You are on page 1of 18

Tây Tiến Nhắc đến đề tài về anh bộ đội, làm sao ta có thể quên được bài

thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng.


I. Khái quát về tác giả, tác phẩm:
Quang Dũng:
- nghệ sĩ đa tài (sáng tác nhạc, vẽ tranh, làm thơ) với 1 tâm hồn hồn hậu, phóng
khoáng.
- Sở trường: luôn luôn nhìn nhận sự vật hiện tượng qua lăng kính lãng mạn
Phong cách sáng tác: mỗi một nhà thơ đều có cho mình một phong cách riêng,
sở trường riêng: giống như một loài chim phải có tiếng hót riêng ; như một loài
hoa, phải có hương thơm riêng: để ghi lại dấu ấn trong lòng của bạn đọc,
trong cánh rừng đại ngàn của văn học. => Đặc điểm về sáng tạo của người
nghệ sĩ

Kiệt tác: “Tây Tiến”


+ HCRĐ:
Một chiều mưa ở Phù Lưu Chanh và được in trong tập “Mây Đầu Ô”
Được viết khi QD phải rời xa đơn vị, những người đồng chí, đồng đội. Bằng nỗi
nhớ da diết, ông viết bài thơ Tây Tiến

 Mở rộng: Đồng chi – Chính Hữu


“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- Xuất thân của những người lính là những người nông dân chân lấm tay bùn, ra
đi từ mọi độ tuổi và phương trời khác nhau.
 Tây Tiến:
- Xuất thân của họ là những người trí thức Hà Thành – học sinh, sinh viên đến từ
thủ đô: Họ viết tâm thư bỏ nhà đi lính, gác lại việc học tập – không hẹn ngày trở
về.
 Hoàn cảnh chung: Những năm tháng kháng chiến chống Pháp
 Bức tượng đài của anh bộ đội cụ Hồ “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Họ
mang 3 vẻ đẹp (ốm mà không yếu, chết mà không hết, bi nhưng lại không bi
quan, bi lệ mà là bi hùng, bi tráng)
 Vẻ đẹp của những con người viết lên huyền thoại Việt Nam ở thế kỉ XX

Nhan đề tác phẩm : gợi mở một phần nội hàm của tác phẩm
Tây Tiến :
- là một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào để chiến đấu và bảo vệ vùng Thượng Lào – Tây Bắc Bộ Việt Nam,
vùng biên giới Việt Lào (đánh tiêu hao sinh lực địch – TD Pháp).
# Địa bàn: Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Sầm Nưa, miền Tây Thanh Hoá : núi non
hiểm trở
- Là hướng hành quân của người lính: tiến về biên cương để thực hiện nhiệm vụ
- Ban đầu bài thơ được đặt tên “Nhớ Tây Tiến” – có phần thuỷ mị và toát lên cảm
xúc chính của toàn bài nên về sau bỏ đi từ “nhớ” thành “Tây Tiến”- mang âm
hưởng khoẻ khoắn, mạnh mẽ của người lính, đó là một đoàn binh anh hùng.
 cuộc hành trình khám phá theo bước chân của người lính Tây Tiến.
Bằng những kiến thức đã viết bên trên, vận dụng để viết một mở bài hoàn chình, đủ ý,
có liên hệ.

Mở bài bằng thơ:


Trong bài thơ “Ngày về” của Chính Hữu có viết:
“ Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Nhắc đến đề tài về anh bộ đội trong thơ ca thời kì kháng chiến chống pháp, làm sao ta
có thể quên được bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ xứ Đoài– Quang Dũng.
Khi nhắc đến tên tuổi của nhà thơ Quang Dũng, từ trong tiềm thức của những người
yêu văn chương sẽ nhớ đến một người nghệ sĩ đa tài, một hồn thơ hồn hậu, phóng
khoáng. Phong cách sáng tác thi vị, luôn luôn nhìn nhận các sự vật, hiện tượng qua
lăng kính lãng mạn. Bài thơ này được viết trong một chiều mưa ở Phù Lưu Chanh và
được in trong tập “Mây Đầu Ô” khi tác giả phải rời xa đơn vị, những người đồng đội,
đồng chí của mình. Bằng nỗi nhớ da diết, Quang Dũng viết tác phẩm “Tây Tiến”.
Mặc dù đều là những bài thơ về đề tài anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, thế
nhưng họ lại có nhiều xuất thân khác nhau. Nếu trong tác phẩm thơ “Đồng chí” của
Chính Hữu:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Người lính trong bài thơ này, họ là những người nông dân từ mọi độ tuổi, mọi phương
trời, ra đi để tìm đường cứu nước. Thì những người lính trong “Tây Tiến” lại là những
người trí thức Hà Thành “ra đi không hẹn ngày trở về, viết huyết tâm thư, bỏ nhà đi
lính”, lên đường vì nghĩa lớn – những học sinh, sinh viên đến từ Thủ Đô Hà Nội.
Nói đến thành công của tác phẩm này, phải nhớ đến bức tượng đài về anh bộ độ cụ Hồ
“quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” mang trong mình 3 vẻ đẹp là ốm mà không yếu, là
viết về cái chết mà không hết, là viết về cái bi nhưng không bi quan, bi luỵ mà là bi
hùng, bi tráng.
 Vẻ đẹp của những con người viết lên huyền thoại Việt Nam ở thế kỉ XX
 Bài thơ “Tống biệt hành”
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!

