You are on page 1of 26

ÔN TẬP BÀI THƠ “TÂY TIẾN” (QUANG DŨNG)

1. Tác giả:
- Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiểu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến
chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng ta biết đến
ông nhiều hơn với tư cách một nhà thơ. Thơ ông thể hiện cái tôi phóng khoáng, lãng mạn, hồn hậu
và tài hoa.
2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Quang Dũng; được sáng tác cuối
năm 1948, tại làng Phù Lưu Chanh khi ông rời sang đơn vị khác và trích trong tập “Mây đầu ô”.
3. Binh đoàn Tây Tiến
- Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên
giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc, và sang cả vùng Thượng Lào.
- Thành phần: chủ yếu là học sinh, trí thức Hà Nội chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ,
vô cùng thiếu thốn về vật chất, chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn nhưng vẫn phơi phới tinh
thần lạc quan, anh hùng.
- Người lính mang trong mình sự trẻ trung khoẻ khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng
lí tưởng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn, mộng mơ.
4. Nghệ thuật đặc sắc:
- Sử dụng thể thơ 7 chữ với cách ngắt nhịp linh hoạt, phối thanh điệu bằng trắc giúp cho bài thơ
giàu nhạc điệu.
- Sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn
- Sử dụng từ Hán Việt tạo tính trang trọng, cổ kính, vẻ đẹp cổ điển cho hình ảnh người lính.

Đề 1: Phân tích đoạn đầu bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
I. MỞ BÀI:
Mở bài 1: Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến : “Quang Dũng đứng
riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những nhà thơ
khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải chăng cái mới, cái
lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những người anh hùng của dân tộc
đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng, kiên cường vừa mang
vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. ( Nêu VĐNL+ Trích đoạn thơ)
Mở bài 2: Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách
vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống
vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là một trong những bài
thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người
lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức
tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian
khổ ấy bất tử cùng thời gian. . ( Nêu VĐNL+ Trích đoạn thơ)
Mở bài 3: Quang Dũng là một trong những nhà thơ tiểu biểu của thơ ca Việt Nam thời kì
kháng chiến chống Pháp. Ông là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh,… nhưng ta biết
đến ông nhiều hơn với tư cách một nhà thơ. Thơ ông thể hiện cái tôi phóng khoáng, lãng mạn, hồn
hậu và tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Quang Dũng; được
sáng tác cuối năm 1948, tại làng Phù Lưu Chanh khi ông rời sang đơn vị khác và trích trong tập
“Mây đầu ô”. Với “Tây Tiến”, Quang Dũng đã xây dựng bức tượng đài bất tử về những người
lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, hiểm trở.Trong bài thơ, bên cạnh

1
hình tượng nhân vật trung tâm là người lính Tây Tiến thì bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc
cũng dần dần hiện ra và để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
……………..
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Mở bài 4: Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Trong cuộc đời mỗi người từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở
thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm
xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất
Tây Bắc đã được ghi lại chân thực trong bài thơ Tây Tiến. . ( Nêu VĐNL+ Trích đoạn thơ)
II. THÂN BÀI:
1/ Khái quát
- Tác giả, tác phẩm (nếu mở bài gián tiếp).
- Binh đoàn Tây Tiến.
- Vị trí và nội dung đoạn trích: Đoạn thơ nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, bức tranh thiên
nhiên miền Tây lần lượt hiện ra qua những khung cảnh của địa bàn hoạt động, những chặng
đường hành quân của đoàn quân Tây Tiến.
- VĐNL: Thiên nhiên Tây Bắc được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm. Qua ngòi bút của nhà
thơ Quang Dũng, rừng núi miền Tây hiện lên vừa dữ dội, hùng vĩ, nhưng cũng có nét thơ
mộng, trữ tình.
2/ Phân tích đoạn thơ
a/ Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…”
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào không kìm nén nổi . Đối
tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể , rõ ràng là : “sông Mã” , “Tây Tiến” , “rừng núi” . Nỗi nhớ ấy
phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “ nhớ”. “ Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập
chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian của
tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần “ơi” làm câu
thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc, thể hiện sâu sắc nỗi nhớ thiết tha của con
người.
Nếu như hai câu thơ đầu của bài thơ đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn
nguôi thì nỗi nhớ ấy được cụ thể dần, rõ nét dần trong những vần thơ tiếp sau .
b/ Hai câu thơ tiếp: gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm :
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Những từ chỉ địa danh Sài Khao ,
Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến . Sương mù vùng cao
dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng
đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ
ca kháng chiến. Nhưng những người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc
quan, yêu đời. Hình ảnh “ hoa về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi . Đó có thể là
những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng , cũng có thể là hình ảnh đoàn
quân từ rừng đi ra , trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương , mà đó cũng có thể là
hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng . Đoàn quân ấy hành quân trong

2
một “ đêm hơi” đầy huyền ảo , mơ hồ , bảng lảng khói sương chốn rừng suối . Hai câu thơ in đậm
dấu ấn tài hoa , lãng mạn đầy chất nghệ sĩ của Quang Dũng .
c/Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây :
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu” , “ thăm thẳm”, “ heo hút” ,
kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc
trắc gợi sự vất vả , nhọc nhằn . Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về
sự gập ghềnh , hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc , nguy hiểm của núi cao , vực sâu nơi núi rừng miền
Tây . Hình ảnh “ súng ngửi trời” là một nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi . Người
lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc , cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây . Từ đó , ta cũng thấy
được nét tinh nghịch khỏe khoắn , vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất
vả , mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối “ ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống”
càng nhấn mạnh độ gập ghềnh , hình sông thế núi trập trùng , hiểm trở của thiên nhiên miền Tây .
Ba câu thơ giàu chất hội họa , dựng lên bức tranh hoang vu , dốc đèo đứt nối , hùng vĩ trên con
đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến . Nếu như ba câu thơ trên có sự kết hợp giữa ngôn từ,
nhịp điệu, thanh bằng trắc đan xen để gợi sự nguy hiểm của địa hình thì câu thơ thứ tư toàn bộ là
bảy thanh bằng “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” như gieo vào lòng người đọc một nốt trầm sâu
lắng. Vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn
của người lính . Họ đứng trên những đỉnh núi , thưởng thức chút bình yên , vẻ đẹp lãng mạn của
núi rừng , phóng tầm mắt , thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi.
Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu , sự êm đềm của núi rừng , vừa gợi ra những
cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung , yêu đời của các chàng trai Tây Tiến .
d/Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất
mát hi sinh :
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Cách nói tránh về sự mệt mỏi và có thể là cả cái chết mà Quang Dũng đã sử dụng “không
bước nữa” , “bỏ quên đời” gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp
nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi . Tư thế hi sinh “ gục lên súng mũ”
đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn
bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
“ Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng” .
Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến .
e/Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây :
“ Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian “chiều chiều” , “đêm đêm” kết
hợp với biện pháp nhân hóa “ thác gầm thét” , “ cọp trêu người” đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm , dữ
dội ,hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng
miền Tây . Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại
thường xuyên theo thời gian .
g/Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh :
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

3
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Núi cao rừng rậm lùi xa , chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm
của các cô gái Thái . Từ cảm thán “ Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết , thiết tha
của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây . Nhà thơ như nhói lòng
khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói . Đó là
những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt , tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà
thơ . Cách kết hợp từ “ mùa em” rất độc đáo , gợi những liên tưởng đẹp , lãng mạn về những cô
gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương . Hai câu thơ kết thúc đoạn một
bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu , ấm áp , tạo tâm thế cho
người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo .
=> Đoạn thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của
nhà thơ Quang Dũng . Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình , giàu nhạc điệu , gây ấn tượng
táo bạo , dựng lên bức tranh sinh động , có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến
trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây . Qua đó , ta cảm nhận được sự gắn
bó sâu sắc , nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong
đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
III. Kết bài:
CT1: Gấp lại tác phẩm A của nhà văn/ nhà thơ B, vấn đề C (vấn đề nghị luận) vẫn còn
đọng lại trong trái tim của mỗi người. Phải chăng tác phẩm đã chạm đến… nên neo đậu mãi trong
lòng người đọc. Và chính vì điều đó, nó đã chiến thắng sức mạnh của thời gian, như nhà văn Ai-
ma-tốp từng nói “tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối”.
CT2: Khép lại những trang văn/trang thơ ấy, trong lòng bạn đọc vẫn bồi hồi bao cảm
xúc. Tác giả A đã gieo vào lòng chúng ta bao cảm xúc dạt dào không chỉ cho hôm nay mà còn
mãi mai sau về (vấn đề nghị luận). Chính điều đó đã tạo nên sức sống bất diệt cho tác phẩm, làm
cho người đọc càng yêu thế giới văn học hơn.

