You are on page 1of 9

Quang Dũng là nhà thơ nổi tiếng thời kì kháng chiến chống Pháp với một hồn thơ

lãng mạn, tài hoa, thơ


giàu chất nhạc, chất họa. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến như: "Mây đầu ô", "Thơ văn
Quang Dũng",... Trong đó tiêu biểu là "Tây Tiến". Bài thơ là nỗi nhớ da diết chơi vơi của tác giả khi nhớ
về những kỉ niệm hành quân cùng đồng đội qua những vùng núi Tây Bắc hiểm trở. Đặc biệt, qua khổ thơ
đầu, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp núi rừng thiên nhiên Tây Bắc cũng như con
đường hành quan gian khổ của những người lính Tây Tiến.

Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc
nuối:

" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi


Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"

Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào.
Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp vần "ơi" mở ra một không gian vời
vợi của nỗi nhớ. Đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong
lòng người ra đi. Nhưng cảm xúc chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị như choán đầy cả
không gian "Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ". Điệp từ "nhớ" như tô
đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ
Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi
hồi. Tất cả trở thành kỉ niệm không thể nào quên.

Ngay ở ca dao, ta đã thấy sự xuất hiện của nỗi nhớ:

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


Như đứng đống lửa như ngồi đống than"

Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi". Đây là trạng thái trơ trọi
giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng
khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian
và thời gian ấy đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao", "Mường Lát", "Pha
Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang
màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ
lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Không chỉ vậy, những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả đoàn quân, Quang
Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp"
thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không
nói "hoa nở" mà "hoa về" không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng
mạn, hào hoa của những người lính Hà Thành.

Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với
một bên là vực sâu thăm thẳm:

"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"

Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực
thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc
hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời.
Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ "Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống" tạo thành một đường gấp khúc
của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả
nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.

Nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập ghềnh hiểm trở thì đến câu thơ tiếp theo, ta thấy được
một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiến bên những ngôi nhà nơi xóm núi. Trong không gian
bình yên và êm ả, mưa giăng đầy thung lũng thành 'xa khơi". Đọc câu thơ người đọc thấy bình yên đến kì
lạ. Phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ
thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây.

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"

Quang Dũng nhớ đến âm thanh "gầm thét" của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như muốn
nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm
cảm giác hoang sơ của chốn "sơn lâm bóng cả cây già". Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được
nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội nơi thiên nhiên hoang dã đang ngự
trị và chiếm vai trò chúa tể.

Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ
bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc,
mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây
hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua. Đoạn thơ không chỉ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung
tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp
bi tráng trên chặng đường hành quân đầy chông gai, nguy hiểm. Ấn tượng trong lòng người đọc về người
lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:

"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

Đó là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh "súng ngửi
trời". Nếu viết "súng chạm trời", nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi
súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được "chất lính"
trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những
thanh niên trí thức trẻ Hà Nội. Đồng thời còn mang đến người đọc sự mới lạ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi
súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh "súng ngửi trời" tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm
hứng lãng mạn đồng thời khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ. Trên chặng đường hành quân
ấy không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời"

Tác giả đã không né tránh hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến.Ông cách nói giảm,
nói tránh về cái chết vừa xót xa,vừa ngạo nghễ "không bước nữa" để rồi "bỏ quên đời" như một sự bình
tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Nhớ những người đồng đội đã ngã
xuống nhưng không gợi cảm giác bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ
ngang tàng, kiêu hãnh "Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Đó là một tư thế chết trong chiến đấu, trong sự
hiên ngang, bất khuất.
Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp
dừng lại một bản làng-Mai Châu

"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"

"Nhớ ôi"là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ
đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây
Bắc. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm
hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.Nhớ mùi thơm "nếp xôi" hương vị của núi rừng Tây
Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người
miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng
những người lính Tây Tiến.

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không chỉ thể hiện nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà
còn làm toát lên được cảm hứng lãng mạn, bi trán. Bên cạnh đó, bằng việc sử dụng những bút pháp
nghệ thuật như nói giảm nói tránh, hoán dụ, ẩn dụ ông cũng thành công sử dụng ngôn từ đặc sắc về
địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