Mở bài bằng lý luận văn học:


Nói như Viên Mai: “thơ văn quý ở chỗ cong” thì mỗi một nhà văn, nhà thơ thì phải
như một chú chim, một loài hoa trong cánh rừng đại ngàn của văn học. Loài chim ấy
phải tiếng hót riêng, loài hoa ấy phải có hương thơm riêng để đọng lại trong tâm hồn
của bạn đọc. Khi nhắc đến Quang Dũng, ta nhắc đến hồn thơ hồn hậu, tinh tế và phóng
khoáng. Nhà thơ này luôn nhìn sự vật hiện tượng thông qua lăng kính lãng mạn. Phó
giáo sư- tiến sĩ Nguyễn Đặng Điệp đã từng nói “Tây Tiến quả là một nét son đẹp nhất
trong đời thơ Quang Dũng. Cả bài thơ hiện ra như một sự hoà điệu giữa thơ – nhạc –
hoạ”. Bài thơ này có nội dung đẹp, cách tổ chức ngôn từ xuất sắc. Trên nền thiên nhiên
miền Tây Bắc hiện lên vừa dữ dội, vừa hoang sơ ấy, người lính Tây Tiến hiện lên đầy
kiêu hùng. Họ là những trí thức Hà Thành, gác lại việc học tập, lên đường vì nghĩa
lớn, không hẹn ngày trở về. Họ đã viết lên viết lên huyền thoại của Việt Nam ở thế kỉ
20.

II/ Phân tích tác phẩm

 Nội dung theo từng đoạn của Tây Tiến:


Khổ 1: Chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến từ vùng địa bàn này sang
vùng khác trong nỗi nhớ của thi sĩ
Khổ 2 :
+ 4 đầu: đêm giao lưu văn hóa, văn nghệ
+ 4 sau: vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây

Khổ 1:
 Tiếng gọi của nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!”
Lưu ý: tác phẩm “Tây Tiến” sử dụng địa danh rất có dụng ý nghệ thuật
o “Sông Mã”:
 ở khổ 1 và khổ cuối đều có xuất hiện: đầu cuối tương ứng (nghệ thuật)
 giúp ý thơ được bắt mạch vòng với nhau
# MỞ RỘNG: Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm:
“ Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
- Sự vật hiện trượng trường tồn, bất biến hoá thành chứng nhân lịch sử
 Sông Mã trải dài trên vùng địa bàn của người lính Tây Tiến: gắn liền với
chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến
 Nhớ về Tây Tiến : Sông Mã
 Chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác của kẻ thù và những chiến công hiển hách
của đoàn binh Tây Tiến
# MỞ RỘNG: Khi Quang Dũng mất, hội nhà văn Việt Nam thốt lên đứng
trước linh cữu của ông :
“ Sông Mã xa rồi Sông Mã ơi
Người yêu sông Mã cũng qua đời”
 Sử dụng nghệ thuật liệt kê + địa danh mang dụng ý nghệ thuật
- “xa rồi” : dư vị ngậm ngùi, nuối tiếc – khi chia xa là lúc con người nhận ra tình
yêu của mình với mảnh đất ấy, quãng đời ấy lớn lao, tha thiết chừng nào.
# MỞ RỘNG: Tiếng hát con tàu - Chế Lan Viên
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn”
Những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm
xúc để rồi Quang Dũng bật ra thành tiếng gọi “Tây Tiến ơi”

“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”


- Điệp từ “nhớ”: nỗi nhớ da diết, ào ạt như thác lũ
- Vần “ơi” Vần “ơi” gợi tiếng gọi đoàn binh Tây Tiến – tiếng gọi rừng núi, đồng
chí, đồng đội bằng giọng điệu trìu mến, đong đầy nhớ thương => cảm xúc chủ
đạo của bài thơ là nỗi nhớ (HCRĐ)
- “ chơi vơi” (từ láy) : mông lung, không rõ rệt, khi con người thấy mình mất
đi một điểm tựa tinh thần, không biết bám víu vào đâu giữa cuộc đời mênh
man này.
 Nỗi nhớ như vang vọng, xâm chiếm toàn bộ tâm trí của nhà thơ
 # thơ là tiếng nói của con tim => tiếng gọi của bản thân tác giả: nỗi
nhớ
 # Đó cũng chính là lý do tại sao mà nhan đề khi đầu là “Nhớ Tây Tiến” lại chuyển thành “Tây Tiến” vì
toàn bài thơ là một nỗi nhớ da diết rồi. Bỏ từ “nhớ” đi để tránh làm lộ cảm xúc, nội dung toàn bài ở
nhan đề.
 # MỞ RỘNG: Tố Hữu: “Thơ chỉ trào ra khi trong tim anh mọi thứ
đã thật ứ đầy”
 Nỗi nhớ về thiên nhiên, núi rừng, chặng đường hành quân:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Ký ức, kỉ niệm => gợi mở thời gian, không gian gian hoạt động của người lính Tây
Tiến: Sài Khao, Mường Lát

# MỞ RỘNG: Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên


“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
 Kỷ niệm không bao giờ quên

- “sương lấp” + “đêm hơi”: thời gian hành quân: Các anh ra đi khi trời tờ mờ
sáng và trở về sau những đêm dài hành quân nung nấu, vất vả.
- “ Sài Khao”,”Mường Lát” : địa danh mà các anh từng đi qua
- “hoa về”:
+Nghĩa 1: nhân hóa: người lính trở về
Liên hệ: “con người ta là hoa đất” – Bác Hồ từng nói
+ Nghĩa 2: ẩn dụ: bó đuốc của người lính, họ cầm trên tay để soi sáng con
đường hành quân trong những đêm dài hành quân vất vả.

