Professional Documents
Culture Documents
- Quang Dũng -
Mở bài 1:
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét về bài thơ Tây Tiến: “ Quang Dũng đứng
riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì chung với những
nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng chiến”. Phải
chăng cái mới, cái lạ, cái riêng biệt ấy chính là tượng đài những người chiến sĩ, những
người anh hùng của dân tộc đã hy sinh vì dân tộc, được tạc dựng lại vừa mang vẻ đẹp của
sự anh dũng, kiên cường vừa mang vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. (Nêu vấn đề ở đề bài)
Mở bài 2:
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một
cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước
đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1
trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài
bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã
xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian. (Nêu vấn đề ở đề bài)
Mở bài 3:
Cho đến nay “Tây Tiến” vẫn là một đài thơ đầy kỳ bí. Cái ma lực, cái âm hưởng của
bài thơ “Tây Tiến” chưa ai lý giải hết được. Phải chăng cái hay là bởi lời thơ, ý thơ, hình
tượng thơ giàu nhạc điệu được chứa trong một hồn thơ thật mới lạ và rất sâu sắc? Con
người nồng hậu, nét bút tài hoa trong cách sử dụng ngôn ngữ thơ và hình ảnh thơ đã làm
nên kiệt tác thơ Tây tiến. Với “Tây tiến”, Quang Dũng đưa ta đi vào một thế giới đầy mùi
hương hoài niệm của sự vọng tưởng diệu huyền.Với “Tây tiến”, Quang Dũng đã xây tượng
đài về anh Bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến 9 năm đầy gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng.
(Nêu vấn đề ở đề bài)
Mở bài 4:
Nhà thơ Chế Lan Viên từng để tâm hồn thăng hoa trong những lời thơ sâu sắc: “Khi
ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Trong cuộc đời mỗi người từng gắn
bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều trở thành dấu ấn, trở thành những kỉ niệm
khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã từng trải qua cảm xúc ấy. Nỗi nhớ của ông về
những năm tháng kháng chiến, về những kỉ niệm gắn bó với mảnh đất Tây Bắc đã được
ghi lại chân thực trong bài thơ “Tây Tiến”. (Nêu vấn đề ở đề bài)
Mở bài 5:
“Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai bồng
…
“Khi Tổ Quốc cần họ biết sống xa nhau”
( Cuộc chia ly màu đỏ – Nguyễn Mỹ)
Chiến tranh đi qua đã để lại cho chúng ta những hoài niệm về những tháng năm không
thể nào quên, đó là khi con người ta nhận ra sứ mệnh của mình sinh ra là để chiến đấu, là
để báo thù, đó là những con người sẵn sàng gác lại tuổi trẻ, việc học hành, tình cảm cá
nhân vị kỉ để đi theo tiếng gọi của Tổ Quốc… Những con người ấy đã đi vào trong thơ ca,
nghệ thuật như những huyền thoại của thế kỉ 20 mà nhà thơ Quang Dũng đã thể hiện thật
xuất sắc thông qua lăng kính lãng mạn nhưng vẫn đậm chất hiện thực của mình qua bài thơ
“Tây Tiến”. Tác phẩm đã khắc họa thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến trong
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. (Nêu vấn đề ở đề bài)
Mở bài 6:
Nhà thơ CLV đã từng tha thiết, vời vợi những nhớ thương với mảnh đất Tây Bắc:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
Mỗi mảnh đất đi qua là « nơi máu rỏ » để tâm hồn ta thấm đất, mỗi bước chân là một bước ân
tình. Bao nhiêu kỉ niệm đã ăn sâu vào tiềm thức, những tháng ngày gian nan, lúc băng rừng, vượt
thác, khi hào hùng, lúc mộng mơ...tất cả chỉ bao bọc trong nỗi nhớ, niềm thương của người đại
đội trưởng gửi trao những đồng đội thân yêu. « Tây Tiến » là tiếng lòng thổn thức, chơi vơi mà
QD gửi lại mảnh đất miền Tây Bắc và đoàn quân TT của mình. (Nêu vấn đề ở đề bài)
TB.