“Tây Tiến” là một bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức
tiểu tư sản Quang Dũng. Qua đó thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi Tây
Bắc. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí. Bài thơ xứng
đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong
nhã.
Hình ảnh những người lính kiên cường đối đầu với sự khắc ngiệt của hoàn cảnh sống cũng như sự
hiểm nguy gian nan của chiến trường đã làm nên một tượng đài về sự bi tráng của những người lính
bộ đội cụ Hồ. Điều này đã được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét trong đoạn 3 của tác phẩm Tây
Tiến.
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội
suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ
với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.
Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh của tuổi
trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật kì dị lạ thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ măng
nhưng ai cũng "không mọc tóc". Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến
vậy? Phải chăng đây là kết quả của những cơn đói, cơn khát, của những trận sốt rét khủng khiếp đã biến
những người lính trẻ tuổi thành cả một "đoàn binh không mọc tóc" như vậy? Hình ảnh ấy tuy có gân guốc
thế nhưng đó lại là cái hiện thực - một hiện thực thật trần trụi. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người
lính với những trận sốt rét mà vẫn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình trong thơ của Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Nhưng nếu như ở câu trước
hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì ngay ở câu thơ sau, người ta lại thấy
Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lĩnh thật oai phong:
"Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay chính là làn da
xanh tái vì bệnh tật và đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân? Một hình ảnh hiện thực trần trụi được
Quang Dũng đưa trực tiếp vào trong thơ. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế, nhưng họ
vẫn giữ vững tinh thần "giữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh hùng giải
phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sĩ ấy. Một vẻ
đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà Thành, là những học sinh, sinh
viên đang còn tuổi chứa chan xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình xanh xao ấy là cả một bầu trời
tâm hồn lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng
hòa bình. Đôi mắt trừng ấy cũng là sự căm hận quân thù, sục sôi ý chí chiến đấu. Không chỉ vậy, đôi mắt
ấy còn "gửi mộng qua biên giới" đến với những nơi xa xôi, đến với Hà Nội thân yêu - nơi có người thân,
gia đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" - có chăng chính là giấc mộng hòa bình, giấc
mộng được chiến thắng trở về với quê hương, với gia đình, với người thương của mình. Và đôi mắt ấy
cũng không chỉ ánh lên khát vọng mà còn ánh lên cả cái tình, cái cảm xúc yêu thương trong đó nữa.
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia đình với cả
"một dáng kiều thơm" trong trí nhớ. Là những người trí thức buông bỏ bút mực nghiên, vác lên vai cây
súng bảo vệ quê hương, thế nên những người lính Tây Tiến luôn giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn
của người trí thức ấy. Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ
cao cả của mình. Đồng thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương. Quang Dũng
cũng thật tinh tế, bởi chỉ bằng hai câu thơ ngắn mà vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến hiện lên thật hào
hoa, thật lãng mạn biết chừng nào. Và bốn câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba, Quang Dũng đã làm hiện lên
trước mắt người đọc thật rõ ràng hình tượng người lính trong đoàn binh của mình. Những người lính ấy
vừa oai phong, vừa đẹp vẻ đẹp của khát vọng lại vừa tinh tế, lãng mạn trong vẻ đẹp tâm hồn.

Trong chiến tranh, biết bao người lính đã ra đi với tuổi trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở về.
Người ta thường nói, chiến tranh vô thường, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Mất mát, hy sinh có lẽ là những điều hiển nhiên trong mỗi trận chiến. Thế nhưng đọc câu thơ của Quang
Dũng, người đọc chúng ta không khỏi xót xa trước những sự mất mát, hy sinh ấy. Âm điệu của bốn câu
trước thật hào hùng biết bao thì đến đây, không khí ấy chợt chùng xuống sâu lắng. Trên mỗi chặng đường
đi, những người lính lại lần lượt nằm xuống. Những ngôi mộ của họ vô danh, nằm rải rác giữa biên cương,
chốn rừng thiêng nước độc. Ở đây, Quang Dũng chọn một từ ngữ Hán Việt "mồ viễn xứ" để diễn tả những
cái chết của những người con xa nhà. Họ phải nằm lại nơi đất khách quê người. Từ Hán Việt "mồ viễn
xứ", "biên cương" tạo nên không khí thật trang trọng, bi hùng như bài hùng ca tiễn biệt những người lính.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng, trầm lắng đó, Quang Dũng lại kể tiếp về khát vọng được cống hiến của Tổ
quốc của những người lính đoàn quân Tây Tiền:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Họ là những người trẻ, hơn ai hết, họ hiểu được giá trị của thanh xuân, của những ước mơ, khát vọng đời
thường "dáng kiều thơm", thế nhưng được chết cho lý tưởng của đất nước thì cũng thật là thiêng liêng, thật
là cao đẹp. Ở đây, Quang Dũng mỹ lệ hóa thành "áo bào". Tấm áo bào trước đây chỉ dành cho vua chúa
quý tộc thì nay được khoác lên người những người lính chiến. Tấm áo ấy như lời vinh danh dành cho
người lính vô danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa,
mỹ lệ hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao có vẻ nhẹ nhàng, nhưng
thực chất, đó chỉ là cách nói giảm nói tránh nỗi đau xót, thương cảm vô hạn của Quang Dũng dành cho
những người lính hy sinh mà thôi. Với Quang Dũng, họ không chết, họ chỉ trở về với đất mẹ mà thôi. Bởi
chúng ta sinh ra từ đất thì sẽ lại trở về với đất mẹ.