 Bức tranh núi non hiểm trở ở miền Tây: Không gian địa bàn rộng lớn của
người lính Tây Tiến:
“ Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Liên hệ: Cổ nhân từng nói : “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc”
Nghĩa là trong thơ có tranh, trong thơ có nhạc
Đọc để hiểu câu nói này: https://vanhay.edu.vn/de-thi-hoc-sinh-gioi-ve-bai-tay-tien-va-viet-bac-2/?
fbclid=IwAR3V8Y5pc125u-REO8RtFOn2eO2G3NLvuBeSx_5iDYLQPZYAS8bXlFzrc8A

- Điệp từ “dốc” nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua
- Từ láy gợi hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” + nhịp thơ 4/3 (gập đôi câu
thơ): gợi liên tưởng những anh bộ đội phải treo mình trên những triền núi
đá, một bên là vực sâu thăm thẳm, một bên là núi cao chót vót.
 Bằng con mắt của một người nghệ sĩ: vẽ ra vùng địa bàn hoạt động
hiểm trở
- Từ láy “Heo hút”: sự vắng vẻ
>Những nơi các anh từng đi qua: thậm chí còn chưa từng có bóng người đặt
chân đến.
- “súng ngửi trời”:
+ hoán dụ: lấy súng để chỉ người
+ nhân hoá “ngửi”
> trên chặng đường hành quân mà các anh đi qua – những nơi heo hút, hẻo
lánh không có một bóng người , mũi súng chạm đến đỉnh trời để cảm nhận
độ cao ấy
=> ý chí kiên cường của người lính

# Mở rộng: Đồng chí – Chính Hữu: “ đầu súng trăng treo”


- Hình ảnh lãng mạn, giàu nghĩa hàm ẩn
- Trăng: khát vọng hòa bình
- Thời gian: hành quân buổi tối # Tây Tiến: thời gian không chỉ là buổi đêm
mà là ngày đêm

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”


- Nhịp thơ 4/3: bẻ gập đôi câu thơ
- điệp ngữ “ngàn thước” : nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua
# vùng địa bàn, căn cứ hoạt động của các anh là vùng Thượng Lào, Tây Bắc Bộ của
Việt Nam, nơi có địa hình hiểm trở, bao quanh là núi rừng, núi non điệp trùng.
- Tiểu đối “lên cao” >< “xuống” (tương phản đối lập) sự nối tiếp nhau, triền
miên không dứt của những dãy núi
 Chặng đường hành quân như tăng lên gấp bội
# Theo Diệu Linh: nó không chỉ là sự nối tiếp của dãy núi mà còn là một vòng tuần
hoàn lặp đi lặp lại của những người lính : chặng đường hành quân thường ngày của
học là vượt núi => sự khắc khổ, vất vả của những người lính
 3 câu thơ đã vẽ lên một cách rất đầy đủ, chân thực: vùng địa bàn – không gian
núi non hiểm trở của miền Tây bằng cách sử dụng rất nhiều từ láy tượng hình
 Khó khăn, nguy hiểm, vất vả của các anh

- 3 câu thơ này được gieo toàn bộ bằng các thanh trắc (hỏi,ngã, nặng,sắc)
=> khó khăn, gập ghềnh, hiểm nguy trên chặng đường hành quân của các
anh.

- Thì câu thơ sau gieo toàn bộ câu thơ bằng thanh bằng * kể cả địa danh “Pha
Luông” (huyền, thanh ngang- không dấu)
 Gợi tả sự bình yên
“ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
- Đại từ phiếm chỉ “ai”: bất cứ ai
 “ nhà ai” : bất cứ mái nhà nào, bản làng nào
 # thanh bằng gợi tả sự bình yên => “nhà ai” mang đến sự bình yên
Những mái nhà, bản làng của đồng bào dân tộc vùng cao, nơi các anh
được đón tiếp nồng hậu, nơi các anh được nghỉ chân
# Mở rộng: “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung Thông
“ Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”
 Các anh được đón tiếp bằng tình cảm nồng ấm – tình quân dân của nhân
dân miền núi: cảm giác bình yên của người lính khi nhìn thấy những bản
làng, những mái nhà của dân tộc miền cao.
# Đó là lý do tại sao mà tác giả lại gieo cả câu thơ toàn bộ thanh bằng, kể cả địa danh
“Pha Luông”