Đề 2: Phân tích đoạn thứ hai bài thơ Tây Tiến


1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
( Tham khảo đề 1)
2. Phân tích
a. Bốn câu đầu trong đoạn thơ thứ hai của bài thơ “Tây Tiến” nhà thơ dường như cũng đã
mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân
dân.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kia em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
“Doanh trại” được biết là một nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn
hóa đậm đà tình quân dân. Trên chặng đường hành quân đầy vất vả, những người lính Tây Tiến
đã nhận được nhiều tình cảm từ những người dân, từ đồng bào dân tộc thiểu số ở mọi nơi.Dường
như đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và như đã góp vui tinh thần với bộ đội Tây
Tiến. Có thể nhận thấy rằng từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm đêm thì
dường như rừng núi thành đêm hội. Cùng với những ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa”
(“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn) . Ở đây, người đọc
như thấy được hình ảnh ngọn “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, đó
còn chính là niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ . “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, và cũng

4
như là của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng
bừng rộn rã
Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai dường như cũng đã thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng
của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp yêu kiều của những cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo”
lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Tác giả Quang Dũng cũng như đã phát hiện ra vẻ đẹp
rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chàng lính Tây Tiến như đã yêu say
từ vóc dáng đến trang phục. Và trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ
Tây Bắc càng tôn vinh lên những nét đẹp, những vẻ đẹp đặc trưng của họ. Quang Dũng dường
như cũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. “Em” như đã trở thành hạt
nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa này. Có thể thấy, những thiếu nữ Mường, và đó
chính là những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, các cô gái duyên dáng “e ấp”, các cô
gái xinh đẹp đã xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể như nhiều người đã kể hoặc đã
hiểu chính người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo đã tạo
tiếng cười vui cho đêm văn nghệ, tạo niềm vui yêu đời làm động lực tinh thần để họ tiếp tục
nhiệm vụ, tiếp tục lý tưởng của mình. Sức mạnh tinh thần ấy đáng quý, đáng trân trọng biết bao.
Thật như vừa ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn được biết đến là một loại nhạc
cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc, và loại nhạc cụ này còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ”
nhưn cũng tạo được những nét đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Dường như để
hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông thật biết tạo lên quyến rũ của những cô
gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Có thể nói rằng, chính cái lạ ấy làm đắm
say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa, một Hà Nội huyên náo. Có thể khẳng
định, chính trong không khí của âm nhạc, cũng như các vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn
những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó thì là cồn chính là
lòng yêu đời, yêu miền đất lạ xa xôi này. Chính vì thế, dường như, mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất
vả đều tan biến thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con
đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, người đọc có thể thấy được rằng các chiến sĩ
của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, cũng như thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn
hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp cho Tổ quốc.
b.Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc, hình ảnh Tây bắc hiện lên cứ
vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Dường như là cả bốn câu là cảnh sắc Tây
Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Nếu như ta so với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với
ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung biết bao, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì trong bốn
dòng thơ tiếp theo, tác giả Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi
rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Đó chính là một không gian bảng lảng khói sương
như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Dường như thiên nhiên Tây Bắc như cũng đã hiện lên theo
chiều hướng nhẹ hoá. Có thể thấy chính cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là
những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Thật độc đáo khi hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều
sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là
sương lấp, cũng không phải là sương che hay sương phủ mà là “Người đi Châu Mộc chiều sương
ấy”. Nó dường như cũng đã gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Ta có
thể thấy chính đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một

5
buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương như đã hiện lên trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên
tình người cũng man mác, bâng khuâng biết bao nhiêu.
Đoạn thơ như mang đậm màu sắc của hội họa. Có thể thấy chính những cái thực của khí
trời Tây Bắc, và chính cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ
tích. Có lẽ rằng những chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Với những đường
nét, nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Và cũng chỉ với một vài nét chấm phá vậy
mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Người đọc có thể nhận thấy rằng cảnh sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau
lách và dường như chính tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là
không gì ngạc nhiên đó là hình ảnh ám ảnh ”hồn lau”… gợi lại trong ta biết bao cảm giác hoang
vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh
rừng núi. Và cụm cừ “Nẻo bến bờ” có nghĩa như sau nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ chính là một hình
ảnh nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” hay đây chính là những cây lau không
còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới
cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
(Chế Lan Viên)
Dường như chính không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh
thiên nhiên Tây Bắc như cũng đã hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi
đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường biết bao nhiêu “Có nhớ dáng
người trên độc mộc”. Ta có thể nhận thấy chính điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm
khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, như cũng rất cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc được hiểu
là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn và rất dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể
là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông.
Cũng có thể hiểu theo một cách khác đó chính là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến
đang chèo chống con thuyền vượt sông , vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả, tất cả những hình
ảnh ấy đều dường như cũng đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà…
Thiên nhiên Tây Bắc thì không thể không nhắc đếnn hình ảnh con sông Mã, sông là một
dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng có thể nói rằng ở đây, dòng sông Mã dường
như cũng đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng ko bị ”dồi lên dập xuống”
mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảnh và gợi
tình đó chính là cảnh nhữngánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như
bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
Và thông qua những câu thơ, và cả qua những hình ảnh thơ thật sống động của bài thơ “Tây
Tiến” như đã đã vẽ lên được những khung cảnh thiên nhiên, và như cũng đã vẽ lên con người
miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ , thơ mộng , trữ tình . Ta như đã có thể thấy được chính những chất
nhạc, chất hoạ , chất mơ mộng dường như cũng đã hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ
tạo nên một thế giới của cái đẹp.Từng nét vẽ thật tài tình của nhà thơ Quang Dũng đều mềm mại
tinh tế biết nhường nào. Đây quả thực là một trong những khổ thơ ấn tượng và đậm chất họa trong
bài thơ Tây Tiến.
Đề 3: Anh chị hãy làm nổi bật bức tượng đài người chiến binh Tây Tiến trong đoạn thơ sau:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
………………………………………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

6
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
( Tham khảo đề 1)
2. Phân tích hình ảnh người lính Tây Tiến:
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong đoạn thơ thứ ba của bài
thơ “Tây Tiến”. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức
tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở
đoạn thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất
hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân
trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn.
Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó
hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp
lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật
chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn
quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh”
thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba
chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng
lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy.
Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự tếu táo rất lính tráng. Các chi tiết “không mọc tóc, quân
xanh màu lá” đã diễn tả phần nào cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa
bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc”, da
xanh tái. Không ít nhà thơ, nhà văn đã phản ánh hiện thực khó khăn, gian khổ ấy trong sáng tác
của mình.Chính Hữu đã từng viết:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
( “Đồng chí”)
Còn trong bài “Nhớ” , Hồng Nguyên lại khắc họa:
“Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu đến thế.”
Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư
thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản, chỉ 2 dòng thơ, Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác
thường của đoàn quân Tây Tiến.
Nếu như ngoại hình của những người lính Tây Tiến có chút khác thường thì tâm hồn của họ
cũng mang nhiều nét đặc biệt:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Hình ảnh “Mắt trừng” như biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu
đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. Ở
đây, người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không
mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân
thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà
Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt

7
trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc
mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trước, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về
trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Người lính
nhớ về Hà Nội, nhớ về quê hương, đất nước thân yêu với nỗi nhớ cụ thể về một dáng hình duyên
dáng, đáng yêu. “ Dáng Kiều thơm” ấy có thể là dáng người mẹ, dáng một người chị, một người
em hay chỉ là một bóng hình vô tình gặp trên đường đời nhưng đủ vấn vương, đủ trở thành động
lực tinh thần để những người lính chiến đấu và chiến thắng. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách
của những chàng trai Tây Tiến, tạo nên vẻ đẹp tâm hồn đặc trưng của những người lính trí thức ra
đi từ mảnh đất hào hoa.
Người lính Tây Tiến thực hiện nhiệm vụ của mình, phải đối mặt với những thiếu thốn, gian
khổ, khó khăn…Nhưng không gì có thể khiến họ chùn bước, kể cả cái chết. Sức mạnh của họ
chính là ý chí, nghị lực, lý tưởng:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác
trên đường hành quân, những sự ra đi bởi ốm đau, bởi vực sâu, núi cao, hay thác dữ… Nhưng
hiện thực ấy không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính Tây Tiến. Câu thơ sau chính là
câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên.
Họ chiến đấu với khẩu hiệu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ đặt lợi ích của đất nước, của
dân tộc lên trên cả hạnh phúc của bản thân mình. Như nhà thơ Thanh Thảo đã thể hiện trong thơ
mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Lý tưởng biến thành sức mạnh quật cường để người lính có thể thực hiện tốt nhiệm vụ cách
mạng. Ra đi với lý tưởng cao đẹp ấy, người lính không ngại gian khổ, không sợ phải đối đầu với
cả cái chết. Không như nhiều người trốn tránh, Quang Dũng dám nhìn thẳng vào hiện thực mất
mát, đớn đau của cuộc chiến. Những câu thơ vang lên như lời ngợi ca những cái chết bất tử của
bậc trượng phu:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ
đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào”
làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn
học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn gian khổ ở chiến trường.
Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc
thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết. Ba từ
“anh về đất” cuối câu thơ lại là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Các anh như đã hoàn thành nhiệm
vụ của mình và được trở về với đất mẹ thân yêu. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người
lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội nghĩa tình gắn bó
một thuở.
Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh, sông Mã là nhân vật chứng kiến và
tiễn đưa. Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn
quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự
hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.

