You are on page 1of 13

Đề 6: Hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Tây Tiến

Bài làm:
Trong nền văn học nước nhà, thơ ca cách mạng Việt Nam đã cống
hiến mang một vai trò to lớn luôn được coi là tài sản vô giá của dân
tộc bởi chúng phản ánh, lưu giữ, là nhân chứng của cả một giai đoạn
lịch sử đấu tranh hào hùng của đất nước và con người Việt Nam Đặc
biệt trong thời kì kháng chiến chống giặc ngoại xâm, với cảm hứng
yêu nước, thi ca Việt Nam đã đúc lên tượng đài của những chiến sĩ
anh hùng, được mệnh danh là những “Thạch Sanh của thế kỉ XX”
hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trở thành hình tượng quen thuộc của độc
giả, trở thành hình tượng đẹp nhất, đáng tự hào nhất của thơ ca
kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lí tưởng, sẵn
sàng hi sinh vì tổ quốc, sẵn sàng lấy máu mình để tô thắm lá cờ cho
Tổ quốc, đồng thời họ cũng là những thanh niên với tâm hồn lãng
mạn, hào hoa.Nếu như hình ảnh người lính ở trung tâm của bài thơ
thì thiên nhiên Tây Bắc là nhân tố đã làm rực lên hình ảnh người lính.
Hình ảnh anh thiên nhiên trong bài thơ “Tây Tiến”, một bài thơ tiêu
biểu của Quang DŨng nói riêng. của thơ ca kháng chiến nói chung đã
thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc trong cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Những người lính Tây Tiến hầu hết là thanh niên Hà Nội, phần đông
là học sinh, tiểu tư sản trí thức, tuy chiến đấu trong hoàn cảnh gian
khổ vẫn phơi phới tinh thần lãng mạn, anh hùng. Quang Dũng viết về
bài thơ Tây Tiến năm 1918 (trước đã lấy tên “Nhớ Tây Tiến”) để thể
hiện nỗi nhớ và niềm yêu mãnh liệt về một thời chiến đấu gian khổ
mà hào hùng, dữ dội mà mê say.
Trước tiên là khổ thơ đầu của bài, Quang Dũng thể hiện nỗi nhớ của
mình về đoàn quân Tây Tiến. Thông qua nỗi nhớ ấy ta thấy được
những hình ảnh bi tráng thể hiện vẻ đẹp của những anh hùng Tây
Tiến.
Để khắc họa chân dung người lính, Quang Dũng đã sử dụng những
chi tiết, hình ảnh thực của đoàn quân Tây Tiến nhưng những hình
ảnh đó lại được diễn tả bằng bút pháp lãng mạn để tô đậm cái phi
thường tài hoa, đem đến chi người đọc một vẻ đẹp độc đáo hiếm có
của người linh trong một thời kì lịch sử. Bài thơ có chủ đề là nỗi nhớ
nên nó mở đầu bằng câu thơ biểu hiện nỗi nhớ ấy:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Hình ảnh Sông Mã tượng trưng cho điểm đến - nơi về của nỗi nhớ
xuất hiện ở đầu bài thơ như tự mở ra cho người đọc những câu
chuyện oai hùng của binh đoàn Tây Tiến. Trên bước đường ra trận,
những người lính Tây Tiến có sông Mã đi cùng, bởi vậy cũng thật tự
nhiên mà ngay từ đầu bài thơ Quang Dũng gọi tên “Sông Mã”. Sông
Mã dòng sông chảy dọc mảnh đất Tây Bắc, là đường hành quân của
đoàn quân Tây Tiến. Vì vậy nhà thơ nhớ về sông Mã đầu tiên trong
nỗi nhớ của mình :”Sông Mã xa rồi”. Câu thơ như một tiếng gọi ám
ảnh, khoảng cách địa lí xa xôi vời vợi mà nỗi nhớ lại luôn thường
trực. Nhớ con sông Mã vì sông Mã là người bạn, là nhân chứng, là
nơi các chiến sĩ Tây Tiến có thể giải bày tâm sự. Nỗi nhớ thứ hai là
“Tây Tiến ơi” là nỗi nhớ đồng đội, là nỗi nhớ tình đồng chí của một
thời chinh chiến. Câu thơ là một tiếng gọi vang lên đầy tha thiết. Việc
sử dụng câu cảm thán kết hợp với thủ pháp nhân hóa, hình ảnh sông
Mã hiện lên ngay từ đầu bài thơ không chỉ dơn thuần là dòng sông
thiên nhiên mà còn là dòng sông của cảm xúc và tâm trạng để khơi
gợi cảm hứng tâm trạng của tác giả.
