You are on page 1of 39

Đề 1 : Trình bày hoàn cảnh sáng tác “ T ây Tiến” -

Quang Dũng
- 1947, đơn vị Tây Tiến được thành lập, Quang Dũng được điều động gia
nhập đơn vị ngay từ những ngày đầu.
- Nhiệm vụ của Tây Tiến là phối hợp với bộ đội Lào,bảo vệ biên giới
Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như
ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam.
- Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao
gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền tây Thanh Hoá và cả Sầm
Nưa ( Lào )
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều
học sinh, sinh viên, chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu
thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy họ sống rất lạc
quan và chiến đấu dũng cảm.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hoà
Bình thành lập trung đoàn 52.
- Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị
cũ chưa được bao lâu, tại Phù Lưu chanh( Hà Đông cũ), nhớ đơn vị, Quang
dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên là Tây Tiến. Tác
phẩm in trong tập Mây đầu ô (1986).

Đề 2. Giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm


1. Nêu vấn đề
Quang Dũng (1921 - 1988) là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết
văn, vẽ tranh, soạn nhạc,...Nhưng Quang Dũng trước hết là một hồn thơ
phóng khoáng, hồn hậu, tài hoa - đặc biệt khi ông viết về người lính và xứ
Đoài mây trắng lắm của mình. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho phong
cách nghệ thuật thơ Quang Dũng. Ban đầu, bài thơ có tên là "Nhớ Tây
Tiến", khi in lại trong tập "Mây đầu ô" (1986), tác giả đổi tên lại là Tây
Tiến.
2. Lí giải
a. Nhớ Tây Tiến
- Nhan đề này đã khái quát trọn vẹn cảm xúc chủ đạo của bài
thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây hoang sơ, hùng vĩ, hiểm
trở, dữ dội, heo hút mà thơ mộng, thanh bình. Nỗi nhớ những chặng đường
hành quân nhọc nhằn, gian khổ. Nỗi nhớ về những đêm liên hoan và sông
nước miền Tây. Nỗi nhớ về những người lính Tây Tiến với vẻ đẹp vừa dữ
dội, lẫm liệt, vừa lãng mạn, hào hùng, bi tráng.
- GS Đặng Anh Đào đã cảm nhận thật tinh tế: "Đoàn quân đã
đi xa, một mình nhà thơ ngược lại con đường - trong kí ức" sống trong nỗi

1
nhớ, kỉ niệm. Quang Dũng đặt tên bài thơ là Nhớ Tây Tiến một cách thật tự
nhiên, giản dị như nỗi nhớ da diết, mãnh liệt chơi vơi trong cõi lòng.
b. Nhan đề Tây Tiến
- Trong sáng tác văn học, điều tối kị nhất là " ý kị nông, mạch
kị lộ", sức hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm sẽ không còn. Quang Dũng bỏ đi
một chữ nhớ để nhan đề cô đọng, ngắn gọn, hàm súc, tránh lộ ý, lộ mạch
cảm xúc của bài thơ. Không cần một chữ nhớ trong nhan đề thi phẩm, đọc
bài thơ, vẫn thấy một nỗi nhớ đằm thắm, thiết tha.
- Nhan đề "Tây Tiến" còn khắc họa nổi bật hình tượng trung
tâm bài thơ: Hình tượng người lính Tây Tiến hào hùng, lãng mạn, hào hoa
chiến đấu ở miền Tây Bắc Tổ quốc, một vùng rừng núi hoang sơ, heo hút,
hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi yên ả, thanh bình.
- Bỏ đi chữ "Nhớ", nhà thơ còn tô đậm được hai chữ Tây Tiến,
một cái tên máu thịt trong cuộc đời biết bao người, một nét khảm vào hoài
niệm da diết, một dư âm không dứt của cuộc đời chiến binh. Đó là những
tên làng tên núi tên sông/ Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc.
- Nhan đề Tây Tiến còn tạo ra âm điệu chắc khỏe, rắn rỏi, gợi
âm hưởng của một khúc quân hành hào hùng, bi tráng như "Nam tiến",
"Tiến quân ca". Quang Dũng bỏ đi một chữ Nhớ có phần ủy mị để cảm giác
về hành khúc mạnh mẽ hơn, âm hưởng bài thơ hào hùng, vang vọng hơn.
3. Đánh giá
Chỉ một nhan đề ngắn gọn với hai chữ Tây Tiến, Quang Dũng
đã gợi mở nhiều ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa. Có thể nói đây là bài học lớn cho
quá trình sáng tạo nghệ thuật. Người nghệ sĩ cần trăn trở, sáng tạo không
ngừng và chọn lọc những gì tinh túy, chân thực nhất của cuộc đời để làm
nên chất mật ngọt cho những tác phẩm văn chương.
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
……………………………
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hướng dẫn
I.Mở bài:
Nhà thơ Quang Dũng ( 1921 – 1988 ) sinh ra trên đất Hà Tây ( làng
Phượng Trì, huyện Đan Phượng), nhưng chủ yếu lại sống ở Hà Nội. Hà
thành hoa lệ không thể không ảnh hưởng tới hồn thơ Quang Dũng, nên
người nghệ sĩ đa tài này có một hồn thơ thật hào hoa, bay bổng, nồng nàn
một tình yêu đất nước và con người đến si mê. Bài thơ Tây Tiến của ông
từng có số phận khá truân chuyên. Song thời gian luôn là ông thầy công
minh nhất cho những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Vì thế , vượt qua năm

2
tháng, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ngày càng toả sáng. Đoạn thơ sau
là một đoạn thơ xuất sắc của thi phẩm:
II. Thân bài :
1.Giới thuyết chung về tác phẩm: ( nêu ngắn gọn về bài thơ : hoàn cảnh
sáng tác, bố cục, vị trí của đoạn trích và nội dung khái quát của đoạn )
- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Quang
Dũng – người nghệ sĩ lãng mạn và tài hoa - đã có mặt trong đoàn quân Tây
Tiến từ những ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948
rồi chuyển về đơn vị khác.
- Một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( một làng thuộc
huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây) nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã sáng tác bài
thơ này.
- Bài thơ là sự hoà trộn ba cuộc đời – cuộc đời một vùng đất Tây Bắc
hùng vĩ hiểm trở, cuộc đời những chàng trai Hà Thành mặc áo lính Tây
Tiến, dũng cảm, hào hoa và cuộc đời của QD gắn bó sinh mệnh mình với
Tây Bắc một thời binh lửa.
- Bài thơ được cấu trúc theo diến biến tự nhiên của nỗi nhớ. Nhớ về
Tây Tiến, nhà thơ nhớ về thiên nhiên miền tây với những vùng đất mình đã
đi qua trên những con đường hành quân gian khổ, nhớ về sông nước miền
tây và những kỉ niệm đẹp đẽ của đời chiến binh, nhớ về người lính Tây Tiến
– những đồng chí, đồng đội của một thời. Kết thúc bài thơ là lời nguyện ước
thiêng liêng "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
- Đoạn thơ trên thuộc phần mở đầu của tác phẩm diễn tả nỗi nhớ của
QD về thiên nhiên, núi rừng Miền Tây và những chặng đường hành quân
gian khổ ngày nào.
2. Phân tích đoạn thơ:
Bỏ đi một chữ Nhớ trong nhan đề, nhưng cả bài thơ ăm ắp dâng lên
một nỗi nhớ. Nỗi nhớ dâng sóng ngay từ những câu thơ mở đầu:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết, ngân dài, tha thiết:
"Sông Mã xã rồi Tây Tiến ơi!".
- Trong tiếng Việt, ơi là âm mở, lại là thanh bằng, ở cuối câu thơ tạo
âm hưởng lan tỏa, ngân vang, đem đến cảm giác tiếng gọi như vọng ra từ
vách đá hoang vu, hùng vĩ, điệp trùng. Tiếng gọi được khơi nguồn từ núi
cao, vực sâu, dốc thẳm, sương dày. Dường như Quang Dũng đang đứng giữa
không gian mênh mông, bát ngát, cất lên tiếng gọi trìu mến, thân thương, da
diết bằng cả niềm thương nhớ da diết trong cõi lòng.
- Nhà thơ gọi “Sông Mã”:

3
+ Sông Mã là con sông từ Thượng Lào chảy vào đất Việt, là hình ảnh
thiên nhiên miền Tây hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở "chiều chiều oai linh thác
gầm thét" đầy dữ dội.
+ Theo dòng chảy của Sông Mã, các địa danh miền Tây gắn liền với
những chặng đường hành quân của người lính được hiện lên thật tự nhiên,
chân thực, sống động: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai
Châu, Châu Mộc, Sầm Nứa,...Có thể nói, theo suốt dọc dài Sông Mã, những
tên đất, tên làng từng in dấu chân người lính đã sống lại trong kí ức một thời.
+ Sông Mã còn là chứng nhân lịch sử chứng kiến mọi vui buồn của
cuộc đời chiến binh, từ kỉ niệm chia tay đầy lưu luyến trong một chiều
sương mờ giăng mắc đến những mất mát, hi sinh của người lính trên những
chặng đường hành quân nhọc nhằn, gian khổ, mưa nắng dãi dầu. Ta hiểu vì
sao., mỗi người lính Tây Tiến ngã xuống "sông Mã lại gầm lên khúc độc
hành. Dòng sông được nhân hóa như một sing thể, có trái tim, có cảm xúc,
có tâm hồn, cất lên tiếng kêu thương trong đớn đau, phẫn nộ. Tiếng kêu đau
thương ấy của dòng sông giống như khúc nhạc chiêu hồn tử sĩ của một dòng
sông hoang dại.
+ Trong mạch cảm xúc và kết cấu bài thơ, ta luôn thấy thấp thoáng
hình ảnh dòng sông. Từ dòng sông khơi mở cảm xúc ban đầu "sông Mã xa
rồi Tây Tiến ơi!' đến dòng sông đong đưa, tình tứ "Trôi dòng nước lũ hoa
đong đưa", dòng sông "gầm lên khúc độc hành" phẫn nộ, bi tráng đến kết
thúc bài thơ là dòng sông tâm hồn "chẳng về xuôi" mãi mãi thủy chung với
Sầm Nứa, với thiên nhiên miền Tây, với đồng chí, đồng đội. Sông Mã là
dòng sông tâm trạng, tâm hồn, chở nặng nỗi niềm, cảm xúc đầy vơi trong
lòng thi nhân.
=> Như vậy, gọi sông Mã là gọi kí ức, gọi quá khứ, kỉ niệm, gọi chính
tâm hồn mình và gợi lại cả một thời lịch sử của đất nước, dân tộc.
- Cảm xúc của nhà thơ không chỉ hướng về sông Mã mà còn
hướng về Tây Tiến, vì Tây Tiến nay đã "xa rồi".
+ Xa rồi về không gian, vì đường lên Tây Bắc, lên với binh đoàn Tây
Tiến Năm nào "thăm thẳm một chia phôi" không biết bao giờ mới có thể trở
lại.
+ Xa rồi về thời gian, vì sông Mã và Tây Tiến mãi mãi là mùa xuân
ấy, mùa xuân đã qua đi không thể trở lại bao giờ.
+ Tính từ xa rồi đặt giữa hai danh từ Sông Mã và Tây Tiến tạo ra một
khoảng không gian xa xăm, mênh mông vời vợi và mỗi tên gọi thân thương
ấy như đang đứng ở một đầu nỗi nhớ mà hướng về nhau, thao thức, khắc
khoải vì nhau.

4
Qua tiếng gọi ngân dài tha thiết cùng những địa danh gần gũi, thân
thương gắn bó với những người lính một thời binh lửa, nỗi nhớ của Quang
Dũng hiện lên thật cồn cào, da diết, cháy bỏng, thiết tha.
- Câu thơ thứ hai diễn tả cụ thể hơn nỗi nhớ trong lòng thi nhân.
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
+ "Rừng núi" là hình ảnh khái quát về thiên nhiên miền Tây, một
vùng rừng núi hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nhưng cũng rất thi vị, nên
thơ. Hình ảnh rừng núi còn gắn liền với địa bàn hoạt động của những người
lính Hà Thành lần đầu đến với vùng đất xa xôi này.
+ Câu thơ 7 tiếng được ngắt thành hai nhịp, mỗi nhịp được mở đầu
bằng một điệp từ "nhớ" diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết như dâng sóng
trong lòng. Nỗi nhớ này chưa qua, nỗi nhớ khác đã ào tới. Sông Mã, Tây
Tiến, rừng núi miền Tây,...những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi cứ nối
tiếp nhau hiện về trong kí ức trào dâng.
+ Ấn tượng về một vùng rừng núi hoang vu, khắc nghiệt để lại trong
tâm hồn nhà thơ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, QD nhớ về những tháng
ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm, nhưng chẳng biết gọi tên
chính xác nỗi nhớ ấy. Nhà thơ gọi là “ Nhớ chơi vơi”. Hai tiếng “chơi vơi”
dùng ở đây thật đắc địa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng,
nhưng hình như rất sâu nặng và mênh mang.
+ Tâm trạng nhớ ấy ta đã không chỉ một lần gặp trong ca dao: “Ra về
nhớ bạn chơi vơi”, hoặc : “ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi / Như đứng đống lửa, như
ngồi đống than”. QD đã lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trưng thêm cho
nỗi nhớ chơi vơi của mình. Chỉ có điều, người xưa nhớ bạn, nhớ người
thương, một nỗi nhơ chơi vơi, khắc khoải “ nhất nhật bất kiến như tam thu
hề ” (một ngày không gặp như ba mùa thu ), còn nỗi nhớ “chơi vơi” của QD
dành cho Sông Mã, dành cho Tây Tiến. Thế mới biết, tình thương, nỗi nhớ
của nhà thơ với thiên nhiên miền Tây và đồng chí đồng đội sâu nặng biết
nhường nào!
=> Trong hai câu đầu, Quang Dũng sử dụng hai điệp từ nhớ, tài hoa,
sáng tạo dùng chữ chơi vơi, láy lại ba lần âm ơi, những âm mở, thanh bằng
mang âm hưởng vang vọng, lan tỏa, khiến nỗi nhớ được ngân xa, cả không
gian, thời gian, cả tâm hồn, cảm xúc đều ngập tràn nỗi nhớ.
- Có thể nói, khi kí ức mãnh liệt, nó có khả năng hiện tại hoá quá khứ.
Vì thế, chỉ từ nỗi nhớ chơi vơi về những ngày tháng gian khổ đã qua, từ
mênh mông núi rừng Tây Bắc ấy, hình ảnh người lính đã hiện ra thật chân
thực giữa một bối cảnh vừa thi vị, lãng mạn, lại vừa dữ dội, hoành tráng
khác thường:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