8
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người
tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái
không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn
hùng tráng, hiên ngang…
-> Miêu tả gian khổ bằng cái nhìn ngạo nghễ, nói về cái chết bằng giọng tráng ca, khắc
phục thiếu thốn nơi rừng núi bằng những giấc mơ lãng mạn, Quang Dũng đã khắc họa thành công
bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến trong dòng thơ kháng chiến chống Pháp.
Một số câu hỏi nâng cao:
1. Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của nhà thơ Quang Dũng ở bài thơ Tây Tiến.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở nhân vật trữ tình của bài thơ là một cái tôi cá nhân đầy cảm
xúc, với nỗi nhớ đong đầy, tràn ngập.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái nhìn đối với thiên nhiên: Thiên nhiên Tây Bắc với núi đồi
trùng điệp, hùng vĩ, hiểm trở, nhưng dưới con mắt của những người lính Tây Tiến, những cảnh
tượng ấy lại có vẻ đẹp tươi mới, hấp dẫn thơ mộng, trữ tình.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở chân dung người lính lãng mạn hào hoa:
+ Xem thường nguy nan, xem thường bệnh tật, cái chết.
+ Ấp ủ nhiều ước mơ tươi đẹp.
- Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở giọng điệu (khi mềm mại, thiết tha, lúc hùng tráng, khỏe mạnh),
ở thủ pháp tương phản (hình ảnh), từ ngữ ước lệ... Đây là những hình thức nghệ thuật rất đặc thù
của thơ ca lãng mạn nói chung.
2. Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh cái bi, thường
đề cập đến cái chết, nhưng đó không phải là cái chết bi lụy mà nhờ việc sử dụng các từ Hán Việt
trang trọng, Quang Dũng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi, thay vào đó là cái chết hào hùng,
mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.
- Viết về chiến tranh, Quang Dũng không hề nhắc đến súng đạn, khung cảnh chiến trường nhưng
ta cũng có thể cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh: “đoàn binh không mọc tóc...", "rải
rác biên cương mồ viễn xứ"... nhưng vượt lên trên tất cả, họ vẫn anh hùng, có lí tưởng cao đẹp,
có nét oai phong, dữ dằn như chúa tể chốn rừng thiêng,
3. Chất nhạc, chất họa trong bài thơ Tây Tiến (Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc)
a. Chất “họa”
- “Chất họa” được thể hiện qua bức tranh về thiên nhiên núi rừng miền Tây với vẻ đẹp:
+ Hiểm trở, hùng vĩ
+ Thơ mộng và trữ tình.
– Chất “họa” được thể hiện thông qua bức chân dung người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi
tráng
– Chất “họa” được thể hiện qua các biện pháp nghệ thuật như bút pháp miêu tả từ khái quát đến
cụ thể, thủ pháp đối lập tương phản,…
b. Chất “nhạc”
- Nhạc điệu, hơi thơ hào hùng và bi tráng nhất của bài Tây Tiến nằm ở đoạn cuối bài:
- Với thể thơ bảy chữ với sự linh hoạt trong cách ngắt nhịp khiến cho bài thơ như một bản
nhạc giàu nhịp điệu, giống như khúc ca quân lên miền Tây của người lính Tây Tiến được
sống lại.
- Từ nỗi bi thương, mất mát lớn lao trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến, thiên nhiên núi
rừng miền Tây đã cất cao điệu nhạc bi hùng, dồn dập, gầm thét.

9
ÔN TẬP BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU

1. Tác giả Tố Hữu


- Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam, ông được coi là “lá cờ đầu” của
thơ ca cách mạng nước ta.
- Thơ ông mang tính chất trữ tình-chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và mang tính dân tộc rất đậm
đà.
2. Bài thơ “Việt Bắc”
a. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu)
- “Việt Bắc” là bài thơ thể hiện rõ nét phong cách thơ Tố Hữu.
- Bài thơ ra đời sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) kết thúc thắng lợi, cán bộ kháng
chiến rời Việt Bắc về Thủ đô.
b. Vị trí, giá trị của tác phẩm
- Đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu.
- Thành công xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
- Đó vừa là bản hùng ca vừa là bản tình ca của con người Việt Nam trong kháng chiến chống
Pháp.
3. Tham khảo một số mở bài về Việt Bắc
Mở bài 1: Đề tài kháng chiến là một đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng VN, trong đó
bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thi phẩm tiêu biểu. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10-1954 sau
thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, kết thúc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi. Vì thế, bài thơ vừa có ý nghĩa lịch sử lại vừa có ý nghĩa văn học sâu sắc.
(Dẫn vấn đề nghị luận+ trích thơ)
Mở bài 2: Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam, ông được coi là “lá
cờ đầu” của thơ ca cách mạng nước ta. Thơ ông mang tính chất trữ tình- chính trị sâu sắc; đậm
tính sử thi và mang tính dân tộc rất đậm đà. “Việt Bắc” là bài thơ thể hiện rõ nét phong cách thơ
Tố Hữu. Bài thơ ra đời sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) kết thúc thắng lợi, cán bộ
kháng chiến rời Việt Bắc về Thủ đô. (Nêu vấn đề nghị luận và trích thơ)
Mở bài 3: Tố Hữu là nhà thơ lớn - là “lá cờ đầu” của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, các
chặng đường thơ của ông đều gắn bó với các chặng đường cách mạng dân tộc. Các tác phẩm của
Tố Hữu luôn in đậm khuynh hướng trữ tình chính trị và đậm đà tính dân tộc. Và “Việt Bắc” là
một trong những bài thơ hay nhất của đời thơ Tố Hữu, đồng thời cũng là đỉnh cao của thơ kháng
chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như một bản tổng kết bằng thơ cuộc kháng chiến chống
Pháp gian khổ, anh hùng của dân tộc. (Nêu vấn đề nghị luận và trích thơ)
Đề 1: Phân tích 8 câu đầu của đoạn trích “Việt Bắc”.
I. Mở bài: Dẫn dắt và nêu vấn đề nghị luận, trích thơ. (Tham khảo mục 3)
II. Thân bài:
1. Khái quát
- TG, TP (nếu mở bài gián tiếp)
- Vị trí và nội dung đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của bài thơ, tái hiện lại khung cảnh
chia tay và tâm trạng của người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
- Vấn đề nghị luận: Việt Bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi
nghĩa, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đây đã lưu giữ nhiều kỉ niệm
giữa cán bộ cách mạng và đồng bào trong suốt 15 năm gắn bó (1940-1954) nên khi về thủ đô Hà
Nội sẽ rất khó để rời Việt Bắc mà không lưu luyến, day dứt hay nhớ nhung.
2. Phân tích đoạn thơ:

10
Mở đầu bài thơ “Việt Bắc” là cuộc chia tay đầy xúc động giữa những người dân tộc vùng
núi Việt Bắc với những chiến sĩ cách mạng trước khi lên đường về xuôi. Đoạn thơ là lời đối đáp
giưa người đi kẻ ở đầy tha thiết.
Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ chứa nhiều cảm xúc:
“Mình về mình có nhớ ta”
“Mình” là chỉ người ra đi-người chiến sĩ cách mạng, “ta” chính là người Việt Bắc. Câu hỏi
chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng về xuôi rồi còn có
nhớ đến người Việt Bắc hay không? Với cách xưng hô “mình-ta” đậm chất ca dao cùng với điệp
từ mình đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó thân thiết đầy yêu thương, làm cho nỗi nhớ càng trở
nên day dứt khôn nguôi.
Liên hệ với những câu ca dao:
- “Mình về mình có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
- “Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có nhớ về những tháng ngày cách mạng đầy
gian khổ nhưng cũng anh hùng:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mười lăm năm là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn bó keo sơn giữa người chiến sĩ
và người Việt Bắc. Đó là một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng nhau vượt qua biết
bao gian khổ. Từ “ấy” vang lên chứ tác giả không sử dụng từ “đó” như để làm tăng thêm ý nghĩa
của khoảng thời gian “mười lăm năm” đồng thời thể hiện sự trân trọng của tác giả với những ngày
tháng gắn bó. Những từ “thiết tha”, “mặn nồng” càng nhấn mạnh tình cảm gắn bó keo sơn giữa
người Việt Bắc và người cách mạng. Với cách sử dụng từ ngữ ấy, tác giả muốn nhấn mạnh hơn về
tình nghĩa thủy chung son sắt luôn hướng tới cách mạng, hướng tới những người chiến sĩ của
người dân Việt Bắc.
Câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ cách mạng:
“Mình về mình có nhớ không”
Vẫn là câu hỏi tu từ, vẫn là cách xưng hô “mình” nhưng đây là câu hỏi vang lên như một lời
nhắc nhở “có nhớ không”. Người Việt Bắc muốn nhắc nhở người chiến sĩ cách mạng về xuôi hãy
nhớ đến Việt Bắc, hãy:
“Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Người ở muốn nhắc nhở người đi đừng quên núi rừng nơi đây, đừng quên đi những tháng
ngày gắn bó khi người cách mạng và người Việt Bắc đã cùng chiến đấu, cùng nhau vượt qua bao
gian khổ. Khi nhìn thấy sông thì hãy nhớ đến nguồn, hãy nhớ đến sông núi Việt Bắc. Nhớ đến
những dòng sông cùng các chiến sĩ cách mạng chiến đấu. hay đó chính là lời nhắc nhở của người
Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng khi trở về xuôi nhìn thấy cảnh vật nơi phồn hoa đô thị
tươi đẹp ấy thì hãy nhớ đến con người Việt Bắc, nhớ đến những ngày tháng chiến đấu gian khổ
nơi núi rừng đầy hiểm trở, cheo leo. Điệp từ “nhìn” và “nhớ” dường như đã nhấn mạnh ý hỏi của
người ở lại đồng thời là mong muốn những người cách mạng luôn nhớ về nơi Việt Bắc. Tố Hữu
cũng đã có lần viết những ý thơ như thế:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng.”
Bốn câu thơ đầu tiên là lời của người Việt Bắc hỏi người cán bộ về xuôi. Với lối đối đáp
cách xưng hô “mình- ta”, điệp từ cùng với từ láy, đặc biệt là kết hợp với câu hỏi tu từ, tác giả đã

