You are on page 1of 15

TÂY TIẾN

QUANG DŨNG
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Tên thật là Bùi Đình Diệm (1921-1988)
- Con người tài tử: con người ưa thử thách, không chịu chật hẹp, bao giờ cũng phóng
khoáng rộng mở.
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao góc phố phường
- Con người tài hoa: hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn, thi trung hữu nhạc, thi trung hữu
họa.

2. Tác phẩm
 Hoàn cảnh ra đời:
- Đơn vị Tây Tiến thành lập năm 1947. Địa bàn hoạt động Thượng Lào - Tây Bắc Việt
Nam.
- Thành phần thanh niên Hà Nội. Tinh thần chiến đấu lạc quan và cuộc sống chiến đấu
gian khổ.
- 1948: Quang Dũng đã sáng tác bài thơ khi ông rời xa đoàn binh Tây Tiến.
- Nhan đề: “Nhớ Tây Tiến” là nhan đề phù hợp với tâm trạng của Quang Dũng khi
Quang Dũng vừa rời xa đơn vị của mình. Gần 10 năm sau chính Quang Dũng đã bỏ từ
“Nhớ” chỉ còn lại “Tây Tiến” khiến cho Tây Tiến trở thành một tiếng gọi thường trực,
trở thành một phần hiện hữu, trở thành một nỗi nhớ luôn tồn tại trong tâm khảm. Một
nỗi ám ảnh thường trực đối với mỗi đoàn binh.
- Cũng với nhan đề “Tây Tiến”, Quang Dũng đã tạo nên một nhan đề vừa gọn, chắc, vừa
tạo nên một sự vang vọng.

II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN


1. Khổ 1: Nỗi nhớ chơi vơi
a) Hai câu đầu: Khúc tiền tấu về nỗi
nhớ
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
- 2 câu thơ mở đầu giống như những nốt nhạc đầu tiên trong một bản giao hưởng đầy nỗi
nhớ. Câu thơ đầu nhắc đến Sông Mã và Tây Tiến, cách gọi tên địa danh vốn là một điều quen
1
thuộc trong thơ ca cách mạng. Nói như một nhà nghiên cứu là có một thời người ta chỉ cần
gọi tên đất tên làng tên quê hương xứ sở thì tự nó cũng đủ tạo thành một tứ thơ.
- Nhưng nét độc đáo của Quang Dũng chính là ở việc, ông đã sử dụng cùng lúc tên hai địa
danh, Quang Dũng đã mở đầu bài thơ bằng hình ảnh dòng sông Mã, dòng sông đã theo người
lính Tây Tiến suốt cả một chặng đường dài hành quân và bản thân cái tên Sông Mã cũng đã
gợi đến hình ảnh của con ngựa chiến gắn với người chiến binh vậy mà giờ đây Sông Mã xa
rồi như để nhấn mạnh một hiện thực không thể chối bỏ: ta đã phải rời xa đơn vị mà mình yêu
dấu, phải rời xa mảnh đất mà ta gắn bó. Và còn gì buồn hơn một người lính chiến chinh phải
rời bỏ yên ngựa, rời bỏ sự nghiệp của mình.
- Nhưng ngay sau hình ảnh “Sông Mã xa rồi” lại là một tiếng gọi tha thiết “Tây Tiến ơi”, Tây
Tiến vốn chỉ là tên của một đơn vị bộ đội nhưng Quang Dũng đã gọi như là gọi tên của người
mình yêu. Điều đó chứng tỏ có một hiện thực tâm lí rằng chưa bao giờ những người lính có
thể rời xa được Tây Tiến, Tây Tiến luôn ở trong tâm trí, trong trái tim của họ, trở thành một
phần hiện hữu và thường trực. Hai hiện thực khách quan và hiện thực tâm lí ấy đã đan cài,
đã kết bện vào với nhau tạo nên cho bài thơ một cảm giác khắc khoải, tạo nên một niềm xúc
động mãnh liệt và tiếng gọi Tây Tiến vút dài theo chiều dài của dòng sông Mã đã làm cho câu
thơ đầu tiên có chất tạo hình.
- Phong cách thi trung hữu họa vốn làm nên nét tài hoa của Quang Dũng sẽ còn được thể hiện
ấn tượng hơn ở câu thơ thứ 2 với 2 từ “nhớ” được lặp lại, 3 vần “ơi” được láy lại, nỗi nhớ đã
được tạo nên một cách trùng điệp, miên man như khắc khoải, như chơi vơi, và vần “ơi” khiến
cho nỗi nhớ như được trải dài như giăng mắc trùng điệp nơi núi non Tây Bắc và nếu như để
câu thơ ấy ngân nga mãi thì ta luôn có cảm giác, Quang Dũng và những người đồng đội của
mình đang cất tiếng gọi giữa núi rừng Tây Bắc và để lắng nghe tiếng dội lại của Tây Bắc
trong chính lòng mình.
- Nhưng có lẽ Quang Dũng đã thể hiện nét độc đáo nhất của nỗi nhớ của mình qua nỗi nhớ
chơi vơi. Đó là một nhớ lơ lửng tưởng như rất khó nắm bắt, tưởng như buông ra không cần
níu giữ nhưng thực chất lại là nỗi nhớ đầy ám ảnh, là nỗi nhớ đau đáu tưởng là hư mà thành
thực, tưởng rất nhạt rất mảnh mà hóa ra rất đậm rất sâu, vậy là cũng giống như nhan đề, hai
câu thơ mở đầu thể hiện rất trực tiếp về cái cảm giác cảm xúc gắn bó với Tây Tiến khiến cho
mỗi người đọc đều có cảm giác chính mình mang một phần tâm hồn của Tây Tiến.

