You are on page 1of 44

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

PHẦN MỞ BÀI. HƯỚNG DẪN MỞ BÀI THƠ TÂY TIẾN


I. TÌM HIỂU CHUNG THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
1. Tác giả Quang Dũng
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc
- Hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa.
- Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Mây đầu ô, Thơ văn Quang Dũng, truyện ngắn Mùa hoa gạo.
* Nhận xét về nhà văn Quang Dũng:
- Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội khẳng
định: “Quang Dũng là một nhà thơ của Hà Nội, một nhà thơ của Việt Nam, một nhà
thơ của thời đại”.
- Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận xét: “Quang Dũng cũng là một cây bút năng
nổ”.
2. Tác phẩm thơ Tây Tiến
a) Hoàn cảnh sáng tác:
- Quang Dũng tham gia đoàn quân Tây Tiến và làm đại đội trưởng từ năm 1947 đến
cuối năm 1948 thì chuyển đơn vị khác. Trong đêm liên hoan mừng công tại Phù Lưu
Chanh (Hà Tây), ông viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”, sau đổi lại là “Tây Tiến” in trong
tập “Mây đầu ô” (1986).
- Binh đoàn Tây Tiến (sau này là trung đoàn 52), thành lập từ đầu 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và
Tây Bắc Bộ. Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng gồm Hòa Bình Sơn La, Lai
Châu, miền tây Thanh Hóa và Sầm Nưa (Lào). Đó là vùng núi hoang vu, hiểm trở,
nhiều thú dữ.
- Thành phần binh đoàn Tây Tiến, chủ yếu là thanh niên học sinh Hà Nội, chiến đấu
trong hoàn cảnh cực kỳ gian khổ, thiếu thốn bệnh sốt rét hoành hành nhưng họ vẫn
lạc quan, kiêu dũng.
* Nhận xét bài thơ “Tây Tiến”:
- Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét và bài thơ Tây Tiến: “Quang Dũng đứng
riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với
những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng
chiến”.
- Nhà thơ Vân Long nhận xét: “Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng
của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình
được đón nhận một chân lý lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”.
- Nhà văn Vũ Nho đã phát biểu những nét độc đáo trong bài thơ kiệt tác “Tây
Tiến”: “Bài thơ thành công nhờ kết hợp hài hòa bút pháp lãng mạn và hiện thực. Nếu
chỉ có hiện thực trần trụi, chắc “Tây Tiến” không thể có sức cuốn hút mạnh mẽ. Tuy
nhiên, nếu chỉ có chất lãng mạn thì “Tây Tiến” cũng khó mà được đón nhận rộng rãi
như thế”.
b) Chủ đề:
- Qua nỗi nhớ của tác giả về binh đoàn Tây Tiến trong những năm chiến đấu gian khổ
giữa núi rừng Tây Bắc dữ dội - hùng vĩ, bài thơ khắc họa một tượng đài nghệ thuật
về người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp bi tráng và lãng mạn.
Ý nghĩa nhan đề
- “Tây Tiến” nghĩa là tiến về phía tây. Từ nhan đề “Nhớ Tây Tiến” đổi thành “Tây
Tiến”, bài thơ mang âm hưởng một cuộc hành quân
- Tên bài thơ trùng với tên binh đoàn gợi không khí những cuộc hành quân hào hùng.
- “Tây Tiến” là tiếng gọi thường trực trong lòng những người lính Tây Tiến, nhất là khi
đã xa rồi.

PHÂN THÂN BÀI. HƯỚNG DẪN THÂN BÀI THƠ TÂY TIẾN


II. ĐỌC - HIỂU BÀI THƠ TÂY TIẾN
1. Nhớ những cuộc hành quân gian khổ gắn với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ,
dữ dội: (14 câu đầu)
a. Hai câu đầu: Khái quát nỗi nhớ

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Đoạn thơ đầu diễn tả nỗi nhớ của Quang Dũng gắn liền với sông Mã, với núi rừng
Tây Bắc, với những vùng đất lạ, hoang sơ, hùng vĩ và đặc biệt với đoàn quân Tây
Tiến trong những cuộc hành quân gian lao mà kiêu dũng.
   Tác giả phối hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật để bày tỏ nỗi nhớ:
- Bài thơ mở đầu bằng một lời gọi tha thiết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”. Sông
Mã còn gọi là sông La, chảy qua Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa. Con sông lưu giữ
nhiều kỷ niệm về đồng đội cũ, được nhắc đến như một cái cớ khơi gợi cảm xúc, như
nhịp cầu nói ký ức của Quang Dũng với Tây Tiến. Câu hai là không gian hoài niệm
của tâm hồn: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
+ Điệp từ “nhớ” như hai nốt nhấn khiến câu thơ đong đầy nỗi nhớ cháy bỏng, da diết
đến quặn lòng. + “Nhớ rừng núi” là nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ con đường
hành quân cũng là nhớ về Tây Tiến.
+ Từ láy “chơi vơi” rất sáng tạo, diễn tả cảm giác bồng bềnh, huyền ảo, lơ lửng.
Dường như nỗi nhớ xóa nhòa khoảng cách thời gian, không gian, đưa con người đắm
vào quá khứ, sống với kỷ niệm. Một nỗi nhớ mênh mang, đầy ắp.
+ Điệp vần “ơi” trong các tiếng “ơi”, “chơi”, “vơi”, “hơi” tạo âm hưởng mênh
mang như kéo dài thêm nỗi nhớ, tô đậm âm hưởng chủ đạo của toàn bài.
b. Nỗi nhớ được khắc họa cụ thể:
* Nhớ thời tiết Tây Bắc khắc nghiệt:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
- Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao”, “i” không chỉ gợi bao cảm xúc nhớ thương
mà còn tạo ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang vu, bí ẩn của những vùng đất
lạ, chứ đựng nhiều khó khăn, thử thách ý chí con người.
- Hình ảnh “sương lấp” và “đoàn quân mỗi” là những hình ảnh miêu tả hiện thực.
Các chiến sĩ tây tiến vất vả hành quân trong sương mù lạnh giá. Sương giăng giăng
che lấp cả đoàn quân. Chữ “mỏi” nói lên bao gian khó mà người lớn phải trải qua.
- Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi thật đẹp”, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của núi rừng
Tây Bắc vừa gợi nét lạc quan ở những người lính trẻ và chất lãng mạn trong hồn thơ
Quang Dũng.
=> Ngay từ bốn câu mở đầu, Quang Dũng đã tạo được âm điệu thơ sâu lắng.
Nhà thơ đã kết hợp hài hòa chất hiện thực và lãng mạn, thể hiện một ngòi bút
tài hoa, phóng khoáng.
* Nhớ địa hình Tây Bắc hiểm trở:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
- Đây là đoạn thơ miêu tả rất thật con đường hành quân gian khổ của người lính Tây
Tiến với núi cao, vực sâu, đèo dốc hiểm trở, cheo leo. Và sánh ngang với núi rừng
hùng vĩ là tinh thần quả cảm của người lính.
- Tác giả phối hợp tài tình các biện pháp nghệ thuật đặc sắc:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
+ “Điệp từ “dốc” và cặp từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả sự quanh co, hiểm
trở của dốc núi Tây Bắc. Đường lên rất cao và đường xuống rất sâu.
+ Câu thơ có bảy chữ mà có năm chữ mang thanh trắc tạo âm điệu trúc trắc, vừa gợi
con đường gập ghềnh, cheo leo vừa gợi liên tưởng đến hơi thở gấp gáp của người
lính khi vượt dốc.
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
+ Từ láy “heo hút” gợi nét hoang sơ, vắng vẻ, đồng thời vẽ ra thế núi hùng vĩ. Núi
Tây Bắc rất cao, ngập vào trong những cồn mây
+ “Súng ngửi trời” là một hình ảnh được nhân hóa, thật thú vị, vừa tả độ cao của núi,
của dốc như cao đến tận trời vừa thể hiện nét tinh nghịch đậm chất lính của Quang
Dũng.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
+ Điệp ngữ “ngàn thước” nhấn vào con số ước đoán phỏng chừng, gợi cái vô cùng
vô tận.
+ Câu thơ như bị bẻ làm đôi bởi nghệ thuật đối diễn tả hay sườn núi dốc dựng
đứng, vút lên cao rồi đổ xuống rất sâu, nguy hiểm mà cũng thật ấn tượng.
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
+ Hình ảnh mở ra một không gian. Người lính tạm dừng chân bên dốc núi, phóng
tầm mắt ra xa. Trong màn mưa giăng mịt mù, những ngôi nhà sàn của người dân tộc
như bồng bềnh ẩn hiện.
+ Câu thơ toàn thanh bằng gợi tả niềm vui, một chút bình yên trong tâm hồn người
lính.
=> Bốn câu thơ này phối hợp với nhau thật hài hòa. Sau những câu thơ
vẽ bằng những nét gân guốc là câu thơ vẽ bằng nét mềm mại. Sự phối
hợp bằng trắc của nhà thơ cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong
hội họa. Giữa những gam màu nóng, tác giả dùng một gam màu lạnh, làm dịu
khổ thơ. Đó cũng là bằng chứng “Thi trung hữu họa” trong thơ Quang Dũng.
* Nhớ những ngày gian khổ, hi sinh của đồng đội:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
- Nỗi nhớ của Quang Dũng hướng về những đồng đội đã hy sinh, những hiểm nguy
thường gặp, kể cả những kỷ niệm khó quên với đồng bào Tây Bắc trên đường hành
quân.
- Tác giả sử dụng các thủ pháp nghệ thuật phù hợp: từ láy “dãi dầu”, nghĩa là chịu
đựng gian khổ, vất vả lâu ngày. Người lính phải hành quân triền miên trong thời tiết
khắc nghiệt, địa hình hiểm trở, thiếu thốn đủ mọi thứ, nhiều người kiệt sức vì đói vì,
mệt mỏi quá độ.
- Nghệ thuật nói giảm “không bước nữa”, “bỏ quên đời” diễn tả cái chết nhẹ nhàng,
người lính hy sinh trong tư thế đang bước đi với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh”. Cách nói này thể hiện thái độ trân trọng, tự hào của tác giả về đồng đội.
- Các từ láy nhấn mạnh “chiều chiều”, “đêm đêm” chỉ thời gian nhiều chiều, nhiều
đêm, người lính Tây Tiến phải đối mặt với những hiểm nguy chốn núi rừng Tây Bắc.
* Nhớ tình cảm sâu nặng của người dân Tây Bắc:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
- Từ cảm thán cùng phép đảo ngữ “Nhớ ôi Tây Tiến” nhấn mạnh nỗi nhớ thấm thía,
sâu sắc của tác giả.
- Hình ảnh “cơm lên khói” vừa chân thật vừa trữ tình, quyện với mùi hương “thơm
nếp xôi” rất đặc trưng của vùng đất Mai Châu đã khắc họa nghĩa tình quân dân thật
ấm áp.
- Cách dùng từ sáng tạo “mùa em” gợi nét trẻ trung thể hiện tình cảm sâu nặng chất
chứa trong lòng nhà thơ.
=> Giữa bao gian khổ, khó khăn, thử thách khắc nghiệt đã thành ấn tượng thì
niềm vui dù ít ỏi càng đáng nhớ hơn. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm
cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Nỗi nhớ “chơi vơi” đã được gợi lên
thành “Nhớ ôi Tây Tiến…” - một nỗi nhớ sâu đậm chỉ có những con người sống
nghĩa tình chân thật.
Tóm lại, qua 14 câu thơ đầu, với sự kết hợp hiện thực và lãng mạn, Quang
Dũng đã dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên
man đầy ắp. Đoàn quân Tây Tiến đã vượt qua những chặng đường dài vô cùng
gian khổ, có mất mát, hy sinh nhưng vẫn ánh lên niềm tin nét trẻ trung, kiêu
dũng.