1. Đề tài: hình tượng người lính trong KCCP.
Có những bức tượng đài đã trở thành bất tử trong văn học viết về người lính: nữ anh hùng thưở
bà Trưng, bà Triệu “cưỡi voi xông trận”, người nông dân nghĩa sĩ với “manh áo vải, ngọn tầm
vông” trong văn Nguyễn Đình Chiểu, người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung …
Nhưng có một bức tượng đài đẹp như huyền thoại trong văn học là hình tượng người lính trong
KKCP. Chắc chúng ta đã biết đến người nông dân vác súng lên đường đi chiến đấu trong bài
“Nhớ” của Hồng Nguyên. Người đồng đội thắm thiết ân tình trong “Đồng Chí” của Chính
Hữu…Một mảnh đất thân quen của văn học đã bao người cày xới. Đã bao cây đại thụ trưởng
thành từ mảnh đất này. Đó là một thử thách không hề nhỏ đối với người cầm bút có ý định viết về
mảng đề tài người lính. Nhưng khó khăn càng lớn càng thôi thúc và đánh thức tài năng. Quang
Dũng đã không ngần ngại khi lách bút vào kẽ hở của đề tài này và ươm lên một hạt mầm đủ sức
vươn cao, trường tồn, bất tử cùng thời gian. “Tây Tiến” là một minh chứng hùng hồn khẳng định
lao động nghệ thuật đầy trách nhiệm, ý thức và tình yêu của Quang Dũng.
2. Hoàn cảnh sáng tác
Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. “Tây
Tiến” cũng vậy, là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà QD gửi về cho binh đoàn Tây
Tiến máu thịt, thân yêu của mình.
Đặc điểm của binh đoàn TT:
- Thành phần: Đoàn quân TT được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần đông là những
chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là điểm khác biệt rõ nét
làm nên chất lãng mạn và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ QD. (so
sánh với hình tượng người lính trong bài “Đồng Chí” của Chính Hữu)
- Tinh thần: Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”,
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ
Chí Minh.
- Địa bàn hoạt động: Một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu- Hòa Bình cho đến tận Thanh
Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. Đó là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ
quốc. Nơi rừng thiêng, nước độc, nơi thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội
Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch.
- Cuộc sống chiến đấu: Vô cùng thiếu thốn, khó khăn gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc
nghiệt. Chính vì thế mà những người kính TT hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh
tật thì nhiều.
Chính vì vậy chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn TT đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại
đội trưởng QD được chuyển sang một đơn vị khác và TT sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần,
ngồi tại dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn
bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. TT được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da
diết QD gửi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu.
3. Nhan đề và xuất xứ bài thơ.
Tác phẩm văn học có thể coi như đứa là con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt
tên cho tác phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trăn trở của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt
đi, đặt lại. TT của QD mới ra đời nó có tên là “Nhớ TT”. Nhưng có lẽ sau này QD hiểu rằng, thơ
là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu,
từng chữ, từng nhịp thơ. Đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ
còn “TT” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ
được in trong tập “Mây đầu ô” năm 1948.
Phân tích bài thơ
Bố cục: 4 phần:
1. Hình tượng người lính TT thấp thoáng ẩn hiện trên chặng đường hành quân giữa thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc.
2. Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấm tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
3. Chân dung người lính TT.
4. Lời thề gắn bó với binh đoàn TT và mảnh đất miền Tây.
Kết bài 2:
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân
thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới,
thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là
bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng
đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ “Tây Tiến”, từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát
ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Kết bài 3:
Quang Dũng vào “làng” thơ cách mạng với bài “Tây Tiến”, như có mối duyên gì ràng
buộc, bài thơ ấy gắn bó với người làm ra nó đến mức cứ nói đến Quang Dũng là người ta
nhớ đến bài thơ “Tây Tiến” và ngược lại. Có lẽ bởi từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa
cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một
bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ
đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng
chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Kết bài 4:
Đọc xong những ý thơ mà ta có cảm giác vẻ đẹp của thiên nhiên, con người miền Tây
còn chập chờn, miên man đâu đó. Bằng tình cảm sâu đậm của mình với mảnh đất này,
Quang Dũng đã tạo nên mối tơ tình đồng điệu, gắn bó giữa độc giả với nhà thơ, giữa độc
giả với thiên nhiên, con người miền Tây trong những năm tháng kháng chiến gian nan.