b) Mười hai câu tiếp: Bức tranh về Tây Bắc


- Quang Dũng đã vẽ bức tranh về miền núi rừng Tây Bắc với cả 2 nét vẽ đan cài kết bện với
nhau, đó là nét vẽ hùng vĩ dữ dội hòa kết với nét vẽ tuyệt vời thơ mộng, tất cả đã tạo nên
một dấu ấn về núi rừng Tây Bắc rất riêng và rất độc đáo.
Vẻ gân guốc dữ dội của bức tranh Tây Bắc:
2
- Điều trước hết có thể nhận thấy rõ là Quang Dũng đã không hề né tránh hiện thực gian khổ,
thậm chí ông còn có xu hướng tô đậm hiện thực gian khổ đó lên. Đấy là lí do vì sao Tây Bắc
trong thơ của Quang Dũng trở thành một chiến trường đầy thử thách:
+ Đó là một nơi đầy lam sơn trướng khí với hình ảnh
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi".
Trọng âm của câu thơ rơi vào hai chữ " lấp" và “mỏi” , đây là hai thanh trắc duy nhất trong
bảy thanh của câu thơ. Tất cả nhấn mạnh màn sương của núi rừng Tây Bắc thực sự là một thử
thách khắc nghiệt chứ không mang một vẻ kiều diễm, lãng mạn như trong các thi phẩm khác:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về"
(Việt Bắc - Tố Hữu)
"Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ"
(Tiếng hát con tàu- Chế Lan Viên)
- Với Quang Dũng hình ảnh sương xuất hiện với địa danh Sài Khao - một địa danh hoang
vắng đã nhấn mạnh vào một thử thách rất đỗi đáng sợ mà thiên nhiên Tây Bắc đã đem đến
cho những chàng trai Hà Thành hào hoa. Và chỉ là một làn sương thôi đã đủ nhấn chìm
những người lính vào mỏi mệt hoang mang.

- Chưa hết núi cao vực sâu cũng khiến cho chặng đường hành quân thêm gian nan và vất vả,
Quang Dũng đã có những câu thơ thật tài tình, thậm chí là thật thần tình về những con dốc
của Tây Bắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
- Nếu như người Tây Bắc thường nói mỗi một bước đi đầu gối chạm cằm để nói về những
con dốc cheo leo hiểm trở, thì Quang Dũng đã khắc hoạ vẻ đẹp phi thường và dữ dội của con
đường hành quân trên những triền dốc núi Tây Bắc bằng những câu thơ mang vẻ đẹp Đường
thi.
- Quang Dũng như không hề phải đẽo gọt ngôn từ, hiện thực được đưa vào trong thơ như nó
vốn có. Những con đường hành quân là có thực, những người lính luôn phải vật lộn với đèo
cao, với những con dốc dựng đứng suốt một dải biên cương của Tố quốc.
- Câu thơ đầu rất giàu sức gợi, tô đậm ấn tượng về sự gập ghềnh hiểm trở, hùng vĩ của núi
non. Câu thơ có 7 chữ thì có 2 từ “dốc” được lặp lại, và 2 từ láy đầy giá trị tạo hình "khúc
khuỷu" và "thăm thẳm" và tất cả như nhấn mạnh độ cao của con đường hành quân mỗi lúc
được đẩy lên, đó là một con đường đã đi không thể quay đầu lại với những bước chân không
hề có đường lui và với việc phối hợp tài tình những điệp ngữ, những thanh trắc, những từ láy
3
đã tạo cho câu thơ một thứ nhạc điệu riêng vừa mạnh mẽ rắn rỏi nhưng cũng vừa trúc trắc.
Qua đó ta có thể hình dung ra những người lính đang bước những bước thật nặng nhọc nhưng
cũng thật rất đỗi kiêu hùng trên con đường leo dốc.
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
- Càng lên cao thì càng đến một lúc những người lính Tây Tiến đã vượt lên trên tầm cao của
thiên nhiên vũ trụ. Câu thơ đã đặc tả độ cao rất độc đáo, ta có cảm giác những người lính như
đang đứng giữa nơi tiếp giáp giữa trời và đất mà cây súng chính là cầu nối vô hình. Mỗi bước
đi của người lính như là bước trong mây và mũi súng chạm đến đỉnh trời là một hình ảnh vừa
thực vừa rất lãng mạn bởi độ cao của con dốc thì tạo nên chất hiện thực còn lãng mạn là bởi
tâm hồn người lính trẻ hồn nhiên tinh nghịch. Chữ “ngửi” là một sáng tạo độc đáo đồng thời
nó cũng là một cách để đo độ cao rất đặc biệt, rất lính nhưng dù có lãng mạn đến đâu thì ấn
tượng về việc người lính phải gồng mình lên vượt qua thử thách là rất rõ nét:
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
- Nhà thơ đã sử dụng bút pháp đối lập triệt để câu thơ như được bẻ đôi để tạo nên 2 sườn dốc
dựng đứng. Vừa đầu câu là “ngàn thước lên” thì cuối câu đã là “ngàn thước xuống” và điệp
từ “ngàn” đã mở ra một không gian rất đặc trưng của Tây Bắc với ngàn núi ngàn mây ngàn
cây. Cũng phải là thử thách như thế thì mới được coi là những thử thách của lính Tây Tiến.
- Thử thách chưa dừng lại ở đó, thử thách còn hiện ra với thác dữ và thú dữ và ở thử thách
này, Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật thi trung hữu nhạc. Trong câu thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
có đến 5 thanh bằng, chỉ có 2 thanh trắc nhưng ấn tượng của người đọc đã dồn cả vào 2 thanh
trắc đó, đó là bởi Quang Dũng đã phá vỡ quy tắc nhị tứ lục phân minh, đồng thời việc lặp lại
phụ âm đầu ‘th’ cùng với việc sử dụng 2 thanh sắc - thanh cao nhất trong 6 thanh của tiếng
việt, tất cả tạo nên ấn tượng về bản hùng ca của con thác nổi lên giữa cái im lặng đầy quyền
uy của rừng già. Còn ở câu thơ thứ 2, thì ấn tượng dồn cả vào 2 thanh nặng kết hợp với 2 vần
đóng trong 2 chữ ‘hịch’ và‘cọp’ đã tạo nên được những bước chân đầy bí hiểm, đầy đe dọa
của vị chúa tể sơn lâm tạo nên được chất “đường rừng” trong tâm trí của những người lính
Hà Thành đến vùng núi Tây Bắc, ấn tượng về sự gian khổ của 2 câu thơ còn trở nên rõ rệt
hơn với sự xuất hiện của 2 trạng ngữ “Chiều chiều” và “Đêm đêm”, điều đó chứng tỏ những
thử thách đó thường xuyên đeo đuổi những người lính trở thành một hiện thực ám ảnh đối với
những người lính.
- Hiện thực chiến đấu gian khổ là thế, điều đáng sợ nhất chắc chắn sẽ xảy ra, đó là những cái
chết, nhưng Quang Dũng đã thể hiện sự hi sinh ấy theo một cách rất riêng của mình:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
4
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !”
Quang Dũng đã sử dụng những từ ngữ đầy tính chủ động để diễn tả sự hi sinh của những
người lính Tây Tiến, đó là “không bước nữa”, là “bỏ quên đời”, tất cả đã nhấn mạnh tính chất
phớt đời, ngạo đời không sợ hãi trước hi sinh gian khổ của những người lính Tây Tiến, có vẻ
với Quang Dũng và với những người lính trẻ thì việc được sống những ngày ở đoàn binh Tây
Tiến, việc được chiến đấu một cách kiêu hùng như vậy đã là một niềm hạnh phúc, đã là một
điều đáng mơ ước không có gì phải tiếc nuối vì thế mỏi mệt thì thanh thản ra đi chỉ nhẹ nhõm
vậy thôi.