# Đã có một khoảng thời gian mà tác phẩm “Tây Tiến” không được đưa
vào chương trình giảng dạy là do nhắc đến một vấn đề nhạy cảm – cái
chết, sự hi sinh của người lính khi nhắc đến chiến tranh. Tác giả đã không
nề hà, né tranh những sự thực của chiến tranh.
Cái hay là “văn chương mà muốn thuyết phục được người đọc thì trước hết
nó phải chân thực” . Quang Dũng khi viết về chiến tranh cũng không hề né
tránh những đau khổ, mất mát.
 Những năm tháng ấy đã bất lực trước đoàn binh Tây Tiến
Và một lần nữa “Tây Tiến” lại được đưa vào giảng dạy như một kiệt tác
văn chương của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.
# Dlinh: Thật ra thì mọi tác phẩm về chủ đề chiến tranh trong thời kì bấy
giờ đều miêu tả, diễn tả nói giảm nói tránh và tránh những vất vả, nỗi đau
và đặc biệt là cái chết. Họ chỉ nói đến tình quân dân thắm thiết, những vẻ
đẹp trên đường hành quân, sự lạc quan yêu đời của người lính và tình yêu
dân tộc nồng đượm trong trái tim họ. Chỉ đơn giản là để gián tiếp kích thích
tinh thần yêu nước đang nhen nhóm trong những người trẻ tuổi, để họ có
thể “ra đi” mà “không tiếc đời xanh”
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
- “dãi dầu” (từ láy): sức nặng của câu thơ dồn về câu thơ này => những vất
vả, gian truân trên chặng đường hành quân
- Đặc biệt : tác giả viết “không bước nữa” chứ không phải “bị ngã xuống”
 Biến người lính từ thế bị động sang chủ động
- Không nhắc đến một từ “chết”, “mất” hay “hi sinh” nào cả mà bằng câu
thơ:“Gục lên súng mũ bỏ quên đời” chúng ta vẫn có thể thấy được hiện thực
tàn khốc của chiến tranh – nơi bom rơi, đạn lạc. Súng đã nổ và người dân
Việt Nam cũng đã đổ máu, có chiến tranh là sẽ có sự hi sinh – một điều rất
đỗi bình thường.
+ Hay: Thông qua lăng kính lãng mạn thì sự hy sinh ấy chỉ như những giấc
ngủ của người lính – những cái chợp mắt để nghỉ ngơi, để rũ bỏ những mệt
nhọc trên những chặng đường dài hành quân.

# Mở rộng: Bài thơ “Trăng trối” – Tố Hữu :


“Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh”

- Qua con mắt thơ của Quang Dũng, những cái chết “thơm đất thơm trời”,
những con người nguyện hi sinh thân mình để “Tổ Quốc bay lên bát ngát
mùa xuân” .
# Viết về cái chết nhưng lại không trực tiếp nhắc đến nó mà QD chỉ nhìn nhận nó như
vẻ đẹp bản lĩnh của ngưởi lính Tây Tiến và chúng nhẹ tựa lông hồng, như giấc ngủ
giữa hai bờ súng nổ
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
- Thời gian: “chiều chiều” + “đêm đêm”: sự tuần hoàn, lặp lại của những hoạt
động thường ngày
# Họ phải hành quân đi ngang qua những nơi “rừng thiêng nước độc” – gây nên những
ám ảnh trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến đó là tiếng “thác nước gầm thét”
- Địa danh “Mường Hịch”
cách lựa chọn địa danh hết sức tinh tế: sức nặng dồn đổ vào từ “Hịch” thể
hiện bước chân nặng trịch của cọp vờn người – loài thú ăn thịt, xé xác, giết
người. Nhưng nhìn nhận qua con mắt của người lính Tây Tiến thì những
nanh vuốt sắc nhọn, những hàm răng ghê sợ ấy chỉ còn là những trò trêu đùa
của trẻ con với bản lĩnh của người lính Tây Tiến qua từ “trêu”
 Khẳng định tài năng của QD: nhìn nhận sự vật, hiện tượng qua lăng
kính lãng mạn.
# Miêu tả rất chân thực: những gian lao, vất vả mà người lính phải trải qua

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu màu em thơm nếp xôi”
- “cơm lên khói” + “thơm nếp xôi”:
+ mùi hương thơm của lúa gạo trên chặng đường hành quân
+ Bữa cơm thân mật, thắm tình đồng chí, đồng đội

 Mở rộng:
 “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:
“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”
 Nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn cũng đã từng viết:
“ Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ
Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua”

 Tài năng của QD: vẽ nên bức tranh thiên nhiên của vùng núi phía Tây, lột tả
được những gian lao, vất vả mà người lính phải trải qua và ta có thể cảm nhận
được tâm hồn hào hoa, phóng khoáng của tác giả - QD.

Khổ 2:
a. 4 câu đầu: đêm giao lưu văn hóa, văn nghệ với đồng bào dân tộc miền
cao thấm đượm tình quân dân:
Một không gian lễ hội dường như là một đám cưới tập thể. Không gian có
khúc nhạc du dương, có những cô gái dịu dàng e ấp với những điệu múa say
đắm lòng người.
“ Doang trại bừng lên hội đuốc hoa”
- “doanh trại” (không gian): nơi người lính đóng quân, nơi để đồng bào dân
tộc miền cao đến để sum họp, để giao lưu văn hoá – văn nghệ => ấm áp tình
cảm quân dân
- “bừng” : động từ mạnh thể hiện ánh sáng của ngọn lửa
# được hiểu theo nhiều cách – từ đa nghĩa
 Mở rộng: “Từ ấy” :
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”
- “bừng” : thể hiện ánh sáng đến một cách bất ngờ, đột ngột
+ bừng sáng lung linh
+ bừng tỉnh ngạc nhiên
+ tưng bừng rộn ràng
 Chính xác trong sử dụng ngôn từ
# Nói như Mai-a-cốp-ski : “ để có được một gam phải mất hàng trăm lao lực, để có
được một chữ phải mất hàng ngàn tấn quặng ngôn từ”
- “hội đuốc hoa”:
+ “đuốc hoa” : ngọn đèn hoa trúc - được thắp lên trong phòng vợ chồng –
đêm tân hôn
 Vô lý: tại sao đi bộ đội lại có đuốc hoa? Không phải đi lấy vợ?
 Trên thực tế, đây chỉ là những bó đuốc bình thường được sử dụng trong
những đêm giao lưu, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của người lính Tây Tiến
diễn ra dưới những cánh rừng. Gió thổi qua làm cho những bó đuốc bình
thường ấy phát lên những tia lửa lung linh và nhìn nhận qua lăng kính lãng
mạng của QD thì lại trở thành những “đuốc hoa”- ngọn đèn trong đêm tân
hôn .
 Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh: tâm hồn dí dỏm, hồn
nhiên, lạc quan của những anh lính trẻ đến từ thủ đô Hà Nội.
 Niềm vui trong trái tim của người lính Tây Tiến
 Người Việt Nam trong chiến tranh sống hôm nay không biết còn hay mất
nhưng dưới những mưa bom, bão đạn của kẻ thù: họ vẫn trẻ trung, xuân
sắc, đợi chờ, và tin tưởng rằng cuộc kháng chiến sẽ nhất định thành
công, thắng lợi.