11
cho thấy được tình cảm gắn bó thiết tha, mặn nồng, thủy chung son sắt của người Việt Bắc. Qua
đó, ta có thể cảm nhận được phẩm chất tốt đẹp của con người nơi đây. Dù phải sống trong khó
khăn, đồi núi hiểm trở, thiếu thốn nhưng tình yêu của họ đối với người chiến sĩ là không hề thay
đổi, luôn luôn cồn cào, da diết và mãnh liệt.
Đoạn thơ không chỉ là lời của người Việt Bắc mà còn là câu trả lời của người cách mạng
dành cho Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Với đại từ nhân xưng “ai” phiếm chỉ, không rõ những lời tha thiết ấy là tiếng lòng của
người Việt Bắc vang vọng như muốn gọi người chiến sĩ ở lại, hay đó chính là tiếng lòng của
người chiến sĩ không muốn chia xa. Từ “tha thiết” như làm cho tiếng gọi đó vang vọng hơn, sâu
lắng hơn, làm cho ta cảm nhận được tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ cách mạng như vô
cùng sâu nặng. Những âm thanh ấy cứ quấn quýt, vương vấn theo từng bước chân người đi:
“Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi”
Từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” chính là để chỉ tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” là
trạng thái lưu luyến, day dứt, như còn lâng lâng một điều gì đó sâu sắc lắm trong tình cảm của
mình. Nó khiến cho tâm trạng của con người day dứt đến khó chịu .“Bồn chồn” là chỉ sự lo lắng,
chưa yên về một điều gì đó. ..Tất cả đã tạo nên tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng về xuôi
vẫn còn mang trong mình nỗi nhung nhớ, day dứt khôn nguôiChính sự lo lắng trong tâm trạng của
người cán bộ cách mạng khiến những bước chân ngập ngừng như không muốn rời đi.Người đọc
có thể dễ dàng cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với Việt Bắc cũng sâu nặng
không kém gì tình cảm của người Việt Bắc dành cho họ trước lúc chia xa.
Trong phút giây chia ly ấy, nếu tiếng ai là âm thanh mơ hồ thì hình ảnh chiếc áo chàm lại
cụ thể đến nao lòng:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
“Áo chàm” là màu áo nâu, là màu áo của người nông dân nghèo khổ, cực nhọc, vất vả
quanh năm suốt tháng lao động cần cù để phục vụ cho cách mạng. Hình ảnh hoán dụ “áo chàm”
chính là để chỉ người Việt Bắc, là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân nơi đây,
nghèo khổ mà nghĩa tình đằm thắm.Sắc áo chàm có thể nhờ mờ trong khói sương rừng núi nhưng
sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Những người Việt Bắc ra tiễn
những người cách mạng về xuôi trong một tâm trạng lưu luyến đầy ân tình. Từ “phân li” như thể
hiện buổi chia tay ấy như là sự chia cắt. Dường như họ không muốn rời xa nhau nhưng do hoàn
cảnh họ phải chia li, xa rời nhau mỗi người một nơi. Vì vậy, mọi lời nói tưởng như không đủ để
diễn tả những cảm xúc trong thời khắc này:
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Không phải không có gì để nói mà là có quá nhiều điều để nói, không thể nói hết và không
biết nói điều gì đầu tiên, từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó keo sơn, mười
lăm năm cùng nhau vượt qua bao khó khăn gian khổ tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều
điều để nói nhưng những lời nói ấy tại sao không thốt nên lời, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng mà
thứ trào ra chỉ có nước mắt của sự chia li. Không nói ra được họ chỉ biết cầm tay nhau, chỉ hành
động “cầm tay” thôi đã cho ta cảm nhận thấy tình yêu thương mặn nồng giữa họ. Hành động “cầm
tay” thay cho những lời nói yêu thương, những lời gửi gắm, tình cảm giữa họ dường như được
truyền hết qua hành động ấy. Đó còn là sự thể hiện tình cảm, tâm trạng chưa xa đã nhớ của người
chiến sĩ cách mạng và đó cũng chính là tiếng lòng của họ.

12
* Nghệ thuật:
Không chỉ thành công về nội dung, đoạn thơ còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối đáp,
cách xưng hô mình –ta, điệp từ, điệp ngữ cùng với hình ảnh hoán dụ, từ láy, ngôn từ bình dị, đậm
đà tính dân tộc,đoạn thơ và cả bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
* Đánh giá chung
Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu thương mà
người Việt Bắc và người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc”
của Tố Hữu mang lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Những ân tình ấy sẽ sống mãi trong
lòng người đọc hôm nay và mai sau.
III. Kết bài (xem bài Tây Tiến).
Đề số 2: Phân tích đoạn thơ sau:
“ Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
I. Mở bài:
Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một trong những nhà thơ trữ tình Cách mạng hàng đầu của
nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của
con người Cách mạng và cuộc sống Cách Mạng. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao trong sự nghiệp
sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Có thế nói, “Việt
Bắc” là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca,thế hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ
đối với căn cứ địa Cách Mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
“Mình đi,có nhớ những ngày
…….
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa ?”
II. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
( Tham khảo phần I)
2. Phân tích đoạn thơ:
- Sau cảnh chia tay đầy bịn rịn, luyến lưu trong những câu thơ mở đầu của bài thơ, người ở lại tiếp
nối lời của người ra đi bằng một loạt những câu hỏi. Những câu hỏi đó cất lên từ sự gợi nhắc
những kỉ niệm đầy xúc động, cụ thể, chân thực. Hỏi nhưng thực chất như những lời nhắc nhở
người đi về những năm tháng không thể nào quên.
- Người ở lại hỏi người đi vẫn bằng cách xưng hô mình- ta đầy ngọt ngào, cách xưng hô mà
người đọc bắt gặp rất nhiều trong những câu ca dao đối đaph giao duyên.( Liên hệ một số câu ca
dao: Mình về ta chẳng cho về/ Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ hoặc Qua đình ngả nón trông đình/
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu…)

13
- Những câu hỏi đã khơi gợi lại bao tháng ngày kháng chiến đầy gian khổ. Trước tiên là sự đối
mặt với thiên nhiên đầy khắc nghiệt. Thiên nhiên khiến con người gặp biết bao khó khăn, không
chỉ là núi cao, vực sâu như nhà thơ Quang Dũng đã từng miêu tả:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Thiên nhiên ấy là ‘mưa nguồn suối lũ”. Quên sao được những khi Thủy Tinh “đánh ghen”
làm nên mưa to lũ lớn, nhất là ở núi rừng Việt Bắc. Quên sao được hình ảnh mùa thu, những dòng
sông “lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa” đã từng được miêu tả trong “Người lái đò
sông Đà” của Nguyễn Tuân. Cũng chẳng quên được hình ảnh “ Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
trong “Tây Tiến” của Quang Dũng. Nét đặc trưng của thiên nhiên ấy còn cộng hưởng têm bởi “
những mây cùng mù” như càng tạo nên bao khó khăn, vất vả cho những ngày gian khổ của con
người.
- Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt,khó khăn của thiên nhiên, “mình và ta” còn phải đối
diện với cuộc sống thiếu thốn,đầy gian khổ “miếng cơm chấm muối”. Thiếu thốn là điều không lạ
với những con người đã từng trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp. Thiếu thốn về vật chất là
điều dễ hiểu khi cuộc kháng chiến mới bắt đầu đã gặp phải bao khó khăn. Thiếu ăn, thiếu mặc,
thiếu thuốc men đạn được…Hồ Chí Minh cũng đã từng tái hiện phần nào sự thiếu thốn đó trong
thơ của mình:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
( Tức cảnh Pác Bó)
Thế nhưng, dù khó khăn và thiếu thốn là thế, con người cách mạng càng bộc lộ ý chí, sự
kiên cường bởi họ mang trên đôi vai nhỏ bé của mình trọng trách với đất nước, với nhân dân.
Hình ảnh “mối thù nặng vai”, gợi liên tưởng đến “mối thù” sâu nặng của nhân dân đối với những
kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thờ , hình ảnh thơ còn là lời nhắc
nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, “mình và ta” đã cùng sát cánh bên nhau,
cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh
phúc,ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 – 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ
trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết
Tiếp nối mạch cảm xúc ấy, vẫn là những lời hỏi của người ở lại- người dân Việt Bắc nhưng
ẩn chứa đằng sau những ngôn từ bình dị là bao tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu thơ vẫn mang hình thức câu hỏi nhưng không nhằm để hỏi mà để thể hiện nỗi lòng
người ở lại. Rừng núi nhớ người hay chính là nỗi nhớ của những người dân Việt Bắc. Nhà thơ đã
sử dụng biện pháp hoán dụ– “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ “ai” là chỉ người
cán bộ về xuôi. Câu thơ nhằm nhấm mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân
VB đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ…. “Mình về” khiến núi rừng VB
bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi “trám bùi – măng mai” mà cũng
không có người thu hái. Với sự chân thành , người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật cảm
động và tha thiết.
Lời gợi nhắc vẫn tiếp tục được cất lên:
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.”