Hiện thực gian khổ là như vậy nhưng qua ngòi bút của Quang Dũng, ông không hề né tránh,
thậm chí có một xu hướng tô đậm cái dữ dội của núi rừng đề làm rõ vẻ đẹp và ý chí, nghị lực
của đoàn quân, có thể thấy những người lính Tây Tiến ở đây đã dám đạp bằng, đã dám vượt
lên chiến thắng mọi gian nan thử thách và dường như đó cũng là cách để những người trai trẻ
khẳng định mình, thể hiện bản lĩnh của mình cũng như khám phá ra chính mình.

Vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của mảnh đất Tây Bắc:
- Nói đến Tây Bắc, ấn tượng mạnh nhất của mỗi người sẽ luôn là vẻ đẹp rất đỗi hùng vĩ và dữ
dội nhưng ẩn sâu trong cái hùng vĩ và dữ dội ấy chính là một vẻ đẹp rất đỗi trữ tình và thơ
mộng, Quang Dũng và những người lính Tây Tiến thật sự đã gắn bó đủ sâu với Tây Bắc để
có thể nhận ra phần tâm hồn sâu thẳm của mảnh đất ấy, đó chính là vẻ đẹp trữ tình và thơ
mộng. Cho nên sau mỗi câu thơ gợi nên sự dữ dội, hùng vĩ luôn là những câu thơ trữ tình, thơ
mộng làm nên một chiều sâu cho bài thơ Tây Tiến.
- Ngay sau một sự thử thách “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” là một câu thơ nhẹ như
một hơi thở với:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bởi phải chiến đấu trong một điều kiện sương mù cho nên những người lính đã phải cầm
đuốc đi hành quân và vì thế họ cho mình có được cảm giác họ đang cầm đuốc để đi tìm người
yêu trong đêm tình mùa xuân, tất cả tạo nên một sự lãng mạn và bay bổng.
- Còn ngay cả khi đang phải đối diện với “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” thì những
người lính Tây Tiến trong lúc thả dốc vẫn cho phép được thả mình để đưa ánh mắt ngắm nhìn
một nhà ai nơi mảnh đất Pha Luông dưới làn mưa xa khơi, tất cả làm nên một cảm giác chẳng
có điều gì có thể ngăn cản được những người lính thể hiện tâm hồn của mình.
- Sau những chiều chiều cũng như đêm đêm phải đối diện với thác dữ với thú dữ, thì những
người lính Tây Tiến một lần nữa đã có một cảm giác thật sự hạnh phúc khi được đắm mình
trong cái không khí của:

5
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ chứa rất nhiều thanh bằng như làm dịu hẳn đi cái không khí đầy gian khổ và khốc
liệt của cuộc chiến sau những ngày dài chỉ chiến đấu với núi với rừng, với cái hoang sơ
hoang dã thì một mùi cơm lên khói, một mùi thơm nếp xôi đủ để làm ấm lòng những người
lính Tây Tiến, thế cho nên những người lính Tây Tiến mới thốt lên một cách đầy xúc động và
ngây ngất như vậy.
- Nhưng có lẽ hay nhất trong hai câu thơ chính là 2 chữ “mùa em”, đây là cách nói thời gian
tâm lí hóa rất đỗi thú vị. Đời người lính tưởng như chỉ có mùa chiến chinh nối tiếp mùa chiến
chinh, chỉ biết đến mùa chiến dịch cho nên em chính là một tờ lịch tươi mát trong tâm hồn
của những người lính Tây Tiến, em làm nên một độ lắng sâu, một miền kỉ niệm trong tâm
hồn người lính.
- Với những câu thơ chơi vơi ngay ở trên nền của một hiện thực gian khổ, những người lính
Tây Tiến đã cho chúng ta thấy không chỉ một phát hiện khác về Tây Bắc mà còn là một cái
nhìn khác về cuộc chiến tranh, những người lính đã dấn thân trong cuộc chiến tranh ấy đồng
thời cũng nhận ra những vẻ đẹp những giá trị riêng của mình mà nếu không vì chiến tranh thì
chắc gì những người lính Tây Tiến đã nhận ra.

Với 14 câu thơ đầu tiên, Quang Dũng đã thể hiện được những vẻ đẹp ấn tượng nhất của mảnh
đất Tây Bắc từ sự dữ dội hùng vĩ cũng như vẻ thơ mộng, trữ tình. Trên cái nền bức tranh Tây
Bắc, Quang Dũng phần nào cũng cho chúng ta thấy được vẻ đẹp lãng mạn, ngang tàng, ngạo
nghễ xuất hiện ngay cả trong hiện thực sống sít nhất.

2. Khổ 2: 8 câu tiếp


a) 4 câu đầu tiên: Tình cảm quân dân
- Tình cảm quân dân là một đề tài quen
thuộc của thơ ca cách mạng và thường thì
các nhà thơ cách mạng đã viết về đề tài này
như một miền thân thương như trong một
không gian gia đình, như trong bài thơ đã
được phổ thành bài hát “Bộ đội về làng”
của Hoàng Trung Thông, tình cảm ấy đã được tái hiện với nồi cơm, với bát nước, với những
tình cảm gia đình giữa những người dân với bộ đội.
- Nhưng trong thơ của Quang Dũng, tình cảm này đã được thể hiện với một màu sắc riêng khi
Quang Dũng đã tái hiện đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
6
- Ấn tượng đầu tiên của khổ thơ chính là động từ “bừng”, đó không chỉ là sự bừng lên của
ánh sáng khi ngọn đuốc bất ngờ hiện lên giữa đêm đen mà còn là sự bừng lên của lòng người,
bừng lên của niềm vui hân hoan, bừng lên của cảm xúc đầy mê say, náo nức, của một niềm
vui phơi phới như vỡ òa.
- Quang Dũng đã gọi đây là đêm hội đuốc hoa với rất nhiều ý nghĩa liên tưởng thú vị. Có thể
hiểu nghĩa đầu tiên ở đây là để chỉ những ngọn đuốc như những đóa hoa rực rỡ và ngoài ra
hội đuốc hoa còn liên tưởng đến hội chúc hoa. Cách gọi của những đêm tân hôn, liên tưởng
này hợp lí ở chỗ lính Tây Tiến là những chàng trai trẻ là những chàng trai trẻ đi chiến đấu
thậm chí còn chưa biết đến nụ hôn đầu thế nên mơ về một đêm chúc hoa cũng là tâm lí rất tự
nhiên của những người lính trẻ và làm cho lòng người lính trở nên thăng hoa hơn, trở nên
giàu cảm xúc hơn. Điều đó cũng càng có lí hơn bởi ở khổ 1, Quang Dũng từng viết "Mường
Lát hoa về trong đêm hơi" và giờ đây những chàng trai đã thực hiện được mong muốn của
mình.
- Trong đêm hội ấy, em xuất hiện càng làm cho lòng những người lính trở nên mênh mang
hơn bao giờ hết, bình thường những người con gái ấy mộc mạc, chân chất vô cùng nhưng vào
trong đêm hội thì em thật bất ngờ với những bộ xiêm áo làm cho lòng người lính phải thổn
thức khiến họ phải thốt lên:
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
- Hai chữ "Kìa em" như một sự bất ngờ, một sự ngạc nhiên đầy bối rối trước vẻ đẹp của
những cô gái nơi miền sơn cước hay chính là bởi người lính bối rối trong một không gian thơ
mộng của ngày hội đuốc hoa. Và câu hỏi "tự bao giờ" là câu hỏi không cần đến lời đáp. Một
mặt câu hỏi ấy bộc lộ tình cảm thiết tha của những người lính. Mặt khác cũng đã thể hiện một
niềm cảm ơn, một niềm xúc động trước những gì mà người con gái miền sơn cước đã dành
cho mình. Bởi theo lời thơ thì những người con gái vùng sơn cước này đã chờ đợi giây phút
này từ lâu lắm rồi, họ chỉ mong cho đến giây phút này mà thôi.
- Không gian của đêm liên hoan lửa trại ấy cũng là một không gian đầy ắp tiếng nhạc và đây
chính là tiếng khèn quen thuộc của người miền núi. Quang Dũng đã gọi âm thanh ấy là âm
thanh “man điệu” có nghĩa là vừa mê man lòng người và cũng là âm thanh đến man dại, đắm
say, nồng nàn mà quyến rũ .
- Cái tiếng khèn man điệu ấy lại còn gắn với sự e ấp, ngại ngùng, cả thẹn của những cô gái
sơn cước, những cô gái ấy ở trên thì Quang Dũng gọi là em nghe rất trẻ trung thì ở dưới
Quang Dũng gọi là nàng với một vẻ vô cùng quyến rũ.
- Tiếng nhạc của tiếng khèn man điệu cứ ngọt lừ như hơi rượi cần, hơi rượi lá đã gợi dậy chất
lãng mạn trữ tình trong tâm hồn người lính, đã xây hồn thơ cho họ khiến cho họ cảm thấy
như mê đi mà quên cả lối về thế cho nên mới viết là:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
7
- Không phải là "nhạc đi Viên Chăn" mà là "nhạc về Viên Chăn". Cuộc hành quân Tây Tiến
dường như đã thực sự là nơi trở về của những người lính Tây Tiến.