Những người lính hy sinh ngã xuống, trở thành những nấm mồ vô danh viễn xứ, nhưng sự hy sinh ấy
không vô ích bởi nó góp phần tạo nên hòa bình cho đất nước, làm nên vinh quang cho lịch sử nước nhà.
Với những người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông lịch sử. Bởi nó là chứng nhân của thời gian, là
người bạn đồng hành của những người lính. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó "gầm" lên khúc tráng ca tiễn
biệt người đồng đội của mình. Tiếng gầm ấy như khúc nhạc tấu độc hành dành cho người lính để họ đi vào
cõi bất tử. Có thể nói, hai câu thơ cuối đã mỹ lệ hóa cái chết của những chàng trai trẻ, thế nhưng sự mỹ lệ
ấy hoàn toàn vừa đủ để tôn lên sự hy sinh cao cả của các chàng trai tuổi mười tám ấy.
Không chỉ có những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà
trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng bừng và cảnh sắc
buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những điều đó đã được Quang Dũng tái hiện
thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
"Bừng lên" vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa
trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ "bừng lên" "hội đuốc
hoa" thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa
đậm chất lãng mạn. "Bừng lên" vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.

"Hội đuốc hoa" đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều
cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong
đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên
tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy "em" xuất hiện. "Em" xuất hiện lập tức trở
thành trung điểm của mọi điểm nhìn.

Hình ảnh trung tâm của đêm hội liên hoan là sự hiện diện của những cô thiếu nữ vùng sơn cước:

"Kìa em xiêm áo tự bao giờ


Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ."
Trong ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc lung linh kì ảo, trong tiếng khèn tiếng nhạc du dương, những cô
thiếu nữ vùng cao xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, quyến rũ, e ấp, duyên dáng và tình tứ khiến những chàng
lính không khỏi ngạc nhiên, ngỡ ngàng. "Kìa em" là tiếng reo với bao bất ngờ vui sướng và có cả sự thán
phục ngợi khen. Với những bộ trang phục thật đẹp và lạ mắt, với những vũ điệu đậm sắc màu dân tộc và cả
nét e ấp e thẹn, những cô gái sơn cước đã khiến bao chàng trai Tây Tiến như bị hút hồn, ngây ngất.

Cảnh vật và con người đểu như ngả nghiêng, say sưa trong tiếng khèn, tiếng nhạc, trong những vũ điệu ngọt
ngào say đắm, vừa có chút gì đó hoang dại bí ẩn mê hoặc lòng người. Những âm thanh khốc liệt của súng
đạn bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn, những "hồn thơ" hòa mình trong điệu nhảy điệu múa đến
say lòng người.

Sau những hoài niệm về đêm lửa trại ấm áp tình quân dân là những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ miên
man về cảnh sông nước và con người miền Tây Bắc.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
Sông nước miền Tây hiện ra vào một buổi chiều sương tĩnh lặng. Không gian giăng mắc một màn sương
mênh mang, mờ ảo và nhạt nhòa, tạo nên vẻ đẹp lãng mạn huyền ảo. Ở đây không phải là sương lấp, sương
che hay sương phủ mà là sương giăng, ta như cảm nhận được cái thực và cái mộng của khí trời Tây Bắc
bảng lảng sương khói hiện ra như một miền cổ tích.

Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian hoang sơ tĩnh lặng. Những bông lau
chập chờn lay động như có hồn. Hồn của lau hay chính tâm hồn của nhà thơ đã hóa thân vào cảnh vật trong
những bông lau phất phơ, huyền ảo. Khung cảnh sông nước hoang vắng man mác buồn chợt khiến ta nhớ
đến dòng sông Đà trong trang văn của Nguyễn Tuân "dòng sông như chảy từ tiền cổ", "bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa."

Sông nước miền Tây không chỉ hiện lên đậm chất hiện thực mà còn rất đỗi thơ mộng trữ tình. Vẻ đẹp của
con người hòa quyện trong vẻ đẹp của thiên nhiên.

"Có nhớ dáng người trên độc mộc


Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa."
Hình ảnh thiếu nữ Tây Bắc xuất hiện trên chiếc thuyền độc mộc với vẻ đẹp vừa mềm mại uyển chuyển,
duyên dáng lại vừa vững chãi đưa con thuyền xuôi dòng. Hình ảnh người con gái trở thành trung tâm hội tụ
linh hồn của bức tranh sông nước miền Tây. Không phải ngẫu nhiên khi Quang Dũng đặt hình ảnh người
thiếu nữ bên cạnh "hoa đong đưa". "Đong đưa" chứ không phải là "đung đưa". Nếu "đung đưa" chỉ là sự
chuyển động vật lý thì "đong đưa" còn đem đến tâm trạng, linh hồn cho cảnh vật. Những bông hoa rừng trở
thành những sinh thể có hồn. Hoa cũng như con người đang soi mình trong gương nước chòng chành, cũng
biết làm duyên làm dáng. Hóa ra con người Tây Bắc, bóng dáng của người thiếu nữ trên chiếc thuyền độc
mộc cũng đẹp như những bông hoa rừng trong chiều sương mờ ảo.

You might also like