2. Nhớ đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào, nhớ cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng
a. Nhớ đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
- Cảnh đêm liên hoan văn nghệ vui với đồng bào địa phương được nhà thơ miêu tả
bằng những chi tiết rất chân thực mà cũng rất thơ mộng:
- Cả doanh trại bừng sáng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng
lung linh của lửa đốt, âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cảnh vật và con người đều
như nghiêng ngả, ngây ngất.
- Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những cô gái vùng sơn cước. Họ
bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, dịu dàng, vừa tình tứ
trong vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ, thu hút những chàng trai Tây Tiến.
- Hai tiếng “kìa em” như một tiếng reo vui với cái nhìn ngạc nhiên thú vị, tinh nghịch
của các chàng lính trẻ.
- Tuy say trong tiếng nhạc nhưng người lính không quên nhiệm vụ thiêng liêng của
mình là tiến về phía trước, phối hợp với nước bạn bảo vệ biên giới Việt Lào. Bởi thế
mà “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
=> Giọng thơ vui nhộn, hóm hỉnh, trẻ trung.
b. Nhớ cảnh sông nước miền tây thơ mộng, trữ tình:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lao nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
- Cảnh sông nước Tây Bắc gợi cảm giác mênh mông, huyền ảo, xao xuyến lòng
người.
- Cụm từ “chiều sương ấy” gợi nhớ về một chiều sương năm nào gắn với bao kỷ
niệm.
- Điệp từ “có” và sự bắt vần giữa các tiếng “ấy”, “thấy” cùng các câu hỏi tu từ “có
thấy…”, “có nhớ” cho ta biết cảnh và người miền Tây đang hiện về trong ký ức nhà
thơ. Tác giả hỏi người mà chính là hỏi lòng mình, nói với chính mình. Hỏi mà thực
chất khẳng định nỗi nhớ luôn thường trực trong tâm hồn nhà thơ.
- Các cụm từ:
+ “hồn lau” chỉ ngàn vạn bông lau phất phơ xào xạc trong gió như có hồn người.
+ “dáng người trên độc mộc” chỉ hình dáng mềm mại, uyển chuyển của những cô gái
Thái lái chiếc thuyền độc mộc vượt dòng nước lũ trên sông Mã.
+ “hoa đong đưa” chỉ những bông hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước
lũ. Từ “đong đưa” tình tứ hơn, có hồn hơn so với từ “đung đưa”.
-> Những đường nét thanh thoát, sắc màu tươi tắn làm hiện lên hình ảnh dòng
sông trong một buổi chiều sương, bến bờ lặng tờ, hoang dại, nổi bật dáng uyển
chuyển của cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc cùng những bông hoa rừng
đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.
=> Đoạn thơ như đưa ta vào thế giới của cái đẹp, của âm nhạc khiến ta say mê
cùng người lính Tây Tiến. Ở đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện đến
mức có thể tách biệt, đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói rằng: đọc bài
thơ Tây Tiến ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

3. Chân dung người lính Tây Tiến


Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội và duyên dáng mỹ lệ của núi rừng miền Tây, hình
tượng người lính Tây Tiến xuất hiện thật phi thường. Đó là một vẻ đẹp đậm chất bi
tráng.
a. Phi thường ở diện mạo:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
- Hình ảnh “đoàn binh không mọc tóc” là một hình ảnh thật chứ không phải tưởng
tượng. Lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh giáp lá cà với
địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Họ vẫn không rời đội ngũ.
- “Quân xanh màu lá” cũng là một hình ảnh thực vừa chỉ màu da xanh xao của người
lính bị sốt rét rừng hành hạ vừa chỉ màu lá ngụy trang che mắt địch của đoàn quân.
- Nghệ thuật ẩn dụ, đối lập trong câu “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” làm rõ phẩm
chất kiên cường của người lính Tây Tiến. Cái vẻ xanh xao vì sốt rét của họ, qua cái
nhìn của Quang Dũng vẫn toát lên vẻ oai phong dữ tợn của chúa tể sơn lâm nơi rừng
thiêng. Họ không vì thiếu thốn, khó khăn mà nhụt chí chiến đấu, vẫn làm cho kẻ thù
phải khiếp sợ.
=> Không hề che giấu những khó khăn gian khổ, những căn bệnh hiểm nghèo và sự
hy sinh lớn lao của người lính nhưng Quang Dũng cũng không miêu tả hiện thực một
cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn khiến người đọc vừa cảm
thương, vừa khâm phục, ngưỡng mộ những người lính dám hy sinh vì lý tưởng cao
đẹp.
b. Tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
 Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
 Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Hình ảnh “mắt trừng” là cách nói cường điệu của bút pháp lãng mạn để chỉ sự trắn
trọc khó ngủ vì nhớ nhà, nhớ quê, nhớ người thương của các chiến sĩ Tây Tiến. Dù
nhớ như vậy nhưng họ vẫn không xa rời rồi ngũ. Cũng có người hiểu “mắt trừng” là
hình ảnh hoán dụ thể hiện cái nhìn căm giận với mộng giết giặc của người lính.
- “Dáng kiều thơm” chỉ những cô gái nơi quê nhà Thủ đô yêu dấu.
à Hai câu thơ tả tâm trạng rất thật của người lính Tây Tiến trong những đêm xa nhà,
xa quê ở đất bạn Lào. Họ nhớ da diết nhưng không hề nản chí, không tìm cách đào
ngũ mà vẫn sẵn sàng chấp nhận hy sinh.
=> Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạo
nên tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và
cái hùng là 2 chất liệu chủ yếu hòa quyện làm nên vẻ đẹp bi tráng của bức tượng đài.
c. Lý tưởng quên mình:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
 - Cảm hứng của Quang Dũng mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đở bằng đôi
cánh của lý tưởng và tinh thần lãng mạn. Vì vậy, cái bi được giảm nhẹ đi rất nhiều.
Hơn nữa, nhà thơ sử dụng rất hiệu quả những từ Hán Việt trang trọng, cổ kính để
diễn tả chân dung người lính trong chiến tranh tàn khốc.
- Từ láy “rải rác” cùng các từ Hán Việt “biên cương”, “viễn xứ” khắc họa một
khung cảnh nghiệt ngã, đau lòng. Nhiều người lính Tây Tiến hy sinh trên chặng
đường hành quân, phải nằm lại biên cương xa xôi. Đó là sự khốc liệt của chiến tranh.
- Nhưng cái bi thương ấy cũng là bị mờ đi trước lý tưởng quên mình xả thân vì tổ
quốc của những người lính trẻ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
- Cách đảo ngữ “chiến trường đi” và hoán dụ “đời xanh” ca ngợi sự hy sinh quên
mình vì lý tưởng của người lính Tây Tiến. Ta như thấy tất cả sự khẳng khái rất đáng
khâm phục ở những con người dám quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.
d. Phi thường ở cái chết:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- “Áo bào” là áo dài, tay rộng, người đàn ông quý tộc thời xưa thường mặc. Ở đây,
nhà thơ gọi áo người lính Tây Tiến đang mặc là “áo bào” để chỉ sự trang trọng.
- Hình ảnh “áo bào thay chiếu” gần với hình ảnh điển tích “da ngựa bọc thây” nhưng
lại nói lên sự thật đau lòng: Nơi chiến trường khốc liệt người lính về với đất không
có một manh chiếu để bọc thi hào. Dù vậy, họ đi vào cõi chết cũng thật sang trọng.
- Nghệ thuật nói giảm “anh về đất” chỉ cái chết nhẹ nhàng vì lý tưởng của người
lính.
- Nghệ thuật nhân hóa “Sông Mã” cùng từ Hán Việt “khúc độc hành” khiến nỗi bi
thương như bị át hẳn đi, tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã như khúc nhạc tiễn
đưa những người đã hy sinh.
=> Bằng bút pháp lãng mạn, bằng cảm hứng bi tráng, nhà thơ đã dựng lại chân
thật cái chết, sự hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Tây Tiến trong âm hưởng hào
hùng của thiên nhiên Tây Bắc. Sự hy sinh của người lính Tây Tiến không hề bi
lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
- Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ này trang trọng, thể hiện niềm đau vô hạn và sự
trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước những hy sinh vô giá của đồng đội.
=> Tóm lại, chân dung người lính Tây Tiến thực ra được phác họa từ đoạn một
và đoạn hai. Nhưng ở đoạn này nó là đối tượng chính và được thể hiện trực tiếp
trên bức tranh thơ. Chỉ tám câu mà tác giả thể hiện sinh động nét phi thường ở
cả diện mạo, tâm hồn, khí phách, thái độ trước cái chết và vẻ hào hoa rất Hà
Nội của người lính Tây Tiến.