14
Lời nhắc nhở đầy cảm động khi nói tới hình ảnh những con người Việt Bắc. Phép tương
phản trong câu thơ thứ hai ( câu 8) đã trở thành nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con
người nơi đây. “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ,
buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khó, chất phác. Thế nhưng,
con người Việt Bắc lại luôn giữ lòng son, tấm lòng nghĩa tình, trung hậu, đầy yêu mến với những
chiến sĩ cách mạng. Người ở lại muốn nhắc người đi đừng quên những con người nơi đây, đừng
quên những ân nghĩa ân tình đã có. Đó là những tháng ngày họ đã kề vai, sát cách cùng chiến đấu:
từ những ngày kháng chiến chống Nhật đầy gian khổ đến những tháng ngày thành lập mặt trận
Việt Minh nhiều khó khăn, thử thách. Lời người ở lại như nhắn nhủ: đừng quên đi những năm
tháng kháng chiến dù có trở về với thành phố hòa bình. Cảm tưởng như, trong tâm trí của người ở
lại, từng tháng ngày ấy cứ lần lượt tái hiện như một thước phim quay chậm đầy nỗi lòng, tâm sự.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Chỉ với hai câu thơ,nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều, đặc
biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ “mình” quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành.
Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có
thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi
thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến
nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ?”. Ở nghĩa hẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về
xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: “Cán
bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ
những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp,vì độc lập tự do của dân tộc hay
không?”. Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi
người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại
lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con
người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
“Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.”
Ở câu thơ cuối của đoạn thơ, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự
kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện “cây đa Tân Trào”
(12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với
mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành quân đội Việt Nam- lực lượng chủ chốt đã làm nên
chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình “Hồng Thái” nơi Bác đã chủ trì cuộc
họp (8/1945) quyết định làm cuộc CMT8. Cũng chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc
kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội, có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố
Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng
thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc
chính là cái nôi của Cách Mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không ? Và liệu rằng cán
bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ ?”.
Không chỉ vậy, Tố Hữu đã rất sáng tạo khi đặt riêng hai danh từ chung, mái đình, cây đa bởi cách
sử dụng này còn gợi được những không gian tụ họp, hẹn hò, gần gũi, thân thiết với mỗi người,
khiến con người không thể nào quên.
3. Nghệ thuật:
Chỉ với 12 câu thơ, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, đưa người đọc
bước vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay trong khổ
thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập “mình đi – mình về”.
Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì “mình đi

15
– mình về” đều chỉ một hướng là về xuôi,về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 –
4/4 đều đặn, âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa,
rất phù hợp vối phong cách thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu. Hình ảnh thơ, ngôn ngữ thơ đều
thật mộc mạc, giản dị, quen thuộc mà hữu tình, giàu biểu cảm và mang tính biểu tượng sâu sắc.
4. Đánh giá
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã sống và hoạt động tại Việt Bắc, đã cùng
đồng chí, đồng bào, bộ đội trải qua những tháng ngày gian khổ mà hào hùng, vinh quang. Lời đưa
tiễn thiết tha, sâu lắng, bồi hồi trong lòng kẻ ở người về. Cảm xúc ấy là tiếng lòng của "mình - ta"
cũng là tiếng lòng của nhà thơ.
III. Kết bài
Đề số 3: Phân tích đoạn thơ sau:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
* Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm ( Tham khảo phần I)
* Phân tích đoạn thơ:
- Ý dẫn:
Bài thơ “Việt Bắc” triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ, người đi thật tự nhiên, khéo
léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết bao kỉ niệm ùa về. Kỉ niệm kết
nối kỉ niệm, kí ức gọi kí ức. Tất cả bỗng thức dậy và chồi nảy trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng
chừng không bao giờ vơi cạn. Kết nối những kỉ niệm, kí ức ấy chính là sợi nhớ, sợi thương. Chỉ
riêng đoạn thơ câu này, từ “nhớ” đã điệp lại bao lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì
nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ
niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp
dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
(Chế Lan Viên, “Tiếng hát con tàu”)
- Phân tích:
Chia xa mảnh đất mình từng gắn bó, ai mà chẳng nhớ chẳng thương. Thế nhưng hiếm có thi
sĩ nào mang trong tim nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải, cháy bỏng khi dã từ chiến khu Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu

16
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Nhớ người yêu là nỗi nhớ luôn thường trực da diết khôn nguôi. Nếu ai đã từng yêu, đang
trong tình yêu hẳn có thể cảm nhận được nỗi nhớ này như thế nào. Vậy mà, Tố Hữu lại dùng nỗi
nhớ này để nói đến tình cảm của mình với con người nơi đây. Điều này cho thấy, tình cảm của
nhà thơ dành cho con người Việt Bắc sâu nặng biết dường nào. Nỗi nhớ trào dâng, da diết khôn
nguôi, như những người yêu nhau nhớ nhau vì sắp phải rời xa nhau. ( Liên hệ đến những câu ca
dao nói về nỗi nhớ: “ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than” hoặc: “
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh/ Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi”- Xuân Diệu).Nỗi
nhớ như nhớ “người yêu” ấy được thể hiện qua những hình ảnh thiên nhiên đậm chất Việt Bắc.
Đó là hình ảnh của ánh trăng trên đỉnh núi mờ sương và nắng chiều vắt ngang lưng... Một bức
tranh thiên nhiên với hai miền sáng tối vừa đẹp, trữ tình mà lại dạt dào cảm xúc. Nỗi nhớ được lặp
lại nhiều lần khi : “Nhớ gì như nhớ…” cho thấy sự da diết, sâu đậm , nỗi nhớ bao trùm cả cảnh
vật thiên nhiên.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống của con người Việt Bắc hiện lên trong thơ rất chi tiết. Đó
là hình ảnh khói mờ sương mỗi khi chiều xuống, từng bản làng chìm trong sương khói. Đặc biệt
hai chữ Người thương hiện lên mới chân tình, da diết làm sao. Đây chính là những con người hiền
lành, chân chất đã yêu thương, cưu mang che chở cho cán bộ suốt những năm tháng gian khó.
Một tình cảm không có gì có thể thay thế và đầy sự biết ơn, quý trọng. Đó có thể là cô em gái thân
thiết, là người chị bao bọc, chở che, là người mế dân tộc đáng kính trọng. Hình ảnh thơ gợi tả tinh
tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những người dân nơi chiến khu Việt Bắc.
Không quản khó nhọc gian nan, những con người Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán
bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình
quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói
“người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương.
Giống như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng khắc sâu:
"Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau mế thức một mùa dài
Con với mẹ không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi".
( Chế Lan Viên- “Tiếng hát con tàu”)
Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người
đi:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.”
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu
trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm,
đong đầy bao yêu thương. Những cái tên: Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ
là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở
thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có thể quên được. Biết bao những xúc
động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ “đắng cay, ngọt bùi”
cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ
không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.

17
Như để trả lời câu hỏi tha thiết của những người ở lại “ Mình đi có nhớ những ngày”, người
đi đã khẳng định:
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…”
Nỗi nhớ được lí giải một cách chân tình, thấm thía. Họ đã gắn bó bên nhau suốt mười lăm
năm, từng chung vai sát cánh, từng sẻ chia bao gian lao, vất vả...để viết nên những trang sử hào
hừng, oanh liệt. Những ngày tháng ấy làm nên sự thấu hiểu, nghĩa tình và chính là nguyên nhân
làm nên nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với người ở lại. Nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi
không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả
những gì thuộc về Việt Bắc. Nhớ những ngày cùng nhau chia sẻ khó khăn gian khổ:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng cảnh và người Việt Bắc đẹp và tình nghĩa chan hòa. Hình
ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ
cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc
và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà
người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp. Nhớ tình
cảm của những người mẹ Việt Bắc:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh chọn lọc “Người mẹ nắng cháy lưng...” gợi người đọc liên tưởng đến sự tần tảo
chắt chiu, cần cù lao động của bà mẹ chiến sĩ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ,
cán bộ cách mạng. Đó là hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp, cái ân tình trong cuộc sống kháng chiến
không thể phai nhòa trong kí ức của người về xuôi.
Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả,
tâm trí họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương những nếp sống yên bình thơ mộng của
cuộc sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng đến lớp học i tờ- hình ảnh cảm động của
phong trào Bình dân học vụ xóa nạn mù chữ ngay những ngày đầu kháng chiến khi được học con
chữ Bác Hồ. Cán bộ cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng kháng chiến mà còn gieo chữ
xuống bả, đem ánh sáng văn hóa xuống làng. Các lớp bình dân học vụ, xóa mù chữ được mở ra
khắp các bản làng. Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục chân trời tri
thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể.
"Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"
Tinh thần trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”
thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người.
Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là những âm thanh
quen thuộc thân thương:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm, nện cối đều đều suối xa”
Đọc hai câu thơ thấy văng vẳng những khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở
bức họa bình dị mà thơ mộng. Âm thanh gợi một không gian êm ả, thanh bình. Tiếng giã gạo đêm
khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi rừng xa lại gợi cái
trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ rứt mà những âm thanh ấy cứ ngân vang mãi trong
lòng người chia xa Việt Bắc. Tất cả tạo nên một bản nhạc riêng khó lẫn của núi rừng Việt Bắc, là
âm thanh tiêu biểu cho Việt Bắc, một bài ca trong trẻo, tươi vui, mà không một cuộc sống khổ ải
nào có thể dập tắt được.