5
+ Với bút pháp lãng mạn, kết hợp bút pháp hiện thực, QD đã miêu tả
vừa chân thực vừa nên thơ con đường hành quân gian khổ và người lính Tây
Tiến trên những chặng đường đầy gian khổ đó. Hành quân giữa rừng núi có
hương hoa rừng và mờ mịt hơi sương, những người lính mỏi mệt như bị chìm
lấp đi trong sương khói. Không phải một, hai người lính mỏi mệt mà cả
“đoàn quân mỏi” bởi sự khắc nghiệt, lạnh giá của đất trời mờ sương. Nhà thơ,
nhà phê bình Vũ Quần Phương đã bình câu thơ này thật cảm động: "Đoàn
quân không gợi một chút nào cái hùng sân khấu mà đoàn quân mệt mỏi vì
đường xa, bụi bặm, đói khát". Có thể nói “Mỗi bước đường mỗi bước hi
sinh” ( Đất nước – Nguyễn Đình Thi ). Nhưng người lính Tây Tiến vẫn hiện
lên thật đẹp, thật lãng mạn trong cái nhìn thi vị, tài hoa của QD.
+ “ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Câu thơ đẹp như một bức tranh
thuỷ mặc, nó có vẻ đẹp của xứ lạ phương xa với cái tên Mường Lát, nó có
vẻ đẹp huyền ảo, mơ hồ với khói sương bồng bềnh như “đêm hơi”, nó có
cái đa tình của tâm hồn những người lính trẻ lần đầu đến với rừng núi miền
Tây Bắc. Câu thơ này có nhiều cách hiểu:
1. Phải chăng, khói sương ở Mường Lát, một hiện thực gian khổ, khắc
nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong cảm nhận của lính tây Tiến, lớp khói
sương bồng bềnh, lúc tụ vào, lúc tan ra tựa như những bông hoa đang theo
người lính Tây Tiến trở về?
2. Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường hành quân trở
về, họ mang theo những đoá hoa rừng về Mường Lát?
3. Trong những vẻ đẹp của tự nhiên, tạo hoá, đẹp nhất là con người,
con người là sản phẩm tuyệt vời nhất của tự nhiên, phải thế chăng mà mỗi
người lính Tây Tiến được ví như một bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang
trở về tụ hội nơi đây?
4. Và một trong những ý nghĩa mà ta không thể phủ nhận là do hành
quân trong đêm, đường lại nhiều đèo lắm dốc, khúc khuỷu, gập ghềnh đầy
hiểm nguy, nên những người lính Tây Tiến đã phải đốt đuốc đi trong đêm.
Những ngọn đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung
linh như bông hoa giữa khói sương mờ ảo?
=> Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó
khăn, gian khổ mà người lính đã trải qua. Hiểu về hiện thực khốc liệt của
chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng
mơ của họ.
Trong cuộc sống, nhiều khi để vượt qua khó khăn, gian khổ, con
người cần đến sự mơ mộng của tâm hồn. Nhưng có nhiều khi cần nhìn vào
thực tế để có thể đương đầu với mọi khó khăn. Vì thế, sau những cảm nhận
đầy thơ mộng, lãng mạn về bức tranh thiên nhiên và hồn người, những câu
thơ tiếp theo với nhịp điệu tiếp nối liên tục của những thanh trắc đã đẩy cái

6
mù mịt của trời đất thêm mù mịt hơn, đã đẩy chiều cao của con đường thêm
vời vợi hơn:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.
- Trong hai câu đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc
khuỷu, thăm thẳm, heo hút) có giá trị gợi cảm, gợi hình cao. Các từ này
lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp.
+ Dốc khúc khuỷu gợi tả những chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở,
gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc, lúc lại chìm ẩn đi trong cái thăm
thẳm, rợn ngợp, mênh mông. Những chặng đường gấp khúc, đứt nối cứ thế
hiện ra trước mắt.
+ Sau những con đường đầy dốc khúc khuỷu là những dốc núi thăm
thẳm. "Dốc thăm thẳm" là cách viết tài hoa của Quang Dũng không chỉ
nhằm gợi tả chiều cao mà còn gợi ấn tượng về chiều sâu, cảm giác như hút
tầm mắt, không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Câu thơ này miêu tả rất thực
địa hình miền Tây hoang sơ, hiểm trở, hùng vĩ, nhiều dốc, lắm đèo. Những
người lính phải vượt qua muôn ngàn dốc núi, nhìn xuống phía dưới, thấy
dốc sâu thăm thẳm đến vô tận, vô cùng.
+ Điệp từ "dốc" đứng đầu hai nhịp thơ, được lặp lại hai lần liên tiếp
đem đến cảm giác con dốc này chưa qua, con dốc khác đã hiện ra quanh co,
thăm thẳm ngay trước mặt. Đường vào đất Thục trong bài Thục đạo nan của
Lí Bạch ( Thục đạo chi nan, nan y thướng thanh thiên - Đường Thục khó đi,
khó như lên trời xanh ) có lẽ cũng chỉ hiểm trở đến thế là cùng.
+ Tuy nhiên, với cảm hứng lãng mạn, hào hùng, sôi nổi, trẻ trung của
những người lính đã đi không tiếc đời mình (Thanh Thảo), mọi con đường
đều ở dưới bàn chân. Họ đã vượt qua những dốc núi khúc khuỷu, thăm thẳm
và đứng trên đỉnh núi cao nhất:
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
+ Heo hút diễn tả sự hoang vu, vắng vẻ, hiu quạnh. Cồn mây là mây tụ
lại, nổi thành cồn giữa không gian bao la, hùng vĩ, cao rộng. Câu thơ gợi ra
hình ảnh người lính Tây Tiến đứng trên đỉnh núi cao hoang vu, trơ trọi, xung
quanh bốn bề gió thổi vi vút. Nghệ thuật đảo ngữ với từ "heo hút" đứng đầu
câu đã khắc họa rõ sự hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây tư thế hiên
ngang của những của những người lính trẻ. Quang Dũng đã mở ra không
gian ra nhiều chiều từ sâu thăm thẳm đến cao vời vợi khiến hình ảnh thơ như
được chạm khắc thành một bức phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc.
Chặng đường hành quân ngàn dặm của người chinh phu chốn xa trường

7
trong Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) cũng chỉ hùng vĩ, dữ dội đến thế là
cùng:
"Hình khe thế núi xa gần
Đứt thôi lại nỗi, thấp đà lại cao"
+ Trong câu thơ này, Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa
qua ba chữ "súng ngửi trời":
1. Trước hết, đây là hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện
thực: Người lính Tây Tiến hành quân trong mây mà tưởng như nòng súng
chạm tới đỉnh trời.
2. Đây là hình ảnh lạ, đẹp, táo bạo làm rõ vẻ đẹp hào hùng, hào
hoa, lãng mạn của người lính.
* Hào hùng: Quang Dũng không nói đến người lính mà hình ảnh
người lính hiện lên rất rõ; không nói đến núi cao mà người đọc vẫn nhận ra
núi cao điệp trùng. Chữ "ngửi" vẽ ra hình ảnh người lính ở trên đỉnh núi cao
nhất, họ đứng giữa ngàn mây và nòng súng chạm tới đỉnh trời. Câu thơ cho
thấy sự hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính trong tư thế
làm chủ thiên nhiên, sánh ngang trời đất. Chân dung con người được nâng
tầm kích sử thi, tỏa sáng rạng ngời giữa đất trời miền Tây. Câu thơ gợi nhớ
tới hình ảnh rất đẹp của người vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đề nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo.
(Lên Tây Bắc)

* Lãng mạn, hào hoa: Bởi súng và trời là những sự vật vô tri vô giác.
Chữ ngửi làm cho thiên nhiên trở nên sinh động, có linh hồn. Dường như
súng và trời đang ngửi nhau, đang trêu đùa nhau. Câu thơ cho thấy tâm hồn
lãng mạn, trẻ trung, hồn nhiên, tếu táo, tinh nghịch của người lính trẻ.
* Đẹp, lạ, táo bạo bởi cách dùng từ của Quang Dũng. Nhà thơ có thể
thay chữ "ngửi" bằng chữ "chạm" . Nhưng chữ chạm chỉ miêu tả được độ
cao, còn chữ ngửi không chỉ miêu tả được độ cao mà còn gợi được cả linh
hồn của thiên nhiên, tạo vật. Đặc biệt ba chữ "Súng ngửi trời" còn đem đến
cảm giác người lính như đang bay trong mây. Trước thiên nhiên khắc nghiệt,
người lính Tây Tiến không bị chìm đi mà lại nổi lên đầy thách thức, lạc
quan, yêu đời. Có lẽ, Quang Dũng là nhà thơ đầu tiên trong văn học dân tộc
đưa chất lính tráng vào thơ ca hồn nhiên, vô tư đến thế.
=> Chỉ bằng một câu thơ, Quang Dũng đã thực sự làm nổi hình, nổi sắc
thiên nhiên, chân dung con người trong những chặng đường hành quân nhọc

8
nhằn, khó khăn, gian khổ. Nhưng, những khó khăn chưa dừng lại ở đó. Câu
thơ thứ 3 như nhân lên gấp bội sự thử thách, khốc liệt của thiên nhiên:
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
+ Ngàn thước là ước từ chỉ số lượng không xác định. "Lên", "xuống"
là hai động từ đối lập nhau về nghĩa. Điệp từ ngàn thước được lặp lại hai
lần, kết hợp cách ngắt nhịp câu thơ 4/3 khiến câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi,
miêu tả hai chiều không gian Tây Bắc vừa có độ cao chót vót như lên đến
tận đỉnh trời, vừa có chiều sâu thăm thẳm như đến cõi vô biên. Ngòi bút tạo
hình gân guốc, rắn rỏi của Quang Dũng đã khắc họa thật ấn tượng những
dốc núi miền Tây theo phương thẳng đứng. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại
đột ngột gãy gập, đổ xuống một cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh
núi bị đứt gãy giữa không trung. Đúng là chỉ "đọc câu thơ và nghe đã muốn
mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
+ Không tả nhiều, chỉ bằng một vài nét gợi, đặc biệt là cách sử dụng
âm điệu tài hoa, âm điệu dựng thành dốc cứ hun hút đến ghê người, Quang
Dũng đã gợi tả nên thơ, nên họa bức tranh thiên nhiên miền Tây và con
đường hành quân đầy nhọc nhằn gian khổ của những chiến binh kiêu hùng
thời kháng Pháp.
- Giữa âm điệu gồ ghề của câu thơ thanh trắc và nhịp thơ ngắt ra làm
đôi như dốc núi dựng đứng vừa hiểm trở vừa dữ dội hoang vu, câu thơ “
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thả xuống toàn thanh bằng, tạo một dấu
lặng đột ngột của khúc quân hành, mở ra một nét nhạc bâng khuâng man
mác hồn người. “Nhà ai” , một ngôi nhà không xác định, nhạt nhoà trong
mưa, vậy mà tứ thơ đã chuyển biến. Sau sự mất thăng bằng, đứt đoạn của
câu thơ trước, câu thơ này lâng lâng, êm đềm như một chỗ dừng chân. Sau
khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến sĩ Tây Tiến như
đứng trên đỉnh cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa trắng.
Thanh bằng của từng chữ trải xa, mênh mang, diễn tả màn mưa giăng mắc
núi rừng. Một cảnh tượng thật thân quen, thật thanh bình, tâm hồn thật yên
ả. Phải có những phút giây như thế này, người chiến sĩ Tây Tiến mới có thể
vượt qua được những thử thách mới đầy dữ dội của thiên nhiên với “ thác
gầm thét”, “ cọp trêu người”…Cách phối hợp thanh bằng trắc trong đoạn thơ
gợi liên tưởng đến những câu thơ tuyệt bút của Tản Đà: "Tài cao phận thấp
chí khí uất / Giang hồ mê chơi quên quê hương". Chỉ có điều, Tản Đà tả
tình, Quang Dũng tả cảnh, cả hai đều là những tâm hồn thi sĩ.
* Bốn câu thơ đã thể hiện sự tài hoa của hồn thơ Quang Dũng trong
việc sử dụng bút pháp tạo hình, gợi hơn tả, sử dụng điệp từ, điệp ngữ, đảo
ngữ, nghệ thuật nhân hóa sáng tạo, phối hợp thanh điệu độc đáo, tài hoa.
Đồng thời thủ pháp nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng rất quen thuộc của Đường
thi được sử dụng hiệu quả. Một mặt, có khả năng gợi tả sự hùng vĩ, hiểm trở