4. Lời thầy gắn bó với Tây Tiến và với miền Tây


Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ nói lời nhắn gửi mà như lời thề son sắt. Nhịp thơ
chậm, giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng:
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
- Đây là lời thề của những người lính sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ trở về đất nước
quê hương. Họ thề với những đồng đội đã hy sinh, thề với lòng mình, với quá khứ
hào hùng. Tây Tiến đã trở thành một mảnh hồn của các anh.
 Cách nói “người đi không hẹn ước”, “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể
hiện tâm trạng buồn thương, luyến tiếc về một khoảng thời gian ôm ấp kỷ
niệm, về những địa danh, cuộc hành quân tiến về phía Tây lịch sử, giờ đây và
mãi mãi suốt đời không thể nào quên.

PHẦN KẾT BÀI. HƯỚNG DẪN KẾT BÀI THƠ TÂY TIẾN

III. TỔNG KẾT THƠ TÂY TIẾN

1.Nội dung:
- Cả bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: Nhớ những chặng
đường hành quân với bao gian khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát, nhớ nhiều kỉ niệm đẹp,
thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội Tây Tiến anh hùng… 
- Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, hào
hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc.

2.Nghệ thuật: 

- Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng.
- Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú.
- Ngôn ngữ thơ đa sắc thái, phong cách

 Giọng điệu: khi tha thiết bồi hồi, khi hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man
mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… 

 
Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
PHẦN I. MỞ BÀI THƠ VIỆT BẮC
I. Tiểu sử nhà thơ Việt Bắc

1. Tác giả

- Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.


- Quê Thừa Thiên Huế.
- Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thuở nhỏ được cha mẹ dạy làm
thơ và thấm nhuần tinh hoa ca dao dân ca xứ Huế.
- Năm 1938 được kết nạp vào Đảng cộng sản.
- Năm 1939 bị địch bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên và nhiều nhà tù khác ở các
tỉnh miền Trung, Tây Nguyên.
- Năm 1942, vượt ngục trở về lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
- Cách mạng tháng 8/1945, làm Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa ở Huế.
- Năm 1946 – 1986, liên tục giữ những trọng trách trong bộ máy Đảng và Nhà
nước ta.
- Năm 1996, được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Đường cách mạng đường thơ

Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Sự nghiệp thơ của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Ông để lại 7 tập thơ
chia làm 5 chặng:
2.1 .Tập thơ “Từ ấy” (1937 – 1986) gồm 3 phần: “Máu lửa”, “Xiềng xích”,
“Giải phóng”
- Là tiếng hát say mê của người thanh niên yêu lý tưởng, yêu tự do, gắn bó với
quần chúng lao khổ, quyết đi theo cách mạng với một niềm tin vững chắc.
(“Từ ấy”, “Tâm tư trong tù”, “Vui bất tuyệt” ...).
2.2 .Tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954):
- Là tiếng ca hùng tráng về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ca ngợi
nhân dân anh hùng, ca ngợi Đảng, Bác, tình yêu thiên nhiên, đất nước và tinh
thần quốc tế vô sản… (“Lượm”, “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Ta đi tới”,
“Việc Bắc” ...).
2.3 .Tập thơ gió lộng (1955 – 1961):
- Ca ngợi cuộc sống mới, con người mới Xã hội chủ nghĩa, ca
ngợi Đảng, Bác Hồ thể hiện nỗi đau đất nước bị chia cắt, cổ vũ tinh thần đấu
tranh thống nhất nước nhà, ca ngợi tình hữu nghị quốc tế vô
sản… (“Mẹ Tơm”, “Bài ca mùa xuân 1961”, “Ba mươi năm đời ta
có Đảng”, “Người con gái Việt Nam” …)
2.4.Hai tập thơ “Ra trận” (1962 – 1971), “Máu và hoa” (1972 – 1977):
- Là khúc ca ra trận chống Mỹ cứu nước, là lời ngợi ca chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và niềm vui nước nhà thống nhất… (“Bác ơi”, “Theo chân Bác”,
“Nước non ngàn dặm” ....)
2.5.Hai tập thơ “Một tiếng đờn” (1992) và “Ta với ta” (1999):
- Là những chiêm nghiệm mang tính phổ quát về lẽ sống, về cuộc đời và con
người.

II. Phong cách thơ Tố Hữu


1. Về nội dung
* Thơ Tố Hữu mang phong cách trữ tình chính trị sâu sắc.
- Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui
lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
* Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi và dạt dào cảm hứng lãng mạn.
- Đề tài sáng tác là những sự kiện chính trị lớn của đất nước.
- Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng lịch sử dân tộc.
- Nhân vật trữ tình kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng, mang
tầm vóc lịch sử và thời đại.
* Giọng thơ Tố Hữu mang tính chất tâm tình, rất tự nhiên, ngọt ngào, đằm
thắm, chân thành
- Hồn thơ ông có cội nguồn từ chất Huế dễ rung động với nghĩa tình cách
mạng, hướng đến đồng bào, đồng chí mà nhắn nhủ, giãi bày.
2. Về nghệ thuật:
* Thơ Tố Hữu đậm đà, tính dân tộc: Thể hiện ở thơ thể, thơ và ngôn ngữ.
- Thể thơ: vận dụng thành công thể thơ truyền thống dân tộc, tiếp thu những
tinh hoa phong trào thơ mới, thơ ca thế giới cổ điển và hiện đại.
- Ngôn ngữ: dùng từ ngữ và cách nói quen thuộc trong dân gian; phát huy cao
độ nhạc điệu phong phú của Tiếng Việ; sử dụng thành thạo các từ láy, thanh
điệu, các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, điệp từ
ngữ…

Kết luận: Đường đời, đường thơ Tố Hữu luôn song hành cùng con đường
cách mạng của dân tộc. Với những tác phẩm giàu chất trữ tình chính trị và
đậm đà tính dân tộc. Tố Hữu xứng đáng là một trong những nhà thơ xuất
sắc nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại.

3. Sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc:


III. Tác phẩm thơ Việt Bắc

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Việt Bắc:


- Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống Pháp là cơ quan đầu não, là
căn cứ địa cách mạng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
- Tháng 10/1954, những người kháng chiến, Trung ương Đảng và Chính phủ ta
từ chiến khu Việt Bắc trở về Thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố
Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”, in trong tập thơ cùng tên.
- Bài thơ viết theo thể lục bát từ 150 câu theo hình thức đối đáp giao duyên
giữa hai nhân vật “mình” – “ta” (người Việt Bắc và người cán bộ kháng
chiến).
- Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 90 câu thuộc phần đầu bài thơ, tái hiện
những kỷ niệm cách mạng và kháng chiến.
* Chủ đề: đoạn trích “Việt Bắc” ôn lại một thời cách mạng và kháng chiến
gian khổ mà hào hùng, qua đó thể hiện nghĩa tình sâu nặng của người cán bộ
kháng chiến với Việt Bắc và tình cảm của nhân dân Việt Bắc với cách mạng
và Bác Hồ.

