You are on page 1of 26

TÂY TIẾN

MỞ BÀI:
Nhà thơ CLV đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là “nơi máu rỏ” để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là một bước
ân tình. Bao nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng
rừng, vượt thác, khi hào hùng, lúc mộng mơ...tất cả chỉ bao bọc trong nỗi nhớ, niềm
thương của người đại đội trưởng gửi trao những đồng đội thân yêu. “Tây Tiến” là tiếng
lòng thổn thức, chơi vơi mà Quang Dũng gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân
Tây Tiến của mình. Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh,
soạn nhạc,...nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện
đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiên chống Pháp. Như bóng mây qua đỉnh
Việt, thơ Quang Dũng mang hồn thơ phóng khoáng và đầy tâm huyết, một tiếng thơ tinh
tế và lãng mạn. Dù viết ít, viết theo cảm hứng nhưng ông đã thực sự thành công khi viết
về người lính, và “Tây Tiến” là bài thơ tiên phong cho phong cách thơ Quang Dũng. “Tây
Tiến” lúc mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. Nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu
rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, vì vậy, năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, nhan
đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là
nguồn cảm hứng của cả bài. Với tình cảm sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng
mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang
vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình
tượng những người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can
trường vừa lãng mạn, hào hoa. Đặc biệt, ta có thể thấy rõ... qua đoạn thơ... nằm ở khổ của
bài.
Ở khổ thơ thứ nhất thể hiện nỗi nhớ của cựu chiến binh Tây Tiến hướng về những kỉ
niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn
quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua đó, Quang Dũng đã khắc họa vẻ
đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến.
Hai câu thơ đầu thể hiện chủ đề và cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ bao trùm
không gian, thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 với sự hiện diện của cả miền Tây và
trung đoàn Tây Tiến:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Bài thơ được bắt đầu bằng tên địa danh Sông Mã ở Thanh Hóa, con sông chảy dọc từ
thượng Lào về đất Việt và nằm trong địa bàn hoạt động của những người lính Tây Tiến.
Ngoài câu thơ mở đầu, hình ảnh con sông Mã còn được nhắc một lần nữa trong bài thơ
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành” cho thấy con sông không còn là vật vô tri vô giác mà
trở thành một chứng nhân lịch sử, chứng kiến biết bao vui buồn trong cuộc đời người
chiến binh và chính dòng sông ấy, khi có một người lính ngã xuống đã gầm lên khúc nhạc
ai oán, não nùng. Sông Mã vì thế trở thành một trong những biểu tượng về một thời Tây
Tiến. Nhịp điệu 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngưng lặng để
nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi “sông Mã xa rồi”, rồi sau đó hiện tại
mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “ Tây Tiến ơi”. "Sông
Mã xa rồi", một thời Tây Tiến đã xa rồi, đã trở thành quá khứ, trở thành những kỉ niệm
không thể nào quên. Xa rồi mà vẫn nhớ, nhớ Tây Tiến, “nhớ về rừng núi” Tây Bắc là địa
bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, hiểm họa nhưng cũng thật trữ tình, lãng
mạn, nhớ đồng đội thân yêu nên nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha thiết như gọi
người thân “Tây Tiến ơi”.
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Nỗi nhớ trở thành cảm xúc chủ đạo thể hiện rõ qua điệp từ "nhớ" được lặp lại hai lần
trong một câu thơ thể hiện một nỗi nhớ trào dâng, da diết. Tất cả kỷ niệm giờ lại đang trở
về trong cảm xúc nhớ thương đến mức tác giả không kìm nén được. Vế đầu xác định đối
tượng của nỗi nhớ “ nhớ về rừng núi” - đó là không gian mênh mông của miền Tây với
những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông..., những địa danh vừa gợi lên kỉ
niệm về con đường hành quân gian truân vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất
heo hút, hoang sơ. Và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây, nỗi nhớ
còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ
còn người mất. Vế sau câu thơ dành miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. Cụm từ “nhớ chơi vơi”
càng thể hiện rõ hơn nỗi nhớ. Thơ ca Việt Nam nói về nỗi nhớ cũng nhiều, và mỗi nhà
văn, nhà thơ thể hiện một nỗi nhớ khác nhau. Ca dao có câu thơ về nỗi nhớ người yêu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Tố Hữu viết về nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi với thiên nhiên và con
người Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”
Nhưng Quang Dũng trong bài thơ này đã diễn tả nỗi nhớ một cách đầy mới lạ "nhớ chơi
vơi”. Chơi vơi là trạng thái chông chênh giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào
đâu cả nên "nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông,
bề bộn, không đầu, không cuối và dường như nỗi nhớ đã nhấc bổng nhà thơ lên chơi vơi
giữa không gian và thời gian. Việc láy lại vần "ơi" giữa chữ "ơi" cuối câu thơ thứ nhất với
từ láy "chơi vơi" ở cuối câu thơ thứ hai tạo âm hưởng ngân dài, sâu lắng, gợi nỗi nhớ từ
lòng người vọng vào thời gian, năm tháng.
Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của cả bài thơ, đó là
nỗi tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến
và những năm tháng quá khứ không thể nào quên. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả những
cuộc hành quân trong đêm sương, miêu tả vẻ đẹp mờ ảo của núi rừng Tây Tiến mà những
người lính Tây Tiến cảm nhận được trên đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Với những nét vẽ vừa tài hoa vừa chân thực, hai câu thơ làm hiện lên bức tranh thiên
nhiên miền Tây heo hút, hùng vĩ, hiểm trở mà thơ mộng. Đó là những đêm sương mờ ảo,
bồng bềnh ở Sài Khao, Mường Lát mà không chỉ là màu sương của thiên nhiên che mất
tầm mắt mà còn là màu sương mờ ảo của kí ức, hoài niệm.
Ở Sài Khao, sương giăng mắc, bao phủ, che lấp tất cả là một nét vẽ vừa lãng mạn huyền
ảo vừa hiện thực. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh
họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ
rơi vào từ lấp – một động từ có sức gợi tả màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày
đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân
của các chiến sĩ thêm vất vả gian nan.Vế sau của câu thơ chỉ sử dụng bút pháp hiện thực
khi miêu tả đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi hiện ra sau màn sương. Đây là một chi tiết thể
hiện rõ sự vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân
giữa cái khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền Tây.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì câu này lại
phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính. "Đêm hơi" là cách sử dụng
ngôn từ sáng tạo, mới mẻ chỉ một đêm sương bồng bềnh, huyền ảo. Quang Dũng quả thật
tài tình trong việc sử dụng từ ngữ khi người ta nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”.