Có thể thấy đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân đó như một miền cổ tích giữa con
đường hành quân đầy gian khổ. Nó giúp cho những người lính Tây Tiến như được rửa đi bụi
trường chinh, khói lửa, như được tiếp thêm sức mạnh của tình quân dân để từ đó họ như cũng
có thêm sức mạnh để mạnh mẽ vững vàng hơn trên con đường hành quân của mình.

b) 4 câu tiếp theo: Nỗi nhớ vẻ đẹp của rừng núi Tây Bắc
- Cuộc vui nào rồi cũng đến lúc phải chia tay, những người lính buộc phải rời xa những đêm
liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, chỉ có điều cuộc chia tay đó, cuộc ra đi đó dường như
đã thể hiện một cách rất lạnh lùng rất thản nhiên:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy"
Nhưng chính sự lạnh lùng này lại nhấn mạnh cái cảm xúc khó hiểu, cảm xúc cố gắng che đậy
một điều gì đó, giấu kín một điều gì đó. Điều đó như được thể hiện trong từ "ấy", ấy vốn là
một đại từ phiếm chỉ, từ "chiều sương ấy" vừa khiến cho buổi chiều thêm mơ mộng huyền ảo
nhưng cũng khiến cho không gian trở nên chơi vơi hơn, mênh mang hơn, khắc khoải đến nao
lòng. Buổi chiều sương giăng vừa là một cảnh vật quen thuộc nơi núi rừng, lại vừa khiến cho
khoảnh khắc của người ra đi vừa thực lại vừa hư.
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
- Hai câu thơ tiếp theo tưởng như là những câu hỏi vu vơ, chẳng cần đến lời giải đáp, nhưng
lại là hai câu thơ thật hay để nói về nỗi nhớ, Quang Dũng đã lựa chọn một “hồn lau nơi nẻo
bến bờ”, chứ không phải là một vạt lau hay một khóm lau hay một bông lau cụ thể nào. Khi
nói về một hồn lau, phải chăng Quang Dũng đã muốn chạm đến một phần linh hồn sâu thẳm
của mảnh đất Tây Bắc bằng cả một nẻo con tim, nẻo tâm hồn của mình, cũng như thế Quang
Dũng đã nhớ một “dáng người” chứ không phải là một hình ảnh con người cụ thể nào, một
dáng người vốn dĩ gợi nên một sự mảnh mai nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ, vô cùng kiên
cường gắn với hình ảnh con thuyền độc mộc. 2 thanh nặng ở 2 chữ “độc mộc” như nhấn
mạnh, như khắc sâu trong trái tim của những người lính Tây Tiến về hình ảnh của những
người dân Tây Bắc, Quang Dũng đã có cách nói thật riêng về nỗi nhớ bởi ông đã nói về nỗi
nhớ với những nét rất mảnh và rất nhạt. Và dường như đó chính là quy luật của nỗi nhớ, khi
nỗi nhớ đó trở nên rất sâu, khi nỗi nhớ đó đã chạm đến một phần linh hồn sâu thẳm. Khổ thơ
đã được kết lại với hình ảnh:
" Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

8
- Đây cũng là hình ảnh thơ có độ mờ nhoà tưởng như khó lí giải, làm sao mà giữa dòng nước
lũ và chảy xiết và đầy dữ dội kia mà lại có một bông hoa đong đưa được. Từ "đong đưa" rất
duyên dáng tình tứ gợi cảm. "Đong đưa" chứ không phải đung đưa. Dường như Quang Dũng
đã muốn nhấn mạnh rằng có những điều nằm ngoài quy luật của tự nhiên mà tuân theo quy
luật của tâm lí của cảm xúc. Cho dù dòng nước lũ của tự nhiên hay dòng nước lũ của thời
gian có đáng sợ đến đâu, có thao thiết chảy đến đâu thì nỗi nhớ về mảnh đất Tây Bắc vẫn là
một nhành hoa đong đưa trong tâm trí của những người lính.