9
dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Mặt khác, làm nổi bật hình ảnh người lính Tây
Tiến trên bước đường hành quân, chiến đấu đầy vất vả, hi sinh nhưng vẫn
lạc quan, lãng mạn, yêu đời, luôn hướng về tương lai phía trước.
3.Đánh giá:
-Tây Tiến được viết bằng thể thơ thất ngôn. Trong truyền thống, từng
tạo ra những bài thơ buồn bã nhất, từ “Thăng Long thành hoài cổ” ( Bà
huyện Thanh Quan), tới Nguyệt cầm(Xuân Diệu), Tống biệt hành ( Thâm
Tâm ). Nhưng bài thơ Tây Tiến có bi mà vẫn tráng, xứng đáng là “khúc độc
hành của một dòng sông hoang dại” ( Đặng Anh Đào )
-Đoạn thơ có cách gieo vần độc đáo. Vần “ơi” đặt ở cuối câu thơ là
những vần bằng đem lại cảm giác lạ tai, mung lung, âm u, kích thích hứng
thú phiêu lưu, mạo hiểm.
-Sự sáng tạo hình ảnh thi vị, lãng mạn, tài hoa kết hợp với cách nhắt
nhịp đầy tính tạo hình đã góp phần tạo nên vẻ đẹp một hồn thơ thật sự trong
thơ ca cách mạng. Đúng như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói, đại ý: có
những người làm thơ thì gọi là nhà thơ, nhưng có những người làm thơ được
gọi là thi nhân, QD thì phải gọi là thi nhân mới đúng.
-Nỗi nhớ về thiên nhiên, con người trong đoạn thơ còn được gợi lên từ
những tên, những miền đất lạ : Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông…Đây không phải là những địa danh vô cảm trên bản đồ mà đoàn
quân Tây Tiến một thời đã đi qua, cũng không phải ngẫu nhiên mà QD thích
thú với những âm thanh trầm bổng ấy. Đó là cảm hứng của cả một thời cách
mạng phát hiện ra đất nước “ Những tên làng, tên núi, tên sông / Những cái
tên đọc lên nghe muốn khóc”, một nhà thơ cùng thời với QD đã viết như
vậy.
-Bằng nghệ thuật tạo hình gần với lối vẽ tranh thuỷ mặc, phối hợp
thanh điệu độc đáo, kết hợp bút pháp hiện thực và lãng mạn; QD đã diễn tả
rất ấn tượng cái dữ dội, hoang sơ, âm u, bí ẩn của thiên nhiên miền tây, cùng
vẻ đẹp tâm hồn người lính Tây Tiến : Lãng mạn, đa cảm, lạc quan, tinh
nghịch, hồn nhiên yêu đời mà hiên ngang dũng cảm biết bao nhiêu. Quả
thực, trong thơ ca kháng chiến Việt Nam, không thể thiếu một bài thơ như
thế, một hồn thơ như thế.
III. Kết luận
Có người đã than thở về sự bạc bẽo của thời gian. Thời gian như lớp
bụi sẽ xoá mờ đi tất cả, và lòng người sẽ lãng quên. Nhưng tôi tin, thời gian
luôn là ông thầy công minh nhất cho những tác phẩm nghệ thuật chân chính.
Tây Tiến của QD là một thi phẩm như thế. Làm sao không nhớ, không yêu
một đoạn thơ, một bài thơ như thế này!

10
Đề 3: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Tây Tiến
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
----------------------
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
I. Nêu vấn đề
II. Thân bài
1. Giới thuyết chung
- Hoàn cảnh sáng tác
- Bố cục
- Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ thuộc phần đầu bài Tây Tiến, diễn tả nỗi nhớ về
thiên nhiên miền Tây và hình ảnh người lính trên con đường hành quân gian
khổ; từ đó làm hiện lên cuộc sống vất vả, nhiều mất mát hi sinh nhưng rất
lãng mạn, mộng mơ trong tâm hồn những người lính trẻ.
2. Phân tích
a. Hai câu đầu: Diễn tả cụ thể, chân thực những khó khăn gian khổ mà
người lính Tây Tiến đã trải qua:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Anh bạn là cách gọi người đồng chí, đồng đội thân thiết của nhà thơ, những
chàng trai Hà thành mặc áo lính lên đường ra trận, chiến đấu ở vùng biên
cương của Tổ quốc. Hoạt động và chiến đấu trên địa bàn rộng lớn, hùng vĩ,
hiểm trở, hoang sơ, dữ dội của miền Tây, những chiến sĩ đã trải qua bao dãi
dầu sương gió. Mái tóc, khuôn mặt như bạc màu vì nắng lửa, mưa rừng,
sương mờ, gió núi. Mệt mỏi, cực khổ, chịu nhiều thử thách, gian nan; nhiều
người lính đã "dãi dầu không bước nữa". Không bước nữa là dừng bước trên
cuộc hành trình. Sự kết hợp giữa hai cụm từ "dãi dầu" và "không bước nữa"
đem đến cho người đọc cảm nhận thật sâu sắc về những khó khăn, gian khổ
trên con đường hành quân với những dốc núi thăm thẳm, khúc khuỷu, quanh
co, trùng điệp. Dường như người lính đã hoàn toàn kiệt sức sau mỗi chặng
đường.
- Câu thơ thứ hai khắc họa sâu sắc hơn, ấn tượng hơn những gian khổ ấy:
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
+ Không lãng mạn, không tô hồng hiện thực, ngòi bút Quang Dũng đã khai
thác đến tận cùng sự thật mất mát, hi sinh trong chiến trận qua một chữ
"gục" đầy giá trị biểu cảm và tạo hình. Chữ "gục" có thể hiểu là sự mệt mỏi
khiến người lính tạm thời ngủ gục trên súng mũ như muốn quên đi tất cả.
"Gục" cũng là cách nói giảm, nói tránh diễn tả sự hi sinh của người lính vì
Tổ quốc. Nói về mất mát, gian khổ, hi sinh nhưng không bi lụy. Có một điều
kì lạ làm sáng cả ý thơ là người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn trong
tư thế người lính. Họ đã hi sinh nhưng gục lên súng mũ. Gục lên hành trang

11
trong chiến trận của mình. Nghĩa là họ vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu,
sẵn sàng tiếp tục một cuộc hành trình. Đặc biệt, ba từ "bỏ quên đời" thật kiêu
hùng, ngạo nghễ. Nó thể hiện tinh thần coi cái chết nhẹ tựa lông hồng của
chiến sĩ Tây Tiến hào hoa. Đâu phải mất mát, hi sinh, đau thương đến tột
cùng mà chỉ là "bỏ quên đời" thật nhẹ nhàng, thanh thản. Cuộc đời con
người thật đáng quý biết bao, nhưng vì đất nước, Tổ quốc, họ sẵn sàng bỏ
quên đời xanh, tuổi trẻ trên dương gian để trở về cõi vĩnh hằng. Phải chăng,
đó cũng là tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của những chiến sĩ
binh đoàn Tây Tiến một thời. Đọc câu thơ này của Quang Dũng, ta không
khỏi xúc động khi nghĩ tới người lính trong trong trận đánh ở sân bay Tân
Sơn Nhất:
"Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh vội đứng lên tì súng vào xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng".
(Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)
+ Trong kháng chiến chống Pháp, người lính gục lên súng mũ bỏ quên
phần đời cao đẹp của mình. Trong kháng chiến chống Mĩ, người lính bị
trúng đạn, máu phun theo lửa đạn cầu vồng vẫn tì súng vào xác trực thăng
kiên cường chiến đấu. Hai nhà thơ viết về người lính trong hai giai đoạn
khác nhau của cuộc chiến tranh giải phóng, nhưng họ đều có tinh thần dũng
cảm, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc. Họ đã trở thành bức tượng đài
bất tử trong văn học dân tộc, trở thành dáng đứng Việt Nam kiên cường, bất
khuất.
b. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn, dữ dội
luôn đe dọa, rình rập con người:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
- Nếu hai câu đầu là sự gian khổ, hi sinh bi tráng, hào hùng mà nhẹ
nhàng, thanh thản, kiêu bạc, hào hoa của người lính chiến đấu ở vùng biên
cương Tổ quốc thì hai câu tiếp theo là bức tranh thiên nhiên hoang sơ, bí ẩn,
khắc nghiệt, dữ dội, luôn đe dọa, rình rập con người.
+ Hai trạng từ chỉ thời gian tiếp diễn "chiều chiều", "đêm đêm" diễn tả
sự ám ảnh của thời gian miền Tây đối với con người. Chiều qua, đêm tới,
ngày nào cũng vậy, thời gian luôn là nỗi đe dọa khủng khiếp với những
người lính trẻ. Buổi chiều, những con thác oai linh gầm thét, đe dọa, chứa
đầy bí ẩn linh thiêng của núi rừng hoang dại, hoang vu. Đêm đêm, ở Mường
Hịch, cọp dữ rình bắt người ăn thịt. Đó là sự thật tàn khốc mà thiên nhiên
miền Tây luôn rình rập, đe dọa, uy hiếp con người.

12
+ Chữ "gầm", "trêu" qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng đã nhân
cách hóa sống động các hình ảnh thiên nhiên vốn vô tri, vô cảm. Thác dữ
gầm lên dữ dội như một hoang thú. Hoang thú hóa thành tinh ăn thịt người.
Một chữ "trêu" nhẹ nhàng như một lời nói đùa tếu táo nhằm giảm bớt đi sự
đau thương, nhưng sự đau thương vẫn nhân lên gấp bội. Bởi có sự đùa trêu
nào tàn khốc xót xa bằng cách lấy đi cả mạng sống của con người. Đó là sự
trêu đùa tàn khốc của thiên nhiên mà hàng ngày người lính phải chống chả
để sinh tồn, chiến đấu, hi vọng và ước mơ.
+ Câu thơ "Chiều chiều oai linh thác gầm thét" có âm hưởng càng
ngày càng dữ dội, khốc liệt. Từ bốn thanh bằng "chiều chiều oai linh" ở nửa
đầu câu thơ đã chuyển thành các từ mang thanh trắc dữ dội nửa cuối câu thơ
"thác gầm thét" đem đến cảm tưởng âm thanh của những con thác dữ càng
ngày càng gầm thét hung bạo, dữ dội trong cái âm u của sương chiều. Hai
tiếng mở đầu và cuối câu thơ "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" là
thanh bằng gợi tả màn đêm tĩnh mịch, quạnh vắng, âm u. Nhưng hai thanh
trắc nối tiếp nhau ở giữa dòng thơ (Mường Hịch cọp) đọc lên thấy nặng nề,
bí ẩn như tiếng chân cọp đang bước. Thì ra, ẩn giấu bên trong cái tĩnh lặng
đến mênh mông của núi rừng là cọp đang rình người ăn thịt. Nhà thơ Vũ
Quần Phương cũng cho rằng: "địa danh Mường Hịch đọc lên có cảm giác
như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya. Hai chữ Hịch, cọp với hai dấu nặng
trĩu xuống nghe rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt của chiến trường".
Như vậy, người lính Tây Tiến đâu chỉ đối mặt với cái giá lạnh sương
muối như cắt da cắt thịt, những dốc núi hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở như lên
đến tận trời xanh, những trận sốt rét rừng đầy nguy hiểm, mà hàng ngày họ
phải đương đầu với thác gầm, cọp dữ và không ít người đã ngã xuống bởi
thác hiểm, rừng thiêng. Đúng là "Lao xao sóng vỗ ngọn tùng/ Gian nan là
nợ anh hùng phải vay".
c. Hai câu cuối là những kỉ niệm đẹp trên những chặng hành trình gian
khổ:
"Nhớ ôi /Tây Tiến/ cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
- Nhớ ôi là thán từ diễn tả nỗi nhớ cồn cào, da diết cất lên thành tiếng, thành
lời. Câu thơ có ba thanh trắc ngắt quãng đều đặn tạo âm điệu trong sáng,
thanh cao vút lên đẩy nỗi nhớ nhung lên cung bậc cao nhất.
- Nhà thơ nhớ về Mai Châu với những bữa cơm ấm áp tình quân dân.
+ Sau những ngày hành quân vượt qua bao đèo dốc nơi rừng thiêng
nước độc, người lính Tây Tiến tạm dừng chân ở một bản làng nào đó ở Mai
Châu. Vào ngày mùa, nhân dân địa phương và chiến sĩ quây quần bên bếp
lửa, nhìn bát cơm bốc khói nghi ngút, tỏa mùi hương nếp xôi thơm nồng,
tâm hồn người lính như ấm lại. Phải chăng, khói lam hồng ấm áp, hương vị

13
của nếp xôi đầu mùa trở thành biểu tượng của cuộc sống yên bình, hạnh
phúc đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần để người lính vững vàng vượt qua
những gian nguy.
+ Ba tiếng "cơm lên khói" và "thơm nếp xôi" được đặt ở cuối dòng
thơ đem đến cảm giác mùi thơm ngọt ngào của hương lúa mới lan tỏa toàn
thi phẩm. Nó đưa hồn ta đến vùng đất Mai Châu xa xôi, gợi ta nhớ về "quê
hương ta lúa nếp thơm nồng", đánh thức trong ta cảm xúc bâng khuâng một
ngày đầu thu "gió thổi mùa thu hương cốm mới". Mùi hương nếp xôi ở vùng
đất Mai Châu ấy là hương vị thân thương của hồn quê Việt.
- Câu thơ "Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" thể hiện cách sử dụng từ
ngữ tài hoa, sáng tạo của Quang Dũng. Câu thơ có hai cách hiểu:
+ Thứ nhất là cách định danh thời gian của tác giả: Có thể hiểu người
lính Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi
nếp đầu mùa do bàn tay, tấm lòng thơm thảo của em trao gửi mà lòng xao
xuyến, bâng khuâng.
+ Ý thơ có thể hiểu một cách bay bổng, lãng mạn: Chữ mùa gợi sự
đầy đủ, ăm ắp sự sống, mang hương vị của đồng nội. Từ "em" gợi vẻ đẹp
xuân sắc của người thiếu nữ. Hai chữ mùa em gợi đầy tình thương và nỗi
nhớ, trìu mến và thân thương, diễn tả tinh tế cảm giác xao xuyến, say mê của
các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn trước sản vật và con người Tây
Bắc. Với những người lính trẻ, hương vị ngày mùa nồng nàn, ấm áp vốn rất
gần gũi thân thuộc đã trở thành biểu tượng của hạnh phúc, niềm vui. Có lẽ,
khi viết những câu thơ này, Quang Dũng còn giữ nguyên ấn tượng hồi hộp,
xúc động khi được đón nhận tình quân dân nồng ấm. Đây sẽ là những kỉ
niệm đẹp làm ấm lòng người lính trên những chặng đường gian lao. Câu thơ
toàn thanh bằng gợi tả cảm giác thật nhẹ nhàng, thanh thản, bình yên.
3. Đánh giá
- Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Quang Dũng: lãng
mạn, tài hoa trong cách xây dựng hình ảnh, bút pháp lãng mạn kết hợp hiện
thực, nghệ thuật tương phản, nhân hóa, cách sử dụng từ ngữ độc đáo, ấn
tượng, thể thơ thất ngôn trường thiên...
- Nội dung: Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ lệ; hình ảnh người lính tây tiến trên
chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng. Đoạn thơ
xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về người lính trong
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Đề 4.
Cảm nhận đoạn thơ sau:

14
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".