Đó còn là “nhớ về rừng núi”, nỗi nhớ về địa bàn hoạt động giữa thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng . Trong lòng câu thơ thứ hai
dùng hai chữ "nhớ", lại được ngắt nhịp 4/3 đã diễn tả tinh tế những
thổn thức, mong mỏi, khao khát nhung nhớ của tác giả. Ba chữ "nhớ
chơi vơi" đã gợi được cả cái hồn của bài thơ.Thơ ca Việt Nam khi nói
về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm”
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Hay diễn tả nỗi nhớ nước nhà, Huy Cận có câu:
“lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Nhưng đến Quang dũng , nỗi nhớ sáng tạo hơn cả “Nhớ chơi
vơi”.”Chơi vơi” với âm tiết hai thanh bằng gợi nên sự nhẹ nhàng lan
tỏa. “ Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không
thể bấu víu vào đâu cả. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa
thế giới hoài niệm mênh mông bộn bề, không đầu không cuối, không
thứ tự thời gian không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, lửng
lơ, mơ hồ mang một cảm giác ám ảnh bâng khuâng khiến con người
ta đứng ngồi không yên. Nghệ thuật sử dụng vần ơi ở câu trên kết
hợp với từ láy “chơi vơi” với vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi
đồng vọng miên man không dứt làm câu thơ trở nên sâu lắng bồi hồi
như một khúc ca cứ thế ngân dài tha thiết vọng vào lòng người, vào
không gian xa thẳm mênh mông của thế giới hoài niệm. Hai câu thơ
đầu đã mở ra cảm xúc chủ đạo của bài thơ dưới hai dạng nỗi nhớ:
hữu hình và vô hình.
Hai câu thơ tiếp theo đã lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây tuy hùng vĩ
nhưng rất trữ tình, thơ mộng
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật liệt kê, hệ thống
hàng loạt địa danh lạ mà quen: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,
Hường Mịch, Mai Châu. Vì sao lại nói các địa danh này tuy lạ mà
quen? Người lính Tây Tiến phần lớn là thanh niên trí thức tiểu tư sản
Hà Thành ra đi theo tiếng gọi con tim, tiếng gọi của đất nước. Những
chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ
đỏ thắm”(Ngày về -Tố Hữu). Khi đến với Tây Bắc những địa danh ấy
lại mang đến một sự tò mò, hấp dẫn, mong muốn được khám phá,
cũng chứa đựng biết bao gian truân, vất vả. Khi xa rời đơn vj, xa rời
mảnh đất Tây Bắc, những địa danh ấy lại ùa về với biết bao kỉ niệm.
Những địa danh quen mà lạ ấy hiện lên thân thương. Tây Bắc và
đoàn quân Tây Tiến không còn là một mảnh đất bình thường, nó còn
là một mảnh đất - mảnh đời- mảnh tình- mảnh hồn.
Trước hết, miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân thật gian
nan, vất vả, thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật
trữ tình:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Đoàn binh
hành quân trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp . CHữ “mỏi”
làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt rã rời.
Tuy nhiên họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng.
Đi trong “sương lấp” thật hùng vĩ và tráng lệ. Màn sương còn là kỉ
niệm, là nỗi nhớ thương. Đọc lên mới thấy khâm phục tinh thần của
những người công dân cống hiến thầm lặng, bất chấp mọi khó khăn
gian khổ. Không có ít tác phẩm đã ca ngợi tinh thần cống hiến thầm
lặng của những người công dân này. Đó là tác phẩm Lặng Lẽ Sa Pa, ca
ngợi tinh thần cống hiến của anh thanh niên trên đỉnh núi hay tác
phẩm những ngôi sao xa xôi ca ngợi tinh thần quả cảm của những cô
gái pha bom trên Trường sơn: Nho, Thao, Phương Định. đoàn quân
TÂy tiến hành quân trong đêm lạnh, đi qua địa danh Mường lát vào
ban đêm, làm bạn với loài hoa nở ngát hương, đi trong đêm sương
tỏa khắp không gian huyền ảo, mơ màng. Cái hay của nhà thơ là ở
cách dùng từ. Không nói hoa nở mà nói hoa “về”, không nói đêm
sương mà nói “đêm hơi”Cách dùng từ ngữ đó đã chứng tỏ được vẻ
đẹp tâm hồn của những người lính tiểu tư sản lãng mạn hào hoa.