Hoa về có thể chỉ những bông hoa rừng mà những người lính bắt gặp trong đêm hành
quân, nhưng cũng có thể chỉ những ngọn đuốc như những bông hoa lung linh, lộng lẫy,
soi sáng đường hành quân. Có thể thấy người lính hành quân trong gian khổ nhưng tâm
hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi. Những thanh
bằng nhẹ bỗng trong câu thơ không chỉ làm đậm thêm sắc hư ảo của màn sương rừng, sự
huyền hoặc của hương hoa mà còn như tái hiện trạng thái mơ mộng bay bổng trong tâm
hồn chiến sĩ. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những
tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh đất miền
Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và có lẽ những người lính Tây
Tiến hẳn phải tinh tế, lãng mạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi
đây. Những khó khăn của hoàn cảnh sống không làm mất đi ở họ thế giới tâm hồn phong
phú. Những câu thơ tiếp theo của đoạn thơ gợi tả bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang
vu, dữ dội với dốc cao vực sâu và chặng đường hành quân vất vả của những người lính
Tây Tiến:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Đọc đoạn thơ tả dốc núi miền Tây của thơ Quang Dũng, có thể nhớ tới con đường khó
khăn lên xứ Thục trong thơ Lí Bạch xưa:
Thục đạo nan! Thục đạo nan
Nan ư hướng thiên thanh
( Đường lên xứ Thục khó thay!
Khó giống như lên trời xanh!)
Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ 7
chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô
cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở hiện hữu ngay trong nhạc
điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ dốc điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng
điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc; cũng phần nào gợi ra sự
nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác đã
đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh. Sự hiểm trở
của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của các từ láy
“khúc khuỷu…thăm thẳm”. Từ láy khúc khuỷu miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi
ngay dưới chân chiến sĩ. Còn từ láy thăm thẳm lại gợi độ cao hun hút, độ xa vời vợi khi
đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn nhưng không cùng. Con
đường lên miền Tây quả là Khó như lên trời xanh!
Dốc núi miền Tây được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ
cao chót vót:
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Từ láy heo hút vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng, được đảo lên đầu câu thơ nhấn
mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận
của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai tới từ Thủ đô hoa lệ. Cồn mây là một ẩn dụ đặc
sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc, từ đó,
câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mức cao đường như lẫn vào mây,
mây bao phủ đường núi, mây mờ mịt, trập trùng, mây khiến con đường hành quân của
chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu. Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao
của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một
cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây. Địa
hình heo hút, hiểm trở làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính trên đường
hành quân; nhưng bằng cách nói dí dỏm, đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa “súng
ngửi trời”, Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần
coi thường mọi gian lao, vất vả. Ý thơ cũng làm hiện nổi bật tầm cao kì vĩ của người lính
cách mạng, làm chủ cả non sông đất nước của mình. Tư thế làm chủ ấy cũng được Tố
Hữu thể hiện:
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
hoặc giống với ý của một câu ca dao trong kháng chiến:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Ta trèo lên đỉnh ta cao hơn đèo”
Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Điệp ngữ ngàn thước là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng khắc họa vẻ đẹp hùng
vĩ, chênh vênh kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ ngàn thước
và tính chất tương phản của các động từ lên – xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác
về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ
cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia, vực đổ
xuống hun hút, hiểm trở.
Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả
hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhưng đều được khắc họa đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ
đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải nghiệm của chiến sĩ
Tây Tiến trên đường hành quân, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn những người lính Tây Tiến:
họ lạc quan, mạnh mẽ coi thường mọi gian truân vất vả, những thử thách của thiên nhiên
chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ. Sau
những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7
thanh bằng cùng với rất nhiều âm tiết mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông
dàn trải, nhạt nhòa trong mưa:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hình ảnh mưa xa khơi có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng
tan trong biển mưa, không gian bỗng mênh mang, xa vời hơn... Sau những chặng đường
hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng
chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi
nhà bồng bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo. Sắc thái phiếm chỉ khiến những ngôi
nhà trở nên mơ hồ, xa xăm, sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người. Cả câu
thơ chỉ có duy nhất tiếng nhà mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư, để rồi
sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa
núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi
nhớ nhung, xao xuyến lòng người xa quê. Câu thơ là một nét vẽ mềm mại giữa những nét
vẽ gân guốc, giống như việc sử dụng gam màu trong hội họa, giữa gam màu nóng tác giả
sử dụng gam màu lạnh, làm dịu lại và tạo sự cân đối, hài hòa cho bài thơ.
Trên chặng đường hành quân chiến đấu những vất vả, gian khổ, hi sinh của những người
lính Tây Tiến được tái hiện đậm nét:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Bằng bút pháp tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã không ngại ngần khi nói đến những vất
vả, gian khổ thậm chí là hi sinh của những người lính Tây Tiến. Từ trước đến nay hai câu
thơ vẫn tồn tại hai cách hiểu. Đầu tiên, ta có thể hiểu tác giả miêu tả một giấc ngủ: Một
khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính. Sau chặng đường hành quân dốc tiếp dốc, vực tiếp
vực, sự dãi dầu nắng gió, mệt mỏi khiến cho những người lính chỉ cần gục trên súng mũ,
trong một tư thế không thoải mái mà vẫn có thể ngủ một giấc say sưa như chết. Ngoài ra,
ta có thể hiểu theo cách khác đó chính là tác giả đang miêu tả sự hi sinh: Có thể vì dãi
dầu nhiều nắng mưa, sương gió, vì căn bệnh sốt rét mà người lính Tây Tiến mệt mỏi đến
kiệt sức, không thể bước tiếp, ngã xuống một cách thanh thản, nhẹ nhàng. Anh gục xuống
khi đang hành quân, súng mũ vẫn bên mình, vẫn nghiêm trang trong hàng ngũ. Nghệ
thuật nói giảm "không bước nữa", "bỏ quên đời" thể hiện người lính hi sinh chỉ như đang
chìm vào giấc ngủ sau khi hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tư thế hi sinh của anh vệ quốc
quân chống Pháp đang trên đường hành quân trong bài thơ gợi chúng ta liên tưởng đến tư
thế hi sinh của anh giải phóng quân chống Mĩ trong bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của
Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Những sự hi sinh ấy đều là của những con người bình dị mà anh hùng. Chính họ đã góp
phần hóa thân thành Đất nước và làm nên truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất
chống giặc ngoại xâm:
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước
Tiếp đó là bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội và đầy bí hiểm:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Thác gầm thét và cọp trêu người là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội hoang
sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được
Quang Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có
các tiếng thác, thét mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng hịch, cọp cũng
mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên
như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên
tiếp trong câu dưới như lại mô phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u,
bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng. Chiều chiều và đêm đêm là những trạng
ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng
khiếp đã ngự trị nơi núi rừng, miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều
chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng chiều chiều và đêm đêm cũng là những
thời gian xuất hiện trong chặng đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến, vì thế, hai câu
thơ miêu tả những ấn tượng về miền Tây chỉ càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây
Tiến thêm hào hùng mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội
vắng bóng con người, họ đã in dấu chân mình trên những vùng đất tưởng chỉ là vương
quốc riêng của mây trời heo hút, của thiên nhiên bí ẩn thâm u, họ đã vượt qua những gian
truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm.