18
* Nghệ thuật :
 Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ của ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và
người ở lại đối đáp với nhau. Nhưng ở đây, cấu tứ đó được thể hiện một cách gián tiếp qua
việc sử dụng từ “mình, ta” trong lời của người cán bộ cách mạng.
 Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Nhà thơ rất chú ý sử
dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp
điệu uyển chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư.
 Về ngôn ngữ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị, mộc mạc
nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà
dạt dào tình nghĩa.
* Đánh giá
Đây chỉ là một đoạn thơ trong tổng số 150 câu của bài thơ nhưng những thành công của nó
về nội dung và nghệ thuật có thể xem là tiêu biểu cho giá trị của cả bài thơ. Mỗi câu thơ, lời thơ
của đoạn thơ này một khi đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc sẽ tạo nên được
những rung động, những nghĩ suy để nhớ mãi lời nhắn nhủ về ân tình thủy chung, đoàn kết gắn bó
giữa cách mạng và nhân dân như ý nghĩa sâu xa của thông điệp mà Tố Hữu muốn nhắn gửi trong
bài thơ này.
Đề số 4:
Cảm nhận đoạn thơ sau:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
* Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm ( Tham khảo phần I)
* Phân tích đoạn thơ:
Mỗi bài thơ của Tố Hữu đều gắn với những sự kiện lịch sử, hoặc là chặng đường của cách
mạng Việt Nam những năm tháng kháng chiến. Bài thơ “Việt Bắc” được ra đời nói về sự nhớ
nhung khi xa cách của quân và dân vì moi người đã có khoảng thời gian dài chiến đấu bên nhau.
Trong bài thơ, tình quân dân thắm thiết keo sơn được thể hiện rất sắc nét qua sự lưu luyến kẻ ở
người đi. Kẻ ở chính là những người dân sinh sống tự bao đời nay ở Tây Bắc, còn người đi là
những người lính cụ Hồ đã hoàn thành nhiệm vụ, kháng chiến thắng lợi và đến lúc trở về với quê
nhà. Khi xa cách, tâm trí của cả “mình” và “ta” đều là sự nhung nhớ, khắc khoải không nguôi.
Những kỷ niệm hiện về như những thước phim quay chậm:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào. Tố Hữu sử dụng lối xưng
hô mình- ta là cách gọi hết sức gần gũi, thân mật để thể hiện sự gắn kết của quân và dân như
người một nhà. Người chiến sĩ trở về quê hương nhưng trong lòng vẫn bâng khuâng xao xuyến,
không biết liệu rằng những người dân nơi đó có nhớ đến mình nữa không? Bởi lẽ trong lòng
những người chiến sĩ đã coi dân như anh em ruột thịt, như chính một phần cuộc sống của mình.
Khi xa cách, trong lòng người cứ mãi khắc khoải chờ mong, tâm trí cứ hiện về với nỗi nhớ cuộn

19
dâng. Câu thơ mang dáng dấp một câu hỏi nhưng lại không phải dùng để hỏi. Để rồi đến câu thơ
tiếp theo, tác giả lại trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ của mình. Tây Bắc hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ
là hình ảnh của thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh vật và con người xuất hiện cung một lúc,
giao hoà và quyện vào nhau tạo nên bức tranh thiên nhiên sống động. “Hoa” là biểu tượng đẹp đẽ
của thiên nhiên, con người hiện lên với sư chăm chỉ cần mẫn cũng đẹp tựa như hoa. Sự sắp xếp
thật khéo léo, từng câu chữ như đan quyện vào nhau và chúng ta cũng không biết rằng hoa ở đây
đẹp hay con người ở đây mang vẻ đẹp tuyệt vời sánh với hoa. Bức tranh thiên nhiên của núi rừng
dần dần hiên ra dưới ngòi bút tinh tế của nhà thơ:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
“Hoa chuối” là hình ảnh tiêu biểu cho mùa Đông. Nói đến mùa Đông, người ta nghĩ ngay đến
sự lạnh giá và cô đơn; là nỗi buồn hiu quạnh của một màu trắng băng tuyết bao phủ.
Nhưng mùa Đông trong tâm trí nhà thơ về núi rừng Tây Bắc nơi ông từng sống lại có
những khác biệt. Giữa mùa Đông lạnh giá của núi rừng, những bông hoa chuối đỏ thắm rực rỡ
như những ngọn lửa sưởi ấm không gian nơi đây. Dường như mùa Đông không còn lạnh lẽo, băng
giá mà thay vào đó là sự ấm áp, tươi đẹp của sắc chuối rừng. Gam màu chủ đạo trong câu thơ là
màu “đỏ tươi”- một màu sắc rất đậm, rất sáng, và rất ấm- gợi cảm giác gần gũi ấm cúng cho người
đọc. Thử tưởng tượng mà xem, núi rừng mùa Đông là màu xanh xám của cây lá, màu trắng đục
của gió sương, nổi bật trên nền ấy là những bông hoa chuối đậm sắc ngút ngàn. Chỉ bằng vài nét
chấm phá mà nhà thơ đã tài tình vẽ lên một bức tranh mùa Đông đầy tình, đầy thơ mộng.
Không chỉ có thiên nhiên, con người cũng xuất hiện với một tư thế dao gài thắt lưng”.Con
người xuất hiện với sự lao động cần cù, cần mẫn. Giữa núi đồi trùng điệp hùng vĩ, con người nhỏ
nhắn nhưng lại kiên trì lao động, ánh lên hào quang của vinh quang. Người dân đi rừng luôn có
một con dao thắt bên lưng, và khi ánh nắng chiếu xuống, dao phản chiếu lại màu nắng khiến
không gian “ánh” lên màu rực rỡ và ấm áp. Giữa giá rét mùa Đông, thiên nhiên dẫu có khắc
nghiệt dường nào thì con người vẫn hăng say lao động. Đây là một nét đẹp tinh tế của con người
mà nhà thơ Tố Hữu đã khéo léo ghi lại trong những câu thơ của mình.
Dường như những hồi ức tươi đẹp của núi rừng đại ngàn đang nối tiếp nhau kéo về, gợi lên
những miền nhớ như hiển hiện ngay trước mắt chúng ta:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Khép lại những tháng ngày mùa Đông là bức tranh tươi đẹp của mùa Xuân hiện lên. Dưới
ngòi bút tài hoa của người lính Tố Hữu, mùa Xuân Tây Bắc hiện lên thật đẹp làm xao xuyến lòng
người. Mùa Xuân là mùa của sinh sôi nảy nở, mùa của sự sống căng tràn biếc xanh trên từng lộc
lá. Trong miền ký ức yêu thương của người lính, mùa xuân là hình ảnh của những đóa hoa mơ hoa
mận bung nở trắng rừng. Không giống như miền Nam với hoa mai vàng rực đón Tết, cũng chẳng
phải đặc trưng bởi cánh đào đỏ thắm của vùng đồng bằng. Nơi đây khi mùa Xuân về là một màu
trắng tinh khôi lan tỏa khắp núi đồi sông suối.
“Nở trắng rừng” là cụm từ miêu tả trực tiếp cảnh sắc của mùa Xuân miền núi. Tấm áo trắng
tinh khôi phủ kín nơi nơi bởi sắc mơ ngập tràn. Nhà thơ như đưa người đọc tới một khung cảnh
thần tiên nơi hạ giới, mọi thứ đẹp tươi căng tràn. Hình ảnh này cũng đã một lần nữa xuất hiện
trong thơ Tố Hữu khi nhớ về những tháng ngày đón Bác về nước sau thời gian ba mơi năm bôn ba
tìm đường giải phóng nhân dân:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.”

20
Và trong bộ tứ bình về Việt Bắc, sắc trắng ấy cũng làm xao xuyến lòng người về xuôi. Giữa
không gian tuyệt vời ấy, con người lại hiện lên trong dáng vẻ lao động hăng say, miệt mài. Động
từ “chuốt” được sử dụng trong câu thơ mang ý nghĩa rất đặc biệt. Nó là sự trau chuốt mượt mà
đến độ gần như tuyệt đối của sợi giang mà con người nơi đây đang đan nón. Nó thể hiện sự tỉ mỉ
đến từng chút từng chút của con người trong công việc. Người dân nơi đây dù là làm bất cứ việc
gì cũng đều hăng say và cẩn thận.
Chúng ta cảm nhận sâu sắc nét đẹp của thiên nhiên nơi đây, đồng thời thấy được tinh thần lao
động và nét đẹp rạng ngời của con người Tây Bắc. Có lẽ chính vì thế mà khi xa cách, những
người lính không thể nào không nhớ nhung tha thiết.
Nếu mùa Đông có sắc đỏ hoa chuối, mùa Xuân mang sắc trắng hoa mơ thì khi bước sang mùa
hạ, chúng ta được đắm mình trong những rực vàng mênh mông.
Mùa Hạ góp phần cho bức tranh thiên nhiên từ màu vàng cây phách và tiếng ve râm ran trưa
hè:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
Mùa hè khắc sâu trong tâm trí nhà thơ bởi một màu vàng óng, màu của lá phách rừng bạt ngàn
như dải lụa. Tiếng ve kêu râm ran trog buổi trưa hè là âm thanh sôi động đăc trưng; dường như
tiếng ve kêu tới đâu thì rừng phách trải vàng đến đó. Có lẽ bất cứ ai khi đứng trước khung cảnh
này đều cảm thấy cuộc đời thật đáng sống, đáng nhớ. Mọi thứ đã trở thành quen thuôc với những
người lính, giống như nơi đây chính là quê hương thứ hai vậy. Chẳng thế mà khi phải rời đi, trong
lòng mỗi người đều còn nặng trĩu những tâm tư. Cũng bởi vì thế, nên người ta thường hay nói
rằng, miền đất xa lạ lúc đầu chỉ là nơi xa lạ; nhưng khi gắn bó một thời gian thì tình cảm bỗng
dưng kết nối lạ kỳ:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn”.
Những người chiến sĩ đã có “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” cùng đồng bào Tây Bắc;
quãng thời gian không quá dài nhưng không hề ngắn, đủ để mãi mãi nhớ về nhau như tình thân,
như máu thịt. Không chỉ là sự gắn bó của dân và quâ, không chỉ là tình cảm của chiến sĩ dành cho
con người nơi núi rừng mà thiên nhiên cũng trở thành tri kỷ của họ. Họ khắc ghi từng dấu ấn,
từng nét đẹp của bức tranh thiên nhiên các mùa, gòi ghém cẩn thận và khoá lại nơi tận cùng của
trái tim mình.
“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu ở những câu thơ trên, Tố Hữu nói với chúng ta về những ngày Đông, ngày Xuân và ngày
Hạ; thì đến với câu thơ này, ông nói về đêm Thu với những nét tinh tế hài hoà. Sẽ thật thiếu sót
nếu bức tranh tứ bình thiếu đi cảnh Thu rừng núi, bởi đây là nhân tố quan trọng gắn kết cái hồn
của cả đoạn thơ. Mùa Thu được nói đến là một đêm trăng sáng, không gian thanh tĩnh với hơi thở
của núi rừng trong đêm. Ánh trăng “rọi” xuống cánh rừng, xuyên qua từng tán cây, kẽ lá để chiếu
soi những luồng sáng xuống mặt đất, mặt nước. Động từ “rọi” tạo cảm giác dường như ánh trăng
đang cựa mình chuyển động, hoà vào với không gian của núi rừng để bừng sáng mọi thứ xung
quanh. Đâu đó có tiếng hát văng vẳng trong đêm thâu với những câu từ đầy ân tình ân nghĩa sâu
nặng. “Ai” là đại từ ngầm chỉ một cô gái nào đó của bản làng hay là từ chỉ chung cho tất cả con
người của nơi này? Tiếng hát là những tình cảm yêu thương chân thành về tình yêu giữa những
con người, là sự thuỷ chung son sẳt một lòng luôn hướng về nhau. Có lẽ tiếng hát đó chính là
đang nói hộ lòng tác giả- một người lính thương nhớ nơi kháng chiến trường kỳ, nơi gắn bó với
đồng bào dân tộc. Ánh trăng hoà bình là ánh trăng của tự do, của chiến thắng, độc lập dân tộc; là
nét đẹp vẹn nguyên mà tất cả mọi người đều khao khát, kiếm tìm và bảo vệ. Câu thơ như một nét