Câu thơ tiếp theo, hình ảnh Tây Bắc hiện lên thật dữ dội, hoang vu.
Quang Dũng tả cảnh vượt dốc vượt đèo, dường đi nguy hiểm với dốc
cao vực thẳm. Qua đó cho thấy người lính Tây Tiến là những con
người hào hoa, hào hùng. Đời sống, môi trường chiến đấu của người
lính là đời sống phi thường. Người lính Tây Tiến qua cảm hứng lãng
mạn của Quang Dũng được xuất hiến trên cái bối cảnh hoang sơ, kì
vĩ, dữ dội, hiểm trở mà cũng rất khỏe đẹp và thi vị với đủ núi cao vực
thẳm, thác gầm, dốc đứng,…. Cùng với những cồn mây heo hút,
sương lấp, mưa xa khơi, cọp trêu người.
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Dưới ngòi bút của Quang Dũng, con đường hành quân mở ra với biết
bao khó khăn, gian khổ. Đường đi toàn dốc cao, vực thẳm được diễn
tả với nhiều từ láy tạo hình: khúc khuỷu (quanh co khó đi), “thăm
thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con
người). Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “Dốc lên khúc
khuỷu dốc thăm thẳm” (7 chữ mà đã có 5 chữ là thanh trắc) khiến khi
đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang đi cùng đoàn binh
vậy. Có thể tưởng tượng người lính Tây Tiến vừa leo lên một đỉnh
dốc, vắt kiệt sức lực, mệt nhoài lại phải đổ xuống một con dốc khác
và cuộc hành quân cứ thế tiếp diễn với dốc cao, vực thẳm, rừng dày,
sương lấp. Câu thơ “Heo hút cồn mây, súng ngửi trời” mang đến cho
người đọc sự mới lạ, có chút gì đó hóm hỉnh đùa vui kiểu lính. Đây
không phải lần đầu tiên trong thơ cách mạng xuất hiện những câu
nói hóm hỉnh về người lính. Trong bài thơ về tiểu đội xe không kính
của Phạm Tiến Duật, ông đã viết:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính ừ thì ước áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần lau, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi!
Những người lính đầu bụi trắng, mặt lấm lem nhưng vẫn cười haaha
sảng khoái. Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này
là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng bởi không vững vàng thì
không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường trường sơn ác liệt.
Quay lại với câu thơ :”Heo hút cồn mây súng ngửi trời” mũi súng của
của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh “súng
ngửi trời” vừa bông đùa kiểu lính vừa mang theo cảm hứng lãng
mạn, trữ tình, thơ mộng. Hình ảnh súng ngửi trời đặc tả sự cao chót
vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc gợi cảm tưởng
mũi súng đã chạm đến chân mây Nó khẳng định một một chí khí bản
lĩnh chiến đấu vững vàng của người chiến sĩ làm chủ thiên nhiên, làm
chủ vũ trụ mà bước tới “khó khăn nào cũng vượt qua – kẻ thù nào
cũng đánh thắng!” Nó làm ta liên tưởng đến người lính trong thơ Tố
Hữu :
“Rất đẹp hình ảnh lúc đáng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”
Cái chất trẻ trung, không ngại gian khổ của người lính Tây Tiến đã
làm cho họ không bị lu mờ trước thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ.