Trong khó khăn, gian khổ hi sinh, giữa núi rừng miền Tây đầu hoang vu dữ dội và hiểm
trở nhưng cũng thơ mộng, lãng mạn vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến và
tình quân dân thắm thiết được nhà thơ Quang Dũng gợi tả:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Nếu như ở những câu thơ trước ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người
lính Tây Tiến với sự lạc quan, yêu đời, dí dỏm, hồn nhiên qua hình ảnh "súng ngửi trời",
tâm hồn lãng mạn nên cảm nhận và thi vị hóa vẻ đẹp của thiên nhiên qua những câu thơ
như "Mường Lát hoa về trong đêm hơi"... thì ở hai câu thơ này tâm hồn các chàng trai
Tây Tiến lại dễ xúc động trước tình người ấm áp. Thán từ "Nhớ ôi" xuất phát từ tình cảm
sâu sắc, mãnh liệt, gợi bao bâng khuâng, vương vấn. Nhớ những kỉ niệm không thể phai
mờ về tình quân dân thắm thiết. Hình ảnh cơm lên khói gợi cảnh tượng thật đầm ấm. Sau
bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng
chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó và nhận được sự đón tiếp nồng hậu của đồng
bào địa phương, họ quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói và cảm nhận được tình
người ấm áp nơi xứ lạ. Đến Mai Châu vào mùa lúa nếp, người lính Tây Tiến cũng cảm
nhận tình được tình cảm mến thương và sự thơ mộng của vùng đất này qua hương thơm
của nếp rừng. Hương thơm của tình mẹ, tình em ấy sẽ theo suốt dọc cuộc đời của người
lính Tây Tiến. Cái đặc sắc nhất của câu thơ là ở hai chữ “mùa em”, đó là cách định danh,
không gọi tên một mùa cụ thể như mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, hay mùa thu mà gọi
bằng ấn tượng là “mùa em”. Mùa là một đơn vị đo thời gian, em là một chủ thể trữ tình.
Sự kết hợp độc đáo này khiến mùa không còn là của thiên nhiên, đất trời mà đã trở thành
mùa của niềm thương nỗi nhớ, mùa của trái tim người lính khi hướng về những bóng
dáng thân thương, những tấm lòng thơm thảo. Quang Dũng tạo ra một nét nghĩa táo bạo
và thật đa tình trong tập hợp từ mới mẻ mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa
danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa của tình quân dân sâu nặng, Mai
Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào
quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh của anh là dân
làng, là các sơn nữ rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc. Những thanh bằng trong câu thơ
đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngây ngất trong tâm hồn những chàng
trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn. Bữa xôi tỏa mùi hương trở thành những kỉ niệm không
thể phai mờ cũng được nhà thơ Chế Lan Viên ghi nhớ mãi:
“Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”
Đoạn thơ đầu khắc họa một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ, mộng mơ, huyền ảo. Thiên nhiên ấy
làm nền cho sự xuất hiện của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng, phong trần lại
vừa hồn nhiên, tươi trẻ. Họ không hề nhụt chí, chùn chân trước khó khăn, gian khổ. Đoạn
thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng. Bút pháp hiện thực kết hợp với lãng
mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của
nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu
và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh
mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ. Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ thơ nữa là có những kết
hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ: nhớ chơi vơi,
đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em ...). Nghệ thuật sử dụng tên địa
danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ thơ. Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút
lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa
hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh con người miền Tây càng tô đậm
thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn còn được thể hiện chủ yếu
cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung của
cộng đồng, của toàn dân tộc. Từ đó, làm nổi bật hình tượng người lính vừa dũng cảm, can
trường vừa lãng mạn, hào hoa. Đoạn thơ cũng góp phần làm nổi bật phong cách nghệ
thuật của nhà thơ Quang Dũng.

Nếu đoạn thơ trước bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo, Quang Dũng đã vẽ lên bức
tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội hiểm trở, tái hiện chặng đường hành quân
vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến thì ở đoạn thơ gồm 8 câu này bằng những
nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, bút pháp lãng mạn, tài hoa, nhà thơ đã tái hiện những kỉ
niệm đẹp trong cuộc đời người chiến binh và vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến duyên
dáng, mĩ lệ và lãng mạn.
Đoạn thơ được chia làm hai phần rõ nét. Bốn câu thơ đầu là một đêm liên hoan trong
doanh trại. Bốn câu thơ sau là thiên nhiên Tây Tiến trong buổi chiều sương hành quân
qua Châu Mộc.
Bốn câu đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây
Tiến về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa bản làng nào đó ở miền Tây:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Đây là lần thứ hai, lửa và đuốc được liên tưởng đến hoa – nếu trong đêm sương Mường
Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh huyền ảo mà thấy như hoa về trong
đêm hơi thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây, nghệ thuật ẩn dụ và
cảm hứng lãng mạn đã khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ
gợi những liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người,
niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm
từ bừng lên là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về
ánh sáng – ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tăm tối, lạnh lẽo của
núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể
hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ,
bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì cả ngọn lửa
ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa tình yêu với
con người và cuộc đời, tình yêu với vùng đất miền Tây.
Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng
mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác
rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi
cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ. Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang
Dũng còn đưa đến một cảm nhận thú vị bởi sự liên tưởng tới câu thơ đầu: doanh trại
bừng lên, gương mặt trẻ trung của các chiến sĩ bừng lên hình như không chỉ vì ánh sáng
chói lòa của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây. Các
cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mĩ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và
nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước đoàn quân xanh màu
lá, duyên dáng hơn trước những người lính dữ oai hùm. Nét tương phản của cảm hứng
lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều sự khắc nghiệt của chiến tranh. Người
lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, thú vị trước vẻ đẹp của các thiếu nữ miền Tây e ấp
và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu núi rừng. Man điệu có thể hiểu là vũ
điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào, vừa
hoang sơ, bí ẩn, vừa mới mẻ, lạ lùng làm mê hoặc lòng người. Với tâm hồn hào hoa, nghệ
sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm
nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn
phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây hồn thơ giữa những điệu nhảy, điệu
múa, những vẻ đẹp say người của phương xa, đất lạ. Câu thơ đã có tới 6 thanh bằng đã
giúp nhà thơ diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi vơi trong tâm hồn chiến sĩ.
Nhìn chung, bốn câu thơ về đêm liên hoan trong doanh trại là những câu thơ đầy chất
thơ, chất nhạc và thể hiện rõ hồn thơ Quang Dũng tài hoa, hồn hậu và phóng khoáng. Tới
đoạn thơ sau, những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay
bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ mênh mông da diết về cảnh sắc, con
người miền Tây:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Câu thơ đầu như một lời nhắn nhủ tha thiết về miền Tây:
Người đi châu Mộc chiều sương ấy
Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn vào người đi, nhưng đâu phải nhắn với ai đó mơ
hồ mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình da diết hướng về châu Mộc, hướng về vùng núi
rừng miền Tây trong một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn
sương mờ của hoài niệm, của nỗi nhớ nhung. Trong tiếng Việt, ấy là một đại từ chỉ định
luôn đem lại sắc thái xa xôi mơ hồ cùng nỗi nhớ nhung, tiếc nuối, bâng khuâng cho
những danh từ đứng trước nó như: thuở ấy, ngày ấy, người ấy…Vào cuối năm 1948, khi
đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, một làng quê của đồng bằng Bắc Bộ, Quang Dũng cũng
nhắc về chiều sương ấy với bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt
nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người, với những kỉ niệm
sâu nặng nghĩa tình đã bị đẩy vào một quá khứ thật xa xăm.
Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệp trong cấu trúc
có thấy hồn lau… có nhớ dáng người…đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về
cảnh và người miền Tây. Câu hỏi thứ nhất hướng về hàng lau xám buồn bên bờ sông
hoang dại:
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về hồn lau thay vì bờ lau, hàng lau hay
rừng lau…Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên
chỉ cần một chút gió rất nhẹ, những bông lau mềm mại, nhẹ nhàng cũng xao động, cả bờ
lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng tinh khôi, huyền hoặc của hoa lau trong chiều sương
nhạt nhòa mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi… đã khiến rừng lau
như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng
mênh mông da diết. Khi đã xa miền tây, câu hỏi Có thấy hồn lau nẻo bến bờ càng làm
xao xuyến lòng người. Hoa lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, cụm từ nẻo bến bờ gợi
một không gian hoang vu, hiu quạnh, man mác u buồn, nơi vắng người lại qua. Trong
những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây,
bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của cỏ cây, rừng núi chia sẻ
buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân; nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa
mênh mông gió núi, hình dung về những hàng lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng
xao xác trong lòng người chiến sĩ đã gắn bó và đã chia xa miền Tây. Trong thơ ca, lau
cũng thường mang ý niệm của của nỗi buồn thương xa vắng, mênh mông:
“Người đi phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân trời như khói pha”
(Hoàng Hữu)
Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây:
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trong màn sương mờ nhạt nhòa của hoài niệm, khi nhà thơ để lòng mình trở về với Châu
Mộc chiều sương ấy, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa, huyền
ảo. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như khắc chạm vào lòng người một nỗi nhớ
da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Câu thơ "Có nhớ dáng người trên độc mộc" làm bức tranh
cảnh vật hoang sơ xuất hiện hình ảnh con người. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể
là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái đang đưa các chiến sĩ vượt
sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống
con thuyền vượt thác dữ trên đường hành quân. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi,
khoẻ khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại.
Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Đó là sự đối
lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên là dòng nước lũ với cái mềm mại, dịu dàng của bông
hoa rừng. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi. Không phải “đung đưa” mà là “đong
đưa” – gợi hình ảnh bông hoa đang đong đưa, dập dềnh làm duyên làm dáng trên dòng
nước lũ. Hình ảnh hoa đong đưa không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến
những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng
tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.
Với bút pháp nghệ thuật và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất nhạc, chất họa, cách
sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng đã dẫn dắt người đọc bước vào thế
giới của cái đẹp, của cõi mơ, của những giây phút bình yên, thư thái trong tâm hồn. Bốn
câu thơ đầu như nhạc điệu được cất lên từ tâm hồn đang ngây ngất, say mê. Trong bốn
câu thơ sau chất hội họa được thể hiện đậm nét khi nó không chỉ vẽ lên bức tranh thiên
nhiên đẹp, gợi cảm mà còn gợi được cả cái hồn của bức tranh cảnh vật. Chất nhạc và chất
họa kết hợp với nhau khiến những kỉ niệm về một thời Tây Tiến trở nên sống động, lãng
mạn. Đoạn thơ cho thấy sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến, cho thấy tâm hồn
đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì lịch sử hào hùng của
dân tộc.
KẾT BÀI:
Tháng năm trôi đi, miệt mài như bước chân đoàn quân Tây Tiến vẫn luôn tiến về phía
trước, mặc gian khổ, mặc khó khăn, thế nhưng không xóa nhòa được bóng hình các anh ở
chốn rừng núi hoang vu năm nào. Các anh vẫn còn đó và sống mãi với non sông, gấm
vóc, với Tổ quốc kính yêu này. Đoạn thơ dẫu có khép lại, hình ảnh những người lính Tây
Tiến vẫn còn ở đó, để lại cho thế hệ mai sau bài học quý giá về những phẩm chất can
đảm, kiên cường, về một trang sử hào hùng đã qua nhưng vẫn còn sống mãi:
“Một ngày súng nổ vang
Anh xin vào Vệ quốc
Sông núi quý hơn vàng
Nghìn năm không để mất”
VIỆT BẮC
MỞ BÀI:
Tố Hữu là là cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Các chặng đường sáng tác của Tố
Hữu song hành với những chặng đường lịch sử gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy những
thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc dân tộc, thắm đắm những nét
đẹp của quê hương đất nước, để rồi Nguyễn Đình Thi đã có đánh giả sâu sắc về thơ anh
“Từ cuộc sống hiện đại, thơ anh ngày càng bắt nguồn trở lại vào hồn thơ cổ điển của dân
tộc". Tổ Hữu từng nói: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”, chính
nhờ những xúc cảm trong tâm hồn đã tạo ra những rung động mạnh mẽ, mãnh liệt trong
cảm xúc để vần thơ của Tố Hữu nở hoa trên trang giấy. Những dòng cảm xúc sâu lắng
thân thương, nỗi nhớ về một mãnh đất, miền quê đã kết tỉnh, hội tụ và tràn ra để hôm nay
chúng ta có một "Việt Bắc” để thương để nhớ. Tác phẩm sáng tác vào tháng 10, năm
1954 nhân sự kiện lịch sử:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng".