21
bút mang phép màu, truyền thần cho toàn bộ bức tranh khiến mọi thứ đều trở nên kỳ diệu, lung
linh. Phải rất yêu thương mảnh đất Tây Bắc, rất thương nhớ những con người nơi đây thì nhà thơ
mới viết nên được những câu thơ chứa chan tình cảm sâu nặng đến vậy.
* Nghệ thuật
- Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:
Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống: Cấu tứ bài thơ là cấu tứ trong ca dao
với hai nhân vật trữ tình ta và mình.
Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, cân xứng, kết hợp hài hòa, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.
Ngôn ngữ bằng lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, mộc mạc, giàu hình ảnh.
Sử dụng nhuần nhuyễn phép trùng điệp của văn học dân gian: mình về, có nhớ, nhớ sao...
- Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,...
Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình, ta, lời lẽ giàu tình
cảm.
* Đánh giá:
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và
khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh
hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết,
sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào.
Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc,
những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng,
lòng yêu nước sâu sắc.
Đề 5: Phân tích đoạn thơ sau:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...”
* Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm ( Tham khảo phần I)
* Phân tích đoạn thơ:
- Ý dẫn: Trong mạch hồi tưởng của tác giả, những kỉ niệm thời kháng chiến cứ dần dẩn hiện lên
trong tâm trí nhà thơ trong đó có nỗi nhớ về những ngày tháng cách mạng còn trong trứng nước,
về con người Việt Bắc ân tình, thủy chung
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”
Làm sao quên được cái cảnh càn quét, săn lùng của kẻ thù như một bầy chó săn khát máu.
Đã bao lần chúng tắm nhân dân ta trong những bể máu, trong tiếng kêu khóc đau thương dậy cả
đất trời. Quân giặc tìm mọi cách đàn áp, khủng bố hòng làm nhụt chí vùng lên tự giải phóng của
nhân dân ta.
Những âm mưu nham hiểm và dã tâm của kẻ thù không thể cản trở được lòng yêu quê
hương đất nước của nhân dân ta. Trong giờ khắc quyết định số phận của mình, quân dân ta đã
vùng lên. Không chỉ con người mà cả rừng núi cũng chung sức đánh Tây. Thiên nhiên đất trời
Việt Bắc đã trở thành những người đồng đội, những chiên sĩ anh hùng trong cuộc chiến:
“Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Những dãy núi trùng điệp dàn trải như thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm che chở bộ đội,
dân quân, du kích,… Núi rừng vừa bao vây quân thù, vừa chở che bộ đội. Núi rừng vốn là những

22
vật vô tri, song dưới con mắt của nhà thơ, trong cuộc kháng chiến trường kì toàn dân, toàn diện,
núi rừng thiên nhiên cũng trở nên có ý chí, có tình người. Chúng cùng quân dân ta tham gia chiến
đấu. Tư thế hiên ngang kiêu hùng của những vách núi làm cho kẻ thù bất lực. Cái dáng ngay
thẳng của tre nứa đầy dũng khí đâm thẳng lên trời xanh như thách thức kẻ thù. Với nghệ thuật
nhân hóa, Tố Hữu đã biên núi rừng, thiên nhiên thành những người lính anh dũng kiên cường:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng”.
Khung cảnh chiến đấu vừa hào hùng vừa thơ mộng, đất trời bao la chìm trong sương mù
dày đặc. Màn sương ấy như che chở cho quân ta và cản bước quân thù. Cả núi rừng Việt Bắc giờ
đây đang cùng chung một nhịp đập trái tim. Tât cả đang hướng về cuộc chiến đấu , hướng về sứ
mệnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương yêu dấu. Cụm từ “cả chiến khu một lòng” đã nhấn mạnh
tình đoàn kết quân dân, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả bừng lên ngọn lửa căm
hờn, ngọn lừa hừng hực tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Qua câu thơ này, Tố Hữu thế hiện
lòng tự hào trước sức mạnh của dân tộc ta. Khi Tổ quốc, quê hương cần, tất cả thiên nhiên và con
người đều sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh.
Sáu câu thơ đã phần nào thể hiện lòng yêu mến, tự hào và cảm phục của nhà thơ trước
mảnh đất và con người Việt Bắc nói riêng cũng nhân dân Việt Nam nói chung.
“Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà.”
Trong đoạn thơ này tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, hỏi mà như không hỏi. Đọc qua thôi
chúng ta cũng cảm nhận nỗi nhớ của người đi và kẻ ở. Các chiến sĩ cách mạng về xuôi không
nguôi nhớ những người dân Việt Bắc đã bao bọc, cưu mang, che chở trong những năm gian khó.
Và ngược lại, những con người Việt Bắc cũng không thể quên những người chiến sĩ cộng sản gan
dạ, dám hi sinh vì tổ quốc. Sau câu hỏi tu từ là đại từ “Ta”, một đại từ thể hiện sự rộng lớn, đại
diện cho một thế hệ, và khẳng định nỗi nhớ của Ta – những người chiến sĩ về xuôi dành cho đồng
bào Việt Bắc là lớn lao, là cụ thể. Nhớ từ Phủ Thông đến đèo Giàng, từ sông Lo đến Phố Ràng, từ
Cao lạng sang Nhị Hà. Nỗi nhớ trải dài khắp miền Việt Bắc, cho thấy một tình cảm thâm sâu và in
đậm trong trí nhớ.
Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân cùng ý chí quyết chiến quyết thắng đã tạo nên sức
mạnh của nhân dân ta, làm nên những chiến công anh hùng. Hàng loạt những địa danh được nhắc
tới. Mỗi nơi đều gắn với một thắng lợi vinh quang. Đây Phủ Thông, kia đèo Giàng, rồi những
trận thủy chiến trên sông Lô… Cuộc kháng chiến đã nổ ra khắp mọi nơi. Những chiến thắng đó
không những trải dài theo chiều rộng không gian mà còn trải cả trong chiều dài nỗi nhớ. Nhà thơ
đặt câu hỏi, nói đúng hơn là người ở lại hỏi người ra đi: “Ai về ai có nhớ không?”. Người ra đi
làm sao mà quên được những trận đánh, những chiến công ấy bởi trong những vinh quang đó có
máu của đồng đội, bạn bè. Nhớ về những chiến công cũng là tường nhớ về những người anh hùng
đã ngã xuống để hôm nay, đồng đội, bạn bè và con cháu được sống và được tự hào về thắng lợi,
về sức mạnh anh hùng của dân tộc. Bằng biện pháp liệt kê, nhà thơ đã nhắc lại những chiên công
hào hùng của quân và dân ta. Thật tự hào và đáng trân trọng xiết bao.
* Nghệ thuật:
Chỉ với một đoạn thơ ngắn, Tố Hữu đã tái hiện được vẻ đẹp anh hùng của nhân dân, núi
rừng Việt Bắc nói riêng và sức mạnh anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung. Sức mạnh của
khối đoàn kết cộng đồng chính là sức mạnh làm nên chiến thắng. Thể thơ lục bát, nhịp điệu trầm
hùng, uyển chuyển càng làm bài thơ thêm trang trọng, giàu chất hồi tưởng. Bài thơ cũng chính là

