệm
chẳng lúc nào tan biến. Xuân Diệu cũng từng tận dụng từ láy đắt giá này trong bài Nhị Hồ:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Nhị Hồ – Xuân Diệu
Là một sự sắp xếp khéo léo hay tình cơ mà điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi” “hơi”
cùng tạo ra một âm hưởng mênh mang như càng thêm mở rộng chiều kích cho nỗi nhớ. phải chăng là
một khúc ca mà lữ khách tốn bao nhiêu tâm tư để mời gọi, hãy vào đây, hãy nhìn đồng đội thân yêu
của tôi đi, họ đã mạnh mẽ chiến đấu đến chừng nào. Nỗi nhớ càng được khắc họa cụ thể ở hai câu thơ
sau”
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “Mường Lát” để người đọc gần xa ít nhiều thấy được vẻ
heo hút, hoang vu, bí ẩn của vùng đất lạ, thấy được những khó khăn, thử thách chờ chực, ý chí người
lính ra sao. Hình ảnh tả thực “sương lấp” và “đoàn quân mỏi” cho ta thấy bao vất vả mà đoàn quân
Tây Tiến đã phải chịu, họ hành quân trong sương mù lạnh giá, sương giăng che lấp cả đoàn như phủ
lên những tâm hồn mỏi mệt một lớp chăn mềm mại, chỉ là sao khắc nghiệt quá, một chữ “mỏi” mà
khiến bài thơ như có hồn tâm sự. Cũng bởi vì một chữ “mỏi” mà bao cuộc tranh luận xảy ra giữa
những người cầm bút giành lại giá trị chân chính cho tác phẩm. Khắc nghiệt là thế nhưng “hoa về
trong đêm hơi” lại là một hình ảnh lãng mạn biết bao. Có người nói “hoa” ở đây là hương hoa rừng
con vương vấn, có người lại cho rằng tác giả ví người lính là bông hoa thơm dịu, tinh khiết kia, kì
thực có một chút không hợp. Nhưng nếu nói “hoa” trong bài thơ, là ánh sáng chập chờn, phập phồng
của ngọn đuốc thì thực sự khiến hình ảnh thơ trở nên đẹp đẽ vô cùng. Đoàn quân trong đêm tối “đỏ
đuốc từng đoàn” đi đến đâu tan sương đến đó, như những bông hoa đỏ trong đêm vượt màn sương nở
rộ vậy. Một câu thơ mà vừa bi tráng, vừa lãng mạn, chỉ có thể là con triện riêng của Quang Dũng mà
thôi.
Vậy là ở bốn câu thơ đầu, với âm điệu thơ sâu lắng, Quang Dũng đã kết hợp hài hòa chất hiện thực
và lãng mạn, càng cho ta thấy được ngòi bút tài hoa, phóng khoáng của ông. Nói như nhà thơ Vân
Long “Nhà thơ Quang Dũng như “bóng mây qua đỉnh Việt” và là một áng mây bay qua sống núi nước
Việt. Mây Quang Dũng bay đến đâu, hoa lá cỏ cây và núi sông như có hồn theo đến đấy”. Con sông
chiến trận qua ngòi bút Quang Dũng cũng trở nên có hồn như vậy đấy.
Những câu thơ tiếp theo được Quang Dũng tận dụng tất cả sự đa tài của mình để khắc họa địa hình
hiểm trở của núi rừng Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Đây là đoạn thơ được tác giả miêu tả rất thực về con đường hành quân đầy gian khổ. Ngang tầm với
núi rừng hùng vĩ chính là tinh thần quả cảm của những người lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” kết hợp
với từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm trở của địa hình Tây Bắc. Câu thơ
bảy chữ mà đến tận năm chữ được gieo thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, gọi cho người đọc một thế núi
cheo leo, gập ghềnh. Thậm chí chỉ cần đọc câu thơ lên đã hình dung hình ảnh người lính vất vả, từng
hơi thở gấp gáp giữa sườn núi chông chênh. Từ láy “heo hút” ở đầu câu thơ thứ hai cho thấy sự hoang
sơ, vắng vẻ cùng cảm giác bí ẩn, dường như ta có thể cảm nhận âm vang núi rừng từ bài thơ “Nhớ
rừng” của Thế Lữ. Đảo ngữ một cách khéo léo đã giúp cho núi Tây Bắc được vẽ ra với khung cảnh
đậm chất hùng vĩ, đỉnh núi cao đến mức ngập vào những cồn mây trắng như ngọn đuốc hiên ngang
phía sau tàn sương mà chiến đấu vậy. Tác giả sử dụng hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” góp phần
tạo thêm sự thú vị cho bài thơ, vừa có thể thấy được độ cao chót vót, vời vợi của ngọn núi mà cùng
vừa thấy được sự tinh nghịch, dí dỏm đặc trưng của Quang Dũng – một người lính lạc quan, hài hước.
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Điệp ngữ “ngàn thước” cũng là hoán dụ ước đoán phỏng chừng đã gợi sự vô cùng, vô tận của thế
núi. Hai vế tiểu đối trong câu thơ đã vẽ ra một sườn núi dốc dựng đứng, lên tận cao vót và đổ xuống
rất sâu, bao nhiêu là nguy hiểm, bao nhiêu là gian khó. Thế núi đang “khúc khuỷu” là thế, vậy mà
nhìn lưng chừng sườn núi, “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, câu thơ trải dài toàn thanh bằng mở ra