Qua sự việc cụ thể lúc bấy giờ là những người kháng chiến từ miền núi trở về miền xuôi;
Trung ương, Chính phủ từ chiến khu Việt Bắc trở lại thủ đô, Tố Hữu đã xây dựng một bài
thơ nói lên tình nghĩa đối với quê hương cách mạng, đối với kháng chiến để mọi người
không quên chặng đường gian khổ đầy tình nghĩa đã trải qua cùng nhau trong suốt mười
lăm năm. Bài thơ “Việt Bắc” ngọt ngào, đằm thắm như một bản tình ca sâu lắng, rất tiêu
biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu được in trong tập thơ cùng tên năm 1954.
Và để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca “Việt Bắc” chính là đoạn thơ về...qua đoạn
thơ...
Ở khổ thơ thứ nhất thể hiện nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm,
đồng vọng của người ra đi, qua đó nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân
Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê
hương cách mạng.
Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã
có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng
trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc",
Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo - khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay
giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày
kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Cặp từ mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc
trong đời sống hàng ngày, là cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối
quan hệ thân thiết, gắn bó. Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong
các bài ca dao giao duyên như:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Hay:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân
ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau
với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và
kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa,
hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta
đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết
bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một
vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng
với nhân dân.
Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Trong cuộc chia tay, nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc
chia tay những người ở lại thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ
"Mình về mình có nhớ ta" và “Mình về mình có nhớ không", hỏi không phải để được trả
lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước
cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình - ta
ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xôi, cách biệt. Còn ở giữa là cụm từ "mình có
nhớ" thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của người ở lại. Cụm từ "mình có nhớ"
được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi nhớ da diết, khôn
nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đô hội đầy cám dỗ sẽ
không giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Câu hỏi
vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của
cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại còn
được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông có nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng
Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm
hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và
Kim Trọng:
Những là dày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với
nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa
Bắc Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa
cách mạng tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó
khăng khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động
địa cầu” và rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về
xuôi. Mười lăm năm "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi", mười lăm năm "bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng", ...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha mặn nồng"
cho thấy tình cảm giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt.
Hỏi không chỉ để nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm
của mình. Không biết ra về mình có nhớ không, còn ta không thể nào quên những ngày
tháng ấy.
Nếu câu hỏi thứ nhất Mình về mình có nhớ ta làm xao xuyến lòng người khi phảng phất
bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai Mình về mình có nhớ không lại
khiến người nghe trăn trở suy ngẫm về sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ.
Câu thơ này hướng tới không gian:
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như cây, sông và miền núi
như núi, nguồn. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong
cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng
chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dò kín
đáo mà chân thành. Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương cách mạng dựng nên
Cộng hòa", là trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh
hoạt và tài tình của nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn". Phải chăng
người ở muốn khẳng định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến
thắng về ta, để hôm nay mình được về thủ đô Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ
đến mảnh đất Việt Bắc, cái nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân
tộc. Đó là đạo lý làm người, là truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ
cũng nhắc nhớ các thế hệ con cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nôi
cho ta hình hài.
Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của
người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để
khơi nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt
bài thơ. Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người ra đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Câu thơ đầu nhắc tới Tiếng ai tha thiết bên cồn cho thấy những nhớ nhung xao xuyến,
những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, cảm nhận. Ai
chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha
thiết ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng
từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là tiếng lòng của người ở lại, tuy nhiên, sự tri âm tri kỉ, đồng
thanh tương ứng đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại thiết tha, người ra đi thiết
tha, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng. Cồn là hình ảnh gợi không gian núi rừng Việt Bắc.
Trong câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc
cất lên những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại
nên trong lòng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến. Bởi vậy, đoạn
thơ trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.
Những âm thanh ấy cứ quấn quýt, vương vấn theo từng bước chân khiến người đi:
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối đồng điệu trong cảm
xúc con người. Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy:
Bâng khuâng và bồn chồn. Bâng khuâng là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ
khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn.
Bồn chồn là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy
miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng bồn chồn nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm
trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động. Vì thế, câu
thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn , nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước
chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi. Trong lòng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không
nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa
muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay tâm trạng ấy của người ra đi "Bước đi một bước
lâu lâu lại dừng". Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ
ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi.
Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó "áo chàm" là
biện pháp nghệ thuật hoán dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là
cách dùng bộ phận để chỉ toàn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu
chàm. Màu chàm là màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi
không bao giờ nhạt phai. Màu áo chàm còn thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản
dị, mộc mạc, chịu thương chịu khó và ân tình, thủy chung:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhòa
Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm nhớ
thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn nhỏ,
nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung. Câu thơ
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình ảnh có giá trị
biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn rịn khiến
cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2
bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thông thường của thể thơ lục bát. Cả
người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày
nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời. Và có lẽ ngôn ngữ cũng không đủ để diễn đạt
bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là cách thể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau mà
không biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào.
Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thôi đã đủ nói lên tất cả. Giống như những người lính
trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà nắm lấy tay nhau:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Đồng chí - Chính Hữu)
Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau vượt
lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá nước,
là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng đặt ở
cuối đoạn thơ giống như một nốt lặng trong một khuôn để tình cảm cứ ngân dài, sâu lắng.