Ngay tại lúc này thiên nhiên không còn là đối tượng trữ tình cho ta
ngắm nghía mà còn là đối thủ.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Câu thơ này có thể hiểu cuộc hành quân cứ lên rồi lại xuống, xuống
thấp rồi lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt mà cứ tiếp
tục mãi.Câu thơ này đã tạo thành hai vế tiểu đối, như bị bẻ đôi, diễn
tả con dốc với với chiều cao rợn ngợp, nhìn lên cao chót vót nhìn
xuống sâu thăm thẳm, không có điểm bắt đầu cũng như không có
điểm kết thúc. Hình ảnh ấy ta cũng bắt gặp trong “vọng lư sơn bộc
bố” (Xa ngắm thác núi Lư” của Lý Bạch:
“Phi thiên trực há tam thiên xích
Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước”
Hay những hình ảnh rùng rợn hoang dã trong thơ của Khương Hữu
Dụng:
“Đây cao vời vợi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm thác đổ không tên
CÓ suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim”
Nghệ thuật sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi hình, gợi
cảm, những câu thơ toàn thanh trắc đã phát họa một bức tranh
hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút
của núi rừng miền Tây (thi trung hữu họa)
Cái nhìn trữ tình của nhà thơ từ một cơn mưa rừng cũng thành cái
nhìn thơ mộng. “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ “Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi” đã phối thanh với câu thơ “Ngàn thước lên
cao ngàn thước xuống” một cách độc đáo. Nếu như câu trên nhiều
thanh trắc , đổ xuống gần như thẳng đứng, câu thơ như bị bẻ đôi gập
xuống thì câu sau toàn thanh bằng. Ta như hình dung được được
một đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ. Đoàn quân
với sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian
khổ vẫn lạc quan, yêu đời. Nhịp thơ như chậm lại, âm điệu nhẹ
nhàng như phút nghỉ chân hiếm hoi của người lính. Trong màn mưa
rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng ngang về
những mái nhà dân hiền lành đầy yêu thương. Tất cả bị vùi lấp trong
màn mưa rừng dày đặc mang cái lãng mạn của núi rừng miền Tây
vừa có cái dữ dội lại có cái trữ tình đáng nhớ.
Hai câu thơ dưới đây,nhà thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng của sự hi
sinh. Tác giả đã thêm vào bức tranh thiên thiên Tây Bắc với nghệ
thuật phối âm ghê rợn. Và người lính phải tiếp tục sự thử thách của
núi rừng hoang sơ dữ dỗi ấy:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian “chiều
chiều”,”đêm đêm” gợi nhắc thời gian khắc nghiệt với biết bao nguy
hiểm rình rập. Với biện pháp nhân hóa âm thanh thác gào hoang dã
“ gầm thét rồi cọp trêu” đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm, dữ dội, hoang dã
chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn rình rập đe dọa người lính của núi
rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian
mà còn kéo dài và lặp lại với biên độ thường xuyên, theo thời gian.
Hai câu thơ đã điểm tô vào bức tranh thiên nhiên Tây Bắc vốn đã
hùng vĩ tráng lệ nay càng thêm bí ẩn hoang sơ. Đây là đặc trưng của
chốn ma thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Bỏ qua mọi khó khăn
gian khổ, người lính vẫn kiên cường tiến bước, người nối người băng
lên phía trước. Sức mạnh của thiên nhiên như bị lu mờ, con người
trỗi dậy làm chủ thiên nhiên.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế
hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng
lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Quang Dũng là một
họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của
Quang Dũng thật tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn
của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bốn bờ”
Thơi gian chia tay là buổi chiều, không gian chia tay là một không
gian khói sương như trong cõi tiên vừa thực vừa ảo. Thiên nhiên Tây
Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hóa. Nếu ở câu thơ “Ngàn thước
lên cao ngàn thước xuống” thiên nhiên hiện lên dữ dội, khốc liệt thì
ở câu thơ này cái khốc liệt bị đẩy đi, thay vào đó là những hình ảnh
nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương
cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. SƯơng ở đây
không phải là “sương lấp”, “sương che” hay sương phủ mà là một
không gian núi rừng mơ màng trong sương khói. Một buổi chiều có
sương mù giăng mắc khắp không gian mờ mờ ảo ảo. Không gian ấy
đủ tạo nên nỗi buồn man mác nhưng vô cùng thi vị. Không gian ấy
mờ ảo như không gian trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
Có người cho rằng :”chiều sương ấy” là chiều sương trong cái nhìn
hoài niệm nên tất cả mờ ảo nhạt nhòa . Những độc giả thích chiêm
nghiệm, suy ngẫm khi đọc câu thơ này sẽ cảm nhận nó thật đặc biệt.
Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ “chiều sương” để nhấn mạnh
chiều sương này rất đặc biệt, là chiều sương của nỗi nhớ, là chiều
sương của kỉ niệm nên tình người cũng man mác bâng khuâng. Sau
này cũng ở trên cái nền thiên nhiên đẹp đẽ ấy , Tố Hữu đã có hai câu
tả cảnh Châu Mộc:
“Nông trường Châu Mộc như hoa nở
Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca”
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương sông
nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. Bằng biện pháp nghệ
thuật nhân hóa, Quang Dũng đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ
vô cùng tinh tế”hồn lau”,.. Gợi cảm giác hoang vắng , giàu chất thơ
thêm chút gì đó thiêng liêng tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có
nghĩa là nẻo - lối đi. Nẻo bến bờ có thể hiểu là nhìn đâu cũng thấy
mênh mang hồn lau. “hồn lau” - những cây lau không còn vô trí , vô
giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế mới cảm
nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy. Thi sĩ ngày xưa hay gọi hồn thu là hồn
lau. CHế LAn Viên đã từng thổn thức trước ngàn lau trắng:
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
Có cảnh đẹp nên thơ làm người thơ xuất hiện . Giữa hình ảnh thiên
nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con
người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn bất khuất:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Nhà thơ gợi nhắc bằng những điệp từ “có nhớ”-” có thấy” như để
chạm khắc, như hỏi chính mình đầy bâng khuâng, lưu luyến. Cảnh
trong thơ tĩnh lặng, buồn nhưng vô cùng thi vị. Nỗi lòng của con
người như đươc gửi trong nỗi niềm xốn xao “hồn lau nẻo bến bờ”.
Những bông lau hai bên ven đường mà đoàn quân Tây Tiến đi qua
đường như cũng có hồn. Với việc sử dụng biện pháp nhân hóa đã gợi
cảm giác mênh mông, xa vắng. Độc mộc là một loại thuyền được làm
từ thân cây gỗ lớn. Dáng người trên độc mộc có thể là hình ảnh mềm
mại uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ
vượt sông. CŨng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ
Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông vượt thác dữ tiến về
phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của
Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhòa, Hai câu thơ cuối sử dụng
biện pháp đối lập. Đó là sự đối lập giữa một bên là “dòng nước lũ”
như muốn cuộn xoáy, cuốn trôi trong cái dữ dội, cuộn trào của thiên
nhiên còn một bên là cảnh hoa mềm mại , dễ thương, duyên dáng
tạo cảm giác thiên nhiên như đang hòa hợp với con người. Từ láy
“đong đưa”được sử dụng rất gợi. Không phải là cánh hoa rừng trôi
nổi dập dềnh trên dòng nước lũ mà là “đong đưa” theo gió. Cũng có
thể hiểu “hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây
xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những
bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối. Cánh hoa rừng như
quyến luyến người lính, vẫy tay chào người lính , tiễn người lính vượt
sông đi đánh giặc. Dáng hoa ấy hòa hợp với dáng người trên độc mộc
tạo nên một bức tiểu họa thật lãng mạn mà cũng thật hào hùng. Vậy
mơi có thể hiểu được cách nói của người xưa “thi trung hwuxu họa”
là như vậy.
Có người lính đã ngã xuống trong tiếng nhạc của núi sông:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gào lên khúc độc hành”
Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự
hi sinh của người lính. Nhưng sự thật bi thảm là : Người lính hi sinh
trên đường hành quân đến một manh chiếu liệm cũng thiếu. Chiếc
chiếu cói nhàu rách kia đã từng theo họ suốt chiến trường, là vật bất
li thân cũng là tấm áo bào của lòng thành kính đưa những người con
ưu tú của dân tộc về với đất mẹ “Anh về đất” là cách nói giảm nói
tránh đi cái chết làm cho câu thơ bi mà không lụy. Đất nước ta tháng
năm ấy còn nghèo, các anh ngã xuống thì đồ đạc quân trang không
chôn theo mà để lại cho bạn bè. Những người bạn của họ lại mặc
chính chiếc áo của đồng đội mình đã ngã xuống để tiếp tục chiến đấu
và cống hiến. Ta chợt cảm động trước câu thơ của Chế Lan Viên:
“Con nhớ anh con người anh du kích
CHiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con”
Vâng cái chết của họ, máu xương của họ đã gửi về đất mẹ, làm cho
“lá cờ cách mạng thêm đỏ thắm” (Hồ CHí Minh) làm cho tinh thần
Việt Nam càng bất khuất kiêu hùng. Một lần nữa con sông Mã được
đề cập trong bài thơ Tây Tiến. Tiếng gầm của sông Mã như một khúc
“độc hành” tiễn đưa người chiến đi về lòng đất mẹ vĩnh hằng, gợi lên
biết bao tiếc thương ngậm ngùi. Điều đó làm cho cái chết của người
lính có bi mà không có lụy, vẫn đẹp và hào hùng biết bao. Bài thơ Tây
Tiến có một màu sắc bi tráng rất độc đáo là như vậy.