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”


- “kìa”: từ để chỉ về phía xa / phó từ chỉ sự ngạc nhiên (của người lính)
- “xiêm áo” :
+ ý nghĩa 1: những người lính dí dỏm,hồn nhiên mặc những bộ trang phục
của những người phụ nữa vùng cao để nhày múa
+ ý nghĩa 2: những bộ trang phục đẹp mà những người phụ nữ vùng cao
mặc khiến cho người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên, ngỡ ngàng.
 Không khí diễn ra vô cùng vui tươi
 Mở rộng: “Vợ chồng A Phủ” :
Khi mùa xuân đến, “trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra
phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”.
 Đậm đà bản sắc dân tộc
# thơ cả hay ở chỗ: hàm súc, đa nghĩa => gợi nhiều trường liên tưởng thú vị và độc
đáo
“Khèn lên man điệu nàng e ấp”
- Có trang phục đẹp, có âm nhạc của nhạc cụ “khèn”, “man điệu”- điệu múa,
điệu nhảy của đồng bào
 Không khí rộn ràng: nét vẽ có thần, làm sống lại những kỉ niệm của đoàn
binh Tây Tiến khi sinh hoạt bên ánh lửa bập bùng cùng đồng bào vùng
cao :
+ Âm thanh của lễ hội
 Mở rộng: Viết Bắc – Tố Hữu
Ta cũng bắt gặp hình ảnh người lính sinh hoạt cùng với đồng bào miền cao:
“ Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giời liên hoan”
 Thứ (âm nhạc, không khí, trang phục, những cô gái) đã xây nên “hồn
thơ” trong tâm trí của các anh
?? Vậy thì thứ để lại trong tâm hồn người lình sau những giờ liên hoa này là gì??
- Đại từ: “em” => “nàng”
 Không khí đã trở nên say mê, ngây ngấy
 tâm hồn trở nên bay bổng

“Nhạc vè Viên Chăn xây hồn thơ”


- Viên Chăn là thủ đô của lào
# địa danh mang dụng ý nghệ thuật
=> chỉ sự đặc biệt trong khu vực hoạt động của người lính Tây Tiến
(Thượng Lào – Bắc Bắc Bộ Việt Nam)
# Lào – Campuchia- Việt Nam : 3 nước Đông Dương có chung kẻ thù là
thực dân Pháp – mối bang giao hữu hảo lâu đời.

b. 4 câu tiếp: Cảnh đẹp huyền hồ của thiên nhiên sông nước miền Tây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”
- Địa danh duy nhất ở khổ này “Châu Mộc” – nơi có cảnh sắc thiên nhiên rất
đẹp, có núi sông diễm lệ, có thung lũng lúa chín vàng, có đá chim đá nổi, có
gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ
=> sở dĩ Châu Mộc được nhắc đến vì cảnh sắc thiên nhiên nơi đây đã để
trong lòng tác giả những kỉ niệm đẹp chứ không phải bất kì địa danh nào
khác.
- Mở ra ở đó là không gian dòng sông vào một buổi chiều được giăng mắc lên
màu của sương khói hiện ra như một miền cổ tích.

“ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ


Có nhớ dáng người trên độc mộc”
- Điệp “có thấy”, “có nhớ” : nhấn mạnh cảm xúc chủ đạo của bài thơ – nỗi
nhớ, tạo ra âm hưởng cho đoạn thơ.
- Những cây lau hiện ra giữa hai bờ tiền sử trong văn chương của Nguyễn
Tuân
- Nhân hòa “lau” để thổi hồn mình vào cảnh vật tràn đầy sức sống
+ Hình ảnh “dáng người trên độc mộc” => cảnh và người hòa quyện đồng
điệu
“Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để tâm hồn mình lắng lại,
để chất thơ Tây Bắc ngập vào hồn ”

“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”


- Tương phản: dòng nước lũ >< hoa đong đưa: nổi bật chất trữ tình, lãng mạn
- Tác giả có thể viết là “đong đưa” chứ không phải là “đu đưa” : cảnh vật có
hồn người => thiên nhiên miền Tây tạm biệt các anh lên đường hành quân
từ những vùng địa bàn này đến vùng khác.
 Kỉ niệm đẹp trong kí ức của đoàn binh Tây Tiến

Khổ 3: Bức tượng đài người lính Tây


Tiến
Anh bộ đội cụ Hồ quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh
 Ngoại hình của người lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
- Tây Tiến đoàn binh:
+ Quân Tây Tiến
+ Độ tuổi 18 – 20: “Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa”
+ Lên đường theo tiếng gọi của Tổ Quốc: “quyết tử vì Tổ Quốc quyết sinh”
+ “đoàn binh”: từ Hán Việt
 Rắn rỏi (ngữ điệu), cổ điển (màu sắc)