Tóm lại, 4 câu thơ thật tài hoa, thật tinh tế chờn vờn giữa có mà như không, giữa thực mà hư
để tạo nên những câu thơ thật xuất sắc về nỗi nhớ trong thơ ca Việt Nam.

3. Khổ 3: Hình ảnh về đoàn binh Tây Tiến


a) 4 câu đầu
- Đến khổ thơ thứ 3 Quang Dũng mới trực
tiếp để khắc tạp nên bức tượng đài về đoàn
binh Tây Tiến, trên tấm phông nền của
thiên nhiên Tây Bắc cũng như nỗi nhớ mà
những người lính Tây Tiến đã gửi về mảnh
đất ấy.
- Ấn tượng đầu tiên về đoàn binh là một sự
kiêu hãnh, kiêu bạc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc"
- Cách sử dụng "Tây Tiến đoàn binh" chứ không phải là đoàn quân Tây Tiến đã tạo nên một
dấu ấn rất riêng. Cách nói đoàn binh đã nhấn mạnh tính chất đặc chủng, đặc tuyển riêng của
những người lính Tây Tiến kèm theo việc đảo Tây Tiến lên trước càng tô đậm thêm dấu ấn
riêng của đoàn binh này.
- Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề né tránh hiện thực gian khổ, đặc biệt là những
trận sốt rét rừng, đây là hiện thực phổ biến của bộ đội thời kháng chiến chống Pháp đến nỗi
mới có câu nói: "Phi sốt rét bất thành bộ đội" và dấu ấn của những trận sốt rét ấy cũng từng đi
nhiều vào thơ ca.
- Nhưng Quang Dũng khác những bài thơ khác ở chỗ ông không miêu tả đó là một hiện thực
gian khổ mà lại miêu tả với một góc nhìn khác đầy thú vị vì thế hiện thực mà người lính Tây
Tiến phải đối diện là tóc rụng hết vì sốt rét, da xanh dớt vì thiếu máu lại được miêu tả như
một sự lựa chọn đầy tính chủ động đó là "không mọc tóc" và "dữ oai hùm".

9
- Căn bệnh sốt rét không chỉ làm cho tóc không mọc mà còn làm cho làn da trở nên xanh xao
– một dấu ấn rất rõ của sự ốm yếu. Như vậy hình ảnh những người lính Tây Tiến đã hiện lên
với dấu ấn của một hiện thực đầy gian khổ thậm chí là đầy khốc liệt.
- Nhưng Quang Dũng đã thể hiện cái gian khổ ấy theo một góc nhìn của riêng mình, đó là
một cái nhìn đầy chủ động mang một dấu ấn riêng của đoàn binh Tây Tiến khi viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
dường như Quang Dũng muốn nói đó là phong cách riêng, bản sắc riêng mà họ đã tự lựa
chọn, có thể là do bệnh tật nhưng có thể là do học tự cạo tóc đi để dễ chiến đấu cho nên câu
thơ không gợi nên sự ốm yếu mà gợi đến một sự oai hùng kiêu hãnh và cũng như thế thực tế
của làn da xanh kia cũng đã được nhìn nhận với một cái nhìn ước lệ, đầy tính chất sách vở
khi Quang Dũng ví làn da xanh ấy với khí thế của hồn thiêng giống như những câu thơ trong
văn học trung đại:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão)
“Hùng hổ sáu quân
Giáo gươm sáng chói”
(Bạch Đằng giang phú - Trương Hán Siêu)
- Vậy là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, những người lính Tây Tiến
đã ra trận, mang theo cả khí phách và sức mạnh dân tộc từ ngàn xưa và có thể nói giữa chiến
trường đầy ác liệt, giữa một hiện thực trần trụi thì những người lính vẫn rất kiêu dũng, vẫn rất
oai hùng, cái oai hùng của bậc chúa tể chốn rừng thiêng. Lấy chính hiện thực gian khổ để tô
đậm cốt cách phi thường. Quang Dũng đã thể hiện một cái nhìn đậm chất lãng mạn.

Vẻ đẹp tâm hồn những người lính:


- Những người lính không chỉ mang vẻ đẹp can trường, khí phách ở ngoại hình mà còn rất đỗi
hào hùng và hào hoa qua hai giấc mộng ở 2 câu thơ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
ở 2 câu thơ ấy hình ảnh của những người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp của trang anh hùng
hiệp sĩ một thời với hình ảnh “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”. “Mắt trừng” ở đây là ánh
mắt đầy nung nấu và đau đáu chứa đựng bao tâm sự và khát vọng lớn lao cũng chứa đựng
bao quyết tâm, bao sức mạnh, điều đó khiến hình ảnh các anh hiện lên sống động và có chiều