PHẦN II. THÂN BÀI BÀI THƠ VIỆT BẮC


1. Tìm hiểu bài thơ
I.1 .Cuộc chia tay cảm động giữa người Việt Bắc và người cán bộ kháng
chiến. (20 câu đầu)
a. Bốn  câu đầu: Lời người Việt Bắc
- Bài thơ mở ra với cảnh chia tay lưu luyến đầy xúc động của những người đã
từng gắn bó suốt “Mười lăm năm ấy” có biết bao kỷ niệm ân tình. Bao trùm
trong tâm trạng kẻ ở người đi là nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái
khác nhau. Trong đoạn trích 90 câu đã có 35 từng “nhớ”. Đoạn này điệp
từ “nhớ” sử dụng 4 lần.
- Nhà thơ để cho người ở lại lên tiếng trước:
     Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
     Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
+ Đại từ “mình” – “ta” được lặp lại nhiều lần. Đó là cách xưng hô thân mật lấy
trong ca dao, trong tiếng hát giao duyên tình nghĩa, là lời xưng hô trong tình
yêu đôi lứa, nghe tha thiết bâng khuâng. Tố Hữu sử dụng 2 đại từ “mình”
-  “ta” rất linh hoạt”
Ở đoạn thơ này, mình là người cán bộ về xuôi, “ta” là người Việt Bắc.
Nhưng ở đoạn khác “mình”, “ta” có sự chuyển hóa: tuy hai mà một, tuy một
mà hai, trong “mình” có “ta”, trong “ta” có “mình” hòa hợp, thống nhất. Ví
dụ: “Mình đi mình có nhớ mình” hay “Mình đi, mình lại nhớ mình”,...
-> Nhà thơ vận dụng khéo léo, uyển chuyển tính đa nghĩa của ngôn từ, tạo
cho bài thơ một cách nói, cách thể hiện tâm tình rất riêng, rất Tố Hữu.
+ Cụm từ “mười lăm năm ấy” gợi ta nhớ câu Kiều của Nguyễn Du: “Mười lăm
năm ấy biết bao nhiêu tình”.
-> Đó là sự kế thừa truyền thống thơ ca dân tộc của Tố Hữu.
+ Câu hỏi tu từ: “…có nhớ ta”, “có nhớ không” nghe da diết, nhắn nhủ, tâm
tình.
=> Ở bốn câu đầu, người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ Việt Bắc
không  nghĩa là có nhớ quê hương cách mạng, cội nguồn cách mạng không?
Hỏi mà là nhắc nhở ,nhắn gửi người về đừng quên Việt Bắc, đừng quên chính
mình.
b. Bốn câu tiếp: Lời người cán bộ về xuôi
    Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
    Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
- “Tiếng ai” nghe xao xuyến, níu giữ bước chân, “tha thiết” quá khiến người
về “bâng khuâng”. Đại từ phiếm chỉ “ai” đậm chất ca dao ở đây chỉ người Việt
Bắc.
-> Bốn câu thơ có tới 3 từ láy: “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” đặc tả
chính xác tâm trạng vấn vương, lưu luyến, bịn rịn, không nỡ rời xa của người
cán bộ kháng chiến trong cuộc chia tay lịch sử này.
- Từ “áo chàm” có thể hiểu đó là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc vì
người Việt Bắc thường mặc áo màu chàm. Nhưng theo Tố Hữu hiểu như thế
quá đơn giản và lệ thuộc. Từ “áo chàm” trong câu thơ này mang ý nghĩa sâu
rộng hơn. Màu chàm nâu trong tâm thức người Việt là màu đơn sơ, chân
thật, không kiểu cách, lòe loẹt. Nó biểu thị sự chân thành, giản dị. Hơn nữa ở
đây, cả người ở lẫn người về đều chung là một nên “áo chàm” là biểu tượng
cho tấm lòng chung thủy của mọi người.
- Câu hỏi tu từ và dấu chấm ở cuối câu: “Cầm tay nhau biết nói gì hôm
nay…” làm nổi bật tình cảm tha thiết yêu thương không lời nào tả xiếc của kẻ
ở người đi. Ngôn ngữ của bàn tay nóng ấm gắn với trái tim đầy xúc động hơn
mọi lời nói khác, nhất là ở cuộc chia ly với chính mình.
- “Biết nói gì” không phải không biết nói gì, không có gì để nói mà là biết nói
sao cho thỏa nỗi nhớ thương đang dâng đầy.
c. Mười hai câu tiếp: Lời người Việt Bắc
     Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
     Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
     Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
     Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
     Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
     Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Điệp khúc “mình đi”, “mình về” và các câu hỏi từ liên tiếp: “có nhớ những
ngày”, “có nhớ chiến khu”, “rừng núi nhớ ai”, “có nhớ những nhà”, “còn
nhớ núi non”, “có nhớ mình”... Diễn tả nỗi nhớ cồn cào trong lòng người ở lại.
- Đọc hai câu “Mình về rừng núi nhớ ai” và “Mình về còn nhớ núi non”, ta
cảm giác nỗi nhớ như tiếng gọi trong thung lũng. Có một lời vang lên là có
tiếng vọng lại ấm áp hơn, tha thiết hơn. Không cảm thấy cuộc phân li nữa mà
chỉ thấy nỗi nhớ lớn lên, bền bỉ và gắn kết mọi người trong kí ức chung đẹp đẽ.
- Các hình ảnh: “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”, “cơm chấm muối”,
“măng mai”, “lau xám”, “lòng son”… là những hình ảnh rất chân thực trong
những ngày gian khổ của cuộc kháng cháng chống Pháp.
- Câu thơ “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” đã cụ thể hóa, vật chất
hóa mối thù quân xâm lược trĩu nặng trên vai nhân dân. Sự kết hợp hai hình
ảnh này thể hiện rõ sức mạnh đoàn kết, tinh thần vượt khó của nhân dân ta.
- Nghệ thuật hoán dụ: “Rừng núi nhớ ai” diễn tả phong phú hơn nỗi nhớ tình
cảm kín đáo mà tha thiết, mộc mạc, chân tình của người Việt Bắc. Cán bộ về
xuôi, còn ai hái măng, hái trám nên “Trám bùi để rụng, măng mai để
già”. Những món ăn đạm bạc thuở gian khó gợi nhớ gợi thương biết bao
nhiêu.
- Câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”: đối lập cái hiện thực gian khổ,
tăm tối, thiếu thốn với tấm lòng thủy chung son sắt và nghĩa tình sâu nặng của
người Việt Bắc với cách mạng, với kháng chiến. Tấm lòng Việt Bắc bền vững
như núi rừng Việt Bắc.
- Một số câu bát ở đoạn này ngắt hai vế tiểu đối 4/4 cân xứng, hài hòa, tạo âm
điệu êm ái, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào lòng mình.
- Hai câu thơ cuối đoạn:
     Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
- Từ “mình” ở cuối câu đa nghĩa vừa chỉ người cán bộ vừa chỉ người Việt Bắc.
Hai câu này điệp lại ở đoạn sau, khẳng định sự không thể chia cắt của “ta” và
“mình”. Sự phân đôi “mình, ta” chỉ là phân đôi nỗi nhớ, một về Hà Nội, một ở
Việt Bắc. Còn sự chung thủy son sắt thì không gì có thể lay chuyển.
Tóm lại: Với cảm xúc chân thật, hiểu biết sâu rộng văn học dân tộc và tài
năng thi ca, ngay ở đoạn thơ mở đầu này, Tố Hữu đã thể hiện thành công
tâm trạng, tình cảm của người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến
trong cuộc chia tay lịch sử sau bao nhiêu năm đồng cam cộng khổ đánh
giặc giữ nước đã đi đến thắng lợi, chia tay để bước vào thời kì mới, thời kì
xây dựng quê hương đất nước sau chiến tranh.
1.2. Lời người cán bộ kháng chiến (70 câu còn lại)
2. Khúc tâm tình của người cán bộ kháng chiến: “Ta với mình, mình với ta…
bấy nhiêu”
- Từ “với” đứng giữa hai từ “ta”, “mình” và được lặp lại hai lần thể hiện sự
gắn bó bền chặt không gì chia cắt được của tình quên dân thắm thiết.
- Hai từ láy “mặn mà”, “đinh ninh” diễn tả tình cảm trước sau như một của
người về. Dù xa Việt Bắc, người về vẫn luôn nhớ những gì đã là kỉ niệm thân
thương với Việt Bắc. Câu thơ gợi nhớ câu Kiều của Nguyễn Du: “Vầng trăng
vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”.
- “Mình đi mình lại nhớ mình”: Từ “mình” được dùng đa nghĩa thể hiện sự
sáng tạo độc đáo trong việc bộc lộ tình cảm của nhà thơ. Từ “lại” ở đây như
nhân tình cảm lên gấp bội. “Mình đi” mình đã nhớ, đang nhớ và sẽ còn nhớ
mãi Việt Bắc.
- Nghệ thuật so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” thể hiện cụ
thể và sinh động hơn nghĩa tình sâu đậm của người cán bộ kháng chiến với quê
hương Việt Bắc. Câu thơ gợi liên tưởng câu ca dao: “Qua đình ngả nón trông
đình/ Đình bao nhiêu ngói em thương mình bấy nhiêu.”
=> Chỉ 4 câu thơ, người cán bộ kháng chiến khẳng định chắc chắn tấm lòng
thủy chung không dời đổi của mình với Việt Bắc. Đó chính là tình cảm sắt son
của cách mạng với nhân dân.
a. Nỗi nhớ da diết với nhiều sắc thái khác nhau của người cán bộ kháng
chiến:
     Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
- Nhớ Việt Bắc được so sánh với nhớ người yêu, mà nhớ người yêu thì thật da
diết, cồn cào, thường trực. Ca dao đã miêu tả nỗi nhớ người yêu: “Nhớ ai bổi
hổi bồi hồi/ Như đứng đống lửa như ngồi đống than.”
- Điều đó chứng tỏ Việt Bắc gần gũi, gắn bó, yêu thương biết bao. Nỗi nhớ của
người cán bộ ngây ngất cả không gian, trong mọi thời gian, bởi cảnh nào ở
Việt Bắc cũng đầy ắp kỉ niệm:
b.1. Nhớ bản làng, cảnh vật ở Việt Bắc:
“Nhớ từng bản khói cùng sương… vơi đầy”
- Những hình ảnh, những địa danh quen thuộc (khói, sương, bếp lửa, rừng nứa,
bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…) gắn bó với người Việt Bắc. Những kỉ
niệm nơi đây đã trở thành máu thịt, làm sao quên được.
b.2. Nhớ cảnh sinh hoạt trong kháng chiến: “Ta đi ta nhớ những ngày… suối
xa”
- Nhớ Việt Bắc không phải là nỗi nhớ chung chung mà rất cụ thể. Nhớ những
ngày gần gũi “Mình đây ta đó”, cùng chia sẻ “đắng cay, ngọt bùi”. Có những
ngày lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào ào, gạo và muối bị cuốn trôi, địch phục
kích sau lưng… Những đêm bị sốt rét rừng hành hạ, được bà con chăm sóc…
thấm thía vô cùng tình quân dân keo sơn gắn bó.
- Hình ảnh “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” khác nào tình yêu thương gắn
bó trong gia đình trong hoàn cảnh thiếu thốn khó khăn.
- Nhớ về Việt Bắc là nhớ những hình ảnh mộc mạc, thân thương, chân thực
như nó vốn có:
     Nhờ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
- Người phụ nữ hiện lên trong vẻ đẹp của người lao động, của thiên chức làm
mẹ và của trách nhiệm công dân đóng góp công sức nhỏ bé cho kháng chiến.
Hình ảnh thơ thật giàu sức gợi:
Nhớ sao lớp học i tờ
……… núi đèo
- Tác giả tái hiện những công việc của người cán bộ kháng chiến: dạy lớp bình
dân học vụ, xóa mù chữ, vui liên hoan văn nghệ sau những ngày làm việc vất
vả, những giờ làm việc bận rộn nơi cơ quan.
    Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Tiếng mõ trâu, tiếng chày giã gạo bằng sức nước và “rừng”, “suối” đã tái
hiện khung cảnh Việt Bắc rất thực. Nếu thờ ơ, bàng quan nhà thơ sẽ chẳng
thấy có gì nên thơ nhưng sự lưu luyến, gắn bó yêu thương thực sự khiến tác
giả thấy có ngọn lửa lung linh, bền bỉ của sự sống.
- Điệp ngữ “nhớ sao” cho thấy chủ thể trữ tình vừa đối thoại vừa độc thoại,
càng làm rõ hơn mối quan hệ gắn bó “mình, ta” – nhân dân và cách mạng.
b.3. Nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc:
    Ta về mình có nhớ ta