Bằng thể thơ lục bát êm dịu, kết cấu đối đáp của ca dao, dân ca, ngôn ngữ, hình ảnh giản
dị, quen thuộc, đậm chất ca dao, dân ca, giọng điệu thơ ngọt ngào, truyền cảm, đặc biệt
thể hiện qua việc sử dụng cặp từ mình - ta thân mật cùng với các biện pháp tu từ như điệp
từ, hoán dụ, tiểu đối... đoạn thơ đã trở thành một khúc trữ tình, sâu lắng thể hiện tình cảm
son sắc, thủy chung giữa người đi và kẻ ở, giữa những người cán bộ cách mạng miền
xuôi và nhân dân Việt Bắc. Tình cảm trong sáng ấy là tình cảm cách mạng. tiêu biểu cho
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là cội
nguồn sức mạnh để Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, cội nguồn chiến thắng.
Ở những đoạn thơ trước, người cán bộ cách mạng miền xuôi và người Việt Bắc đã lần
lượt nhắc lại những kỉ niệm gắn bó trong suốt 15 năm và khẳng định tình cảm son sắc
thủy chung. Đến đoạn thơ này người ra đi tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó bằng
những ấn tượng sâu đậm nhất, kết tinh nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đây
được coi là 10 câu thơ tuyệt bút đạt đến độ toàn bích trong bài thơ. Trong đó, hai câu thơ
đầu được đánh giá là chủ đề, khái quát được nội dung của cả đoạn thơ là nỗi nhớ về thiên
nhiên con người Việt Bắc trong bốn mùa theo thứ tự Đông - Xuân - Hạ - Thu.
Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ trong suốt đoạn trích, bao gồm cả đoạn thơ này.
Người ta đã có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ",
với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết
"Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc
chia tay giữa người ở và người về xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những
ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang. Ngoài ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là
lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia
kháng chiến.
Mở đầu đoạn tứ bình là hai câu chủ đề:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Cặp từ mình – ta vốn là cách xưng hô quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là cách xưng
hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó. Trong ca dao,
dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao duyên như:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Hay:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
Cách xưng hô mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân
ca. Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đôi lứa yêu nhau
với một nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và
kẻ ở (nhân dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa,
hòa quyện thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta
đều chung những kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết
bao lưu luyến, bịn rịn. Bài thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một
vấn đề rất lớn của đời sống cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng
với nhân dân.
Câu thơ thứ nhất là lời ướm hỏi của người ra đi với người ở lại. "Ta về" được lặp lại hai
lần như xác nhận hoàn cảnh chia li tiễn biệt, trong đó ta chỉ người ra đi. Nhưng người ra
đi ở đây đặt câu hỏi với người ở lại không phải để được trả lời bởi đến đoạn thơ này cả
người đi kẻ ở đều đã cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mặn nồng mà họ dành cho nhau.
Bởi vậy, câu thơ chỉ là cái cớ, là cây cầu để người ra đi dẫn dắt, thổ lộ tình cảm của mình
là ra về mà lòng đầy thương nhớ.
Câu thớ thứ hai đã cụ thể hóa nỗi nhớ của người về xuôi. Ra về là ta nhớ, nhớ hoa và nhớ
người. Hoa ở đây là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Nhớ hoa là nhớ những gì
đẹp nhất, tinh túy nhất, tươi sáng nhất về thiên nhiên Việt Bắc. "Nhớ hoa cùng người"
nghĩa là cùng với nỗi nhớ về thiên nhiên là nỗi nhớ về con người Việt Bắc. Tố Hữu lựa
chọn thật đắt hai hình ảnh đối xứng: hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên
nhiên, tương xứng với hoa là con người như người ta thường nói "Người ta là hoa của
đất".
Trong quan niệm mĩ học thời cổ điển, tứ bình là cấu trúc nghệ thuật đạt đến sự hài hòa,
cân xứng. Chẳng hạn, khi miêu tả thiên nhiên người xưa thường sử dụng mô-típ Tùng -
cúc - trúc - mai, Xuân - hạ - thu - đông; khi miêu tả người thì theo mô-típ ngư - tiều -
canh - mục; khi miêu tả các con vật thì là Long - ly - quy - phụng... Trong đoạn thơ này
Tố Hữu đã sử dụng cấu trúc nghệ thuật tứ bình để thể hiện một cách cô đúc nhất vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Sự đối xứng giữa hoa và người khiến bốn cặp lục
bát còn lại được cấu tạo với phương thức miêu tả khá thống nhất là cứ câu lục nói đến
thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Tả thiên nhiên thì gắn với màu sắc đặc trưng của
từng mùa, tả con người thì gắn với công việc lao động, thể hiện những phẩm chất tốt đẹp
của người Việt Bắc. Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc” vào tháng 10 năm 1954, khi ấy miền
Bắc nước ta đang vào mùa đông. Cho nên, mùa đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa
mở ra bộ tranh tứ bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong
đoạn thơ này là vì Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Mở đầu là bức tranh Việt Bắc sự mùa đông qua sự phác họa tinh tế cả về hình khối, màu
sắc và ánh sáng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Qua con mắt tinh tế của nhà thơ, thiên nhiên mùa đông gắn với hai màu sắc xanh và đỏ
thể hiện qua các hình ảnh rừng xanh và hoa chuối đỏ tươi. Mùa đông rừng núi hiện lên
trong màu xanh bạt ngàn của cây rừng, bao phủ cả một không gian rộng lớn tạo thành cái
nền cho bức tranh cảnh vật. Chính cái màu xanh của núi rừng Việt Bắc đã:
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Trên cái nền xanh ấy có điểm xuyết những bông hoa chuối đỏ tươi, thắp sáng cả cánh
rừng đại ngàn. Màu đỏ tươi của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng
như ngọn lửa ấm thắp sáng lên bức tranh cảnh vật, xua tan bớt cái lạnh giá, u ám, hiu hắt
của rừng núi vào mùa đông. Hai chữ "đỏ tươi" không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa
đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân. Hình
ảnh bông hoa chuối đỏ tươi còn hiện lên như một biểu tượng của niềm tin, của tình yêu,
của sự lạc quan như Nguyễn Mỹ cũng hướng đến trong “Cuộc chia li màu đỏ”:
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Nghĩa là màu đỏ ấy sẽ theo đi
Như chưa hề có cuộc chia li
Hình ảnh con người trong bức tranh cảnh vật mùa đông là hình ảnh người với công việc
lên rừng hái củi, phát nương làm rẫy góp công góp sức cho cuộc chiến đấu. Bước chân đã
tới lưng đèo, hình ảnh con người đứng giữa đèo cao, giữa núi đồi đầy vững chãi, tự tin,
mang tâm thế của người làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc sống. Tư thế và tâm thế ấy còn
được thể hiện một lần nữa trong bài thơ "Lên Tây Bắc" của Tố Hữu thể hiện rõ quan
niệm của nhà thơ về con người kháng chiến, trở thành một nét thi pháp đặc sắc trong thơ
của ông:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo
Tâm thế làm chủ ấy còn được thể hiện trong nhiều bài thơ của các nhà thơ cùng thời với
Tố Hữu như Nguyễn Đình Thi:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Hình ảnh người lên rừng lấy củi, phát nương, làm rẫy còn được miêu tả với con dao giắt
cạnh sườn, ánh nắng mùa đông phản chiếu vào sáng lấp lánh. Ở đây, câu thơ vừa mang
ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như
một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông
Việt Bắc. Hình ảnh con người trong hai câu thơ không chỉ mang vẻ đẹp sử thi, tiêu biểu
cho con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp mà còn gợi lên phẩm chất
tốt đẹp của người Việt Bắc cũng là phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam cần cù, chăm
chỉ, chịu thương, chịu khó.