10
sâu và không chỉ Quang Dũng nói về khát vọng công danh của những chàng trai trẻ Hà
Thành mà Chính Hữu cũng đã từng viết những câu thơ:
“Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm”
- Nhưng 1 điều thú vị là ngay cạnh một hình ảnh chứa đựng ý chí lớn, chứa đựng quyết tâm
cháy bỏng, ngay giữa sự khốc liệt, gian khổ ấy vẫn có một giấc mơ xen vào mang theo rất
nhiều chất thơ lãng mạn: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Trong giấc mộng ấy, chiến
trường khắc nghiệt được lùi lại sau, sự căng thẳng cũng lùi lại sau, trọn vẹn là một giấc mơ
thanh bình, yên ả và đầy bất ngờ về Hà Nội, về một dáng kiều thơm.
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”
Mảnh đất ngàn năm văn vật ấy ai một lần đi qua mà chẳng vấn vương nói gì đến những
chàng trai đã dứt áo ra đi từ nơi ấy. Đọc thơ Quang Dũng ta luôn thấy thấp thoáng một Hà
Nội trên mỗi bước đường hành quân, đó có thể là một con phố dài thật cổ kính, thâm nghiêm,
đó có thể là một thảm cây trải vàng thảm lá, đó có thể là một hương cốm, hương trên một nếp
áo thơm nồng nhưng có lẽ nhớ nhất, có lẽ sống động nhất vẫn là hình ảnh một “dáng kiều
thơm”. Khi nói đến hình bóng của người con gái, người ta hay nói đến bóng hồng, bóng liễu,
còn đối với Quang Dũng con người tài hoa ấy đã giữ cho riêng mình một “dáng kiều thơm”.
Không được miêu tả cụ thể nhưng sao hình ảnh ấy cứ sóng sánh, cứ đong đầy, sắc nước
hương trời Hà Nội, câu thơ thật tình tứ và lãng mạn thể hiện một sự trìu mến, vấn vương với
một dấu ấn của Hà Nội, của hồng phương. Cùng là viết về nỗi nhớ nhưng nếu người lính
nông dân trong bài thơ “Đồng chí” nhớ đến giếng nước, gốc đa; nếu anh lính trong bài thơ
của Hồng Nguyên nhớ về một người vợ trẻ mỏi chân bên cối gạo canh khuya thì những người
lính Tây Tiến lại ôm ấp dáng kiều thơm của riêng mình. Và chính hình ảnh này đã khiến cho
có một thời người ta phê phán thơ Quang Dũng là buồn rớt, mộng rớt, là đã đi chiến đấu mà
vẫn giữ tư tưởng riêng tư, cá nhân, nhỏ bé nhưng có lẽ đây chính là những câu thơ viết về
chiến tranh thật nhất, đa chiều nhất. Đây cũng là những câu thơ giúp chúng ta khám phá được
chiều sâu tâm hồn người lính với những tình cảm chân thực đầy nhân văn, và những tình cảm
riêng tư ấy đã không hề làm hình ảnh của các anh trở nên mềm yếu đi mà chỉ khiến cho bức
chân dung của các anh thêm gần gũi và đẹp một vẻ đẹp rất đỗi con người.

Xét cho đến cùng, giữa chiến trường khốc liệt, nếu như những người lính không mơ mộng,
không thi vị hóa cuộc sống thì họ sẽ chết chìm trong hiện thực khắc nghiệt ấy trước khi chết
vì bom đạn của kẻ thù, có thể thấy chính chất men say lãng mạn đã trở thành một phẩm chất
11
cần thiết để giúp cho những người lính có đủ sức mạnh vượt lên hoàn cảnh để chiến thắng
chính mình.

b) 4 câu thơ tiếp


- Đã nói đến người lính, đã nói đến chiến trường không thể không nói đến sự hi sinh, mất
mát. Thơ cổ đã từng viết:
“Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”
Có nghĩa là xưa nay những người chinh chiến có mấy ai trở về. Đó là hiện thực của chiến
tranh, nhất là trong những năm đầu của cuộc kháng chiến khi mà quân đội phải chịu bao thiếu
thốn, phải chịu cảnh “áo vải chân không đi lùng giặc đánh”, chịu cảnh lấy thân mình đỡ đạn
kẻ thù, thế thì có thể tránh làm sao được những nỗi mất mát, hi sinh.
- Nhất là đối với những người lính Tây Tiến khi cái chết đối với họ đôi khi quá đơn giản. Họ
đã lần lượt nằm xuống rải rác trên con đường hành quân, tạo nên những cột cây số trên miền
miên viễn. “Mồ viễn xứ” đã gợi nên một cảm giác bi thương thấm đẫm bởi lẽ những người
lính Tây Tiến sống trong cảnh “heo hút cồn mây” mà chết với nỗi niềm “mồ viễn xứ”, sống
thì phải chịu cảnh cô đơn, mà chết thì phải chịu cảnh lạnh lẽo, cô độc, chỉ mang nắm xương
tàn gửi xứ người dù đã được Quang Dũng sử dụng từ Hán Việt để phần nào giảm đi được tính
chất khắc nghiệt song câu thơ vẫn khiến cho người đọc thực sự phải xót xa.
- Nhưng ngay sau câu thơ nói về hiện thực của sự hi sinh là một lời thề đầy quả quyết:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
dẫu biết rằng hiện thực trước mắt là gian lao, là thử thách, cái chết là một điều không tránh
khỏi nhưng hai chữ “chẳng tiếc” đã được nói một cách đầy quả quyết như đó là một sự lựa
chọn dứt khoát như là một lẽ sống không hề hối hận, hai chữ “chẳng tiếc” rõ ràng đã thể hiện
một sự gồng mình lên của những người lính trẻ vô danh, để tạo nên một sự bất tử cho Tổ
Quốc. Sau này nhà thơ Thanh Thảo sẽ nói hộ những người lính Tây Tiến trong những câu
thơ:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”
- Cả một huyền thoại Việt Nam một thưở đã được làm nên bởi sự gồng mình, kiêu hãnh đó.
Quang Dũng tiếp tục thể hiện một hiện thực nghiệt ngã trong câu thơ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”