một không gian xa và rộng. Tưởng chừng như đang đứng ở một vách núi đưa mắt về phía xa, trong
màn sương lại ẩn hiện thấp thoáng những ngôi nhà sàn. Cảnh tưởng phút chốc lại trở nên lãng mạn
biết bao, đâu còn những khung cảnh trần trụi tàn khốc nữa. Đây cũng là một trong những bằng chứng
thi trung hữu họa vô cùng đắt giá của Quang Dũng.
Như vậy, bốn câu thơ phối hợp hài hòa đã vẽ ra một bức tranh sinh động về con đường hành quân
của những người lính. Cách gieo thanh bằng trắc và sắp xếp gam màu nóng lạnh đã gợi ra những nét
vẽ gân guốc, mềm mại xen kẽ. Khổ thơ nhờ vậy mà được xoa dịu, đây không hẳn là che giấu đi hiện
thực tàn khốc mà là lấy cái nhìn lạc quan, tâm hồn phiêu lãng của đời trai trẻ để tiến ra chiến trận.
Thế nhưng, dẫu có lạc quan đến mấy cũng không thể nào phủ nhận một sự thật tàn khốc của chiến
tranh:
“Lúc nào tôi cũng nghĩ một ngày
Bỏ súng về ôm những gốc cây
Tìm hốt hết thịt xương đồng loại
Ôm thật đầy trên những cánh tay”
Trong đêm mưa tiền đồn – Nguyên Dương Quang
Là những mất mát, hi sinh, là những lần chia ly âm dương chẳng dám hẹn, nước mắt chực rơi nhưng
phải “trừng mắt” nhìn về phía trước. Và Quang Dũng đã dành những cảm xúc chân thành nhất để viết:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai tiếng “anh bạn” nghe sao thân thương mà chua xót quá, những đồng chí mới vai kề vai mà quay
đi nhìn lại đã chẳng còn nữa. Từ láy “dãi dầu” kết hợp với hình ảnh hoán dụ “không bước nữa” để
giảm đi sự đau thương của những người lính. Đồng đội vừa đập vai, bôi thuốc, vừa chia nhau bát cơm
đang dần ngã xuống. Các anh biết đồng đội mình mạnh mẽ lắm. Vậy nên dẫu có ngã xuống cũng sẽ ở
một tư thế hiên ngang nhất: “Gục lên súng mũ”, tim đã ngừng đập nhưng tâm hồn dành cho núi song
vẫn còn đó. Anh đã quỳ xuống, ôm súng trong tay, đưa mắt hướng về đồng đội lần cuối. Bom đạn mù
mịt che đi những người mà anh yêu quý. Cách nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn
đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra
đi là đã gạt tình yêu riêng sang một lối nhỏ, toàn tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang
Dũng đã diễn tả đúng chất của âu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương
đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên thôi. Lê Anh
Xuân cũng có những câu thơ:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
(Dáng đứng Việt Nam)
Ngọn lửa hào hùng trong thơ văn chưa dừng lại ở đó, đồng đội anh chết nhưng động đội vẫn tồn tại
còn đang chiến đấu. Hành trình chưa bao giờ kết thúc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Các từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy chuỗi ngày dài mà bộ đội đối mặt với gian nan nơi
rừng núi Tây Bắc. Chiều cho đến đêm là lúc màn sương bắt đầu bao phủ, trời cứ thế tối dần mà không
biết dưới chân mình là gì. Nhất là “tháng chạp màn sương trùm Đất Nước”, nguy hiểm chồng chất
nguy hiểm, thế mà: “thác gầm thét” thử thách nỗi sợ của con người. Địa danh Mường Hịch được tác
giả khéo léo đưa vào câu thơ, hai tiếng nặng trịch như tiếng chân hổ bước trong đêm. Hiện thực “hiểm
ác” lại một lần nữa được nhà thơ xoa dịu bởi câu thơ tiếp theo, câu thơ mang nặng tình nghĩa của
người dân Tây Bắc.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Phép đảo ngữ “nhớ ôi Tây Tiến” bao gồm từ cảm thán đã nhấn mạnh sự hoài niệm mãnh liệt về một
vùng đất tình người. Hình ảnh ảnh cơm lên khói vừa chân thật vừa trữ tình, cùng với mùi hương
“thơm nếp xôi” của vùng đất Mai Châu đã khắc họa tình quân dân vô cùng ấm áp. Nhắc đến tình quân
dân thì có lần Quang Dũng chứng kiến người mẹ Hòa Bình tự vắt sữa mình cho đồng đội anh uống,
đồng đội anh lúc ấy bị thương khá nặng. Hóa ra những người lính như Quang Dũng cầm súng trên tay
để bảo vệ những điều bình dị như thế. Tác giả đã vô cùng sáng tạo khi khi dùng từ “mùa em” đây là
một từ từ ghép độc đáo gợi nét trẻ trung, thể hiện tình cảm của mình và đoàn quân Tây Tiến đối với
những con người nơi đây.
Vậy là qua 14 câu thơ đầu với sự kết hợp hài hòa giữa ngòi bút hiện thực và lãng mạn, Quang Dũng
đã thành công dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, cùng với đó là nỗi nhớ da diết về những ngày