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
- Cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ là nỗi nhớ về Việt Bắc:
    Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
+ Tác giả sử dụng hai lần cụm từ “ta về”. Cùng một thời điểm chia tay nhưng
ở trên là hỏi người, ở dưới là giãi bày lòng mình.
+ Cặp từ “ta, mình” được xưng hô như cách đối đáp giao duyên của trai gái
trong ca dao, dân ca khiến cho cuộc chia tay của người cán bộ và Việt Bắc trở
thành cuộc “giã bạn” của lứa đôi, nó khơi nguồn cho dòng mạch nhớ thương
tuôn chảy. Ở đây, “ta” là người cán bộ kháng chiến sắp rời Việt Bắc về lại thủ
đô, còn “mình” là nhân dân Việt Bắc đang lưu luyến chia tay.
+ Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” được dùng làm cái cớ để bộc lộ sự bịn rịn,
lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại.
- Nỗi nhớ cứ hiện dần lên trong tâm trí người ra đi, từ cảnh vật đến con người,
cái gì cũng đáng yêu, đáng nhớ: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Từ
“hoa” thật gợi cảm và hàm súc. “Nhớ hoa” là nhớ thiên nhiên Việt Bắc lung
linh thơ mộng làm đắm say lòng người, mà cái đẹp của thiên nhiên thì không
thể tách rời vẻ đẹp của con người Việt Bắc từng cưu mang, gắn bó, đồng cam
cộng khổ với người cách mạng.
# Tám dòng thơ tiếp theo là bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa đông, xuân,
hạ, thu:
* Bức tranh mùa đông:
     Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
- Hoa chuối rừng đỏ như son nổi bật giữa nền xanh bạt ngàn của lá. Sự tương
phản giữa hai màu xanh, đỏ làm cho cảnh núi rừng như bớt lạnh lẽo, hoang vu
mà trên nên ấm áp hơn.  Theo Tố Hữu, hoa chuối nhìn ở đồng bằng thì
không có cảm giác gì, nhưng nhìn ở vùng núi, giữa đám lau lách, cỏ hoa thì lại
có giá trị đặc biệt. Nó cho cảm giác bông hoa có thật chứ không mong manh
chóng tàn như những loài hoa khác.
- Vượt qua cái lạnh lẽo của mùa đông buốt giá, con người vẫn lên rừng, lên
nương. Nghệ thuật đảo ngữ “nắng ánh” (động từ) khác với ánh nắng (danh từ)
nhằm nhấn mạnh ý chỉ các luồng sáng của nắng bỗng chối lên bởi sự phản
quang của lưới dao rừng trên thắt lưng người Việt Bắc đi rừng khai thác lâm
thổ sản. Cái tình của người cán bộ không sâu đậm làm sao phát hiện được nét
đời thường giản dị như thế? Nhưng cái tư thế đứng cao vời vợi, mạnh mẽ, tự
tin của Việt Bắc - người làm chủ thiên nhiên lại càng đẹp hơn.
* Bức tranh mùa xuân:
       Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
- Mùa xuân ở Việt Bắc có hoa mơ tinh khôi, thanh thiết phủ trắng cả cánh rừng
gợi cảm giác choáng ngợp trước cảnh thơ mộng. Âm điệu mạnh mẽ của 2 chữ
“trắng rừng” bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của con người. Câu thơ
làm ta nhớ một câu thơ khác của Tố Hữu trong trường ca “Theo chân Bác”
cũng tả cảnh rừng xuân Việt Bắc:
Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.
- Giữa một thiên nhiên đẹp đến độ huyền hoặc khó tin như thế, dáng vẻ con
người như thêm phần quyến rũ với động tác “chuốt từng sợi giang” rất nhịp
nhàng, khoan thai.
- Động từ “chuốt” là làm cho thật nhẵn sợi giang để đan nón (“Giang” là loại
cây thuộc họ tre nứa nhưng gióng dài và dày hơn nứa, mọc nhiều ở rừng Việt
Bắc).
- Hai từ “chuốt” và “từng” phối hợp ăn ý, tăng sức gợi tả đức tính cẩn thận, tỉ
mỉ, chịu thương, chịu khó của người đan nó. Con người chính là chủ nhân của
mùa xuân đang tô điểm cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy.
* Bức tranh mùa hạ:
     Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
- Câu lục xôn xao cả sắc màu lẫn âm thanh. Khi tiếng ve râm ran, cả rừng
phách (một loại cây gỗ, cao, mọc nhiều ở rừng Việt Bắc, cuối hạ, đầu thu lá
vàng rực) như hối hả, nhanh chóng thay màu, cùng đồng loạt “đổ vàng”.
- “Đổ vàng” là ngã vàng đồng loạt. Cũng có thể hiểu “đổ vàng” là cây trút lá
vàng. Hai  cách này không loại trừ nhau, bởi từ thay màu đến trút lá là một sự
tiếp nối tự nhiên của lá cây.
- Hai động từ “kêu” và “đổ” đã thể hiện thật đắt cái không khí rạo rực rất đặc
trưng của mùa hạ.
- Ở câu bát, tác giả vẽ ra một hình ảnh đằm dịu hơn. Cái vẻ lẻ loi của cô gái
“hái măng một mình” khơi dậy trong ta những rung động ngọt ngào, sâu lắng.
- Đọc câu thơ ta nghe như có tiếng nhạc ngân nga bởi nghệ thuật gieo vần
(“gái”, “hái”), điệp phụ âm đầu “m” (măng một mình).
- “Hái măng” là công việc quen thuộc của người Việt Bắc. Cô gái Việt Bắc
“hái măng một mình” mà không cảm thấy cô đơn, trống vắng bởi cô đang say
sưa lao động trong một không gian vui tươi trong trẻo. Sự hiện diện của cô gái
càng tăng thêm nét duyên dáng trẻ trung cho bức tranh mùa hạ. Một bức tranh
vừa hoành tráng vừa thơ mộng được vẽ bằng những nét bút vừa mạnh mẽ, vừa
mảnh mai tinh tế với một trường liên tưởng mênh mông.
* Bức tranh mùa thu:
     Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
- Ánh trăng vàng êm dịu trải đều lên cảnh vật, gợi không khí thanh bình, yên ả.
- Từ “hòa bình” vừa khẳng định cuộc sống êm đềm, làm chủ ở chiến khu vừa
nói đến sự thanh tĩnh của rừng khuya. Đêm trang thu huyền ảo nơi núi rừng
Việt Bắc thấp thoáng ước mơ thầm kín về một cuộc sống thanh bình êm ả. Câu
thơ gợi ta nhớ câu thơ của Hồ Chí Minh trong bài “Cảnh khuya”: “Tiếng suối
trong như tiếng hat xa/Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
-> Dưới ngòi bút của Tố Hữu, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên đủ cả màu
sắc, âm thanh, đường nét, hình khối rực rỡ, thi vị, lãng mạn và gợi cảm vô
cùng. Bức tranh thơ sống động hài hòa, vẻ đẹp cổ điển và hiện đại.
- Trên cái nền gợi cảm ấy văng vẳng “tiếng hát ân tình thuỷ chung” của ai đó
nghe thật bâng khuâng, xao xuyến. Tiếng hát ấy chính là tấm lòng của người
Việt Bắc. Dù nghèo khó nhưng các bó suốt đời với cách mạng.
=> Có thể nói đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất
trong bài Việt Bắc. Nó góp phần làm cho bài Việt Bắc nói riêng và tập
Việt Bắc nói chung xứng đáng là viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng
văn học Việt Nam hiện đại.
b.4. Nhớ Việt Bắc oai hùng:
Nhớ khi giặc đến, giặc lùng

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
- Đứng trước gian khổ, khó khăn, ý chí quật cường và tinh thần đoàn kết của
dân tộc ta càng được nhân lên gấp bội. Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu trong
bài Việt Bắc này, ta như được chứng kiến sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp với bao chiến
thắng lẫy lừng.
- “Nhớ khi giặc đến giặc lùng”: Nhớ những lần giặc càng quét, săn lùng.
Chúng như bầy dã thú khát máu, tìm mọi cách khủng bố đàn áp nhân dân ta để
lại bao oán hận.
- Dù vậy, quân dân Việt Bắc đã vùng dậy. Không chỉ con người mà cả núi
rừng đồng sức đồng lòng đánh giặc:
Rừng cây, núi đá ta cùng đánh Tây
      Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù.
+ Nghệ thuật nhân hóa đã làm sinh động hơn hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc.
Thiên nhiên cũng như những con người Việt Bắc kiên cường, anh dũng. Trong
một câu thơ, tác giả đã làm rõ sứ mệnh của rừng núi “che bộ đội”, “vây quân
thù”.
+ Các điệp từ “rừng”, “núi” và đối lập “che bộ đội” >< “vây quân thù” càng
làm nổi bật vai trò của những cánh rừng trùng điệp, nhấn mạnh một trong 3
yếu tố vô cùng quan trọng trong cuộc chiến: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Việt
Bắc là một vùng địa linh quý báu, tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh giặc.
      Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
- Cả núi rừng Việt Bắc cùng nhịp đập trái tim quyết hoàn thành sứ mệnh bảo
vệ quê hương đất nước.
+ Cụm từ “cả chiến khu một lòng” cho thấy rõ sự đồng tâm hiệp lực của quân
dân ta, sự nhất trí cao độ của ý Đảng, lòng dân. Đó cũng là bí quyết thành công
của ta trong kháng chiến.
- Chính sức mạnh đoàn kết và ý chí quyết tâm đã giúp quân dân Việt Bắc lập
nên những chiến công vang dội.
+ Hàng loạt những địa danh gắn với thắng lợi vinh quang. “Phủ Thông”, “đèo
Giàng”, “sông Lô”, “phố Ràng”, “Cao Lạng”, “Nhị Hà” -> Chiến công tràn
ngập không gian, trải dài theo nỗi nhớ -> Chiến công tràn ngập không gian,
trải dài theo nỗi nhớ.
+ Câu hỏi từ: “Ai về ai có nhớ không?” nghe đậm đà âm hưởng ca dao. Hỏi
“có nhớ không” mà lại như khẳng định: Người ra đi làm sao quên được những
trận đánh, những chiến công. Bởi trong những vinh quang còn bao đau thương
phải trả giá bằng, máu xương của đồng đội. Nhớ về chiến công cũng là nhớ
những người đã ngã xuống để mà tự hào, để mà nhận thức sâu sắc trách nhiệm
của mình trong hiện tại.
- Hình ảnh Việt Bắc oai hùng được diễn tả một cách cô đọng, hàm súc trong 8
câu thơ sau:
     Những đường Việt Bắc của ta
...