23
"cái tôi trữ tình”, là tấm lòng thi sĩ hướng về con người, đất trời Việt Bắc – cái nôi của cách
mạng Việt Nam.
* Đánh giá
Qua đoạn thơ này, chúng ta có thể phần nào hiểu được Tố Hữu - một nhà thơ của lí tưởng
cách mạng. Cái tôi của Tố Hữu luôn hài hòa với cái ta chung của dân tộc. Vì thế, đoạn thơ nói
riêng, cả bài Việt Bắc nói chung mang âm hưởng sử thi khá đậm nét. Và đây cũng chính là một
phần tiêu biểu của một diện mạo thơ riêng - diện mạo thơ Tố Hữu vừa giàu chất lí tưởng vừa ngọt
ngào tha thiết và thấm đẫm chất dân tộc.
Đề số 6: Phân tích đoạn thơ sau:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
….
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
* Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm ( Tham khảo phần I)
* Phân tích đoạn thơ:
Cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến toàn dân. Các tầng
lớp nhân dân bất phân già trẻ, gái trai, lớn bé đều tham gia kháng chiến. Trong đó, nổi bật nhất là
hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ. Người lính thời chống Pháp đã trải qua biết bao nhiêu hi sinh gian khổ
nhưng rất hùng tráng và đầy lạc quan.
Nếu như ở những đoạn thơ trước, Tố Hữu mang đến cho người đọc vẻ đẹp của tình nghĩa
quân dân qua những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó. Thì ở đoạn thơ này, nhà thơ đã đột ngột chuyển
dòng. Không còn những dòng thơ ngọt ngào như ca dao nữa mà đoạn thơ này đã mang âm hưởng
của cảm hứng sử thi hùng tráng. Đó là những hình ảnh gợi ra ấn tượng chung về sức mạnh của
dân tộc trong kháng chiến, là hình ảnh của những đoàn quân ra trận vô tận điệp trùng, là hình ảnh
hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân dân. Từ hình ảnh những đoàn dân công, là hình ảnh những
đoàn xe cơ giới trên đường ra trận làm bừng sáng những đêm kháng chiến. Đó là khí thế của "40
thế kỷ cùng ra trận" ngời sáng trong trận chiến sinh tử với kẻ thù.
Hình ảnh hào hùng của đoàn quân ấy được thể hiện trong hai câu đầu của đoạn thơ:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
Hai từ láy "điệp điệp" và "trùng trùng" đi liền nhau ở câu thơ có sức gợi tả, vừa gợi lên hình
ảnh của một đoàn quân đông đúc, vừa gợi lên sức mạnh, khí thế hào hùng của một đoàn quân.
Đoàn quân ra mặt trận hùng tráng, mang cả sức mạnh của lòng yêu nước, của lí tưởng cách mạng,
khát khao chiến đấu và chiến thắng quân thù. Chúng ta có thể cảm nhận được lịch sử không chỉ
còn ở trên trang thơ nữa mà chúng ta như đang hòa mình vào đoàn quân ấy. Không khí của câu
thơ khiến ta hồi tưởng lại hào khí Đông A ngút trời:
"Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu"
(Phạm Ngũ Lão)
Nhớ ngày 22.12.1944, tại cây đa Tân Trào, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã làm lễ xuất quân
cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Tiền thân của QĐND Việt Nam). Khi ấy, đội
quân mới chỉ có 34 người. Vậy mà mấy năm sau từ 34 người với trang bị vũ khí thô sơ, quân đội
ta đã phát triển thành tinh nhuệ với "điệp điệp trùng trùng". Điệp ngữ "điệp điệp trùng trùng" gợi
lên sự đông đảo, lớn mạnh, đoàn quân như trải dài vô tận, vươn ra khắp núi rừng Việt Bắc. Sự
tinh nhuệ ấy là sức mạnh vô địch chứng tỏ sự trưởng thành của quân dân ta, đồng thời cũng cho
thấy, quân đội ta đã thực sự lớn mạnh cả về chất và lượng, có thể đương đầu với mọi kẻ thù to
lớn. Tác giả sử dụng nghệ thuật tách từ "trùng điệp" thành hai từ láy trùng trùng điệp điệp để ghi

24
lại ấn tượng về những cuộc hành quân không nghỉ của một đoàn quân đông đảo như trải dài vươn
rộng trong khắp núi rừng Việt Bắc.
Câu thơ thứ hai đưực ngắt theo nhịp 4/4: "Ánh sao đầu súng / bạn cùng mũ nan" càng làm tăng
thêm vẻ đẹp của người lính - một vẻ đẹp vừa mang tính lãng mạn vừa mang tính hiện thực sâu
sắc. Hình ảnh "Ánh sao đầu súng" có thể là hình ảnh ánh sao trời treo trên đầu súng của những
người lính trong mỗi đêm hành quân như "Đầu súng trăng treo" trong bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu; "ánh sao đầu súng" ấy cũng có thể là ánh sáng của ngôi sao gắn trên chiếc mũ nan của người
lính, ánh sáng của lí tưởng cách mạng soi cho người lính bước đi, như nhà thơ Vũ Cao trong bài
Núi đôi đã viết:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”
Nhà thơ đã dùng thước đo vũ trụ để đo tầm vóc của người chiến sĩ cách mạng. Những
người chiến sĩ đang hành quân ra trận. Đó là âm hưởng của những chữ "đi", "điệp điệp", "trùng
trùng". Từ hình ảnh ấy Tố Hữu như dựng lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của những đoàn binh ra
trận mà như một dải ngân hà lấp lánh đang cuồn cuộn đổ về phía tiền phương.
Trong bức tranh tổng hợp về sức mạnh của dân tộc ta trong kháng chiến, Tố Hữu còn dùng
một màu sáng, một màu sáng chói lóa để làm bừng lên vẻ đẹp hùng vĩ của cuộc chiến tranh nhân
dân, dù chỉ qua một chi tiết về đoàn dân công. Góp phần vào sự hào hùng của cuộc kháng chiến
chống Pháp của dân tộc ta có cả một tập thể quần chúng nhân dân tham gia kháng chiến. Họ là
những "dân công đỏ đuốc từng đoàn" tải lương thực, súng đạn để phục vụ cho chiến trường. Hình
ảnh của họ cũng thật đẹp, thật hào hùng và đầy lạc quan không kém những người lính:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Dấu chân nát đá, muôn tàn lửa bay”
Bằng một cách nói cường điệu "dấu chân nát đá ", nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh yêu nước,
yêu lí tưởng cách mạng, ý chí quyết tâm đánh thắng quân thù của người nông dân lao động.
Người nông dân lao động (lực lượng nòng cốt của cách mạng) là lực lượng góp phần rất lớn để
đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn sau này - Họ là những người nông dân
đôn hậu, chất phác, lớn lên từ bờ tre, gốc lúa nhưng họ đi vào cuộc kháng chiến với tất cả những
tình cảm và hành động cao đẹp, họ bất chấp những hi sinh, gian khổ, chấp mưa bom bão đạn của
quân thù, đạp bằng mọi trở lực để đi theo tiếng gọi của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng như
nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nói trong bài Đất Nước:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.”
Hai hình ảnh "dấu chân nát đá" và "muôn tàn lửa bay" đã thể hiện cái khí thế hào hùng đó của
nhân dân.
Dù có trải qua bao nhiêu gian khổ, có nghìn đêm đi trong "thăm thẳm sương dày" nhưng niềm
lạc quan tin tưởng vào ngày mai thắng lợi vẫn sáng ngời:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tác giả sử dụng những từ chỉ số nhiều "nghìn đêm" kết hợp với các từ láy thăm thẳm để
khắc họa những khó khăn gian nan của kháng chiến nhưng với sức mạnh và lòng quyết tâm,
những đoàn xe vận tải vẫn vượt qua đêm tối, đèo cao mây mù, sương dày để vận chuyển vũ khí
lương thực tới tiền tuyến. Biện pháp so sánh phóng đại "đèn pha bật sáng như ngày mai lên" vừa
thể hiện khí thế sôi nổi, hào hùng, vừa bộc lộ niềm vui sướng hi vọng, tin tưởng vào tương lai tất
thắng.
* Nghệ thuật:

25
Tám câu thơ trên sử dụng nhiều từ láy, nhiều hình ảnh so sánh phóng đại, sử dụng một loạt
những từ chỉ số nhiều, những hình ảnh giàu sức gợi, âm điệu và nhịp điệu thơ khoẻ khoắn, dồn
dập đã tái hiện sự hùng tráng, khí thế sôi nổi của Việt bắc trong kháng chiến. Sự hào hùng ấy biểu
hiện rõ trên con đường Việt Bắc trải dài bất tận, có sự hoà hợp tiếp nối của mọi lực lượng từ bộ
đội du kích, dân công đến những đoàn xe vận tải. Con đường đi đến tiền tuyến là con đường đến
chiến thắng.
* Đánh giá
Tóm lại, chỉ với những câu thơ trên đã cho ta thấy được một bức tranh "Việt Bắc ra quân"
thật đẹp với niềm vui chiến thắng của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến chống thực
dân pháp gian khổ rất hoành tráng, đầy hào khí. Đoạn thơ đã bộc lộ niềm tự hào sâu sắc của nhà
thơ về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dân tộc. Đoạn thơ mang âm điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ,
sử dụng nhiều hình ảnh phóng đại kết hợp thể thơ truyền thống cho thấy đây là đoạn thơ tiêu biểu
góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm cũng như cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố
Hữu.

26

You might also like