tháng vào sinh ra tử cùng đồng đội. Từ nỗi nhớ “chơi vơi” lưng chừng trong tâm trí giờ đây đã khẳng
định “nhớ ôi Tây Tiến” là cảm xúc chủ đạo toàn bài. Qua đó, ta có thể thấy tinh thần của những người
lính dẫu có “dãi dầu” hi sinh thì vẫn hi vọng ngày chiến thắng, vẫn kiêu hùng bước từng bước hiên
ngang chẳng hề lo sợ.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp đã từng nhận xét “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ
quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng
mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây
Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”. Thật vậy nối tiếp bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về
đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Động từ “bừng lên” là một chi tiết đắt giá khiến cho đêm tối mịt bỗng bừng sáng với những âm
thanh vui tươi, sôi động. Một lần nữa hình ảnh “hoa” xuất hiện lần này là hoa chúc, hoa của ngọn lửa
góp vui cho đêm văn nghệ. Đó là những tâm hồn lạc quan vì không biết ngày mai có còn tiếp tục được
sống hay không nên cháy hết mình trong đêm. Linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn
cước bất ngờ xuất hiện trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Hai tiếng “kìa em” cùng với câu hỏi tu từ
“tự bao giờ” đã diễn tả tâm trạng bất ngờ phấn khích của những người lính, vừa ngạc nhiên, thú vị
vừa tinh nghịch, đáng yêu. Một từ láy “e ấp” đã gợi ra nét thanh thoát e thẹn ngại ngùng của những cô
gái trẻ. Tuy vui vẻ là thế nhưng những người chiến sĩ vẫn không quên nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ
thiêng liêng tiến về phía trước phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt – Lào. Vì vậy mà “nhạc về
Viên Chăn xây hồn thơ”. Giọng thơ trở nên vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung nhưng không làm mất đi
tinh thần khí phách của người lính.
Bức tranh miền Tây sông nước thơ mộng trữ tình của tác giả vẽ ra thật sinh động:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Một không gian mênh mông huyền ảo xuất hiện, chắc hẳn “chiều sương ấy” là một buổi chiều
sương giăng với nhiều kỉ niệm. Ta có thể thấy khi đoàn quân ăn bước qua nơi này tâm họ đang lặng
để nhớ về điều gì xa vời lắm, có thể là đồng đội vừa mất của họ, có thể là nỗi nhớ miên man về thời
thơ ấu về một ánh mắt gieo bao tương tư chờ đợi. Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”,
“thấy” cùng những câu hỏi tu từ “có thấy” “có nhớ” cho ta biết nhà thơ đang đắm chìm trong sự hoài
niệm. Trong hiện thực tàn khốc của chiến tranh vẫn luôn hiện diện những khoảng lặng như thế. Tác
giả hỏi người nhưng thật ra là tự hỏi lòng mình tự nói với mình dùng câu hỏi để khẳng định. Quang
Dũng đã xuất sắc để người đọc thấy được luôn có một nỗi nhớ thường trực trong tâm trí ông. Các cụm
từ như “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc”, “hoa đong đưa” đã làm bức tranh sinh động hơn hẳn.
Độc giả có thể hình dung cả vạn bông lau phất phơ theo gió như có hồn người tiễn chân các anh ra
trận. Phía xa là những cô gái Thái với dáng hình uyển chuyển mềm mại trên chiếc thuyền độc mộc
vượt qua dòng lũ sông Mã. Từ láy “đong đưa” vô cùng duyên dáng đưa câu thơ trở nên có hồn hơn
tình từ hơn. Hình như khung cảnh chiều lộng gió với những nét vẽ đơn sơ, thanh thoát luôn tạo cảm
hứng cho Quang Dũng
“Lá tím lá xanh đường gội nắng
Hoa vàng nhạt nhạt nhớ phiêu lưu
Lối đi khác khỏi lời chim nói
Ve vãn tương tư mảnh gió chiều”
(Giang hồ – Quang Dũng)
Như vậy, đoạn thơ miêu tả cảnh sông nước miền Tây đã mở ra trước mắt người đọc thế giới của cái
đẹp của âm nhạc. Nói như Xuân Diệu thì đọc bài thơ Tây Tiến “ta có cảm tưởng như ngậm nhạc trong
miệng”, chất thơ và chất nhạc được Quang Dũng hòa quyện khéo léo khiến ta cứ say trong một điệu
du dương không cần người sướng. Nếu rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khô khan rơi vào
cái vực nhạc thì thơ dễ làm say lòng người nhưng dễ nông cạn” (Chế Lan Viên). Và thơ của Quang
Dũng thì vừa sâu vừa có ý vừa say cả nhạc.
Ở những câu thơ tiếp theo, chân dung người lính trên nền hùng vĩ, dữ dội lại càng thêm phi thường,
bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùng
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Đảo ngữ “Tây Tiến đoàn binh” để nhấn mạnh khí chất của đoàn quân trong hồi ức của nhà thơ, lại
nhớ về những ngày đầu những anh lính nuôi dưỡng, quý mái tóc phi-lô-dốp của mình. Các anh vừa
tắm vừa gội đầu, hãnh diện với mái tóc của mình lắm. Nhưng tại sao lại là “Tây Tiến đoàn binh không
mọc tóc”? Vì các anh còn xông pha chiến trận còn đánh giáp lá cà với bọn địch, các anh còn chịu rét
mà rụng tóc. Hiện thực khắc nghiệt buộc những người lính đứng dậy với một diện mạo mới chẳng còn
dáng vẻ thư sinh của chàng trai Hà thành nữa. “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực chỉ màu
xanh lá ngụy trang trong lối đánh du kích của quân đội ta và cũng là màu da xanh xao của người lính
chịu cơn sốt rét nhưng vẫn kiên cường.
Câu thơ vừa đối lập lại vừa ẩn dụ vẻ xanh xao trong mắt nhà thơ càng trở thành tựu văn cường bất
khuất. Các anh chiến sĩ giờ đây mang trên mình một khí thế dữ tợn, oai phong của “chúa sơn lâm”.
Cách so sánh này đã từng xuất hiện trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Bằng bút pháp tả thực Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh trần trụi khốc liệt về chiến tranh nhưng
sự trần trụi ấy lại đậm tính lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà ta vừa cảm thương vừa khâm phục những người
lính vô cùng. Vẫn là theo mô tuýp bài thơ, sau khi dùng như ý thơ để tả hiện thực bi tráng thì đến tiếp
theo là những câu thơ của một tâm hồn lãng mạn, tài hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Trong những ngày ngập chìm bom đạn khói lửa, những lần suýt chết trong gang tấc, tâm hồn họ lại
nhạy cảm và mãnh liệt hơn bao giờ hết. Hình ảnh “mắt trừng” vừa là cách nói cường điệu của bút
pháp lãng mạn vừa là hoán dụ. Người đọc có thể hình dung về người lính trong những đêm nhớ nhà,
nhớ quê, họ trằn trọc với tấm chân tình đã phủ khăn từ rất lâu rồi, họ trằn trọc suy tư về con đường
hành quân ngày mai. Mặt khác “mắt trừng” là cách thể hiện sự căm thù tức giận của người lính, họ có
thể ngã xuống nhưng niềm hi vọng đánh tan giặc thì không bao giờ dập tắt được. Đều là những chàng
trai Hà thành hào hoa lãng tử, họ đã quên đi mối tình chóng vánh mới nở ở quê nhà yêu dấu để bước
chân lên đường chiến đấu. Phải đánh tan lũ giặc thì mới bảo vệ được người mình yêu, mới cho người
mình thương cuộc sống tự do hạnh phúc. Ở nơi này “dáng kiều thơm” chỉ dám xuất hiện trong đêm
mơ. Câu thơ có vậy mà đã gây ra bút chiến, lại nhớ nhà thơ Lưu Trọng Lư đã từng viết: “Người Đức
họ không cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ
đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy
mình thôi. Nếu cầm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” Hai câu thơ diễn tả tâm
trạng rất thật của người lính trên đất Lào, họ gửi nỗi nhớ qua biên giới cũng chẳng chờ hồi âm chỉ
mong chiến thắng.
Nhờ những nét tiêu biểu mà Quang Dũng chọn lọc thật kỹ lưỡng, đoạn thơ thứ ba đã khắc họa lên
tượng đài tập thể của người lính Tây Tiến: vừa bi tráng lại vừa lãng mạn, nét bút không ngơi nghỉ mà
tạo ra khí thế hào hùng. Nói Quang Dũng là một trong những nhà thơ hàng đầu thời kỳ chống Pháp
Quả là không sai.
Hi sinh mất mát trong chiến tranh là điều hiển nhiên, cũng là một điều cấm kỵ trong giới làm nghệ
thuật lúc bấy giờ. Ấy vậy mà qua “Tây Tiến”, lý tưởng quên mình đó không còn sự bi lụy, thê lương:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Có người nói cảm hứng của Quang Dũng đôi lúc sắp chìm vào trạng thái bi thương thì ngay lập tức
được nâng đỡ bởi đôi cánh lý tưởng lãng mạn. Từ láy “rải rác” ở đầu câu thơ kết hợp với những từ
Hán Việt như “biên cương” “viễn xứ” đã làm bức tranh nhuốm màu tang thương, một sự thật nghiệt
ngã và đau lòng. Đối mặt với bom đạn tinh thần con người có cao đến mấy cũng chỉ tan xương nát
thịt. Cuộc đời của những chàng trai trẻ mãi mãi bỏ lại nơi xa xôi. Dường như, họ đã phụ lòng chờ đợi
của những người ở quê hương yêu dấu. Đảo cấu trúc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” khiến cho
giọt nước mắt bi thương kia được hong khô hẳn. Giờ đây chỉ còn tâm thế cầm chắc súng, hiên ngang