Vui lên Việt Bắc đèo de núi hồng.


+ Cả núi rừng, đất trời vang dậy trong bước hành quân. Thiên nhiên chuyển
mình hay chính cả nước ta đang chuyển sang giai đoạn mới của cuộc kháng
chiến? Hàng vạn người ra trận, từng đoàn bộ đội dân công đi như sóng cuộn,
rung chuyển cả núi rừng. Đêm đốt đuốc sáng. Tả thế không có gì là cường
điệu.
+ Một loạt điệp từ, điệp âm, điệp vần và các từ láy “đêm đêm”, “rầm rập”,
“điệp điệp”, “trùng trùng” miêu tả cảnh hành quân thật sinh động khiến người
đọc cảm thấy sự hối hả, luân chuyển không ngừng của những đoàn quân ra
trận. Dài mãi dường như không dứt. Âm hưởng thơ thật hào hùng.
+ Hình tượng người lính hành quân trong đêm gợi nhớ “Tây Tiến” của Quang
Dũng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.”
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc.
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
- Thơ Quang Dũng nói về cái hào hùng của người lính trong gian khổ. Còn thơ
Tố Hữu như gác lại những khó khăn để chỉ tái hiện vẻ đẹp dũng mạnh đầy tự
hào của đoàn quân.
+ Hình ảnh chân thật mà đậm chất lãng mạn: “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ
nan”. Câu thơ gợi nhớ thơ chính hữu: “Đầu súng trăng treo” (Đồng chí).
- Cùng với đoàn chiến binh còn có bao đoàn dân công xung phong ra tuyến
lửa:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn.
+ Nghệ thuật đảo ngữ và điệp phụ âm “đ” (đỏ đuốc) tạo âm hưởng mạnh mẽ,
vững vàng.
+ Nhịp thơ 2/2 như nhịp bước hành quân mạnh mẽ, sôi nổi, háo hức.
- Anh hùng, kiêu hãnh đạp bằng mọi gian nguy tiến lên phía trước. Khi phách
ấy dồn nén và bật thành câu thơ: “Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Lối
nói thậm xưng khắc họa sức mạnh của con người được nhân lên gấp bội.
- Những đoàn chiến binh và dân công với sức mạnh phi thường, một lòng tin ở
tương lai chính là hình ảnh con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp hào hùng và chiến thắng.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
+ Nghệ thuật đối lập: “nghìn đêm thăm thẳm” với “đèn pha bật sáng” và nghệ
thuật so sánh “như ngày mai lên” thể hiện tinh thần lạc quan của quân dân Việt
Bắc. Hình ảnh thơ giàu sức gợi vừa hiện thực vừa lãng mạn.
- Và tin vui thắng trận vang dội khắp mọi miền đất nước:
Tin vui chiến thắng trăm miền
...
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
+ Nghệ thuật liệt kê các địa danh kết hợp điệp từ “vui” với nhiều sắc thái (“vui
về”, “vui từ”, “vui lên”) diễn tả niềm vui của toàn dân tộc khi quân dân ta
đánh thắng nhiều trận trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống
Pháp.
+ Âm điệu thơ sôi nổi thể hiện nhựng thắng lợi dồn dập và niềm phấn chấn của
con người.
 Các thủ pháp nghệ thuật phối hợp uyển chuyển, miêu tả tài tình

những cuộc hành quân đêm nghe âm vang, đầy ánh sáng như một
cuộc biểu dương lực lượng đáng tự hào. Đoạn thơ vừa đậm chất
sử thi hào hùng vừa giàu tính lãng mạn đã thể hiện thành công khí
thế hào hùng của cuộc kháng chiến. Qua đó, Tố Hữu khắc họa đậm
nét hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kì đầy gian khổ nhưng nhất định
thắng lợi.
c.. Nỗi nhớ gắn với niềm tin vào Đảng và Bác Hồ: “Ai về ... Tân Trào”
- “Ai về ai có nhớ không?”
+ Đại từ “ai” được dùng sáng tạo, linh hoạt, đậm chất ca dao.
+ Câu hỏi tu từ là cách để gợi tâm tình, hỏi để bày tỏ cảm xúc.
- Nhớ “Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang” là nhớ hang Pắc Bó – nơi Bác Hồ
và Chính phủ kháng chiến làm việc. Màu sắc tươi tắn của “cờ đỏ thắm”, sao
vàng rực rỡ cũng là của lòng người tràn ngập niềm vui, niềm tin yêu lãnh tụ.
=> Hình ảnh thơ tươi sáng, âm hưởng trang trọng, thiết tha, thâu tóm lại hình
ảnh quê hương, cách mạng – đầu não của cuộc kháng chiến – nơi đặt bao hi
vọng và tin tưởng của người Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, nhất là
những nơi còn “u ám quân thù”.
- Hình ảnh Bác Hồ được ngợi cả với một niềm tin yêu thành kính: Bác là ánh
sáng soi đường, là niềm tin yêu của nhân dân Việt Nam, đưa cuộc kháng chiến
đi đến thắng lợi.
- Nghệ thuật tương phản: “u ám quân thù” >< “Cụ Hồ sáng soi”, “đau đớn
giống nòi” >< “nuôi chí bền” nhấn mạnh hơn uy tín của Đảng, Bác Hồ.
- Bốn câu cuối đoạn trích nhắc lại 15 năm gian khổ không thể nào quên đã đi
đến thắng lợi. Nhắc lại “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” để khẳng định
“mình” và “ta” mãi mãi gắn bó, đời đời yêu thương.

PHẦN III. KẾT BÀI THƠ VIỆT BẮC

III. Tổng kết thơ Việt Bắc

1. Nội dung:

- Tái hiện lại cuộc chia tay giữa người ở lại và người ra đi với những lời gợi
nhắc về quá khứ và những kỉ niệm của 15 năm gắn bó gian khổ. Việt Bắc hiện
lên trong những hoài niệm đầy cay đắng, gian khổ nhưng tình nghĩa mặn nồng
- Bao trùm lên cả bài thơ về nỗi nhớ. Nỗi nhớ của cả người ở lại và người ra đi.
Trong tâm thức của người ra đi, nỗi nhớ về Việt Bắc hiện lên với những cung
bậc đa dạng, nhiều nhiều: nhớ con người, cuộc sống Việt Bắc; Nhớ thiên nhiên,
núi rừng Việt Bắc; nhớ về cuộc kháng chiến anh hùng và nhớ cả những ngày
đầu độc lập 
- Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được mối quan hệ và sự gắn bó keo sơn,
cá nước giữa nhân dân Việt Bắc với những người cán bộ cách mạng. 

2. Nghệ thuật

- Bài thơ được viết theo kết cấu đối đáp của ca dao trữ tình với sự luân phiên
của người ở lại và người ra đi tạo cho bài thơ sự nhịp nhàng, đăng đối.
- Cách xưng hô mình - ta quen thuộc trong ca dao với sự biến đổi linh hoạt
giữa mình với ta; ngưởi ở lại có lúc là mình, có lúc là ta; người ra đi lúc là ta,
lúc là mình tạo ra tình cảm thân mật, tha thiết
- Tác giả sử dụng thể thơ lục bát - thể thơ đặc sắc của dân tộc, với những luyến
láy, vần điệu nhịp nhàng khiến cho nỗi nhớ trong bài thơ càng trở nên nồng
nàn, sâu đậm.
- Đoạn trích sử dụng nhiều từ láy, tượng hình giàu hình ảnh.
Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điền