I. Nêu vấn đề
II. Thân bài
1. Giới thuyết chung
a. Hoàn cảnh sáng tác, kết cấu, vị trí đoạn thơ
- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Quang
Dũng – người nghệ sĩ lãng mạn và tài hoa - đã có mặt trong đoàn quân Tây
Tiến từ những ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948
rồi chuyển về đơn vị khác.
- Một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( một làng thuộc
huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây) nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã sáng tác bài
thơ này.
- Bài thơ là sự hoà trộn ba cuộc đời – cuộc đời một vùng đất Tây Bắc
hùng vĩ hiểm trở, cuộc đời những chàng trai Hà Thành mặc áo lính Tây
Tiến, dũng cảm, hào hoa và cuộc đời của QD gắn bó sinh mệnh mình với
Tây Bắc một thời binh lửa. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến. Sau này,
QD bỏ đi chữ Nhớ, làm mạch thơ không lộ ( ý kị nông, mạch kị lộ ), đồng
thời tô đậm được hai chữ Tây Tiến – một cái tên máu thịt, một nét khảm vào
hoài niệm, một dư âm không dứt của đời chiến binh và một âm hưởng hào
hùng.
Bài thơ được cấu trúc theo diến biến tự nhiên của nỗi nhớ. Nhớ về
Tây Tiến, nhà thơ nhớ về thiên nhiên miền tây với những vùng đất mình đã
đi qua trên những con đường hành quân gian khổ, nhớ về sông nước miền
tây và những kỉ niệm đẹp đẽ của đời chiến binh, rồi từ đó nhớ về người lính
Tây Tiến – những đồng chí, đồng đội của một thời. Kết thúc bài thơ là lời
nguyện ước thiêng liêng "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi".
- Vị trí: Nếu ở khổ thơ đầu, thiên nhiên Tây Bắc hiện lên dữ dội, hùng
vĩ, nhiều hiểm nguy luôn đe dọa, rình rập con người; thì khổ thơ thứ hai mở
ra một thế giới khác của Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội
lùi dần rồi khuất hẳn, thiên nhiên bất ngờ hiện ra vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng,
duyên dáng. Những nét vẽ mạnh bạo, khỏe khoắn, gân guốc ở khổ thơ đầu
được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển tinh tế, lãng mạn, tài hoa.
Hồn thơ Quang Dũng lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp
mang màu sắc xứ lạ, phương xa: một đêm liên hoan lung linh, huyền ảo và
một buổi chiều sông nước mênh mang.

15
b. Phân tích
b1. Đêm liên hoan
- Cảnh đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có
đồng bào địa phương, những cô gái Thái và những cô gái bên nước bạn Lào
đến góp vui được miêu tả bằn những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất
ảo:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa"
- Doanh trại là nơi đóng quân của đơn vị bộ đội. Sau những ngày
băng đèo, vượt dốc, hành quân chiến đấu vượt qua nhiều gian khổ, chiến sĩ
Tây Tiến tạm dừng chân ở một bản làng nào đó. Ở đây, đồng bào địa
phương và chiến sĩ Tây Tiến đã tổ chức những đêm liên hoan văn nghệ
chung vui. Nét đẹp này trong đời sống tinh thần của người lính được nhiều
nhà thơ miêu tả. Trong bài "Nước non ngàn dặm", những giấy phút vui vẻ
hồn nhiên được Tố Hữu khắc họa thật sinh động:
"Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi"
- Trong Bao giờ trở lại của Hoàng Trung Thông, thời điểm những
người lính, những đứa con đi kháng chiến trở về cũng tràn ngập niềm vui,
tiếng hát câu cười rộn ràng đầu thôn cuối ngõ:
"Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con ở rừng sâu mới về".
Có thể nói, những tiếng hát lạc quan yêu đời, những đêm liên hoan
văn nghệ lung linh dưới ánh lửa trại làm cho tâm hồn người lính được tỏa
sáng, thăng hoa.
- Cảnh đêm liên hoan được miêu tả thật đẹp, thật tình tứ và lãng
mạn. Trong mắt những người lính trẻ lần đầu đến với miền Tây, đêm liên
hoan diễn ra giữa không gian núi rừng bỗng ngập tràn màu sắc, ánh sáng
lung linh, huyền ảo. Cả doanh trại bỗng bừng lên khi đêm liên hoan văn
nghệ bắt đầu. Chữ "bừng" thật sinh động, gợi cảm và có hồn. Nó vừa diễn tả
được ánh lửa sáng lung linh giữa màn đêm mênh mông của núi rừng miền
Tây, vừa gợi tả được tính chất đột ngột, bất ngờ đến ngây ngất, mê say trong
tâm hồn những người lính trẻ. Như có phép nhiệm màu kì diệu, cả doanh trại
bỗng bừng lên một sức sống, một nguồn sáng tưng bừng, rộn ràng, náo
nhiệt. Phải chăng, đó còn là sự bừng sáng của những kỉ niệm không bao giờ
phai mờ trong tâm trí người lính Tây Tiến. Quang Dũng viết những câu thơ
này khi đã xa vùng đất Tây Bắc, xa đồng chí đồng đội, xa những kỉ niệm

16
ngọt ngào của cuộc đời chiến đấu nhưng những kỉ niệm ấy vẫn như một
vùng sáng lấp lánh trong kí ức, tâm hồn nhà thơ thật lung linh, kì diệu.
- Ba chữ "hội đuốc hoa" cũng thật lãng mạn, đa tình:
+ Ở lớp nghĩa tả thực, "đuốc hoa" là ánh sáng từ những bó đuốc,
những đống lửa trại được đốt lên trong đêm liên hoan, thật ấm áp, rực rỡ,
lung linh như hoa lửa. Cả doanh trại như ở trong một đêm hội ánh sáng và
người lính sống trong thế giới như thực, như mơ.
+ Hội đuốc hoa là cách nói thi vị, lãng mạn. Bởi đuốc hoa chỉ đêm
động phòng hoa chúc, cây nến đốt trong phòng cưới đêm tân hôn đẹp như
muôn ngàn cánh hoa ánh sáng bé nhỏ, lấp lánh. Trong Truyện Kiều, Nguyễn
Du viết: "Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa" (câu 3096). Quang Dũng
đã có sự sáng tạo, tài hoa khi vận dụng ý thơ cổ. Nhà thơ lấy hình ảnh đuốc
hoa đêm tân hôn để miêu tả màu sắc, ánh sáng đêm lửa trại. Phải chăng,
những người lính sống trong không khí vui tươi, náo nức, tưng bừng của
đêm liên hoan, trong áng sáng rực rỡ, muôn màu của đuốc lửa mà ngỡ ngàng
như sống trong không khí một đêm tân hôn ngây ngất, mê say? Điều đó
chứng tỏ, họ có tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống biết
nhường nào.
- Chỉ qua một nét gợi tả, Quang Dũng đã làm nổi bật không khí tưng
bừng, náo nhiệt và vẻ đẹp rực rỡ, lung linh, lấp lánh muôn sắc màu của cảnh
sắc đêm liên hoan. Tuy nhiên, nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm liên
hoan văn nghệ là những cô gái địa phương nơi núi rừng Tây Bắc.
"Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
- Trong cảm nhận của người lính hào hoa, lãng mạn; những cô gái
địa phương đến chung vui trong đêm liên hoan hiện lên thật đẹp:
+ Họ đến với trang phục lộng lẫy như xiêm áo những nàng tiên mới
giáng trần. Họ duyên dáng trong điệu múa mang đậm màu sắc xứ lạ, phương
xa. Khi âm thanh của tiếng khèn tha thiết cất lên, họ trở nên dịu dàng, tình
tứ, e ấp. Từ trang phục, động tác, cử chỉ đến ánh mắt, nụ cười đều toát lên vẻ
đẹp kín đáo, duyên dáng, yêu kiều. Thật huyền ảo, lãng mạn! Vẻ đẹp của họ
đã làm say đắm tâm hồn những người lính trẻ. Nó như một dòng nước ngọt
ngào, mát lành làm xua tan bao mệt nhọc trong cuộc đời người lính với
nhiều vất vả gian lao.
+ Hai chữ "kìa em" thật ngọt ngào, tình tứ. "Kìa em" là đại từ dùng để
chỉ đối tượng từ xa. Trong câu thơ này, "kìa em" vừa là tiếng gọi trìu mến
thân thương, vừa là tiếng chào những thiếu nữ sơn thôn của người lính trẻ,
ẩn chứa trong đó là cảm xúc ngạc nhiên, ngỡ ngàng, ngơ ngác, sung sướng

17
và đầy cảm mến trước trang phục và nghệ thuật vũ đạo độc đáo cùng vẻ đẹp
duyên dáng, yêu kiều của những cô gái miền sơn cước xa xôi.
+ Đêm liên hoan văn nghệ thời kháng chiến được hồi tưởng thật kì
diệu, sống động: có ánh sáng rực rỡ, tưng bừng, lung linh của lửa đuốc; có
âm thanh của điệu nhạc, tiếng khèn, có vũ điệu độc đáo của đồng bào thiểu
số vùng cao, có vẻ đẹp văn hóa óng ánh sắc màu của núi rừng Tây Bắc. Tất
cả như mơ, tất cả như say. Hồn thơ của người lính được cất lên từ đó:
"Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
- Hồn thơ là tâm hồn dào dạt cảm xúc, thi tứ và rất lãng mạn, mộng
mơ. Âm thanh tiếng nhạc, tiếng khèn dìu dặt trong đêm liên hoan văn nghệ
giữa núi rừng miền Tây đã nâng đỡ tâm hồn người lính vượt lên hiện thực
tàn khốc của chiến tranh. Với cảm xúc, tâm hồn tràn đầy chất thơ lãng mạn,
bay bổng, họ mơ đến thủ đô Viên Chăn nước Lào, mơ đến một ngày hai
nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, giải phóng, nhân dân hai nước được
sống trong hòa bình, niềm vui ngày hôm nay sẽ trọn vẹn hơn vào ngày mai
tươi sáng. Tình yêu đất nước, Tổ quốc của người lính Việt Nam đã được
nâng lên thành tình cảm quốc tế vô sản thật cao đẹp.
* Nhận xét: Với bút pháp lãng mạn, nét bút linh động, biến ảo, kết
hợp ánh sáng, âm thanh, Quang Dũng đã tạo nên vẻ đẹp lung linh, huyền ảo
của đêm liên hoan, vẻ đẹp đời sống tâm hồn của người lính những năm
kháng chiến gian lao và tình quân dân ấm áp, gắn bó. Đọc đoạn thơ này, ta
như lạc vào thế giới của cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Người
xưa có nói "thi trung hữu nhạc". Bốn câu thơ ngân nga như tiếng hát, như
khúc nhạc cất lên từ tâm hồn ngây ngất, mê say của người lính Tây Tiến hào
hoa. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hòa quyện vào
nhau đến mức khó tách bạch. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng,
đọc đoạn thơ có cảm tưởng như "ngậm âm nhạc trong miệng".
b.2. Sông nước miền Tây
- Nếu cảnh sắc đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê
say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên cảm giác mênh
mang, mờ ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
+ Nỗi nhớ không gian, thời gian: Câu thơ diễn tả nỗi nhớ không
gian, thời gian trong cảm nhận tinh tế của người đi:
+ Người đi: người lính Tây Tiến, sau một thời gian đóng quân ở một
địa bàn nào đó họ lại chuyển đến một địa bàn hoạt động khác suốt dọc dài
biên giới miền Tây.
+ Người dân Tây Bắc trên những con thuyền độc mộc gần gũi, thân
thương.