sẵn sàng đấu tranh bảo vệ dân tộc. Hình ảnh hoán dụ “đời xanh” đã gây ra sự quên mình vì tổ quốc
của người lính ở độ tuổi đẹp nhất họ cống hiến sức người thanh xuân của mình cho sự nghiệp của Tổ
quốc. Đúng, đó chính là tinh thần trong câu “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Từ phủ định “chẳng
tiếc” để khẳng định tầm vóc lớn lao lý tưởng cao đẹp của binh đoàn Tây Tiến. Sương giăng hay khói
lửa cũng chẳng làm mờ đi hình tượng người lính. Tính phi thường trong câu thơ còn nằm ngay ở cái
chết.
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nơi chiến trường trận mạc, những người lính nằm xuống cũng chẳng có tấm chiếu manh để che đậy.
Tác giả gọi áo người lính là “áo bào” để bày tỏ sự kính trọng. Họ vẫn được xem như những vị quan
thời xưa được “da ngựa bọc thây” khi tử trận nơi sa trường. Hiện thực tuy khắc nghiệt nhưng cái chết
vẫn trang trọng qua vần thơ của Quang Dũng.
Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ sự ra đi nhẹ nhàng và lý tưởng. Các anh chỉ trở về đất mẹ sau
một kiếp rong ruổi đầy bụi trần mà thôi. Hình ảnh nhân hóa “sông Mã gầm lên” kết hợp từ Hán Việt
“khúc độc hành” đã tạo ra một giọng thơ đang hào hùng bi ai bỗng ngay lập tức trở nên bi tráng.
“Sông Mã cọp gầm”, ngay cả chúa rừng xanh cũng thương tiếc cho người lính, rừng thiêng sông núi
như dâng một khúc ca hoành tráng để tiễn đưa vong linh người đã khuất càng làm cho khí thế đoàn
quân thêm phần mạnh mẽ. Đồng đội của họ đã ngã xuống, họ phải tiếp tục chiến đấu vì lý tưởng vì
quê hương, vì trả thù.
Bút pháp lãng mạn kết hợp với cảm hứng bi tráng đã giúp nhà thơ khắc họa chân thực cái chết của
người lính vừa oanh liệt vừa hào hùng. Chân dung người lính qua câu thơ đã thể hiện nét phi thường
từ diện mạo, tâm hồn cho đến khí phách. “Thơ là thơ đồng thời họa là nhạc là chạm khắc theo một
cách riêng” (Sóng Hồng).
Ở đoạn thơ cuối cùng, tác giả mang đến lời thơ gắn bó với Tây Tiến dẫu chỉ bằng hồi ức:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đoạn thơ mang nhiều ý nghĩa, song đảo ngữ “Tây Tiến người đi” để thấy tinh thần quyết chiến của
người lính, đã dứt áo ra đi thì chẳng trông mong ngày trở về. Bởi “đường lên thăm thẳm một chia
phôi”, từng mạng từng mạng cứ thế bị bỏ lại phía sau. Cái giá của chiến thắng thật sự quá đắt. từ láy
“thăm thẳm” khiến ta bất giác rùng mình, lòng can đảm và quyết tâm phải lớn đến mức nào mới nói ra
lời đanh thép như thế. Hoặc có thể thấy tác giả rời đơn vị cũng chẳng hẹn ngày gặp lại, đồng đội vẫn
tiếp tục hành trình nhưng chẳng còn xuất hiện trong tâm trí nhà thơ nữa. Ông dùng sự dứt khoát để
dồn nén nỗi nhớ, đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ tinh thần quyết thắng của cả toàn quân. “Mùa xuân ấy” hẳn
là mùa xuân thành lập, mùa xuân hi vọng chiến thắng của đoàn quân Tây Tiến. Dẫu phải xa đơn vị
nhưng một lần cùng Tây Tiến đi về Sầm Nứa thì hồn cũng như tâm trí nguyện đi theo họ, chẳng cần
trở về. Chỉ vài câu thơ ngắn ngủi đã tái hiện toàn bộ hành trình chiến đấu, giọng thơ lãng mạn mà kiêu
hùng mấy thập kỷ, “Tây Tiến” vẫn luôn là một rương kho báu chờ người khai phá. Sự hấp dẫn lôi
cuốn và những bí ẩn trong câu thơ vẫn còn mãi, nó khiến ta “dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi và
đọc lại bài thơ một lần nữa”.
Nói tóm lại, Tây Tiến là bài thơ xuất sắc, đưa “tầm vóc của nhà thơ sánh ngang tầm chiến lũy”, cho
thấy dấu triện riêng của Quang Dũng quả thật vô cùng đắt giá. Bản viết tay với những con chữ nguệch
ngoạc trong đêm Phù Lưu Thanh vẫn còn nguyên, đó là những con chữ xuất thần mang cả hồn rừng
núi Tây Bắc và những đêm ngày vất cả của người lính. Cuộc đời Quang Dũng bình dị như màn sương
nhưng cốt cách và tinh thần ông lại như ngọn đuốc cháy trong đêm sương ấy vậy. “Hào khí của thời
đại đã chấn động trong tâm hồn anh, và tiếng thơ riêng biệt của anh có phần âm vang của hào khí ấy”.
Hiếm có một bài thơ nào vừa bi tráng vừa lãng mạn đến như thế, sau này chỉ mong những người khai
phá con chữ nâng niu vần thơ ông một chút. Hãy bắt đầu từ nỗi nhớ, cả đời người nghệ sĩ ấy đều dành
cho hồi ức, hồi ức về những năm tháng chẳng màng bão đạn, mưa giông. Cả đời là một khúc ca bi
tráng, kiêu hùng…