- Không mọc tóc:


+ không phải là “bị rụng tóc”, “tóc không mọc” mà là “không mọc tóc”
 Ngoại hình đặc biệt
+ Nguyên nhân: căn bệnh vô cùng phổ biến trong giai đoạn kc chống Pháp:
bệnh sốt rét rừng
# Mở rộng: Đồng chí – Chính Hữu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
 Người lính Tây Tiến cũng đã từng mắc căn bệnh sốt rét rừng : tóc rụng
# Mở rộng: Viên Mai
“ Thơ văn quý ở chỗ cong” – phong cách riêng của từng nhà thơ
- Lăng kính lãng mạn: biến người lính từ thế bị động sang chủ động: tư thế
ngang tàng, bản lĩnh
 Những anh vệ trọc vừa đáng yêu, vừa kiêu hãnh
Thiếu thốn về thuốc men, lương thực, dễ dàng mắc bệnh sốt rét rừng,… khó khăn đủ
điều thế nhưng các anh lại đối diện với nó với một tâm thế chủ động, sẵn sàng, bản
lĩnh để vượt lên trên hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh.

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”


# Mở rộng: Thơ ca là điệu hồn của những tâm hồn đồng điệu hay nói như Thạch Lam
“Mỗi một tác phẩm đều có ít nhiều những nhà văn”
- Trên thực tế, người lính mắc bệnh sốt rét rừng: làn da có màu xanh lá- màu
nhợt nhạt, xanh xao, vàng vọt
#Mở rộng: Cá nước – Tố Hữu:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế ”
>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>
“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”

 Đều đề cập đến màu da nhợt nhạt


- Lãng mạn hoá: màu xanh không còn là làn da nhợt nhạt của người ốm mà
qua lăng kính lãng mạn đã trở thành màu xanh của lá rừng nguỵ trang –
xanh sắc mạ non, xanh luỹ tre làng, màu xanh của núi rừng bạt ngàn.

 “dữ oai hùm” : Quang Dũng viết về những người lính đang mắc bệnh
nhưng lại không hề thấy sự yếu ớt. Trái lại, các anh lại hiện lên trong
trang thơ của Quang Dũng lại “dữ oai hùm” – uy nghiêm như mãnh hổ,
ngự trị ở chốn rừng xanh khiến quân thù phải khiếp sợ.
 Sự sáng tạo có tính kề thừa: hình tượng truyền thống về những bậc
trượng phu, tráng sĩ
#Mở rộng:
>>>>Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão
“ Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Ba quân mạnh như hổ báo có thể nuốt trôi trâu/ sao Ngưu
>>>> Bình Ngô Đại Cáo – Nguyễn Trãi:
“Sĩ tốt kén tay tì hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”
Quân lĩnh mạnh mẽ như hổ báo, bề tôi có bản lĩnh phi thường, dám vuốt nanh hổ

 Người lính Tây Tiến tuy vẻ bề ngoài ốm đau, tiều tuỵ nhưng không che đi
khí phách oai hùng. Nhà thơ có nhắc đến những thiếu thốn khó khăn nhưng
càng làm nổi bật lên sự hiên ngang của đoàn binh.

 Vẻ đẹp tâm hồn:


“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Tương phản: “mắt trừng” >< “gửi mộng”
- “Mắt trừng”: nét dữ dội, oai phong : chiến đầu và tập trung cao độ, nhằm
thẳng về phía quân thù mà bắn.
- “mộng” : khát vọng, lý tưởng của trai thời chiến, trai thời loạn
- “gửi mộng”: gửi đi những tâm tư, tình cảm – những yêu thương của mình

- “Mơ” là những xúc cảm lãng mạn hướng về thủ đô, về người yêu dấu.
- Hà Nội: quê hương – nơi những người lính đã dứt áo ra đi vì lý tưởng chung
- “dáng kiều thơm”: hình ảnh lãng mạn
+ (nhận định cá nhân) quán Kiều nằm trên phố Hàng Bông: Quang Dũng
hay lui tới để đàm đạo chuyện văn chương
+ Người thương nơi quê nhà/ bóng dáng thướt tha, xinh đẹp của cô gái Hà
Nội: giấc mộng tuổi hoa
+ Thủ đô Hà Nội – quê hương của các anh

 Người lính không hề dứt áo, bỏ măc hoàn toàn mà họ vẫn giữ cho mình một
trái tim biết rung động, biết nhớ nhung, biết quyến luyện: Những tâm tư,
tình cảm sâu kín
 Mới mẻ, trẻ trung

# Mở rộng: Đỗ Kim Hồi “Nếu như viết về chiến tranh mà bỏ qua những đau thương,
mất mát thì tác phẩm ấy chỉ còn là những hồi ức đẹp về chiến tranh mà thôi”
Súng đã nổ = người đổ máu
Ban-zắc: “Văn chương phải là người thư ký trung thành của thời đại. Văn chương
muốn thuyết phục được người khác thì trước hết phải chân thực”

- Tài của Quang Dũng: Cái chết, sự hy sinh:


+ Nhịp 4/3 + trọng âm dồn vào “mồ”
Nấm mồ nằm lại nơi biên cương xa xôi: có những người lính đã hy sinh
+ Đảo ngữ + từ láy “rải rác”
 Viết về cái chết nhưng tuyệt nhiên không dùng trực tiếp các từ ngữ để
diễn tả về cái chết (mất, hy sinh, chết,..)