Quả là “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
TÂY TIẾN (2)
Quang Dũng
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng hơn hết ông là
nhà thơ xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại, nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa. “Tây
Tiến” là bài thơ tiêu biểu nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ
thuật của nhà thơ và cũng là bài thơ hay viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ viết năm 1948 tại Phù Lưu Chanh khi nhà thơ đã rời xa binh đoàn Tây Tiến.
b. Nhan đề
Bài thơ ban đầu có tên “Nhớ Tây Tiến” sau đó Quang Dũng bỏ chữ “nhớ” mang dụng
ý nghệ thuật. Nếu đặt nhan đề “Nhớ Tây Tiến” bài thơ sẽ mang vẻ đẹp giản dị, nói được
cảm xúc chủ đạo của thi phẩm là nỗi nhớ nhung nhưng lại không làm nổi bật được hình
tượng trung tâm của bài thơ. Vì vậy, nhà thơ chọn “Tây Tiến” đã đem đến cho người đọc
cảm nhận được vẻ đẹp của người lính và vẻ đẹp của miền Tây Bắc tổ quốc. Mặt khác bản
thân hai chữ “Tây Tiến” đã bao chứa nỗi nhớ rồi, Quang Dũng bỏ chữ “nhớ” đã khiến bài
thơ hàm ẩn hơn, cô đọng hơn. Hơn nữa nếu để từ “nhớ” sẽ khiến nhan đề mềm mại, ủy mị
không phù hợp với khúc quân hành của người lính Tây Tiến. Hai tiếng “Tây Tiến” mang
âm điệu rắn rỏi, chắc khỏe. Nhan đề bài thơ tựa như khúc quân hành, như nam tiến khúc
quân ca.
→ Đặt cho nhan đề một cái tên hàm ẩn, ý nghĩa như vậy chứng tỏ Quang Dũng là nhà thơ
tài hoa, sáng tạo. Nhan đề “Tây Tiến” chứa đựng được chủ đề và chiều sâu tư tưởng toàn
bộ tác phẩm.
c. Đoàn quân Tây Tiến
- Năm thành lập
- Xuất thân
- Địa bàn hoạt động: Rừng thiêng nước độc, rộng lớn,…
- Nhiệm vụ
- Đời sống sinh hoạt thiếu thốn
- Cuộc sống lạc quan.
II. Phân tích
1. 14 câu thơ đầu
a. Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ, bài thơ là nỗi nhớ
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
- Câu thơ đầu chia làm hai vế trong nhịp ngắt 4/3. Hình ảnh “sông Mã” là dòng sông chạy
dọc theo địa hình biên giới Việt Lào qua các tỉnh Sầm Nưa, Lai Châu, Hòa Bình, Thanh
Hóa. Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng
Tây Bắc, hai bên bờ sông còn rải rác những nấm mồ chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã
vừa là cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây. Sông Mã còn
là dòng sông gắn liền với những chặng đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến, từng
chứng kiến những buồn vui mất mát, hi sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” để tiễn đưa
tử sĩ. Sông Mã đựng đầy những kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa. Hành hương về
quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Về
hình thức, câu thơ vừa là tiếng thở dài “sông Mã xa rồi”, vừa là tiếng gọi “Tây Tiến ơi”.
Hai chữ “xa rồi” kết hợp thán từ “ơi” thể hiện sự nuối tiếc, hụt hẩng cùng khát vọng được
trở về miền kí ức thân thương của thi sĩ, đó là sông Mã và Tây Tiến.