I. Mở bài:
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca Cách Mạng Việt Nam luôn được coi là tài sản vô giá của dân tộc,
bởi chúng phản ánh cả một giai đoạn lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt. Đặc
biệt trong thời kì kháng chiến, với cảm hứng yêu nước, thi ca đã thực sự hun đúc nên tượng đài của
những chiến sĩ anh hùng, những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành
hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có
lí tưởng sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho Tổ quốc, đồng thời đó cũng tràn đầy tâm hồn
lãng mạn hào hoa. Qua việc tìm hiểu hình ảnh anh bộ đội trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu
biểu nhất của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung, chúng ta có thể
thấy rõ.

II. Thân bài:


1. Cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến giữa thiên nhiên hùng vĩ
Tây Tiến là tên của một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947, giữa những ngày đầu vô cùng gian
khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong
đó có nhiều học sinh, sinh viên, trí thức trẻ. Đơn vị này hoạt động chủ yếu trên địa bàn núi rừng miền
Tây Bắc sang tới Thượng Lào, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới Việt – Lào và phối hợp với bộ đội Lào
đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Sinh hoạt vô cùng thiếu thốn và gian khổ nhưng lính Tây Tiến
vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn anh hùng. Bài thơ được viết ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây) cuối năm
1948, lúc Quang Dũng rời xa đơn vị chưa lâu. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi lại là
Tây Tiến. Qua nỗi nhớ cảnh vật và con người Tây Tiến, bài thơ bày tỏ niềm ngưỡng mộ những người
lính trong kháng chiến chống Pháp và ngợi ca một thời gian khổ mà anh hùng trong lịch sử dân tộc.
Nỗi nhớ ấy xuyên suốt cả ba đoạn và bốn câu kết thúc của bài thơ.

Trước hết là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ của mình về đoàn quân Tây Tiến
thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây
Tiến:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nỗi nhớ ấy bắt đầu bằng tiếng gọi Tây Tiến ơi. Tiếng gọi đó sao mà nghe tha thiết như thế, nó như
vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm thời xưa. Một thời đạn bom
đó đã để lại nỗi ám ảnh cho những người trực tiếp tham gia chiến đấu. Cách hiệp vần ở những chữ
cuối mỗi câu khiến cho câu thơ càng vang xa, ngân mãi trong đêm: ”ơi, vơi, hơi”. Nó giống như lúc
những anh lính Tây Tiến trút hơi thở mệt mỏi sau một ngày hành quân. Hai địa danh Sài Khao và
Mường Lát hiện lên khắc sâu vào nỗi nhớ của tác giả. Hai địa danh ấy gắn với những cuộc hành quân
của đoàn quân Tây Tiến. “Đêm hơi” khiến cho độc giả nghĩ tới nhiều sự vật kì vĩ, đêm hơi có thể là
đêm đầy sương và hơi sương, đêm hơi còn là đêm của không khí lạnh của rừng sâu, nhưng cũng có
thể là sự di chuyển nhẹ nhàng của những chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến hay chính là những hơi sương
trong đêm hành quân ấy thể hiện những khó khăn vất vả của đoàn quân. Những khó khăn của những
người lính tây tiến lại trở nên đẹp đẽ và nên thơ trong những vần thơ của Quang Dũng. Đó là những
gian nan mà những người lính phải trải qua, chính những gian nan đó lại càng tô đậm vẻ đẹp bi tráng
của họ… Những triền dốc khiến người ta mới nhìn đã thấy ngại, hai từ thăm thẳm trong câu thơ khiến
độ hun hút của những con dốc lại càng trở nên nguy hiểm biết bao nhiêu. Chưa dừng lại đó, những
hình ảnh hun hút, đầu súng của những người lính đang đùa giỡn với mây trời:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi


Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày như lấp cả đoàn quân, mưa nhiều
đến nỗi làm cho những ngôi nhà như trôi bồng bềnh giữa biển khơi… Nhiều câu thơ sử dụng hàng
loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”… làm hiện lên cái gập ghềnh, thăm thẳm, khúc
khuỷu, cheo leo của con đường hành quân. Những độ cao độ sâu ấy được tính bằng ngàn thước, nhấn
mạnh vào những gian khổ mà đoàn quân phải vượt qua. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba
chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ cao chóng mặt.

Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ nghệ thuật có tính
định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng
của điệp ngữ “ngàn thước” và tính chất tương phản của các động từ “lên – xuống” trong hai vế câu đã
tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa
độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun
hút, hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu
tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ,
kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến:
họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, vất vả; những thử thách của thiên nhiên chỉ càng
làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau những câu thơ hun hút,
nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong bảy thanh bằng, cùng với rất nhiều âm tiết
mở; câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mang, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Dòng thơ mở ra một khoảng không gian bát ngát, câu thơ như bay ngang trời. Ta như
hình dung được người lính đang leo lên những cồn mây, một hôm nào đó, dừng chân bên dốc núi
phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những
ngôi nhà bồng bềnh, thấp thoáng, ẩn hiện trong màn mưa hư ảo… Sắc thái phiếm chỉ khiến cụm từ
“nhà ai” trở nên mơ hồ, xa xăm. Sắc thái nghi vấn lại gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu thơ chỉ
có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng, suy tư để rồi sau đó, tất cả
những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, ở
những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông… rất xa lạ, làm tăng thêm ấn
tượng về sự hoang sơ, kì vĩ, bí mật của rừng thiêng, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, nhớ nhung
dễ làm xao xuyến lòng người xa quê. Chúng cho biết không chỉ miền đất mà người lính đã đi qua mà
khi “vừa mới đọc lên thôi đã thấy mòn chân mỏi gối” (Trần Lê Văn).

Núi rừng miền Tây tiếp tục được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”


“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

“Thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ đầy bí
hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử dụng trong phép đối
thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng “thác”, “thét” mang thanh trắc ở âm vực
cao thì câu dưới là các tiếng “Hịch”, “cọp” cũng mang thanh trắc nhưng lại thuộc âm vực thấp. Và có
thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm
thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú
dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. “Chiều chiều” và “đêm đêm” là
những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên
khủng khiếp đã ngự trị núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là “chiều chiều – đêm
đêm” – sự ngự trị muôn đời! Nhưng cũng chính điều này lại càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây
Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con
người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước
độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân
Tây Tiến.

Sự vất vả, gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến đã ít nhiều thể hiện trong
những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây, ngoài ra còn có những
câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành
quân. Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên
đường hành quân:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền
Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió
miền Tây … Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Sự hồn nhiên
của người lính được thể hiện qua những giây phút mệt mỏi, gục lên ba lô và ngủ, bỏ lại sau đó những
khó khăn vất vả, những hiểm nguy của kháng chiến. Hình ảnh người lính gục lên súng mũ dãi dầu
không bước nữa là một hình ảnh đẹp. Câu thơ nhằm nói giảm đi cái chết, cái hi sinh của những người
chiến sĩ ấy. Đó là một vẻ đẹp bi tráng, cái hi sinh kia là bi nhưng trong cái bi ấy ta lại thấy một cái
tráng lệ vô cùng. Họ có thể hi sinh nhưng trong một tư thế rất nhẹ nhõm, “bỏ quên đời” những kí ức
về những lúc dừng chân mệt mỏi, những kỉ niệm với những buổi chiều và ban đêm với những con thú
dữ gầm rú lên, nhớ những đêm mùa nếp xôi ở Mai Châu.

2. Kỉ niệm đẹp về tình quân dân


Ở đoạn thơ tiếp theo người lính hiện ra với vẻ hồn nhiên, có một đời sống tinh thần cũng vô cùng vui
vẻ lạc quan, những hình ảnh liên hoan đời thường, cùng với cô gái Viên Chăn xinh đẹp kiều diễm với
tình dân quân thân thiết đẹp sao. Bỏ qua những vất vả những người lính hiện ra với vẻ đẹp oai hùng
mà cũng hồn.