18
+ Hai chữ "người đi" gợi nhớ, gợi thương, gợi không gian nhớ nhung,
xa cách, hoài niệm, bâng khuâng.
+ Ba chữ "chiều sương ấy" cũng mơ hồ, không xác định. "Chiều
sương ấy" là chiều sương nào? Quang Dũng không cụ thể hóa thời gian.
Nhưng đọc câu thơ da diết ấy, người đọc cảm nhận được, chiều sương ấy có
ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời Quang Dũng, trong tâm hồn, kí ức của
người đi, đồng thời gợi tả thật nên thơ cái mơ hồ, huyền ảo của khói sương,
hoài niệm.
+ Chỉ bằng một vài nét vẽ mềm mại, tinh tế, Quang Dũng đã phác họa
được toàn cảnh không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một
màn sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử, linh hồn
thiên nhiên tạo vật phảng phất trong gió sương:
"Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"
+ Hoa lau là hình ảnh đặc trưng của vùng núi cao. Lau mọc khắp triền
sông, vách đá, phủ kín cả núi đèo. Suốt dọc dài biên giới miền Tây là bạt
ngàn lau trắng:
"Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời cùng với gió giao tranh".
(Lau biên giới - Chế Lan
Viên)
+ Cây lau trong gió gợi cảm giác về không gian vắng lặng, hiu hắt
thời tiền sử:
" Người xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi như khói pha".
+ Tuy nhiên, trong Tây Tiến, Quang Dũng không chú trọng đến việc
miêu tả cây lau, bông lau hoặc ngàn lau mà chỉ gợi hồn lau. Nghĩa là nhà
thơ không tả ảnh hình mà chỉ gợi cái phần thiêng của cảnh vật. Ngòi bút tài
hoa ấy đã làm hiển hiện trước mắt người đọc vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc với
những bông lau mềm mại, khẽ lay động đôi bờ, khi hiện, khi ẩn và cả linh
hồn tạo vật phảng phất trong sương chiều mênh mang. Đúng như Chế Lan
Viên đã từng viết:
Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của thu sắp về
Hồn của thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng.
Với Chế Lan Viên, màu trắng xao xác của ngàn lau là nụ cười tươi
vui, rạng rỡ chan hòa cùng nắng thu. Những bông lau phất phơ, lay động,
mỏng manh trong gió là hồn thu. Hồn thu cũng ngắn ngủi, mơ hồ, mong

19
manh như ngàn lau xao xác. Còn với Quang Dũng, hồn lau khuất nẻo đôi bờ
không chỉ là hồn của thiên nhiên mà còn trở thành linh hồn của một vùng
đất. Tây Bắc là "xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng" là "nơi máu rỏ tâm
hồn ta thấm đất". Nơi đây biết bao người đã ngã xuống, bao nấm mồ vô
danh nằm rải rác biên cương đã mọc lên, xương máu của chiến sĩ Tây Tiến
đã tô thắm đất này. Vì thế, hồn lau, xét đến cùng là hồn người còn vương
vấn, gắn bó mãi mãi với vùng đất thiêng của Tổ quốc. Chữ ấy trong câu thơ
đầu hiệp vần với chữ thấy ở câu thơ thứ hai làm cho âm điệu câu thơ trở nên
tha thiết như một sự nhắc nhớ về những kỉ niệm không bao giờ có thể quên
trong tâm hồn mỗi người.
- Không chỉ nhớ cảnh, nhà thơ còn nhớ người Tây Bắc:
"Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
+ Nổi bật giữa thiên nhiên thơ mộng là hình ảnh "dáng người" trên
những con thuyền độc mộc đang trôi nhanh theo dòng nước lũ. Để hòa hợp,
tôn lên vẻ đẹp của con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa theo
dòng nước lũ. Hai chữ "đong đưa" thật sống động, gợi cảm, nó làm cho thiên
nhiên vốn vô tri, vô cảm trở nên có hồn, cũng biết đong đưa, tình tứ, làm
duyên làm dáng, tỏa sắc khoe hương với con người trên dòng sông Tây Bắc
mênh mang, huyền ảo.
- Thơ hay không chỉ đánh thức những rung cảm xao xuyến trong tâm
hồn mà còn là đôi cánh bay bổng đưa người đọc đến với nhiều liên tưởng
mới. "Thơ là đôi cánh nâng tôi bay/ Thơ là vũ khí trong trận đánh" (Ra-xun
Gam-ra-tốp). Định nghĩa ấy hoàn toàn đúng với câu thơ này của Quang
Dũng.
+ Có người cho rằng dáng người là hình ảnh người lính Tây Tiến trên
con thuyền độc mộc. Chèo thuyền cho các anh bộ đội là những cô gái địa
phương. Với sự khéo léo của mình, họ lái những con thuyền độc mộc len lỏi
qua những đám hoa mọc ở đôi bờ, tạo cảm giác đong đưa.
+ Có người cho rằng, dáng người là hình ảnh con người Tây Bắc
duyên dáng với nụ cười tươi như hoa và đôi mắt đong đưa tình tứ.
=> Dù hiểu theo cách nào, hình ảnh "dáng người" "hoa" và sự "đong
đưa" đã tạo nên vẻ đẹp và sự duyên dáng cho bức tranh thiên nhiên và con
người Tây Bắc. Quang Dũng và những người lính Tây Tiến không thể quên
một chiều sương mờ, một dòng sông mênh mang, huyền ảo và những con
người đẹp như thơ như họa ấy!
3. Đánh giá
- Trong khổ thơ thứ hai của bài Tây Tiến, Quang Dũng đã diễn tả nỗi
nhớ sâu nặng, đầy ân tình với thiên nhiên, sông nước miền Tây và những kỉ
niệm đẹp của cuộc đời chiến binh. Đọc khổ thơ, ta như lạc vào thế giới của

20
cái đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như
tiếng hát, như điệu nhạc cất lên từ tâm hồn ngây ngất, mê say của những
người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong khổ thơ này, chất thơ và chất nhạc
hòa quyện vào nhau đến mức khó tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí
khi cho rằng, đọc bài thơ "Tây Tiến" ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc
trong miệng".
- Không chỉ giàu chất nhạc, chất thơ, đoạn thơ còn rất giàu chất họa,
đúng như lời cổ nhân "thi trung hữu họa", "thi trung hữu nhạc". Với nét bút
chấm phá mềm mại, tinh tế, tài hoa, gợi hơn tả, Quang Dũng đã gợi tả thành
công hình ảnh đêm liên hoan văn nghệ dìu dặt âm thanh, tiếng nhạc, tiếng
khèn vui tươi, rộn rã của cuộc sống yên bình như chẳng biết đến chiến tranh.
Bốn câu thơ sau cũng đẹp như một bức tranh thủy mặc. Nhà thơ không chỉ
làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên
phần thiêng của cảnh vật.
=> Quang Dũng đã truyền cho người đọc cái hồn của thiên nhiên, con
người Tây Bắc và vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn đầy lạc quan cùng tình
quân dân cao đẹp trong những năm chiến tranh nhọc nhằn, gian khổ.
III. Kết luận
Có người đã than thở về sự bạc bẽo của thời gian. Thời gian như lớp
bụi sẽ xóa mờ tất cả và lòng người sẽ lãng quên. Nhưng thời gian luôn là
ông thầy công minh nhất cho những tác phẩm nghệ thuật chân chính. Tây
Tiến là một bài thơ như thế. Làm sao không nhớ, không yêu một bài thơ như
vậy?
Đề số 4: Cảm nhận đoạn thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc ….
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Hướng dẫn đại cương


I.Mở bài : Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm :
- Quang Dũng là nhà thơ quân đội tài hoa về nhiều lĩnh vực, nhưng nổi bật
hơn cả là khả năng thơ ca. Thơ ông luôn thể hiện một cái tôi hào hoa, thanh
lịch, giàu chất lãng mạn, có khả năng diễn tả và cảm nhận vẻ đẹp tinh tế của
thiên nhiên và tình người, đồng thời lại rất mực hồn nhiên, chân thật.
- Bài Tây Tiến tiêu biểu cho hồn thơ ấy của Quang Dũng. Bài thơ được rút
trong tập “Mây đầu ô” được ông viết vào cuối năm 1948 ở Phù Lưu Chanh
sau khi ông đã chuyển sang đơn vị khác và nhớ về đoàn quân Tây Tiến ngày
nào.
- Đoạn thơ sau là đoạn thơ tiêu biểu của bài “Tây Tiến”.
II.Thân bài :

21
- Vị trí : Bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ của Quang Dũngvề những ngày Tây
Tiến năm nào. Đó là nỗi nhớ về người lính, đêm liên hoan sông nước Tây
Bắc mênh mang huyền ảo. Bốn câu thơ trên thuộc phần đầu bài thơ Tây
Tiến, đoạn thơ là nỗi nhớ về cuộc hành quân đầy gian khổ của người lính
trên địa bàn rừng núi miền Tây vô cùng hiểm trở, heo hút.
- Câu 1 : Hay ở âm thanh, tác giả dùng toàn âm thanh để diễn tả sự cheo leo,
gập ghềnh, của dốc tiếp dốc, đèo tiếp đèo, hiểm trở, hùng vĩ, khúc khuỷu,
thăm thẳm. (5/7) thanh trắc diễn tả thật đắc địa độ cao của dốc núi và con
đường hành quân đầy gian khổ, nhọc nhằn.
- Câu 2 : Miêu tả đoàn quân trên núi cao như đứng trên cồn mây, mũi súng
chạm đỉnh trời. Súng ngửi trời là cách nói rất táo bạo, vừa tả được vị trí của
người lính trên đỉnh núi vừa có chất nghịch ngợm trong cách nhìn, cách diễn
tả của người lính, trong gian khổ mà vẫn vui.
- Câu 3 : Câu thơ có sự ngắt nhịp ở giữa dòng (4/3) tạo cảm giác câu thơ
như gập làm đôi, diễn tả sườn núi vút lên và đi xuống gần như thẳng đứng
=> Núi rừng Tây Bắc hùng vĩ bao nhiêu thì sự gian khổ nhọc nhằn nhiều bấy
nhiêu.
- Câu 4 : Toàn vần bằng, diễn tả đoàn quân tạm dừng chân ngang sườn núi,
phóng tầm mắt nhìn ra xa, thấy những ngôi nhà ở Pha Luông thấp thoáng ẩn
hiện qua một không gian mịt mùng trong sương rừng, mưa núi.
* Đánh giá :
- Nội dung : 4 câu thơ, Quang Dũng đã diễn tả được vẻ đẹp hoang sơ, hùng
vĩ, hiểm trở, độ cao ngất trời của núi rừng Tây Bắc cùng con đường hành
quân gian khổ. Trên cái nền hùng vĩ của thiên nhiên, những người lính Tây
Tiến hiện lên đầy nhọc nhằn (Đoàn quân mỏi gục lên mũi súng) nhưng vẫn
tinh nghịch, lạc quan mộng mơ, yêu cảnh, yêu người. Phải bằng con mắt
lãng mạn, tâm hồn yêu cuộc đời, vẻ đẹp núi rừng Tây Bắc mới hùng vĩ, tuyệt
vời, thơ mộng như bức tranh sơn thuỷ hữu tình như thế.
-Nghệ thuật :
+ Đoạn thơ thể hiện ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, chỉ vài nét vẽ mà đã
dựng lên con đường hành quân gian khổ vá người lính Tây Tiến Năm nào?
+ Đoạn thơ có sự phối âm tuyệt vời. Câu 3 nhiều vần trắc, câu 4 nhiều vần
bằng liền một hơi, vừa kích thích thích hứng thú phiêu lưu mạo hiểm, vừa
đem lại cảm giác bình an trong tâm hồn : Câu thơ gợi liên tưởng đến cảnh
phối âm tương tự của hai câu thơ Tản Đà trong “Thăm mả cũ bên đường”
“Tài cao phận thấp chí khí nát”
Chỗ khác là Tản Đà tả tình, Quang Dũng tả cảnh.
III.Kết bài :
- Vị trí của đoạn thơ : Hay, tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng : Hào hùng,
hào hoa.

22
- ý nghĩa : Khơi nguồn cảm hứng cho khổ tiếp : Lãng mạn, bi tráng.

Đề 5. Cảm nhận đoạn thơ sau

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


……………………………………
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hướng dẫn
I.Mở bài
II.Thân bài
1.Giới thuyết chung về bài thơ: (nêu ngắn gọn về bài thơ : hoàn cảnh sáng
tác, bố cục, vị trí của đoạn trích và nội dung khái quát của đoạn)
- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Quang
Dũng – người nghệ sĩ lãng mạn và tài hoa - đã có mặt trong đoàn quân Tây
Tiến từ những ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948
rồi chuyển về đơn vị khác.
- Một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( một làng thuộc
huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây) nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã sáng tác bài
thơ này.
- Bài thơ là sự hoà trộn ba cuộc đời – cuộc đời một vùng đất Tây Bắc
hùng vĩ hiểm trở, cuộc đời những chàng trai Hà Thành mặc áo lính Tây
Tiến, dũng cảm, hào hoa và cuộc đời của QD gắn bó sinh mệnh mình với
Tây Bắc một thời binh lửa. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến. Sau này,
QD bỏ đi chữ Nhớ, làm mạch thơ không lộ ( ý kị nông, mạch kị lộ ), đồng
thời tô đậm được hai chữ Tây Tiến – một cái tên máu thịt, một nét khảm vào
hoài niệm, một dư âm không dứt của đời chiến binh và một âm hưởng hào
hùng.
Bài thơ được cấu trúc theo diến biến tự nhiên của nỗi nhớ. Nhớ về
Tây Tiến, nhà thơ nhớ về thiên nhiên miền tây với những vùng đất mình đã
đi qua trên những con đường hành quân gian khổ, nhớ về sông nước miền
tây và những kỉ niệm đẹp đẽ của đời chiến binh, rồi từ đó nhớ về người lính
Tây Tiến – những đồng chí, đồng đội của một thời. Kết thúc bài thơ là lời
nguyện ước thiêng liêng "Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi".
- Đoạn thơ thuộc phần ba của bài thơ diễn tả nỗi nhớ của nhà thơ về
những người đồng chí, đồng đội. Qua đó, chân dung người lính được hiện
lên với vẻ đẹp vừa hào hùng, hào hoa, vừa lãng mạn, vừa bi tráng.
2. Phân tích
a.Hai câu đầu tác giả sử dụng nghệ thuật đối lập tương phản để miêu tả
vẻ đẹp hào hùng của người lính Tây Tiến:

23
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Ngoại hình chiến sĩ Tây Tiến có phần độc đáo, li kì. Do hoạt động ở
vùng rừng núi, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nên họ phải chịu cảnh tóc
rụng, da xanh tái như màu lá. Quang Dũng không cường điệu hóa chân dung
người lính mà đây là những hình ảnh thực trong chiến tranh. Những anh vệ
quốc, vệ "trọc" đã được nhiều nhà thơ miêu tả rất cảm động. Trong bài
"Đồng chí" (Chính Hữu), những người đồng chí, đồng đội cùng nhau trải
qua bao trận sốt rét rừng nguy hiểm, bên trong nóng sốt hầm hập, bên ngoài
vẫn lạnh đến run người: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh /Sốt run người,
vầng trán ướt mồ hôi”. Chân dung người lính ốm yếu, tiều tụy mà vẫn hiên
ngang, lẫm liệt mang vẻ đẹp bi tráng cũng hiện lên chân thực, cảm động
trong thơ Tố Hữu:
"Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày qua".
- Tuy nhiên, với cảm hứng lãng mạn, anh hùng, nhà thơ phát hiện và
khắc hoạ vẻ đẹp kiêu dũng của người lính, thể hiện ở sự vượt lên, xem
thường mọi khổ ải, thiếu thốn. Câu thơ có âm hưởng mạnh mẽ bởi cách sử
dụng từ ngữ mạnh bạo và độc đáo. Hai chữ “đoàn binh” âm Hán Việt đã gợi
ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Hai chữ “Tây Tiến” mở đầu
câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh mà gợi ra hình ảnh một đoàn
quân dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Đặc
biệt, không mọc tóc còn gợi ra nét ngang tàng, độc đáo, không phải do sốt
rét rừng khiến cho tóc không mọc được, mà với cách viết ấy, ta cảm thấy
những chiến sĩ Tây Tiến không thèm mọc tóc! Câu thơ thể hiện vẻ đẹp hiên
ngang, dữ dội, lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến.
- Câu tiếp theo: ‘Quân xanh màu lá dữ oai hùm” càng tô đậm thêm vẻ
đẹp ấy. Xanh màu lá có người đã giải thích là do quân phục màu xanh, hay
người lính giắt đầy lá nguỵ trang khi hành quân. Những cánh hiểu ấy có lẽ
không đúng với thực tế đoàn quân Tây Tiến và với bài thơ. Xanh màu lá là
nước da xanh xao do sốt rét, thiếu thốn, gian khổ. Sống, chiến đấu ở một
vùng địa bàn núi cao, đèo sâu, thác ghềnh dữ dội, chiến sĩ Tây Tiến da xanh
tái như lá là một sự thật. Nhưng qua cảm hứng anh hùng và bút pháp lãng
mạn của QD, thì màu xanh lại mang vẻ dữ dội của núi rừng, mang oai linh
của con hổ nơi rừng thiêng, chứ không hề tiều tuỵ, ốm yếu. Thủ pháp nghệ
thuật đối lập, tương phản giữa ngoại hình và nội tâm, giữa hình thức bên
ngoài và đời sống tinh thần bên trong giúp ta không chỉ hiểu về sự thật của

24
cuộc chiến tranh gian khổ, mà còn cảm phục tinh thần vững vàng của chiến
sĩ miền Tây.
b.Đời sống tâm hồn: Đời sống chiến đấu khó khăn, gian khổ là thế, nhưng
những người lính Tây Tiến vẫn có đời sống tâm hồn lãng mạn, mơ mộng:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Hình ảnh "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" một mặt biểu hiện sự
tập trung cao độ; mặt khác, bộc lộ một niềm căm thù, một khí thế chiến đấu
hừng hực, một giấc mộng lập công. Dường như bao nhiêu suy nghĩ, bao
nhiêu cảm xúc, ước vọng của người lính đều hướng về bên kia biên giới,
hướng về chiến trường với nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng.
- Mộng ở đây là mộng ước đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi
gắn liền với giấc mộng về gia đình, quê hương.
- Sự kết hợp giữa "mắt trừng" "gửi mộng" và "mơ" về Hà Nội đã diễn
tả rất đạt cái chí và cái tình của người lính. Chí trong ánh mắt quyết tử “Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới”, tình bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn :
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Yếu tố giấc mơ đan xen với hiện thực
trần trụi vừa giúp thăng bằng cảm xúc, vừa giữ được trạng thái hài hoà của
thơ, vừa giúp QD mở ra cánh cửa tâm linh người lính, làm lộ ra một góc đa
tình. Trong thơ ca kháng chiến, có biết bao nhiêu người lính ra đi chiến đấu,
nhưng vẫn không quên hậu phương. Họ nhớ về giếng nước, gốc đa thật thân
thương, hiền hoà, bình dị. Họ nhớ về “những người vợ trẻ / mòn chân bên
cối gạo canh khuya”. Còn trong Tây Tiến của QD, những chàng trai Hà
Thành nhớ về những “dáng kiều thơm” Hà Nội. Dáng kiều thơm gợi nên
dáng vẻ yêu kiều của người con gái thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa
như “sắc nước hương trời” vậy.
- Những câu thơ này, trước đây thường bị phê phán là miêu tả người
lính với những nét xa lạ, không bình thường, trí thức tiểu tư sản. Thực ra,
QD muốn bộc lộ chất lính của những thanh niên HN với phẩm chất hào hoa,
lãng mạn. Quan trọng hơn, điều ấy không làm giảm đi nhiệt tình của tuổi trẻ
trong cuộc chiến đấu. Chính cái phong thái hào hoa của người thanh niên trí
thức đã giúp người chiến sĩ sống với tâm hồn phong phú sau mỗi trận đánh
ác liệt. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều nhà thơ đã viết về vẻ đẹp
mơ mộng, lãng mạn của người lính trong kháng chiến gian lao. Trong bài
"Đất nước", Nguyễn Đình Thi viết: "Những đêm dài hành quân nung nấu/
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu". Ngay cả trong giây phút đối mặt với
quân thù, trong tâm hồn người lính vẫn hiện ra hình bóng, tên gọi người
thương:
"Có những lúc tì tay trên báng súng
Anh giật mình thảng thốt viết tên em"

25
- Có thể nói, vẻ đẹp lãng mạn, mộng mơ trong tâm hồn người lính
không có khói bom, lửa đạn nào tàn phá, hủy diệt được:
"Giữa khói bom lửa đạn
Đối mặt với quân thù
Chỉ có sống và chết
Vẫn mơ tình thiên thu".
- Câu thơ của Quang Dũng gợi ta nhớ đến những vẫn thơ hào hoa mà
tha thiết của Huỳnh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”
Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc – những con
người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có
một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm
súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao
nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về
một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ý chí,
tinh thần và tâm hồn người lính trong bài Tây Tiến đã trở thành một biểu
tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến trận.
c.Lí tưởng, và sự hi sinh
- Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh
một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và
một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì bốn câu thơ tiếp theo, bức tượng
đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những nét nổi bật về sự hy sinh
của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc
lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ
ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn
chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các
hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả
một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình
tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
- Câu thơ đầu mang đến ấn tượng bi thảm mạnh mẽ. Trên con đường
hành quân gập ghềnh xa thẳm giữa núi rừng biên cương, thỉnh thoảng có
những người lính phải tách ra khỏi đội hình vì ốm yếu, mệt mỏi, bệnh tật, hi
sinh và những nấm mộ mới lại mọc lên. Câu thơ có chút gì đó hoang vắng,
ghê rợn trước hình ảnh những nấm mồ vô danh nơi biên ải. Hai từ Hán -
Việt "biên cương", "viễn xứ" tạo không khí trang trọng khi nói về sự hi sinh.
Những từ Hán Việt này đặt bên cạnh những từ thuần Việt "rải rác" là từ
tượng hình gợi sự thưa thớt, ít ỏi, lại được đảo lên đầu câu càng nhấn mạnh

26
cái chết đau thương của người lính. Có ai không rơi nước mắt trước hình ảnh
những nấm mồ hoang lạnh nằm rải rác ở vùng biên cương? Khi chiến đấu,
họ có đồng đội ở bên. Vậy mà lúc ra đi, họ cô đơn, lẻ loi nơi xứ lạ. Cảm giác
xót thương ấy là nỗi đau chung của bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Bởi
"Xưa nay chiến địa dường bao/ Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu"
(Chinh phụ ngâm). Có thể nói, từng từ, từng chữ dường như mỗi lúc một
nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ.
Nhưng câu thơ sau, như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu
lên cao, cái bi thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng bởi QD nói
được một điều cốt lõi trong nhân cách người lính : biết hi sinh, gian khổ
nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi
quãng đời xanh tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp: chiến
đấu vì tổ quốc, “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Đó là phương châm, lí
tưởng sống cao đẹp của thế hệ trẻ một thời.. Cũng vì thế mà câu thơ viết về
cái chết như thanh thản hơn:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Câu thơ đã diễn tả một sự thật bi thảm của chiến tranh. Trong văn học
cổ, người lính hi sinh lúc lâm trận có da ngựa bọc thây, chiến bào ôm xác.
Nhưng người lính chiến đấu, hi sinh trong giai đoạn đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp không có đến cả manh chiếu che thân. Nói về sự ra đi
thiếu thốn ấy, nhà thơ Hoàng Lộc có những câu thơ thật xót xa:
"Ở đây không gỗ ván
Liệm anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán".
Tuy nhiên, với tình cảm yêu mến, trân trọng, tiếc thương người đồng
chí, đồng đội, Quang Dũng đã hào hùng hóa, sang trọng hóa sự hi sinh của
người lính. Nhà thơ đã hình dung người lính Tây Tiến ra đi trong tư thế của
một tráng sĩ và ngã xuống bằng cái chết của một người anh hùng. Hình ảnh
áo bào gợi lên một nét cổ kính, trang trọng, nhưng không quá xa cách. Đó là
chiếc áo bào trong trí tưởng tượng nhà thơ đã đắp cho đồng đội bằng cả
niềm tiếc thương. Chữ “về” gợi tình cảm yêu thương, gần gũi : người lính hi
sinh không phải là một cuộc tử biệt mà là sự trở về với đất mẹ, trở về với
hồn thiêng của sông núi.
Nhưng, có cái chết nào mà không đau đớn, có sự hi sinh nào mà
không để lại niềm tiếc thương? Sự cảm thương sâu sắc đâu chỉ ở con người
mà còn ở cả thiên nhiên, tạo vật:
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

27
Sông Mã là hình ảnh thiên nhiên, núi rừng miền Tây Bắc vốn vô tri,
vô cảm. Nhưng trước sự hi sinh của người lính, Sông Mã gầm lên như một
sinh thể có linh hồn, có cảm xúc. Chữ "gầm" diễn tả tâm trạng đau đớn đến
tột cùng, tột độ. Dường như sông Mã đang khóc, đang gầm lên như một con
chiến mã trung thành khi người chủ tướng đã ngã xuống. Phải chăng, đó còn
là nỗi uất hận của người lính hi sinh khi chưa thỏa ý nguyện đánh giặc cứu
nước, giành lại quyền độc lập, tự do? Có thể nói, trong giây phút thiêng
liêng vĩnh quyết đồng đội, tiếng gầm của sông Mã như một khúc nhạc bi
tráng tiễn đưa linh hồn người lính về nơi yên nghỉ cuối cùng.
- Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh sông Mã, kết thúc vẫn là tiếng gầm
thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn các anh đi chiến đấu giờ lại đón anh
về. Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của người lính
vào cõi trường cửu, đồng thời nâng cái chết lên tầm sử thi hoành tráng. Cái
chết lớn cần một sự tiễn đưa lớn như thế.
- Khổ thơ đã khép lại, người lính Tây Tiến đã ra đi nhưng dư âm tiếng
sông Mã gầm thét vẫn còn vang ngân mãi như không bao giờ ngừng lặng:
"Sông Mã gầm lên sông Mã ơi!
Người yêu sông Mã đã qua đời
Để đời nhớ mãi quân Tây Tiến
Khúc độc hành ca của một đời".
(Lê Đại Hành)
3. Đánh giá
- Thể thơ
- Hình ảnh: cổ kính, trang trọng.
- Từ ngữ: Đoạn thơ có nhiều từ Hán – Việt mang sắc thái trang trọng,
đi đôi với những từ thuần Việt thi vị, dịu dàng đã khắc hoạ chân dung người
lính tây Tiến tiều tuỵ mà lẫm liệt, lam lũ mà hào hùng, dữ dằn mà đa cảm
mộng mơ. Đó là những tráng sĩ “ một đi không trở về” theo quan niệm có
màu sắc lãng mạn riêng một thời
-Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ là giọng trang trọng, thể hiện tình
cảm đau thương vô hạn và sự kính cẩn, trân trọng của nhà thơ trước sự hi
sinh của đồng chí, đồng đội.
- Bút pháp: hiện thực + lãng mạn.
- Đoạn thơ đã khắc họa rõ nét chân dung người lính Tây Tiến với vẻ
đẹp vừa lãng mạn, hào hùng vừa bi tráng. Có thể xem đoạn thơ như một bức
tượng đài bất tử về người lính trong thơ ca kháng chiến chống Pháp.
"Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con người ấy bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông".