Khổ 3: - ốm nhưng không yếu, chết nhưng không hết


 Cái chết làm tiền đề cho đồng đội bước tiếp
+ Từ Hán Việt “mồ viễn xứ, biên cương, chiến trường”: trang trọng
 Cái chết thơm đất thơm trời: nguyện ngã xuống để “tổ quốc bay lên bát ngát
mùa xuân”, để “dân tộc “rủ bùn đứng dậy sáng loá”.

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”


- Ngân vàng lên như một lời thề
 Chiến trường đi = đi vào nơi tử địa >> họ ý thức đầy đủ và sâu sắc sự
nguy hiểm. Nhưng họ vẫn ra đi, vẫn hành quân vì nghĩa lớn.
#Đồng chí – Chính Hữu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
>> Văn thời chiến: sự chủ động hi sinh, hiến dâng – lý tưởng
+ Đời xanh: tuổi xuân, tuổi trẻ, độ tuổi mười tám, đôi mươi khi “tim đang dạt dào
máu”, “cuộc đời hứa hẹn biết bao hoa”
>> Khoảng thời gian đẹp đẽ, đáng sống nhất
#Mở rộng: Vội vàng – Xuân Diệu
Tiếc tuổi xuân khi chỉ mới 20 tuổi
>> Các anh lính Tây Tiến lên đường mà “chẳng tiếc đời xanh”: muốn cống hiến trọn
vẹn tuổi xuân, tuổi trẻ, sức trẻ của mình cho quê hương, đất nước, dân tộc.
 Chẳng tiếc: thái độ, tâm thế = đó là lẽ đương nhiên, điều tất yếu (hi sinh)
#Mở rộng:
>>Thanh Thảo:
“Tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Ai cũng tiếc thì còn chi Tổ Quốc”
>> Đất nước – Nguyễn Đình Thi
Người ra đi đầu không ngoảnh loại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
>> Họ ra đi để tìm lại bình yên cho mảnh đất yêu thương, không hẹn ngày trở về
** Vẻ đẹp cổ điển + hiện đại: chàng trai ở tk XX mang trong mình lý tưởng “Quyết tử
cho Tổ Quốc quyết sinh”

Áo bào thay chiếu anh về đất


 Áo bào:
- Định nghĩa: áo dành cho nhà vua, võ tướng thời xưa
- Thực tế: Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 => thiếu thốn, khó khăn đủ
điều >> không có áo bào nào cả: tấm áo mỏng, tẩm vải dù che nắng, che
mưa > được sử dụng để đưa về đất mẹ
>>>cách nói trang trọng hóa, mỹ hóa: thái độ thành kính đối với người đã
khuất.
 Áo bào thay chiếu: sự thiếu thốn, đau thương
>> nói giảm nói tránh: phần bi thương được giảm bớt

#Mở rộng: Viếng bạn – Hoàng Lộc


“Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày ly tán”

 Anh về đất: lần thứ 3 nhắc về cái chết: giây phút thiêng liêng
Không phải sự ra đi mà là trở về đất mè, hoá thân thành quê hương, bất tử cùng đất
nước
- QD luôn nói giảm nói tránh cái chết : nhẹ nhàng, thanh thản, cao quý, không
bi luỵ mà bi hùng, bi tráng
-
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
 Sông Mã: đầu cuối tương ứng >> ấn tượng sâu sắc, đậm nét
Sông Mã đầy ân tình : đau đớn, xót xa trước sự ra đi của người lính
 Gầm lên : động từ mạnh diễn tả âm thanh lớn, vang vọng
Nhân hoá: dòng sông vốn bình lặng nay lại dữ dội => mang sắc thái đau đớn đến tột
cùng
>> vẻ đẹp của thiên nhiên trước sự ra đi của núi sông
- Khúc độc hành: bài ca đưa tiễn của núi sông : sự hy sinh của các anh làm
rung động cả trời đất, đã nâng tầm vóc của người lính cũng như ý nghĩa của
sự hi sinh.

Tiểu kết khổ 3:Tượng đài nghệ thuật bất hủ về người lính Tây Tiến- những anh hùng
của thế kỉ XX: nét đẹp tiêu biểu về ngoại hình – tâm hồn
+ tránh né những mất mát nhưng vẫn là tráng ca về hi sinh, sự hoá thân về xói bất tử
+ tràn ngập cảm hứng lãng mạn: khí phách tâm hồn- vẻ đẹp hào hoa
+ phép đối lập: cảm xúc thú vị, đối nghịch
+ hệ thống ngôn ngữ: từ Han Việt: trang trọng, trang nghiêm; từ thuần việt: bình dị, trẻ
trung