uối cùng, sau khi đã hồi tưởng lại bình ảnh đoàn binh Tây Tiến một
thời mê say lãng mạn, Quang Dũng đã bộc lộ nỗi niềm mong ước gặp
lại Tây Tiến:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Câu thơ đã trở về với mạch cảm xúc chung của bài thơ, cảm xúc
thương nhớ, nhưng vẫn mang trong nó âm hưởng tráng trí ngất ngời.
Câu thơ nói về biệt li, về xa cách, có ngậm ngùi nuối tiếc nhưng vần
đầy dũng khí, quyết tâm. Khoảng cách càng xa thăm thẳm thì nỗi nhớ
càng trở nên vời vợi bởi xa Tây Tiến không biết bao giờ mới gặp lại.
Người đọc cảm thấy nồi nhớ thương như là đang đầy cả câu thơ. Hai
câu cuối, giọng điệu và mạch cảm xúc có sự chuyển hướng: câu thơ
giống như một lời mời gọi, một lời nhắn nhủ, ước hẹn tha thiết ân
tình. Phải chăng đây là lời hẹn gặp Tây Tiến vào mùa xuân – mùa
xuân của hội ngộ, của chiến thắng. Điều đó chứng tỏ tác giả mong
ngày gặp lại Tây Tiến, trở về Tây Tiến chính là ngày chiến thắng. Câu
thơ kết vang lên đầy kiêu hãnh như một lời thề, lời hứa quyết tâm.
Từ nồi nhớ về một đoàn binh, về những con người cụ thể đã hóa
thân thành nỗi nhớ về một mảnh đất, một quê hương, Tây Tiến đã
trở thành nỗi nhớ, niềm yêu tha thiết của Quang Dũng.
Thành công của Quang Dũng trong việc đặc tả hình ảnh thiên
nhiêntừ việc sử dụng ngôn ngữ sử thi hào hùng, bút pháp lãng mạn
trữ tình. Từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính. Sử dụng phép tương phản,
đối lập, các biên pháp tu từ nhân hóa, so sánh, điệp từ. Giọng thơ
hào sảng, khí pháp như lời thề sông núi.
Quang Dũng đã khắc họa một cách đầy đủ trữ tình hình ảnh thiên
nhiên Tây Tiến. Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến
giống như một tác phẩm hội hoạ tuyệt vời. Những nét vẽ táo bạo
khoẻ khoắn, ngôn ngữ gân guốc ở đoạn đầu khi phác hoạ núi cao
rừng thẳm dữ dội kết hợp với những nét vẽ thật nhẹ nhàng, ngôn
ngữ mềm mại, nhịp thơ êm ả thơ mộng khi tả cảnh sông nước miền
Tây. Và trên hết, thiên nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người
lính Tây Tiến hiện lên như những người anh hùng phi thường của sử
thi thời chống Pháp. Đó chính là cái tài hoa của ngòi bút Quang Dũng.
Bài thơ Tây Tiến theo lời của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: “Tây
Tiến” giống như một viên ngọc. Ngọc càng mài thì càng sáng, càng
lấp lánh và hấp dẫn. Đó là một bài thơ kì diệu và có một vị trí đặc biệt
trong lòng công chúng,… một bài thơ làm sống dậy cả một trung
đoàn, khiến địa danh Tây Tiến trong lòng lịch sử và ký ức mỗi người”
(Trích báo văn nghệ Quân đội)

You might also like