- Câu thứ hai: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” sử dụng điệp từ “nhớ” chia câu thơ làm
hai vế tô đậm cảm xúc. Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “nhớ về rừng núi” đó là
không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông,… những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân, vất vả,
vừa gợi ấn tượng mạnh mẽ về vùng đất heo hút, hoang sơ. Và vì thế nỗi nhớ không chỉ
dừng lại ở rừng núi, nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng đầy kỉ niệm, những đồng đội
thân yêu nay kẻ còn, người mất. Vế hai dành để miêu tả sắc thái của nỗi nhớ “nhớ chơi
vơi”. “Chơi vơi” là một tính từ đầy sức gợi, thường được sử dụng để tả tâm trạng con
người. Ca dao đã từng có câu thơ đầy khắc khoải “Ra về nhớ bạn chơi vơi”. Với từ “chơi
vơi”, một từ láy vừa gợi cảm, vừa gợi hình, nỗi nhớ như bỗng có hình dáng chông chênh,
bồng bềnh trong không gian bao la, thời gian xa thẳm, bâng khuâng, lửng lơ mà lưu luyến,
đầy ắp nhớ thương, gợi cho người đọc ấn tượng rất thú vị. Hai câu thơ đầu đã kết thúc
bằng âm “ơi” là âm mở khiến cho lời thơ như lan tỏa, mênh mang , như tiếng gọi thiết tha,
như chiều sâu nỗi nhớ da diết pha lẫn tiếc nuối.
b. Mười hai câu tiếp: cụ thể hóa nỗi nhớ.
a. Bức tranh thiên nhiên miền Tây
* Hùng vĩ, hiểm trở, hoang sơ:
- Dốc núi miền Tây:
“Dốc lên….
………..
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷa, dốc thăm thẳm” trực tiếp miêu tả sự hùng vĩ, hiểm trở. Sự
phối hợp dày đặc năm thanh trắc tạo âm hưởng gập ghềnh của một câu thơ bảy chữ, giúp
người đọc hình dung ra sự gian truân, vất vả của người lính Tây Tiến trong một địa hình
mà sự hiểm trở hiện ra ngay trong nhịp điệu của câu thơ. Nguyễn Du cũng từng dùng
giọng điệu trúc trắc của câu thơ để dự báo số phận bi thảm của Kiều trên đường theo Mã
Giám Sinh đến lầu xanh mà nàng không hề hay biết:
“Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”
Quang Dũng cũng vậy. Với cách ngắt nhịp 4/3 cùng điệp từ “dốc” điệp lại ở đầu hai vế thể
hiện sự trùng điệp, chồng chất nối tiếp nhau đến vô tận của những con dốc, đồng thời cũng
gợi ra sự nhọc nhằn của người lính Tây Tiến, con dốc này chưa qua đã có con dốc khác đợi
sẵn. Núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính. Sự hiểm trở
của dốc núi miền Tây còn hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của hai từ láy “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”. Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gập ghềnh, gồ ghề, quanh co của
con đường vòng qua núi. Còn từ láy thăm thẳm lại gợi độ cao vun vút, độ xa vời vợi khi
đưa mắt nhìn xuống con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng.
- Dốc miền Tây được gợi tả gián tiếp qua câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ
láy “heo hút” vừa gợi độ cao, sự xa, sự vắng lại được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự
hoang sơ, thăm thẳm, xa vắng gần như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của
người lính Tây Tiến – những chàng trai từ thủ đô hoa lệ. “Cồn mây” là một ẩn dụ đặc sắc
cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất dựng thành cồn, thành dốc. Từ đó câu thơ
gián tiếp cho thấy núi miền Tây cao đến mức con đường như lẫn vào mây, mây bao phủ
đường núi, mây mờ mịt chập chùng, mây khiến con đường hành quân của người lính thêm
hiểm trở, hoang vu. “Súng ngửi trời” vế sau của câu thơ tiếp tục gợi tả độ cao của dốc
núi, người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là cảm nhận có thực
của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây. Địa hình heo hút, hiểm
trở làm tăng thêm những gian truân, vất vả cho người lính. Nhưng nhờ cách nói tếu táo,
hóm hỉnh trong hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”, Quang Dũng đã cho thấy sự trẻ trung
của những người lính phong trần, coi thường gian lao, vất vả. Nhà thơ Vũ Quần Phương
cho rằng: hình ảnh “súng ngửi trời” là “trung tâm hùng tráng của bức tranh thiên nhiên
hiểm trở bởi chỗ cao ấy có con người”. Do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc
núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, câu thơ còn giúp cho các anh hiện ra trong
dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao.
- Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét sắc sảo và gân guốc “Ngàn thước
lên cao, ngàn thước xuống”. Điệp ngữ “ngàn thước” là một ước lệ có tính định lượng,
khắc họa vẻ đẹp chênh vênh, hùng vĩ, kì thú của thiên nhiên núi rừng miền Tây. Yếu tố
tương đồng của điệp ngữ “ngàn thước” và tính chất đối lập của hai động từ ngược hướng
“lên – xuống” trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về nét gấp đột ngột, dữ dội cho câu thơ,
cũng là cách nhà thơ miêu tả một cách tài hoa độ cao của dốc, độ sâu của vực. Bên này
đường lên núi dựng đứng cao vút, bên kia vực lao xuống heo hút, hiểm trở.
- Thác hiểm, thú dữ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“thác gầm thét”, “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng lên sự dữ dội,
hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Biện pháp đối lập của bút pháp lãng mạn đã
được Quang Dũng sử dụng qua phép đối thanh rất tinh tế ở trong hai câu thơ này. Nếu câu
trên có các tiếng “thác, thét” âm vực cao nhưng ở câu dưới, các tiếng “hịch, cọp” mang
thanh trắc nhưng lại ở âm vực thấp. Dấu sắc ở câu trên gợi lên sự hoang vu, man dại của
thác nước, dấu nặng ở câu dưới lại gợi đến những bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự
âm u, bí ẩn đầy đe dọa. “Chiều chiều”, “đêm đêm” là hai trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp
lại, viên miễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị lên núi rừng
miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là “chiều chiều”, “đêm đêm” là sự ngự trị
muôn đời nhưng cũng chính điều này làm cho chân dung chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng,
mạnh mẽ. Các anh đã hành quân qua những vùng núi hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con
người - những vùng đất tưởng là vương quốc chung của mây trời heo hút, của thiên nhiên
bí ẩn hoang vu. Họ đã vượt qua tất cả các gian truân vất vả nơi đây bằng khí phách kiên
cường và lòng dũng cảm.
* Thiên nhiên thơ mộng, thi vị mang hương vị cuộc sống:
- Vẻ đẹp thơ mộng, thi vị được tạo ra trong một không gian bồng bềnh sương khói như phủ
dày ở Sài Khao, bồng bềnh ở Mường Lát. Đó không chỉ là màu sương của thiên nhiên mà
hình như còn là màu sương của kỉ niệm, của nỗi nhớ thương. Có thể nói, sương khói trở
thành mô típ nghệ thuật lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài thơ Tây Tiến. Có lúc nó mịt mờ
che lấp bóng dáng con người “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” nhưng có lúc nó lại
tạo cảm giác bồng bềnh, thơ mộng “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, có lúc lại hiện
diện trong một biến thể “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói”. Điều đặc biệt nằm trong cách sử dụng lớp từ ngữ lung linh, chập chờn giữa khả giải
và bất khả giải; và chính lớp từ ngữ này làm tăng lên vẻ thi vị, thơ mộng. Trên nền không
gian bồng bềnh sương khói, Quang Dũng đặc biệt chú ý đến một hình ảnh là hiện thân của
vẻ đẹp tươi tắn, rực rỡ của thiên nhiên Tây Bắc, đó là hình ảnh “hoa”. Trong toàn bộ bài
thơ, đây là hình ảnh đầy biến hóa với những dạng rất hấp dẫn. Sự kết hợp từ “hoa” và từ
“về” gợi rất nhiều liên tưởng phong phú. “Hoa” ở đây có thể là hoa của thiên nhiên trở về
theo tay người hái, có thể là hương của những bông hoa rừng đang lan tỏa, hòa quyện
trong những làn sương đêm bay trong gió, cũng có thể là những bó đuốc hoa đang ẩn hiện
trong đêm trên con đường hành quân tạo thành những dòng sông hoa. Thật khó có thể xác
định ý nghĩa của hoa, chỉ có thể hiểu một điều chắc chắn rằng: nó rất đẹp và vô cùng lãng
mạn.