PHẦN I. Hướng dẫn viết mở bài thơ Đất nước


I. Tìm hiểu chung bài thơ Đất Nước
1. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ
trẻ trong những năm chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc,
lắng đọng thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến
đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận.
2. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đất Nước
- Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca Mặt
đường khát vọng. Hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu
năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam, về non sông, đất nước, về sứ mệnh thế hệ mình, xuống đường, đấu tranh
chống đế quốc Mỹ.
* Chủ đề:
Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, Đất Nước là sự hội tụ và kết
tinh, công sức và khát vọng của nhân dân. Vẻ đẹp đất nước được phát hiện trên
nhiều bình diện lịch sử, địa lý, văn hóa, truyền thống,... Từ đó đánh thức trách
nhiệm của mỗi người đối với việc bảo tồn và giữ gìn đất nước.
3. Sơ đồ tư duy bài Đất Nước
PHẦN II. Hướng dẫn viết phân tích thân bài bài thơ Đất nước
II. Tìm hiểu văn bản:
1. Quan niệm của nhà thơ về cội nguồn Đất Nước: (từ đầu đến “Đất Nước có từ
ngày đó”)
* Cảm nhận chung:
- Đất nước là một cảm hứng lớn của thơ ca thời đại chống Mĩ. Với cảm xúc
yêu mến, tự hào, đất nước được tác giả khám phá, cảm nhận và suy ngẫm
trong một cái nhìn toàn vẹn từ nhiều bình diện: Thời gian lịch sử, không gian
địa lý, chiều sâu văn hóa, phong tục, lối sống và tâm hồn dân tộc. Từ đó làm
nổi bật tư tưởng lớn: Đất nước của nhân dân, khơi dậy ý thức trách nhiệm của
thế hệ trẻ đối với đất nước trong cuộc đấu tranh của dân tộc.
* Cảm nhận đoạn thơ:
- Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên, Đất
Nước đã có rồi. Đất Nước có từ khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên
suốt 4000 năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên.
Nó có chiều sâu, cội nguồn cũng như sự hình thành phát triển bao đời nay.
- Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu
chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa” mà các bà mẹ vẫn
hay kể cho con cháu nghe.
- Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Mỗi
câu chuyện là một bài học đạo lý dạy ta “ở hiền gặp lành”, biết thiện biết ác,
biết sống thủy chung.
-> Ý thơ không mới, nhưng cách nói cách thể hiện có nhiều điểm mới, vừa
quen vừa lạ.
Tác giả không dùng những từ ngữ, hình ảnh mỹ lệ mang tính biểu tượng
thể hiện đất nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm
vào lòng người. Tác giả giúp ta hiểu đất nước có từ nền văn hóa dân gian,
cha ông ta để lại.
- Tác giả cảm nhận đất nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản
sắc văn hóa riêng của dân tộc.:
 Đất nước bắt đầu với miếng trầu, bây giờ bà ăn
- “Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “Sự tích trầu cau” khiến
ta rưng nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó,
hình ảnh trầu cao trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, trở
thành “Miếng trầu là đầu câu chuyện” tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm,
thủy chung.
- Đất nước được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng
của dân tộc:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà
đánh giặc
+ Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và
có lúc trở thành vũ khí chống giặc. Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ân,
nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà
tranh, giữ đồng lúa chín”.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
+ Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên dáng và
thật đáng yêu.
- Đất Nước được cảm nhận trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng
tình nghĩa như gừng cay muối mặn:
 Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
+ Hình ảnh gợi nhớ đến câu thơ: “Tay bưng đĩa muối, chén gừng/ Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau”. Dù cay đắng, gian nan nhưng cha mẹ vẫn
đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, tha thiết.
- Đất Nước còn gắn với cách gọi tên cái kèo, cái cột khi dân ta biết làm nhà để
che mưa che nắng, là quá trình lao động cần cù, vất vả của con người để mưu
sinh:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng
+ Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên
tiếp “xay”, “giã”, “giần”, “sàng” gợi lên sự vất vả triền miên của người
nông dân trên đồng ruộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt
gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để
sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc.
- Cấu trúc câu thơ: “Đất Nước đã có... , Đất Nước có... , Đất Nước bắt đầu... ,
Đất Nước lớn lên... , Đất Nước có từ...”  cho phép ta hình dung cả quá trình
sinh ra, lớn lên và trưởng thành của đất nước trong tâm thức con người Việt
Nam bao thế hệ.
Đánh giá: Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất
Nước. Giọng thơ trữ tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự
nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ
văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ. Đất Nước đối với Nguyễn Khoa
Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao,
gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn
về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.
2. Khái niệm Đất Nước, mối quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân (từ Đất là
nơi anh đến trường đến Làm nên Đất Nước muôn đời)
a. Khái niệm Đất Nước: (Từ Đất là nơi anh đến trường đến Cũng biết cúi đầu
nhớ ngày giỗ Tổ)
- Trong những năm tháng Mỹ ngụy còn chiếm đóng, các đô thị miền Nam chịu
ảnh hưởng nặng nề tư tưởng văn hóa nô dịch và phản động, việc nhận thức lại
khái niệm Đất Nước và bản chất của Đất Nước là vô cùng cần thiết.
- Nguyễn Khoa Điềm không giải thích một cách chung chung, trừu tượng mà
dùng cách phân tách rồi tổng hợp nhiều lần để cụ thể hóa khái niệm Đất Nước,
để phát hiện ra Đất Nước trong nhiều chiều, nhiều mặt: thời gian lịch sử đằng
đẵng, không gian địa lý mênh mông, phong tục tập quán muôn màu muôn vẻ:
Đất là nơi anh đến trường
...
Nước là nơi Rồng ở
- Mỗi câu thơ là một định nghĩa, một khám phá về Đất và Nước. Có những
hình ảnh giản dị đến bất ngờ khiến ta ngạc nhiên: “nơi ánh đến trường”, “nơi
em tắm”, “nơi ta hò hẹn”... Tác giả cảm nhận Đất Nước là kỉ niệm tuổi thơ, là
tình yêu buổi ban đầu nồng nàn, trong sáng, là nỗi nhớ sâu đậm trong lời ca
dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất/Khăn thương nhớ
ai/Khăn vắt lên vai/Khăn thương nhớ ai/Khăn chùi nước mắt”.
- Khái niệm Đất Nước được nhận thức ở những tầng bậc mới cụ thể mà toàn
diện, sâu sắc thấm thía hơn bởi cách nói khép lại và mở ra, liên tưởng và hồi
nhớ, thực tế và sách vở hòa quyện.
- Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ nhắc đến huyền thoại “Con Rồng cháu
Tiên”, “Lạc Long Quân”, “Âu Cơ”. Đây là một sự suy ngẫm nghiêm túc,
chân thành về cội nguồn của dân tộc.
- Hai câu thơ:
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính hướng về cội nguồn trong sự
ngưỡng vọng.
+ Từ “Tổ” có nghĩa là cội nguồn, suy rộng ra là nòi giống dân tộc, đất nước,
nói hẹp là gia đình, dòng họ. Ở đây tác giả có cách nói mới giản dị mà sâu sắc
lấy ý từ câu ca dao:
     Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Tóm lại: Với cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng, với những hình ảnh cụ
thể, tiêu biểu trong văn học dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích
khái niệm Đất Nước thật rõ ràng dễ hiểu mà không kém phần hấp dẫn.
Từ đó nhà thơ khẳng định: Đất Nước là sự thống nhất giữa cái chung và
cái riêng, giữa cộng đồng và cá nhân, giữa hiện thực và huyền thoại... Mỗi
người không thể không có trách nhiệm với Đất Nước.
b. Bàn về mối quan hệ giữa Đất Nước và cá nhân (Trong anh và em hôm nay...
Đất nước muôn đời)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
+ “Anh” là nhân vật trữ tình nhà thơ, “em” là nhân vật tác giả tạo ra để tâm
tình, chính là tuổi trẻ - đối tượng mà nhà thơ đang hướng tới.
+ Nguyễn Khoa Điềm nghĩ về Đất Nước sâu sắc và thấm thía trong cảm xúc
ân nghĩa của thế hệ sau với những lớp người đi trước. Chúng ta được thừa
hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do cha ông để lại nên trong mỗi
chúng ta “đều có một phần Đất Nước”. Bằng cách lí giải này, nhà thơ giúp ta
hiểu Đất Nước thật gần gũi, thân thiết ngay trong mỗi con người chúng ta.
+ Nói như thế cũng là để khơi gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người.
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa, nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
+ Hình ảnh “hai đứa cầm tay” gợi tả sự gắn bó thắm thiết của đôi lứa yêu
nhau, là hình ảnh tượng trưng cho hạnh phúc tuổi trẻ, hạnh phúc gia đình. Gia
đình là tế bào của xã hội, là một phần của Đất Nước. “Sự hài hoàm nồng
thắm” ấy có tác dụng khắc sâu mối hòa hợp, thân ái giữa cái riêng và cái
chung, sự thống nhất giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu Đất Nước.
+ Với cách sử dụng các tính từ đi liền nhau: hài hòa nồng thắm, vẹn tròn to lớn
trong kiểu câu có cặp đối xứng về ngôn từ: “Khi... Đất Nước.../ Khi... Đất
Nước...”, kết hợp với nghệ thuật tăng tiến: từ hai đứa cầm tay đến “chúng ta
cầm tay mọi người, từ Đất Nước... hài hòa nồng thắm” đến “Đất Nước vẹn
tròn, to lớn”, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp: Đất Nước là sự
thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân và
cộng đồng. Sự gắn kết ấy làm nên sức mạnh để dân tộc vượt qua mọi thử
thách, chiến thắng mọi kẻ thù.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
+ Các cụm từ “mang Đất Nước đi xa”, “những tháng ngày mơ mộng” phác
họa hình ảnh Đất Nước tươi đẹp, huy hoàng, phồn vinh, thịnh vượng ở tương
lai. Đồng thời biểu thị một niềm tin mãnh liệt vào tài, đức của thế hệ trẻ Việt
Nam. Soi vào thực tế, ta thấy khát vọng của nhà thơ đã thành hiện thực. Giữa
những tháng ngày gian khổ hi sinh chống quân xâm lược, tác giả vẫn vững
niềm tin vào tương lai dân tộc. Điều đó giúp ta hiểu giá trị của niềm tin, niềm
lạc quan trong cuộc sống giúp con người đi tới thành công.
Em ơi Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
+ Nghệ thuật liên tưởng, liệt kê “máu xương”, “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa
thân” kết hợp với điệp ngữ “phải biết” và lời gọi ngọt ngào, trìu mến “Em ơi
em” làm cho giọng điệu thơ giàu chất chính luận, chất trí tuệ mà vẫn trữ tình
tha thiết.
+ Các từ “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” có sức gợi rất lớn, khiến mỗi con
người phải trăn trở, suy ngẫm.
      _ “Gắn bó” là biết đồng cam cộng khổ với nhân dân, không sợ khó, sợ
khổ, dám đứng về phía dân chống lại kẻ thù. Không chê nước nghèo, nước lạc
hậu do chiến tranh liên miên, dám vươn lên từ trong gian khó, cống hiến sức
lực, tài năng, góp phần bảo vệ, xây dựng Đất Nước đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn.
      _ “San sẻ” là biết chia bùi sẻ ngọt, biết sống nghĩa tình Lá lành đùm lá
rách, yêu thươn giúp đỡ mọi người lúc khó khăn. Biết gánh vác trách nhiệm
của một công dân với Đất Nước.
     _Từ “hóa thân” có nghĩa là biến đi rồi hiện lại thành một người hoặc một
vật cụ thể khác nào đó. Cụm từ “hóa thân cho dáng hình xứ sở” nói đến hi
sinh của mỗi con người làm nên hình hài, dáng vẻ, sự trường tồn vĩnh cửu của
Đất Nước, ý nghĩa của từ này sâu sắc hơn từ hi sinh. Ý thơ gợi nhớ bài thơ
“Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên
đường.
Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân
Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Tóm lại: Đoạn thơ là lời tự nhủ, tự khuyên mình của nhà thơ, cũng là lời
căn dặn, nhắn gửi thế hệ trẻ phải có trách nhiệm với Đất Nước, phải sống
hết mình, sống cho ra sống, sống để bảo vệ, tô điểm, làm đẹp cho Đất
Nước muôn đời. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình bộc lộ một tình yêu quê hương
đất nước cháy bỏng.
3. Lí giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân (phần còn lại)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những
núi Vọng Phu