Việt Bắc khi mùa xuân tới tiếp tục hiện ra trong nỗi nhớ của người đi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Vẻ đẹp của thiên nhiên trước hết được thể hiện qua cụm từ chỉ thời gian "ngày xuân".
Nhà thơ không viết là mùa xuân mà là ngày xuân đầy tinh tế thể hiện sự ngỡ ngàng trước
vẻ đẹp lộng lẫy của đất trời, vạn vật khi vào xuân và tác giả đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp
nhất, có thần nhất của mùa xuân Việt Bắc.
Nếu màu sắc của mùa đông là hai sắc màu xanh, đỏ thì bức tranh mùa xuân gắn với sắc
trắng. Cùng với sự chuyển mùa, mùa đông sang mùa xuân, là sự chuyển màu trong bức
tranh thơ. Màu xanh trầm tĩnh, lạnh giá của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của
hoa mơ khi mùa xuân đến. Cụm từ "trắng rừng" cho thấy hoa mơ nở trắng, bao phủ cả
khu rừng. Núi rừng Việt Bắc ngập tràn một sắc trắng tinh khôi, dịu nhẹ, ngọt ngào và
mang sức sống bất diệt, xôn xao, rạo rực của mùa xuân. Hiện thực đầy mơ mộng này còn
được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến một lần nữa trong trường ca "Theo chân Bác":
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc không thể không nhớ đến con người Việt
Bắc vào mùa xuân. Trong dân gian từ ngàn xưa cho đến nay luôn cho rằng mùa xuân là
mùa của các lễ hội thế nên mới có câu ca “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Nhưng trong
những năm tháng mùa xuân khi đất nước có chiến tranh, quê hương còn bóng giặc thì dù
mùa xuân nhân dân gác lại việc vui chơi để miệt mài với, say mê với công việc. Vào mùa
xuân con người xuất hiện trong công việc đan nón. Hình ảnh người đan nón được tập
trung miêu tả qua đôi bàn tay. Hai chữ "chuốt từng" gợi liên tưởng về đôi bàn tay tỉ mỉ,
dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết
nên vành nón; gợi phẩm chất của người Việt Bắc kiên trì, khéo léo, cẩn trọng, tài hoa. Sự
khéo léo và tài hoa của người đan nón, của con người Việt Nam cũng được nhà thơ
Nguyễn Đình Thi miêu tả:
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Một chiếc mũ nan, một vành nón lá nhưng chứa đựng trong đó bao ân tình thắm thiết,
mặn nồng của người dân Việt Bắc. Và bao chiến sĩ đã đội những chiếc mũ ấy để vượt qua
mưa bom, bão đạn của cuộc chiến đấu. Hơn thế nữa chiếc mũ ấy đã trở thành người bạn
trên đoạn đường hành quân trùng điệp:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Mùa hè của Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ tràn đầy cả âm thanh và màu sắc:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Có thể nói bức tranh cảnh vật mùa hè là bức tranh gợi cảm nhất. Bởi vì nếu như trong
bức tranh của hai mùa đông và xuân chỉ gắn với những đường nét và màu sắc thì đến bức
tranh mùa hè, tác giả đã đánh thức thêm giác quan mới. Bức tranh cảnh vật mà hè không
chỉ gắn với màu vàng của rừng phách mà còn làm thính giác choàng tỉnh bởi âm thanh
rộn rã, tưng bừng của tiếng ve.
Mùa hè đến tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như tiếng đàn, tiếng nhạc. Cái hay của câu
thơ là ở chỗ nó thể hiện được một phản ứng có tính dây chuyền. Cây phách nở hoa vàng
vào mùa hè và khi ve kêu báo hiệu mùa hè đến cũng là lúc nhưng bông hoa phách ẩn hiện
trong tán lá nở rộ. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng sắc vàng trong câu thơ "Ve kêu rừng
phách đổ vàng" không phải là màu vàng của hoa như những người soạn sách nhiều năm
lầm tưởng mà là màu vàng của lá. Trong cuốn Hồi kí nhớ lại một thời, khi nói về vẻ đẹp
nên thơ của Việt Bắc cùng những gì là "luyến tiếc ngẩn ngơ" khi rời Việt Bắc, nhà thơ Tố
Hữu đã chép lại đoạn thơ đặc sắc về thiên nhiên bốn mùa của Việt Bắc, đồng thời cũng đã
chú thích rất rõ ràng về cây phách: “Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng
rực lên”. Từ "đổ" là được dùng thật chính xác, tinh tế khi nó gợi sự thay đổi đột ngột và
đồng loạt của màu sắc. Và chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân
chuyển sống động khi tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến, rừng phách đột ngột, đồng loạt
đổi sang màu vàng rực rỡ. Câu thơ miêu tả mùa hè Việt Bắc gợi ta nhớ đến hai câu Kiều
của Nguyễn Du, cũng thể hiện một phản ứng dây chuyền và sự chuyển màu đồng loạt của
lá rừng. Khi Thúc Sinh lên ngựa, Thúy Kiều phải buông áo và đúng lúc Kiều buông áo
Thúc Sinh thì rừng cây phong đồng loạt đổi màu sang màu đỏ của chia li. Có điều để diễn
tả sự động loạt đổi màu của rừng phong, đại thi hào Nguyễn Du đã dùng từ "nhuốm":
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Hai câu thơ mùa hè càng trở nên gợi cảm hơn với hình ảnh cô em gái hái măng một mình.