28
(Giang Nam)
III. Kết luận:
-Khẳng định lại giá trị của đoạn thơ
-Những bài học cho bản thân
Đề 6. Cảm nhận đoạn thơ sau:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
1.Giới thuyết chung
- Vị trí: đoạn cuối, lời thề sâu nặng thiêng liêng của người chiến sĩ Tây Tiến
năm nào.
2. Phân tích
- Mở đầu bằng hai tiếng Tây Tiến rất đỗi thân thương. Tên gọi của
đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng và nhiều học
sinh, thanh niên trí thức Hà Nội đã từ giã con đường, góc phố lên chiến đấu
ở vùng đất miền Tây. Bản thân Quang Dũng đã có mặt trong đoàn quân Tây
Tiến những ngày đầu. Đây là tên gọi máu thịt, là một nét khảm trong hoài
niệm, là dư âm không dứt của cuộc đời chiến binh. Trong đoạn thơ, tên gọi
Tây Tiến đã được không gian hóa như một điểm hội tụ gần gũi, thiêng liêng.
- Hai chữ Tây Tiến đặt ở đầu câu thơ còn gợi lên âm hưởng hào hùng
của thời đại với những đoàn quân thẳng tiến về phía Tây; hiên ngang, khí
phách, lẫm liệt xông pha chốn sa trường.
- Người đi: nhà thơ Quang Dũng, là tất cả người lính từng một thời
chiến đấu gian lao. Họ đã từng sống, chiến đấu và trải qua biết bao vui buồn
bên nhau. Giờ đây, khi đơn vị Tây Tiến trở về hòa bình thành lập trung đoàn
52, mỗi người sẽ về một chiến trường. Họ đã ra đi không một lời hẹn ước.
Vì "đường lên thăm thẳm một chia phôi". Con đường lên với Tây Tiến xa
cách ngàn trùng không dễ có ngày gặp lại. Hơn nữa, trong binh đoàn Tây
Tiến năm ấy, có người còn sống, còn tiếp tục cuộc kháng chiến trường kì, lại
có người nằm rải rác vùng biên cương xa xôi lạnh lẽo, hoang vắng biết bao
giờ mới có thể hẹn ước một ngày trở lại. Câu thơ "Tây Tiến người đi không
hẹn ước" vừa tha thiết, vừa mạnh mẽ. Bằng hình thức mang tính phủ định,
tác giả đã khẳng định tinh thần "nhất khứ bất phục phản" (một đi không trở
lại), ra đi không hẹn ngày về của những người lính hào hùng, hào hoa. Họ
sẵn sàng dâng hiến đời xanh, tuổi trẻ của mình cho đất nước, dân tộc;
- Tuy nhiên, trong niềm hoài vọng tha thiết, nhà thơ vẫn hướng cả tình
cảm và tấm lòng của mình về với Tây Tiến, với đồng chí, đồng đội năm xưa:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".

29
- Trong tiếng Việt, "ai" là đại từ phiếm chỉ, không xác định. Trong ca
dao, ta đã gặp muôn ngàn chữ ai, từ ai mơ hồ như thế:
"Ai đi đường ấy xa xa
Để ai ôm bóng trăng tà năm canh"

"Ai về giồng dứa qua truông


Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em".
- Tuy nhiên, trong khổ thơ này, chữ ai không chỉ mang ý nghĩa xác
định chỉ người lính Tây Tiến mà còn gợi tình cảm thật gần gũi, thân thương
được cất lên từ trong sâu thẳm tâm hồn. Những người lính Hà thành lãng
mạn, hào hoa năm nào từng lên với Tây Tiến mùa xuân ấy, mùa xuân năm
1947, khi binh đoàn mới được thành lập, linh hồn của họ sẽ mãi mãi ở lại
với Sầm Nứa, với mảnh đất miền Tây, với những vùng đất từng in dấu chân
người lính năm nào. Chẳng về xuôi là cách nói mang ý nghĩa khẳng định dứt
khoát, mạnh mẽ tấm lòng thủy chung với miền Tây, với đồng chí đồng đội.
Nghĩa là, khoảng cách xa xôi ngàn dặm sa trường, sự sống và cái chết có thể
khiến họ xa cách nhau nhưng tâm hồn người lính mãi mãi gắn bó không gì
có thể chia cắt được. Câu thơ gợi lên sự xúc động chân thành, lắng đọng sâu
xa bởi tình cảm thủy chung, sâu nặng thiêng liêng trong đời sống tâm hồn
người lính. Đó là vẻ đẹp của người lính trong thơ ca thời kháng chiến chống
Pháp.
- Ba tiếng "chẳng về xuôi" còn gợi lên những liên tưởng kì thú về sự
sáng tạo nhất quán trong hình ảnh thơ. Trong mạch cảm xúc, kết cấu thi
phẩm ta luôn thấy hình ảnh sông Mã thấp thoáng, ẩn hiện trong các khổ thơ:
Từ hình ảnh dòng sông Mã khơi mở cảm xúc ban đầu, dòng sông Mã oai
linh gầm thét "chiều chiều oai linh thác gầm thét" chứa đầy bí ẩn linh thiêng
của núi rừng, đến dòng sông "gầm lên khúc độc hành" trong đau đớn, phẫn
nộ và cuối cùng là dòng sông tâm hồn chẳng về xuôi, mãi mãi thủy chung
cùng con người, thiên nhiên vùng núi Tây Bắc. Như vậy, dòng sông thiên
nhiên đã hòa cùng dòng sông tâm hồn, dòng sông chở đầy cảm xúc, tâm
trạng, nôi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân. Dòng sông ấy sẽ còn chảy mãi
trong nỗi nhớ, niềm thương của tất cả những người lính thuộc binh đoàn Tây
Tiến năm nào.
3. Đánh giá
- Thể thơ
- Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng,
giọng điệu. Đoạn thơ có giọng điệu vừa tha thiết, mạnh mẽ, rắn rỏi vừa
thoáng buồn, pha chút bâng khuâng, song giọng điệu chủ đạo vẫn là giọng
hào hùng đầy khí phách; bởi trong một đoạn thơ ngắn, tác giả sử dụng hai
lần cách nói phủ định nhằm khẳng định lí tưởng sống cao đẹp của thế hệ trẻ

30
khi đất nước có giặc ngoại xâm và tình cảm thủy chung sâu nặng của người
lính trong chiến trận.
- Ngôn ngữ: giản dị, sâu sắc, mang đậm hồn dân ca và khẩu khí ngang
tàng của thời đại.
4. Kết luận
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi.
Thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là "Đèo
Cả" của Hữu Loan, là "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Đồng chí" của Chính Hữu,
"Tây Tiến" của Quang Dũng,...
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ
cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến
chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào
hùng của nhà thơ - chiến sĩ, Quang Dũng đã khắc chạm vào thời gian, vào
thơ ca và lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long - Hà Nội,
của dân tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén
tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ và
những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.
Đề 7. Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến -
Quang Dũng.
Hướng dẫn
1. Giới thuyết chung
- Dẫn dắt về hoàn cảnh sáng tác:
+ Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập năm 1947. Quang
Dũng – người nghệ sĩ lãng mạn và tài hoa - đã có mặt trong đoàn quân Tây
Tiến từ những ngày đầu thành lập, là đại đội trưởng ở đó đến cuối năm 1948
rồi chuyển về đơn vị khác.
+ Một ngày cuối năm 1948, ngồi ở Phù Lưu Chanh ( một làng thuộc
huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây) nhớ về đơn vị cũ, Quang Dũng đã sáng tác bài
thơ này. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính trong những
năm kháng chiến gian lao.
- Khái niệm hình tượng
+ Hình tượng là phương tiện đặc thù của nghệ thuật để phản ánh
hiện thực. Nếu âm nhạc phản ánh cuộc sống qua những giai điệu, hội họa
phản ánh đời sống qua màu sắc, điêu khắc phản ánh bằng hình khối, đường
nét thì văn học phản ánh cuộc đời qua hình tượng nghệ thuật được xây dựng
bằng chất liệu ngôn từ. Tính hình tượng từ lâu đã được xem là phương
thức đặc trưng của sự thể hiện nghệ thuật với đời sống. Từ thế kỉ XIV,
Bê-lin-xki đã nhấn mạnh điều này: "Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn
luận, còn nhà thơ nói bằng bức tranh".

31
+ Hình tượng là gì? Trong cuốn "Nguyên lí lí luận văn học", Ti-mô-
phê-ép cho rằng: "Hình tượng nghệ thuật là một bức vẽ đầy cảm xúc của
nhà văn về đời sống. Bức vẽ ấy vừa cụ thể, vừa khái quát được xây dựng
bằng hư cấu có giá trị thẩm mĩ rõ rệt". Nói khác đi, hình tượng nghệ thuật là
tất cả những gì của đời sống được đưa vào tác phẩm một cách sáng tạo nhằm
thể hiện tư tưởng, tình cảm, nhận thức của nhà văn về con người và cuộc
đời.
- Hình tượng người lính
+ Người lính là hình tượng nghệ thuật quen thuộc của thơ ca thời
kháng chiến thời chống Pháp nhưng mỗi nhà thơ lại có cách khai thác, khám
phá, cảm nhận khác biệt về hình tượng này. Trong thơ Chính Hữu, Hồng
Nguyên, với bút pháp hiện thực, hình tượng người lính hiện lên với vẻ đẹp
bình dị, thân thuộc, hồn hậu như gốc lúa, bờ tre chốn quê nhà. Ở họ toát lên
vẻ đẹp của tình cảm gia đình, quê hương, đất nước, tình đồng chí đồng đội
và tinh thần lạc quan, vui vẻ, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai. Màu tím
hoa sim của Hữu Loan là bi kịch đau thương, mất mát, hi sinh của người lính
trong chiến trận:
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Sinh ra và lớn lên ở đất Hà thành hoa lệ. Theo tiếng gọi của đất nước,
Tổ quốc, Quang Dũng đã lên đường ra trận và chiến đấu ở biên giới phía
Tây Tổ quốc. Với tâm hồn lãng mạn, Quang Dũng đã khắc họa hình tượng
người lính với vẻ đẹp vừa hào hùng, vừa lãng mạn, hào hoa vừa mang
đậm vẻ đẹp bi tráng.
2. Phân tích hình tượng người lính
a. Vẻ đẹp hào hùng: Xuất hiện trên cái nền hùng vĩ, diễm lệ của thiên
nhiên miền Tây (khổ 1)
- Sự dữ dội của thiên nhiên được gợi lên từ những tên, những
miền đất lạ: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông, Mai Châu,
Châu Mộc, Sầm Nứa: Những tên gọi mang màu sắc xứ lạ, phương xa, âm u
huyền bí. Hơn nữa, đây không chỉ là những tên gọi vô cảm trên bản đồ mà
còn là những tên gọi gắn bó máu thịt với binh đoàn Tây Tiến, trở thành một
nét khảm trong hoài niệm, một dư âm không dứt của cuộc đời chiến binh.

32
Đó là cảm hứng của cả một thời cách mạng phát hiện ra đất nước: "Những
tên làng tên núi tên sông/ Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc".
- Chặng đường hành quân nhọc nhằn, gian khổ, cả đoàn quân bị
chìm lấp trong sương rừng, mây núi dày đặc:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi"
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Người lính không chỉ mệt mỏi vì bị vùi lấp trong sương mù dày dặc
mà còn phải trải qua bao dốc núi dữ dội, hiểm trở, heo hút
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
- Thời gian miền Tây luôn là nỗi đe dọa khủng khiếp với con người:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
- Có không ít người lính phải chịu gian khổ, mất mát, hi sinh, nhưng
qua cái nhìn lãnh mạn, hình ảnh người lính hiện lên thật đẹp:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
- Cuối đoạn thơ, xua đi tất cả nỗi ám ảnh về những ngày hành quân
gian khổ, ta lại thấy tâm hồn người lính chan chứa bao xúc cảm khi được
sưởi ấm trong cuộc sống vui vầy, đầm ấm tình cảm quân dân.
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".

b. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn (khổ 2)


- Đêm liên hoan văn nghệ
- Giã từ đêm liên hoan văn nghệ, giã từ những phút giây êm đềm thắm
tình quân dân cá nước, đoàn quân Tây Tiến lại lên đường, lặng lẽ hành quân
trong chiều sương ấy. Lòng người đi trào dâng nỗi niềm nhớ thương "nhớ
hồn lau nẻo bến bờ", "nhớ dáng người trên độc mộc", nhớ dòng nước lũ hoa
đong đưa. Thiên nhiên thi vị, thơ mộng thấm vào hồn người hay hồn người
nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên đất nước? Đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp tâm
hồn lãng mạn, mộng mơ của người lính.
c. Vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bi tráng (khổ 3)
- Chân dung kiêu hùng
- Tâm hồn mộng mơ
- Lí tưởng cao đẹp
- Sự hi sinh anh dũng, mang đậm cảm hứng sử thi.
d. Nghệ thuật xây dựng hình tượng

33
3. Đánh giá
- Vẻ đẹp chung của người lính Cụ Hồ: Sống có lí tưởng, tự nguyện hi
sinh cho Tổ quốc, tràn đầy khí phách anh hùng, dám đương đầu với mọi thử
thách gian truân, đói rét, bệnh tật, rừng thiêng nước độc, thác gầm, cọp dữ,
kể cả sự hi sinh thân mình, có tình đồng chí, đồng đội cao đẹp, thiêng liêng.
Vẻ đẹp riêng: tâm hồn mơ mộng, đa cảm, lãng mạn mang màu sắc bi
tráng, hào hùng, hào hoa của người lính xuất thân từ vùng đất Hà thành.
- Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về hình tượng
người lính thời kì kháng chiến chống Pháp.
Đề 8. Cảm hứng lãng mạn trong bài "Tây Tiến" - Quang Dũng.
1. Giới thuyết chung về cảm hứng lãng mạn
- Cảm hứng là trạng thái căng thẳng, mê say buộc người nghệ sĩ cầm
bút sáng tác.
- Lãng mạn là một dạng thức của cảm hứng. Đó là sự khẳng định cái
tôi tràn đầy cảm xúc, tình cảm, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp khác lạ,
phi thường, độc đáo, vượt lên trên cái tầm thường, quen thuộc của đời sống
hàng ngày. Nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của
trí tưởng tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn thường tìm đến cách diễn
đạt khoa trương, phóng đại, đối lập, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo ấn
tượng mạnh mẽ.
- Lãng mạn là cảm hứng chủ đạo của văn học trong 30 năm đất nước
trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mĩ. Cảm hứng này được thể
hiện chủ yếu trên phương diện khẳng định lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ
đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào
tương lai tươi sáng của dân tộc. Vì thế, nó nâng đỡ con người vượt lên mọi
thử thách trong chiến tranh gian khổ để hướng tới ngày chiến thắng.
- Tây Tiến: Cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong việc miêu tả bức
tranh thiên nhiên, hình tượng người lính Tây Tiến. Cảm hứng lãng mạn còn
gắn liền với tinh thần bi tráng của thời đại.
2. Phân tích cảm hứng lãng mạn
a. Bức tranh thiên nhiên miền Tây
- Hoang sơ, heo hút, dữ dội, hiểm trở....
+ Những địa danh xa lạ.
+ Địa hình hiểm trở
+ Thời tiết khắc nghiệt
+ Thời gian luôn là nỗi đe doạn khủng khiếp với con người
+ Cách gieo vần "ơi" đem lại cảm giác lạ tai, mung lung, kích
thích hứng thú phiêu lưu, mạo hiểm.

