Professional Documents
Culture Documents
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc
nuối:
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào.
Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra một không gian vời
vợi của nỗi nhớ. Đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong
lòng người ra đi. Nhưng cảm xúc chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị như choán đầy cả
không gian "Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tô
đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ
Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi
hồi. Tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi". Đây là trạng thái trơ trọi
giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng
khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian
và thời gian ấy đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha
Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang
màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ
lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy, những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn quân, Quang
Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp"
thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không
nói "hoa nở" mà "hoa về" không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng
mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.
Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với
một bên là vực sâu thăm thẳm:
Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực
thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc
hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời.
Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc
của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả
nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.
Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến câu thơ tiếp theo, ta thấy được
một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi. Trong không gian
bình yên và êm ả, mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì
lạ. Phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ
thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây.
Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn
nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm
cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được
nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự
trị và chiếm vai trò chúa tể.
Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ
bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc,
mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây
hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung
tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp
bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm. Ấn tượng trong lòng người đọc về người
lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:
Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh "súng ngửi
trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi
súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính"
trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những
thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi
súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm
hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ. Trên chặng đường hành quân
ấy không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:
Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến.Ông cách nói giảm,
nói tránh về cái chết vừa xót xa,vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình
tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã
xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ
ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự
hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp
dừng lại một bản làng-Mai Châu
"Nhớ ôi"là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ
đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây
Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm
hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây
Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người
miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng
những người lính Tây Tiến.
Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà
còn làm toát lên được cảm hứng lãng mạn, bi trán. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng những bút pháp
nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ ông cũng thành công sử dụng ngôn từ đặc sắc về
địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.
“Tây Tiến” là một bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức
tiểu tư sản Quang Dũng. Qua đó thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi Tây
Bắc. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí. Bài thơ xứng
đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong
nhã.
Hình ảnh những người lính kiên cường đối đầu với sự khắc ngiệt của hoàn cảnh sống cũng như sự
hiểm nguy gian nan của chiến trường đã làm nên một tượng đài về sự bi tráng của những người lính
bộ đội cụ Hồ. Điều này đã được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét trong đoạn 3 của tác phẩm Tây
Tiến.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội
suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ
với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:
Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở về.
Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ của Quang
Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy. Âm điệu của bốn câu
trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường
đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương,
chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây, Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những
cái chết của những người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn
xứ", "biên cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người lính.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống hiến của Tổ
quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ, khát vọng đời
thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì cũng thật là thiêng liêng, thật
là cao đẹp. Ở đây, Quang Dũng mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho vua chúa
quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh dành cho
người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa,
mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng
thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho
những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi
chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại trở về với đất mẹ.
Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy sinh ấy
không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho lịch sử nước nhà.
Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là
người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn
biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào
cõi bất tử. Có thể nói, hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ
ấy hoàn toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.
Không chỉ có những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà
trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc
buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được Quang Dũng tái hiện
thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa
trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc
hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa
đậm chất lãng mạn. "Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
"Hội đuốc hoa" đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều
cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong
đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên
tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện. "Em" xuất hiện lập tức trở
thành trung điểm của mọi điểm nhìn.
Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:
Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt
ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng
đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến
say lòng người.
Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên
man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương
mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương
che hay sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc
bảng lảng sương khói hiện ra như một miền cổ tích.
Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bông lau
chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong
những bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ
đến dòng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."
Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của
con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.