- Bức tranh núi rừng Tây Bắc cũng rất đổi bình dị, gần gũi, ấm áp mang hơi thở của
cuộc sống con người. Đan xen vào núi rừng trùng điệp là hình ảnh nếp nhà thấp thoáng
trong màn mưa xa khơi, làn khói tỏa từ nồi cơm vừa chín tới, hương thơm mùa gặt vương
theo bước chân người thiếu nữ. Mở đầu bằng cụm từ “nhớ ôi”, câu thơ đã bộc lộ cảm xúc
nhớ nhung, dâng trào mãnh liệt. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt
lạnh, giữu núi cao vực sâu, những bước chân thú dữ rình rập, người lính Tây Tiến dừng
chân giữa bản làng miền Tây, đón nhận những nắm xôi ngào ngạt với làn khói bên bếp ấm
áp. Tất cả đem đến cho các anh cảm giác thanh bình giống như người lính khi nghe được
âm thanh thanh bình của tiếng gà trưa trong thơ Xuân Quỳnh. Hương thơm của bát xôi nếp
đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là kỉ niệm khó quên của tình quân dân ấm áp. Nhà thơ Chế
Lan Viên cũng đã từng có những kỉ niệm khó quên ấy:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em dấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.
- Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các
chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi nếp thơm
ngào ngạt từ tay các cô gái Mai Châu dịu dàng. Cũng có thể hiểu một cách lãng mạn theo
nghĩa của từ “mùa em”. Người ta thường nói mùa hoa, mùa quả còn Quang Dũng lại nói
“mùa em”, đó là sự sáng tạo đầy mới mẻ, táo bạo mà đa tình. Điều đó khiến cho Mai Châu
không chỉ là địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa, của tình quân dân
sâu nặng mà Mai Châu còn gợi lên hình ảnh của cô gái miền Tây duyên dáng.
* Nghệ thuật miêu tả bức tranh: Bằng sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn
cùng cách sử dụng ngôn ngữ đặc sắc. Bên cạnh việc sử dụng một lớp từ giàu giá trị biểu
cảm, tạo hình là những lớp từ chỉ địa danh gợi màu sắc phương xa xứ lạ vừa bí ẩn, quyến
rũ vừa gợi liên tưởng con đường hành quân qua vùng Tây Bắc với những chặng đường rất
cụ thể mà người lính đã trải qua. Hơn nữa, mỗi cái tên gợi lên đặc điểm của một miền đất
nước: âm vang nhẹ nhàng, thanh thoát của cái tên Pha Luông, cái tên Mường Hịch với âm
vang chắc khỏe, thậm chí hơi nặng nề lại hô ứng với không gian đầy dữ dội, tiềm ẩn với
hiểm nguy. Cùng với việc sử dụng từ ngữ là cách sử dụng thanh điệu khéo léo, tài tình. Có
sự kết hợp và biến hóa về thanh điệu tạo ra một chất nhạc đặc biệt cho đoạn thơ. Bên cạnh
câu thơ có mật độ sử dụng thanh sắc rất cao để gợi tả vẻ gập ghềnh, trắc trở của không
gian và tương ứng với nó là sự mệt nhọc của con người “Dốc lên khúc khuỷa, dốc thăm
thẳm” là những câu thơ toàn thanh bằng để tạo ra một hơi thở vừa êm ái, vừa thanh nhẹ
“Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” hay “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Chính sự
biến hóa về thanh điệu tạo ra một hơi thở khi căng, khi trùng; khi dồn dập, gấp gáp; khi
nhẹ nhỏm buông lơi đầy quyến rũ.