Cách gọi "Cô em gái" thể hiện rõ cách sử dụng ngôn từ rất tinh tế của Tố Hữu thể hiện rõ
sự gần gũi, thân thương, trìu mến. Cô gái Việt Bắc hái măng một mình trong rừng không
gợi sự cô đơn, lẻ loi bởi vì cô hái măng để nuôi cán bộ, nuôi bộ đội thể hiện tình cảm sâu
nặng của người Việt Bắc với người cán bộ cách mạng miền xuôi, thể hiện tình quân dân
thắm thiết. Bởi vậy nên khi cán bộ về xuôi, cả rừng núi dường như cũng ngẩn ngơ:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh Việt Bắc khi mùa thu tới:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan,
oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu
được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. Thông thường, vầng
trăng từ trên trời cao sẽ tỏa ánh sáng chan hòa xuống không gian mênh mông của mặt đất.
Trong bức tranh của Tố Hữu, đó lại là trăng rọi xuống rừng thu. Rọi là động từ miêu tả
nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ
này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá của núi
rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: Đêm nay, trăng sao cũng như
thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập
trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên của con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha
thiết của người ra đi .
Mùa thu càng ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thủy chung. Ánh trăng đã là hình
ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng
làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Có thế nhận ra
sự thay đổi trong cảm xúc của người ra đi và hình ảnh người ở lại. Nếu ở những bức
tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, nhà thơ hướng nỗi nhớ tới những người lao động cụ
thể: Người đi rừng, người đan nón, người hái măng…thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tứ
bình Việt Bắc, tính chất phiếm chỉ trong cụm từ nhớ ai khiến hình ảnh con người như
nhòa đi, nỗi nhớ trở lên sâu đậm, ám ảnh hơn; khi thời khắc chia li đến gần đối tượng của
nỗi nhớ bây giờ không còn là một và hình ảnh riêng lẻ, cụ thể mà là tất cả những người
dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình; âm thanh của tiếng hát rộn vang trong
đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, tập thể, của những người ở lại
đang trào dâng nỗi nhớ nhung, của những người ra đi đang da diết niềm lưu luyến. Hòa
bình là sự kiện lớn lao đem lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm
chia tay đầy bâng khuâng lưu luyến giữa Việt Bắc với những người kháng chiến. Miêu tả
tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc sự thủy chung của người ra đi trên nền ánh
trăng hòa bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ khiến cặp lục bát kết đoạn
tứ bình hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: Những đổi thay trong cuộc sống hòa bình
sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ; người về xuôi sẽ không bao giờ
lãng quên ánh trăng ân tình giữa rừng sâu Việt Bắc, và xin Việt Bắc hãy mãi tin và tấm
lòng thủy chung của người đi.
Thể thơ lục bát được tác giả phô diễn với những tình cảm, tư tưởng mới mẻ vẫn đậm đà bản sắc
dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện pháp tu từ được tác
giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có nhiều nét cách tân. Đặc biệt, tiếng
nói yêu thương – nét nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện thấm thía... Qua đoạn
thơ, Tố Hữu đã tái hiện bức tranh cảnh vật, con người bằng những ấn tượng đẹp nhất, sâu đậm
nhất. Trong đó người và cảnh không thể tách rời, thiên nhiên không thể thiếu bóng dáng con
người và con người được đặt trong khung cảnh thiên nhiên. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau làm
tôn lên vẻ đẹp của nhau. Bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa đã
xóa bỏ cách nghĩ thông thường về thiên nhiên Việt Bắc, cho rằng đó là vùng rừng núi xa xôi, heo
hút, hoang vắng, rừng thiêng, nước độc và cho thấy một Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng, đáng yêu
biết bao. Đoạn thơ cũng như bài thơ vì thế đã bồi đắp thêm cho ta tình yêu thiên nhiên, quê
hương đất nước tươi đẹp.
KẾT BÀI:
Bất kì tác phẩm văn học nào khi ra đời đều mang theo một sứ mệnh đặc biệt và kì diệu,
bởi chính bản thân nó đã phản ánh một thời kỳ của dân tộc, tái hiện những năm tháng hào
hùng tươi đẹp mà dân tộc đã trải qua. Trong hành trình ấy, “Việt Bắc” đã trở thành một
tác phẩm như thế, được ra đời trong tâm huyết trọn vẹn của người nghệ sĩ của nhân dân -
người nghệ sĩ đã sống để chiến đấu và làm thơ hết mình để tạo nên những thi phẩm đượm
lòng. Có thể nói, Tố Hữu đã chọn gắn đời thơ của mình với kháng chiến, với Cách mạng,
ông dùng thơ làm cầu nối đến trái tim người đọc, đóng góp vào sự đa dạng, phong phú
của thơ ca Việt Nam. Vì thế, đến hôm nay, cả đoạn trích bức tranh ra quân như một tiếng
vọng mà đời sau khi nhìn lại sẽ luôn thấy tự hào, hạnh phúc vì được sống trong một đất
nước anh hùng, dũng cảm và tuyệt vời như thế!
SÓNG
MỞ BÀI:
Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho loài người. Đó cũng là nguồn cảm
hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ. Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại,
người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình yêu Xuân Quỳnh. Bà là một trong số
nhà thơ tiêu biểu nhất thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là
tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành
đằm thắm nhưng cũng đầy lo âu và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Sóng” là kết tinh sở trường thơ Xuân Quỳnh và đặc biệt thành công trong việc
sáng tạo hai hình tượng nghệ thuật đặc sắc là sóng và em. Bài thơ được xem như một
bông hoa lạ giữa vườn thơ chống Mỹ, được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967, trong
chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình. Sau đó, bài thơ được đưa vào tập
thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968.
KẾT BÀI:
Cốt tuỷ của thi ca muôn đời đều chứa đựng tâm hồn rộng mở của người nghệ sĩ. Vì lẽ đó
mà A. France đã khẳng định: “Đọc một câu thơ nghĩa là ta bắt gặp một tâm hồn con
người”. Phải chăng vì thế mà đến với “Sóng” của Xuân Quỳnh, ta lại bắt gặp một trái tim
tha thiết tình yêu đời, yêu người, bắt gặp một mối quan hệ gắn bó giữa sóng và em - tuy
hai mà một, tuy một mà hai? Và rồi trong khoảnh khắc trùng điệp của nhịp sóng lòng, ta
thấy trái tim mình cũng đang vang ngân những nhịp đập kì diệu riêng dành cho những
yêu thương.

You might also like