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân.
Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng”
gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau
thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn). Ở đây,
“đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến
sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn,
tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây
như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của
lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e
ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến
cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn
hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán
phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương
xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất
hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang
phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.
Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây
Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa
vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ”
trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà
Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những ngư ời
lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.
Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời
nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy
được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ
vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.

Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh
lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và
tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa
người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một
không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên
theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ
nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của
núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là
”Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man
mác. Đại từ ”ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều
sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng
khuâng!

Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên
đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất
khuất, kiên cường: ”Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như
chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền
được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển
chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình
kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía
trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai
nhoà… Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao
dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng
không bị ”dồi lên dập xuống” mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử
dụng rất gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào
người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.

3. Chân dung người linh Tây Tiến


Với những nét kiên cường dù cho sự khắc nghiệt làm cho ý chí và lòng quyết tâm của chiến sĩ không
hề bị phôi phai, những đoàn binh phải chịu đựng hàng trăm những gian nan và nguy hiểm đó đã tác
động xấu đến thân thể của người lính, nhưng nó không làm phôi phai đi tinh thần của người chiến sĩ
Tây Tiến.

Quân xanh màu lá dữ oai hùm


Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật và nơi khí hậu khắc
nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diếm, sự thiếu thốn hay
những căn bệnh như sốt rét. Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”


“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Căn bệnh đáng sợ khiến cả binh đoàn bị rụng hết tóc được Quang Dũng khai thác hết sức chân thực
của người lính Tây Tiến, dù khó khăn khắc nghiệt nhưng tinh thần chiến đấu chưa bao giờ kết thúc.
Hình ảnh quân xanh màu lá là những hình ảnh gầy gò ốm nhưng không hề yếu mà vẫn dữ oai hùm.
Mắt trừng gợi cho ta liên tưởng đến sự căm thù giặc của những anh hùng tây tiến. Những ánh mắt
hiện lên lửa hi vọng và tinh thần chiến đấu oai hùng, không một chút phó mặc cho số phận, cũng có
thể đó chính là sự thức trắng không ngủ được vì lo cho biên giới hoặc mở mắt để nhớ những bóng
kiều thơm kia. Đó là sự hi sinh của những người chiến sĩ ấy, họ phần lớn là những trí thức Hà Thành
ngày đêm nghĩ đến quê nhà với những bóng hồng mà không bao giờ mờ nhạt trong lòng họ. Đó chính
là cái bi của vẻ đẹp người lính. Nhưng nó lại rất tráng vì người ta chết đi vì lí tưởng cao cả của mình
thì đó chính là cái chết đẹp. Thay vì chiếu đắp lên, sự ra đi của các anh được ví như sự ra đi của
những người được những người khác tôn trọng và biết ơn. Những áo bào thì thay bằng chiếu thể hiện
sự giản dị của những người lính. Chiến trường khắc nghiệt làm cho anh phải ra đi chỉ có mảnh chiếu
che thân. Đất mẹ chính là nơi các anh sinh ra cũng là nơi mà các anh về, đất mẹ che chở cho các anh
mãi mãi yên bình với giấc ngủ ngàn thu của mình. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã hiện ra, gầm lên
khúc hành ca, như kính cẩn tiễn đưa linh hồn các anh, không phải là sự chơi vơi nữa mà là tiếng gầm,
nó càng tạo nên chất tráng cho bài thơ.

“Tây Tiến” được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật. Bút pháp
hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng, nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu.
Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách;
(trang trọng, cổ kính; sinh động, gợi tả gợi cảm…), có những kết hợp từ độc đáo (nhớ chơi vơi, Mai
Châu mùa em…), tên địa danh vừa cụ thể xác thực vừa gợi cảm giác lạ lẫm. Bao trùm bài thơ là giọng
điệu khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm
lắng… Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng đường
hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp;
nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người
lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng
từ đó mà toát lên chất lãng mạn bi tráng và vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong
thơ Quang Dũng

III. Kết bài:


Dưới ngòi bút hào hoa của Quang Dũng những hình ảnh về những người lính Tây Tiến vừa hồn hậu,
giản dị lại hết sức khí phách. Qua đây ta cũng thấy được vẻ đẹp bi tráng của những chiến binh Tây
Tiến, cảm nhận được như thế chúng ta càng thêm yêu hơn những con người vì quê hương đất nước.
Bài thơ xứng đáng là một tượng đài bằng ngôn ngữ đã bất tử hóa phẩm chất anh hùng của anh bộ đội
cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp rất đỗi gian khổ và vui tươi, hào hùng:

“Vẫn sống muôn đời cùng núi sông


Và con người ấy, bài thơ ấy
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Tây Tiến biên cương mờ khói lửa.”

You might also like