b. Hình tượng người lính Tây Tiến
- Đây chưa phải là đoạn thơ khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến mà mới chỉ là những
câu thơ phác họa đầu tiên. Ngay ở những nét phác đầu tiên ấy, Quang Dũng đã tạo ra trong
lòng người đọc những ấn tượng rõ nét về một diện mạo tinh thần độc đáo trong cuộc sống
khắc nghiệt mà ta thường thấy ở chiến tranh:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai chữ “anh bạn” chứa đựng những tình cảm gắn bó chân thành về tình đồng đội trong
những năm tháng gian khổ. Hai câu thơ mang tính hiện thực bi tráng. Những từ “dãi dầu”,
“gục” diễn tả nỗi vất vả, gian lao của người lính Tây Tiến. “Gục” là một cách nói lạ vừa
có tính tạo hình lại vừa biểu cảm với nét nghĩa đa chiều: người lính mỏi mệt ngủ gục trên
súng mũ như muốn quên đi tất cả. Nhưng cũng có thể hiểu người lính Tây Tiến hi sinh vì
tổ quốc. Quang Dũng miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lí tưởng. người
lính chết mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Đây là
hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Khắc họa sự hi sinh
của người lính trong tư thế chiến đấu là hình ảnh được nhiều nhà thơ xây dựng, ngợi ca.
Đó là hình ảnh anh giải phóng quân hiên ngang trong thơ Lê Anh Xuân:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đàng hoàng nổ súng tấn công”.
(Dáng đứng Việt Nam)
Tuy vậy, các cụm từ “không bước nữa”, “bỏ quên đời” mang khẩu khí ngang tàng,
phong trần của người lính, đồng thời là cách nói giảm, nói tránh khiến cái chết của người
lính trở nên nhẹ nhàng, thanh thản vì tổ quốc, quê hương. Ta thử thay đổi vị trí của những
từ này bằng vị trí của những từ khác là có thể nhận ra sắc thái của nó. Chẳng hạn, thay
“không bước nữa” bằng “không bước nổi”, “không bước nổi” gợi sự thất bại, “không
bước nữa” gợi sự tạm nghỉ, không có nghĩa là người lính thua cuộc. Nếu thay “bỏ quên
đời” bằng từ “chết” thì sẽ gợi sự bi thảm, bỏ quên đời là cách nói tránh gợi sự ra đi của
người lính, đó là phút thoát xác xuất thần, tạm quên đi rời bỏ cuộc sống thực tại. Những
cụm từ ấy vừa nói lên một cách chân thật sự thực của chiến tranh nhưng vẫn gợi ra vẻ
ngang tàng, lẫm liệt của người lính khi đối diện với những gian lao, thử thách.
2. Tám câu thơ tiếp: Tái hiện kỉ niệm hành quân và bức tranh thiên nhiên qua nỗi
nhớ.
a. Bốn câu đầu: Kỉ niệm về đêm liên hoan
* Vị trí: Đoạn thơ là khổ thứ hai của thi phẩm. trước đó với mười bốn câu thơ đầu, Quang
Dũng đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc với vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng, huyền ảo
và hình ảnh người lính Tây Tiến dũng cảm, can trường trên con đường hành quân. Dường
như ngay từ hai câu thơ cuối của khổ thơ mở đầu, Quang Dũng đã hé mở sự chuyển hướng
của mạch cảm xúc tràn đầy thương nhớ với tình quân dân thắm thiết để bước sang khổ thứ
hai đã mở ra một dáng vẻ khác của núi rừng Tây Bắc với vẻ đẹp tài hoa, mỹ lệ được thể
hiện qua đêm lửa trại và bức tranh chiều sương Châu Mộc.
* Trên chặng đường hành quân gian lao, người lính có những phút nghỉ chân ở những bản,
những mường của đồng bào dân tộc. Đời sống tinh thần của họ được gửi gắm vào những
đêm hội liên hoan văn nghệ có đồng bào địa phương đến góp vui. Có tài liệu cho rằng, ấn
tượng này bắt đầu từ một kỉ niệm có thật trong đời lính của Quang Dũng. Đó là vào đêm
trước khi vượt sông Mã đánh đồn Mai Hạ, đội vũ trang tuyên truyền Lào Việt tổ chức liên
hoan rượu cần bên điệu múa Lam Vông. Quang Dũng vừa múa, vừa hát điệu hát Lào, cảm
xúc thăng hoa và hình ảnh ấy đã đi vào trong thơ của ông.