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
- Để chứng minh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, nhà thơ đưa hàng loạt dẫn
chứng bằng hình ảnh, sự việc, con người, câu chuyện dân gian, di tích lịch sử,
văn hóa, danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước, những tên làng, tên
núi, tên sông... Tất cả đều có bàn tay, máu xương của lớp lớp con người Việt
Nam tạo dựng, giữ gìn và hi sinh cho sự trường tồn của Đất Nước và dân tộc.
 + Các điệp từ “những”, “góp” nhấn mạnh vào số lượng nhiều người, nhiều
đối tượng cùng đóng
góp làm nên Đất Nước.
+ Những hình ảnh quen mà lạ: “núi Vọng Phu” xứ Lạng, “hòn Trống Mái” ở
Thanh Hóa, “gót ngựa Thánh Gióng” để lại ao đầm vùng Sóc Sơn, “chín mươi
chín con voi dựng đất Tổ Hùng Vương”, “con rồng nằm im góp dòng sông…”
– sông Cửu Long ở miền Nam, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Nam, “con
cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, “những người
dân góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” được nhắc đến một cách
tự nhiên, thú vị trong cảm xúc chân thành và suy tư sâu lắng của nhà thơ nhằm
khẳng định chân lí: Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, là chủ nhân
đích thực và muôn đời của Đất Nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
- Các từ “ruộng, đồng, gò, bãi” chỉ Đất Nước, nơi nào cũng in dấu người xưa.
“Dáng hình” ông cha để lại cho cháu con phải chăng là dáng hiên ngang không
khuất phục bất cứ kẻ thù nào? “Ao ước” của ông cha phải chăng là ao ước về
một cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc? “Lối sống” ông cha phải chăng là
lối sống cần cù, giản dị, khiêm tốn, thật thà, thủy chung tình nghĩa...?
- Cảm xúc trào dâng khiến tác giả thốt lên thành lời khẳng định: “Và ở
đâu...chẳng mang...”, thành tiếng gọi: “Ôi Đất Nước...” để bày tỏ niềm tự hào,
xúc động trước những cuộc đời, những con người đã hóa thân cho Đất Nước.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
...
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
- Tiếng gọi tha thiết “Em ơi em” với lời khuyên “Hãy nhìn rất xa/ Vào bốn
nghìn năm Đất Nước” cho thấy tấm lòng và dụng ý nhà thơ muốn thức tỉnh
tuổi trẻ bằng lịch sử bốn ngàn năm hào hùng
của dân tộc.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
- Nhà thơ khích lệ tuổi trẻ bằng cách so sánh kín đáo: “Con gái, con trai bằng
tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng…”. Hai từ láy đi liền nhau làm nổi bật phẩm
chất “cần cù” và điều kiện sống vất vả, lam lũ “làm lụng” của những lớp người
đi trước.
- Hình ảnh “người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con”
và “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” đã cụ thể những việc làm mang tính
đặc trưng của mỗi giới. Tác giả đặc biệt ngợi ca người phụ nữ Việt Nam “kiên
cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
- Để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả không nêu tên hoặc
nhắc lại những chiến tích lẫy lừng của các anh hùng tên tuổi mà có dụng ý
chứng minh bằng những anh hùng vô danh:
Có biết bao người con gái, con trai
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ “Họ” ở đây là “những người con gái con trai. Trong bốn nghìn lớp người
giống ta lứa tuổi”. Họ đều trẻ trung, tương lai phơi phới nhưng họ biết vì Đất
Nước mà quên thân mình. Họ sống giản dị mà hữu ích và chết thanh thản bởi
họ biết chết cho lí tưởng của dân tộc.
+ Các cặp từ sóng đôi: “sống” và “chết”, “giản dị” và “bình tâm” tạo điểm
nhấn ngợi ca những con người hi sinh thầm lặng.
-> Đất Nước với các nhà thơ khác là của huyền thoại và anh hùng còn với
Nguyễn Khoa Điềm là của những anh hùng vô danh, của nhân dân. Bằng
những cuộc đời thầm lặng, vô danh, nhân dân đã tạo nên giá trị vĩ đại và
trường cửu đó là Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái
trái
Bằng nghệ thuật liệt kê, điệp đại từ “họ” và sử dụng nhiều động từ liên tiếp
“giữ, truyền, chuyền, truyền, gánh, đắp đập, be bờ”, nhà thơ muốn tôn vinh
nhân dân và cụ thể hóa những việc làm thiết thực, lớn lao của nhân dân, tạo
nên giá trị vật chất và tinh thần để lại cho con cháu muôn đời:
+ Từ buổi sơ khai của con người, “lửa” là một nhân tố quan trọng và cần thiết
đưa loài người vượt hẳn lên một giá trị khác, tách xa loài vật. Từ “lửa” ở đây
hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng: lửa duy trì sự sống và ngọn lửa văn hóa,
truyền thống dân tộc.
+ Khi phát triển cây lúa nước, với người Á Đông nói chung, người Việt Nam
nói riêng, “lửa” và “lúa” là hai thứ tối cần thiết cho cuộc sống. Bởi vậy giữ gìn
“lửa” và “lúa” là giữ gìn sự sống còn của cộng đồng. Đó là cuộc chiến đấu sinh
tử giữa con người và thiên nhiên. Nguyễn Khoa Điềm trân trọng và biết ơn
nhân dân.
+ Với tinh thần dân tộc cao cả, luôn khát vọng duy trì bản sắc dân tộc, cha ông
ta mới “truyền giọng nói, gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Nghĩa là giữ tiếng nói của dân tộc mình, giữ bản sắc của làng quê, của đất nước
để con cháu biết cội biết nguồn. Nhân dân trong thời đại nào cũng vậy, lao
động, chiến đấu, sống, chết giản dị, vô danh. Đánh giặc xong lại trở về với
mảnh vườn thửa ruộng, cần cù, lam lũ với con trâu, cái cày. Nhân dân vĩ đại là
ở đó. Nhân dân không chỉ làm nên lịch sử, nhân dân còn sáng tạo văn hóa.
Chính nhân dân làm ra Đất Nước, Đất Nước thuộc về nhân dân.
+ Câu thơ “Đất Nước của nhân dân. Đất Nước của ca dao thần thoại.” hai lần
nhấn mạnh chủ nhân của Đất Nước này là nhân dân vì “ca dao thân thoại” là
do nhân dân sáng tạo nên. “Đất nước của ca dao thần thoại” cũng chính là
“Đất Nước của nhân dân”
*  Khi nghĩ về truyền thống dân tộc, tác giả chọn ba câu để nói về ba phương
diện quan trọng nhất:
Tình yêu, tình nghĩa và tinh thần chống giặc:
+ Say đắm trong tình yêu: “Yêu em từ thuở trong nôi”
+ Quý trọng tình nghĩa: “Quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.
+ Kiên trì, nhẫn nại, quyết liệt trong căm thù và chiến đấu:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
-> Những câu thơ lấy ý từ ca dao càng khẳng định rõ hơn tư tưởng Đất
Nước nhân dân vì ca dao nói riêng, văn học dân gian nói chung là sản
phẩm do nhân dân sáng tạo, là tâm hồn, tư tưởng, là trí tuệ, khát vọng, là
lời ăn tiếng nói của nhân dân.
- Đoạn thơ cuối tiếp tục gợi bản sắc văn hóa dân tộc:
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Hình ảnh những dòng sông đã đi vào thơ ca từ xưa đến nay. Khi làm nông
nghiệp, cuộc sống con người thường gắn với những dòng sông.
     Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi (ca dao)
+ Sông đi vào tâm hồn nhân dân, là biểu tượng của nước Việt. Hơn nữa từ lâu,
trong ý thức dân gian, sông còn mang ý nghĩa của sự sống, của tình yêu thương
và khát vọng. Đáng tiếc ngày nay vì lợi nhuận, người ta đang đầu độc nhiều
con sông. Nó nhắc nhở chúng ta phải có trách nhiệm góp phần bảo vệ những
dòng sông, trả lại cho dòng sông màu xanh thơ mộng, nước ngọt trong lành.
+ Câu thơ cuối bài là cách diễn đạt hình tượng của thơ ca về sự đa dạng của các
dòng chảy văn hóa trên một đất nước. Nó làm cho nền văn hóa của ta trở nên
vô cùng phong phú, đa dạng: “Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
-> Chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn sự phong phú, giàu có
của nền văn hóa dân tộc. Khi viết chương thơ Đất Nước (cũng như trường
ca Mặt đường khát vọng), mục đích của Nguyễn Khoa Điềm là để thức tỉnh
tinh thần dân tộc của tuổi trẻ ở các đô thị miền Nam trong những ngày ác
liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, mong họ dứt khoát trong sự
lựa chọn đứng về phía nhân dân, phía cách mạng. Cho đến nay, tư tưởng
ấy vẫn còn nguyên giá trị.
PHẦN III. Hướng dẫn viết kết bài bài thơ Đất nước
III. Tổng kết:

1. Nội dung:
- Đất Nước được cảm nhận ở nhiều phương diện: từ văn hóa - lịch sử, địa lí -
thời gian đến không gian của đất nước. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên trách
nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước mình.
- Cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của
nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân
dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước.

2. Nghệ thuật

- Tác giả lựa chọn thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ
trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài
thơ, vừa là cơ hội để dòng chảy của cảm xúc được phát triển một cách tự nhiên.
- Sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian với đa dạng các thể loại: từ phong tục
- tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như
cadao - dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,... Điều đặc biệt là tác giả
sử dụng một cách sáng tạo, không trích dẫn nguyên văn mà chỉ trích một vài từ
nhưng người đọc cũng có thể hiểu về thi liệu dân gian ấy.
- Giọng thơ trữ tình - chính luận, là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư
sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người.

You might also like