34
=> Bằng nghệ thuật tạo hình gần với lối vẽ tranh thủy mặc, phối hợp
thanh điệu độc đáo, Quang Dũng đã diễn tả rất ấn tượng cái dữ dội, hoang
sơ, âm u, bí ẩn của thiên nhiên miền Tây.
- Thiên nhiên yên bình, êm ả: vào ngày mùa, khói cơm nghi ngút,
hương lúa nếp thơm nồng, tình người đầm ấm yêu thương. Những ngày mưa
rừng, những căn nhà của đồng bào dân tộc nằm thanh thản, bình yên trong
màn mưa giăng mắc. Cảnh tượng thật yên ả, nên thơ.
=> Những thanh bằng gợi cảm giác êm dịu, ấm áp.
* Cảnh Tây Bắc với vẻ đẹp hoang sơ, hiểm trở, qua ngòi bút Quang
Dũng hiện lên với đầy đủ núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương
núi, cọp dữ, thác gầm, với những tên, những miền đất lạ, những cảnh
tượng đầm ấm sau những ngày băng rừng. Một thế giới vừa độc đáo, vừa
khác thường hiển hiện trong kí ức.
b. Người lính Tây Tiến`
- Trải qua nhiều gian khổ
- Tâm hồn lãng mạn mộng mơ
+ Yêu thiên nhiên
+ Lạc quan vui vẻ, yêu đời, tâm hồn tràn đầy cảm xúc, thi tứ,...
+ Sống có lí tưởng cao đẹp, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì Tổ
quốc.
c. Cảm hứng lãng mạn gắn liền với tinh thần bi tráng
- Chân dung người lính hiện lên thật tiều tụy, đáng thương > < phẩm
chất tinh thần vững vàng.
- Sự hi sinh bi thảm > < Lí tưởng sống cao đẹp
- Hình tượng con sông Mã gầm lên khúc độc hành tạo nên sự bi hùng
lẫm liệt.
d. Nghệ thuật
3. Đánh giá
- Chất lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến nói riêng và thơ Quang Dũng nói
chung một mặt là do ảnh hưởng cảm hứng chung của thời đại, nhưng mặt
khác, đó cũng là chất người, là các tính của nhà thơ - một thanh niên trí thức
rất mực hào hoa, lãng mạn. Điều cốt yếu nhất là tấm lòng, tình cảm của
người viết với thiên nhiên đất nước, đồng chí đồng đội. Đúng như một nhà
phê bình đã viết: "Xét đến cùng, cũng chỉ có lòng chân thật tuyệt đối cảnh,
chân thật với người và nhất là chân thật với lòng mình mới có thể tạo ra
được những câu thơ vừa giản dị, mộc mạc, vừa táo bạo mới lạ đến như thế".
Có lẽ, cái gốc lớn nhất của tài năng Quang Dũng là chân thật rất mực với
lòng mình?
Đề 9. Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ trong bài Tây Tiến - Quang Dũng.
1. Lí luận chung về vẻ đẹp ngôn ngữ thơ

35
a. Ngôn ngữ thơ là toàn bộ những yếu tố hình thức như ngôn từ, hình ảnh,
tổ chức lời thơ, các biện pháp tu từ,....
b. Vẻ đẹp của ngôn ngữ thơ: là những sáng tạo ngôn từ độc đáo của nhà
thơ tác động đến thẩm mĩ của người đọc, tạo nên những rung động thơ. Tuy
nhiên, ngôn ngữ thơ chỉ mang vẻ đẹp khi nó xuất hiện với tư cách như là
những phương tiện phù hợp, hữu hiệu để chuyên chở tư tưởng, cảm xúc của
nhà thơ.
c. Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ trong bài Tây Tiến được thể hiện ở các phương
diện:
- Sự sáng tạo hình ảnh thơ
- Hệ thống ngôn từ độc đáo
- Cách sử dụng các biện pháp tu từ
- Phối hợp thanh bằng trắc
- Sử dụng bút pháp đối lập tương phản.
2. Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ thơ trong bài Tây Tiến
a. Sự sáng tạo hình ảnh
- Hình ảnh sông Mã:
+Xuất hiện ở đầu bài thơ qua tiếng gọi da diết, ngân dài
+Sông Mã là hình ảnh thiên nhiên miền Tây
+Gắn liền với những tên đất, tên làng, địa bàn hoạt động của người
lính.
+Chứa đựng những oai linh của rừng thiêng
+Chứng nhân của lịch sử
- Hoa về trong đêm hơi
- Mùa em thơm nếp xôi
- Dòng sông chiều giăng mắc một màn sương
- Hồn lau khuất nẻo đôi bờ,...
b. Hệ thống ngôn từ độc đáo
- Sử dụng hệ thống từ chỉ địa danh rất hợp lí:
+ Địa bàn hoạt động của Tây Tiến khá rộng, trải dài từ Mai Châu,
Châu Mộc, Hòa Bình qua Lào rồi vòng về miền Tây Thanh Hóa. Đó là một
vùng đất hoang vu, chứa đầy bí mật. Quang Dũng không trao nỗi nhớ của
mình cho những địa chỉ vu vơ, ông điểm danh từng tên gọi cụ thể: Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... và sự có mặt của các địa danh này
lập tức gợi ý niệm về sự hoang vu, xa ngái, hoang sơ. Trong trí tưởng tượng
người đọc, những cái tên kia thuộc mô típ lạ, nó khác xa với những tên đất
tên làng vốn quen thuộc trong ca dao người Việt, nó cũng khác xa với
kiểu :"Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông" trong thơ Nguyễn Bính. Chính điều
này đã trở thành một tác nhân kích thích trí tưởng tượng của người đọc, đẩy

36
người đọc đứng trước sự tò mò khó cưỡng cua rnhuwngx bí mật đường
rừng.
+ Cả Tây Tiến là một nỗi nhớ khôn nguôi của nhà thơ về một vùng
đất, một thời trận mạc. Vậy nên, khi nhắc đến các địa danh này, ta nhận thấy
kí ức của quá khứ hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, tạo nên độ
nhòa giữa hai không gian: không gian hiện tại và không gian hồi tưởng. Bởi
thế, dù lạ lẫm, qua hồn thơ, nỗi nhớ của Quang Dũng, các địa danh ấy xâm
chiếm nỗi nhớ người đọc, giúp họ cùng Quang Dũng trôi về một vùng đất
đẹp đẽ, dữ dội, mộng mơ và đằm thắm.
+ Có một địa danh đi suốt bài thơ này, tạo nên sợi nhớ sợi thương
trong nỗi nhớ là hình ảnh con sông Mã. Đó là một dòng sông có thực, cũng
là một sinh thể có linh hồn, xúc cảm, nỗi niềm. Chính Sông Mã đã thay lời
Tổ quốc, thay lời nhân dân cất lên tiếng hát trầm hùng tiễn biệt những đứa
con quê hương đi vào cõi bất tử.
+ Vượt qua tư cách là những tên đất, tên làng như một khái niệm có
tính địa lí, các địa danh trong Tây Tiến ngấm sâu nỗi nhớ của nhà thơ, và
chính điều đó đã làm đất lạ hóa quê hương.
+ Riêng địa danh Mường Hịch trong câu thơ "đêm đêm Mường Hịch
cọp trêu người" được sử dụng rất tài hoa. Chữ Hịch thanh trắc gắn liền với
chữ cọp cũng là thanh trắc làm cho người đọc liên tưởng đến những bước
chân của chúa sơn lâm đang rình rập đe dọa con người. Rõ ràng, Quang
Dũng không sử dụng địa danh một cách một cách tùy hứng mà ông biết chọn
lọc, điều phối để tạo sức ám ảnh cho thơ. Đây cũng là tài nghệ tạo lực hút
của nhà thơ khi nhìn về độc giả.
- Nội lực câu thơ Quang Dũng chủ yếu dồn vào các động từ gây cảm
giác mạnh:
+ Ngửi: trong bức tranh tả núi, dốc, Quang Dũng có một kiểu đo độ
cao khá độc đáo: "Heo hút cồn mây súng ngửi trời". Có thể thay chữ "ngửi"
bằng chữ chạm , nếu nói về độ cao thuần túy. Nhưng chữ chạm dễ làm cho ý
thơ yếu đi. Chữ ngửi làm cho câu thơ sinh động hẳn lên. Với động từ này,
người đọc có thể cảm nhận 3 lớp ý nghĩa:
1. Thứ nhất: Đó là độ cao chóng mặt, trước là mây, sau là trời.
2. Thứ hai: "Ngửi" nói về sự tinh nghịch, một cách nói rất lính. Như
vậy, cái độ cao kia có thể làm ai sợ hãi, nhưng với lính Tây Tiến thì không.
Vả lại, chữ ngửi biến cây súng thành người. Biện pháp nhân hóa này nhấn
mạnh một thực tế, những chàng trai Hà Nội vừa hào hoa, thanh lịch vừa
không kém phần dầu dãi, phong trần.
3. Thứ ba, cả câu thơ cho thấy "chí ta cao hơn đèo", không một khó
khăn nào, một độ cao nào có thể cản nổi bước chân của những anh hùng vệ
quốc.

37
+ Gục: Trong chiến tranh, sự hi sinh tổn thất là điều không tránh khỏi.
Nhưng gục lên súng mũ lại là một cách nói lạ. Chữ "gục" trong câu thơ vừa
có tính tạo hình vừa có tính biểu cảm cao. Một mặt, "gục" giúp Quang Dũng
tránh được việc dùng chữ chết, hi sinh. Mặt khác, nó vẫn giữ được cái thực
tế nghiệt ngã và trần trụi của cuộc chiến. Câu thơ vì thế, không rơi vào bi
lụy. Đặc biệt việc dùng chữ gục kết hợp với chữ bỏ quên đời đã làm cho cái
chết trở nên nhẹ nhàng, thanh thản. Cái nhìn ấy chỉ có thể có được ở những
chàng trai ngang tàng, dám xả thân vì nghĩa lớn.
+ Gầm: Tây Tiến là bài thơ dày đặc những câu thơ tài hoa. Nhưng có
thể nói "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" là câu thơ tiêu biểu cho cảm hứng
toàn bài. Chữ gầm được dùng rất đắc địa. Nó là âm vang của sông Mã, là
điệu kèn vĩnh quyết, là khúc hát bi tráng...Với chữ gầm, Sông Mã được miêu
tả ở thế động, như con chiến Mã trung thành khóc đau đớn khii người chủ
tướng ngã xuống chốn sa trường...
- Chuỗi từ láy được nhà thơ đưa vào thi phẩm tạo hiệu quả bất ngờ:
+ Chơi vơi: mở ra không gian mênh mông, vời vợi của nỗi nhớ, diễn
tả tinh tế một trạng thái cảm xúc khó định hình, mơ hồ mà rất thực, rất ám
ảnh hồn người. Trong ca dao, vốn được dùng để diễn tả cảm xúc tình yêu lứa
đôi riêng tư. Còn trong thơ Quang Dũng lại dùng để diễn tả trạng thái cảm
xúc gắn với tình đồng chí, đồng đội.
+ Những từ láy: "Khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút" có giá trị gợi
tả địa thế hiểm trở của những dốc núi, đèo cao.
- Cách kết hợp từ độc đáo, sáng tạo, tài hoa:
+ Đêm hơi, mưa xa khơi, hoa về, đuốc hoa, xiêm áo, mùa em, cơm lên
khói, dáng kiều thơm,...vừa làm sống dậy vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của
thiên nhiên; vẻ đẹp tình tứ duyên dáng của con người, cảm giấc ấm áp, thân
thương từ cuộc sống miền Tây vừa thể hiện chất tài hoa trong nghệ thuật
miêu tả thiên nhiên, cuộc sống con người của tác giả, lại vừa cho thấy cái
nhìn của người lính Tây Tiến về cảnh, người, cuộc sống nơi ấy thật lãng
mạn, trữ tình.
+ Các từ ngữ sương lấp, thác gầm thét, cọp trêu người, quân mỏi,
quân xanh màu lá, dữ oai hùm,...tập trung tái hiện chân thực khung cảnh
miền Tây dữ dằn, bí hiểm, hãi hùng như là hiện thân cho những thử thách
nghiệt ngã làm sáng ngời vẻ đẹp oai phong, kiêu hùng, đầy dũng khí và nghị
lực phi thường của đoàn quân Tây Tiến.
+ Lối nói mang tính khẩu ngữ "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
diễn tả lí tưởng sống cao đẹp của người lính: sẵn sàng cống hiến quãng đời
tuổi trẻ đẹp nhất của mình cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc cùng ý chí quyết
tâm thực hiện lí tưởng ấy.
c. Vẻ đẹp cách hiệp thanh, gieo vần, ngắt nhịp,...

38
d. Biện pháp tu từ
- Nhân hóa
- Điệp từ
- Đối lập, tương phản trong miêu tả thiên nhiên, hình tượng người lính Tây
Tiến

39

You might also like