12
Câu thơ nói về một hiện thực không thể cay đắng hơn, đó là những người lính Tây Tiến sống
ở những nơi gian khổ, heo hút, đừng nói gì đến mảnh vải liệm thân khi chết mà ngay cả đến
một manh chiếu bó xác cũng chẳng có, cho nên ngã xuống với quần áo như thế nào thì đồng
thời vùi vào đất như thế để làm nên những nấm mồ viễn xứ ở bên đường. Nhưng với Quang
Dũng hiện thực tàn nhẫn ấy được nhìn bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn, đó
là một tấm áo bào sang trọng và không phải ai cũng được chết một cách kiêu hãnh như thế,
không phải ai cũng được ra đi thanh thản không vướng bận như thế, vốn dĩ chết là điều tất
nhiên không tránh khỏi nhưng đôi khi người ta được quyền lựa chọn chết như thế nào, và
những người lính Tây Tiến đã lựa chọn cho mình một sự ra đi như thể chỉ là nằm xuống để
nghỉ ngơi mà thôi, chỉ là ngã vào lòng đất mẹ, ngả vào lòng đất mẹ mà thôi. Một lần nữa
Quang Dũng tiếp tục sử dụng động từ “về” như để khẳng định rằng: những người lính đâu có
chết, đó chỉ là sự trở về rất nhẹ nhõm để sống mãi với núi sông anh hùng và sự hi sinh như
thế thực sự đã được hóa thành bất tử
- Từ cảm xúc tột cùng đau đớn, Quang Dũng đã chuyển thành một sức mạnh ngợi ca và tôn
vinh:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nỗi đau dường như đã bao trùm cả thiên nhiên, dòng sông Mã vốn song hành cùng đoàn quân
từ lúc khởi đầu, đến đây đau nỗi đau lẻ bạn như một con ngựa chiến lao mình đi trong nỗi cô
độc, như tấu lên một khúc ca hùng tráng để tiễn đưa những người lính. Nhưng dòng mạch bi
tráng của đoạn thơ không ngăn cản cảm hứng về sự bất diệt. Dòng sông Mã vẫn tiếp tục cuộc
hành trình dẫu cho chỉ là một khúc độc hành đầy cô độc và có thể thấy bất chấp hiện thực đầy
gian khổ, bất chấp cái chết thì cuộc hành quân ấy vẫn chưa bao giờ dừng lại, động từ “gầm” ở
đây thực sự đã gây được ấn tượng thể hiện được tầm vóc và tư thế của những người lính Tây
Tiến. Với Quang Dũng thì cái chết thực sự là một yếu tố thẩm mĩ để tôn vinh lên vẻ đẹp của
những người lính, họ kiêu hùng ngay trong hoàn cảnh đáng sợ nhất, họ sang trọng ngay chính
giữa sự hủy diệt và hiện thực càng tàn nhẫn thì vẻ đẹp của họ càng tỏa rạng.

Đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tài hoa và lãng mạn của Quang Dũng – bút pháp thường tô
đậm những nét phi thường và đặc biệt ở đây nhà thơ đã triệt để sử dụng bút pháp tương phản:
giữa hiện thực khốc liệt với tư thế kiêu dũng, giữa dáng vẻ bên ngoài trần trụi với một vẻ đẹp
bên trong đầy tinh tế và đẫm chất thơ, tất cả đã tạo nên một hình ảnh thơ rất hào hùng, tráng
lệ, tạo nên bức chân dung tập thể của những người lính Tây Tiến vừa rất đỗi khí phách, hào
hoa nhưng cũng vừa đậm một tinh thần bi tráng. Quang Dũng quả đã đóng góp một tứ thơ
độc đáo hiện thân cho vẻ đẹp của những người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.

13
4. Khổ cuối: Khúc vĩ thanh về nỗi
nhớ
- Khổ 4 được coi như một khúc vĩ thanh
về nỗi nhớ với đoàn quân Tây Tiến và nếu
như nhìn thoáng qua chúng ta thấy khổ
thơ có một giọng thơ rất mạnh mẽ, rất quả
quyết, rất rạch ròi không nuối tiếc, không
hề mong ngày trở lại, điều đó được thể hiện ở những cụm từ như: “không hẹn ước”, “một
chia phôi”, “chẳng về xuôi”, sau bao nhiêu gian khổ, sau bao nhiêu thử thách, những người
lính Tây Tiến vẫn mạnh mẽ, can trường, vẫn không hề tiếc nuối.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
- Thế nhưng đằng sau sự dứt khoát và quả quyết ấy là bao tình cảm, bao niềm bâng khuâng,
bao sự tha thiết, không phải ngẫu nhiên mà hai tiếng “Tây Tiến” được cất lên hai lần trong
đoạn thơ nay, không phải ngẫu nhiên mà “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Tây Tiến đã trở
thành một tiếng gọi trong sâu thẳm tâm hồn thành một sự lựa chọn không tiếc nuối, không
băn khoăn.
- Phải chăng có thể coi khổ thơ là một nén tâm hương mà Quang Dũng đã dành tặng cho
những người lính Tây Tiến, những con người đã làm nên những mùa xuân bất tử cho Tây
Bắc và cho cả dân tộc.

TỔNG KẾT

14
15

You might also like