Khổ 4: Khúc vĩ thanh mang nỗi nhớ da diết (lời thề/mộ


chí)
 Giọng thơ: trầm lắng, bồi hồi, thiết tha về những người đồng chí, đồng
đội (những nhớ thương hiện hữu, khôn nguôi trong trái tim của người
nghệ sĩ)
“ Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
- Thời gian: “mùa xuân ấy”: 1/1/1947: thời điểm binh đoàn Tây Tiến ra quân
(mốc thời gian quan trọng vơi đời thơ Quang Dũng). Các anh thể hiện ý chí
của cả một thế hệ bỏ lại tất cả, lên đường vì nghĩa lớn. Họ ra đi với lời thề
“Nhất khứ bất phục hoàn” – một đi không hẹn ngày trở về. Họ tạm biệt
thủ đô yêu dấu, gác lại việc học tập, viết tâm thư bỏ nhà đi lính.
 Người đi: hình ảnh mang nét nghĩa mơ hồ
+ người lính rời quê hương, gia đình: lên đường vì nghĩa lớn
+ đoàn binh Tây Tiến đã lên đường
 Không hẹn ước: lý tưởng, ý chí
- Hướng đi: lên miền Tây Bắc thăm thẳm, xa xôi – nơi biên cương
 Thực hiện sứ mệnh của mình
 Cảm xúc: bâng khuâng, da diết khi chia xa đoàn binh Tây Tiến.
“mùa xuân” có thể là khi QD ra quân/ tại Phù Lưu Chanh khi đã rời xa
Tây Tiến nhưng đều chan chứa, đầy ắp một cảm xúc chung “bâng
khuâng”
# Mở rộng: Đồng chí – Chính hữu
“ Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Người lính: đơn vị bộ đội là gia đình thứ 2 từ người lạ, không hề quen nhau
trở thành anh em, đồng đội
LÝ LUẬN VĂN HỌC
Ngôn tử hàm súc, đa nghĩa => biểu cảm, nhiều xúc cảm
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
- Chiến tranh: tàn nhẫn, đau thương mất mát => con đường hành quân “thăm
thẳm” – chiều sâu như “ngàn thước lên cao” của núi cao
 Thẳm thẳm: địa hình núi non/ sự xa xôi của tương lai
 chia phôi : sự hi sinh: những người lính ra đi và có lẽ sẽ chẳng trở lại

#Mở rộng:
Đỗ Kim Hồi: “Nếu viết về chiến tranh mà bỏ qua những đau thương mất
mát thì sẽ chỉ còn những hồi ức đẹp mà thôi”
 Quang Dũng không hề né tránh những sự thật, những đau thương mất mát
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
 Ai: đại từ phiếm chỉ - bất cứ ai lên Tây Tiến đã tham gia nhập ngũ vào
năm 1947 ấy: luôn giữ trong mình ý chí, tinh thần mạnh mẽ “Nhất khứ
bất phục hoàn”, hi sinh thân mình vì nghĩa lớn.
- Trong ngày tháng Quang Dũng – đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong tâm trí
tác giả những kỉ niệm không thể nào quên
- Bài thơ kết lại như một lời thề, lời nhắn nhủ, thiết tha cảm xúc
# Mở rộng:
Vội vàng- Xuân Diệu: tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp đẽ và quý báu nhất của
đời người khi con người muốn tận hưởng, đắm chìm vào sự xuân sắc, tươi trẻ,
thậm chí là sẽ cảm thấy tiếc nuối, nghẹn ngào ngay cả khi mới hai mươi:
“Tôi sung sướng
Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Mùa xuân: quãng thời gian đẹp nhất của đời người nhưng họ đã cống hiến trọn
vẹn cho tổ quốc.
SẦM NƯA: (địa danh mang dụng ý nghệ thuật: “Sầm Nứa” – duy nhất ở k4)
+ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn”
+ Tô Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho
tôi nhiều, không thể bao giờ quên…”
 Gắn với những kỉ niệm: gần gũi
 Khoảng thời gian đầy những gian nan, vất vả, gian khổ nhất nhưng lại hào
hùng: in đậm trong kí ức , tiềm thức
 Thay lời muốn nói cho những người đồng chí, đồng đội, đoạn thơ như một
lời thề, một lời tâm tình của tác giả với nơi biên cương xa xôi.
- Dù còn hay mất, những con người trong đoàn binh ấy sẽ luôn hướng trái tim
về Sầm Nưa – địa danh gắn bó với nơi biên cương xa xôi và heo hút này
 họ nguyện gắn bó tâm hồn với miền đất này
 Nơi chất chứa những kỉ niệm thời lính, nơi ghi dấu những chiến công của
bộ đội Việt Lào, nơi mà những người lính đã nằm lại

*** ĐÁNH GIÁ/ NHẬN XÉT ***


- Bút pháp lãng mạn: luôn hướng về tương lai
- Vẻ đẹp trong lý tưởng của anh bộ đội
- Nói lên tiếng lòng: thay lời muốn nói của 1 tập thể anh hùng: sống trong giai
đoạn lịch sử bi tráng – những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp:
ngân vang trong tiềm thức của độc giả
 Tình cảm thiêng liêng: tình cảm của những người đồng chí, đồng đội
Nghệ thuật
- Sự hoà quyện giữa hiện thực và lãng mạn
- Hệ thống ngôn từ giàu tính hình tượng
=> khắc hoạ bức tượng đài người lính => đại diện cho ý chí chống giặc, yêu
nước của cả một dân tộc

KẾT BÀI
 KB bằng thơ:
Núi đôi – Vũ Cao
“Anh vào bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”

 KB bằng nhận định văn học


“ Những gì không đọng lại trong đời sẽ đọng lại trong văn chương”. Chúng
ta sinh ra vào thời bình, chưa từng sống trong những ngày tháng ác liệt của
chiến tranh nhưng khi ta đọc những vần thơ của Quang Dũng. Ta đã thấy
được những nỗi nhớ, niềm thương, những tình cảm gần gũi, keo sơn của
những người đồng đội vào sinh ra tử. Từ đó, ta càng cảm phục, biết ơn, trân
tròn sự hi sinh của những người lính vì hoà bình, độc lập.

You might also like