- Đêm hội liên hoan được miêu tả chân thực nhưng cũng rất huyền ảo, lãng mạn: “Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa”, hai chữ “doanh trại” chỉ là sự hoành tráng hóa, cái nhìn của
Quang Dũng đã nâng hiện thực giản dị thành cái lớn lao, vững mạnh gợi một không gian
uy nghiêm, hào hùng trong những tháng ngày gian khó. Bởi lẽ, trong buổi đầu kháng chiến
chống Pháp người lính sinh hoạt thiếu thốn, làm sao có thể có những doanh trại? Nhà thơ
Hồng Nguyên từng viết:
“Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Chúng tôi đi mang đời lưu động
Nghỉ lại rất nhiều nơi không nhớ hết tên làng.”
Đi cùng với hình ảnh đêm hội là “hội đuốc hoa”. Nghĩa gốc của đuốc hoa là ngọn đèn
thắp trong phòng đêm tân hôn. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã từng viết về cảnh
Kim Kiều tái hợp “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”. Từ những bó đuốc trong
đêm liên hoan lửa trại, Quang Dũng đã tạo thành “đêm hội đuốc hoa” – hình ảnh này thật
lãng mạn. Nhà thơ đã lấy sự đằm thắm của tình yêu đôi lứa để ngợi ca sự đằm thắm của
tình quân dân. Đây là một xúc cảm thường gặp trong thơ Cách mạng. Ở bài Việt Bắc, Tố
Hữu cũng đã viết:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”
- Động từ “bừng” trong câu thơ được tác giả sử dụng rất hay và rất có hồn, nó vừa gợi
hình, vừa gợi cảm. Đặt giữa câu thơ âm hưởng mạnh mẽ, nó làm bừng sáng cả câu thơ, rực
sáng cả tâm hồn người đọc. “Bừng” là bừng sáng bởi ánh lửa trong đêm liên hoan văn
nghệ cùng nhân dân hay tưng bừng, rộn rã của niềm vui, của tiếng khèn bản nhạc man điệu
cùng giọng hát vừa ngọt ngào, vừa say mê, tình tứ của các cô gái miền sơn cước. Đúng
như đại văn hào Pháp Huygo đã từng nói: “Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó hay nhất”.
Hình ảnh “hội đuốc hoa” xuất hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên màu
sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa gắn kết sự keo sơn, gắn bó. Hình ảnh
gợi cho người đọc về một bữa tiệc ánh sáng, một đêm hội hoa đăng giữa rừng sâu Tây Bắc.
- Câu thơ thứ hai khắc họa vẻ đẹp của con người: “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”. Hai chữ
“kìa em” diễn tả cảm xúc vui sướng, ngạc nhiên. Đó là một tiếng reo vui khi bắt gặp nét
vẽ thi vị của cuộc sống. Câu thơ có hai cách hiểu: Theo nhà thơ Trần Lê Văn “em” mà tác
giả nhắc tới không phải ai khác mà chính là người lính Tây Tiến, họ giả trang thành con
gái để diễn kịch. Đó là nét dí dỏm, tinh nghịch của những chàng trai trẻ Tây Tiến. Nhưng
cũng có thể hiểu, “em” ở đây là những cô gái miền sơn cước với những vẻ đẹp xứ lạ. Hai
chữ “xiêm áo” gợi sự lộng lẫy của váy áo hoa văn đầy sắc màu mà người thiếu nữ vùng
cao thường mặc. Với khúc hát mỹ lệ hóa, thiếu nữ Tây Bắc không chỉ rạng rỡ, tươi tắn
trong xiêm áo mà còn duyên dáng, e ấp đầy nữ tính. Dẫu hiểu theo cách nào cũng thấy nét
thi vị của cuộc sống đời thường giữa bối cảnh chiến tranh khốc liệt. Dường như những
hình ảnh tươi tắn, trẻ trung, yêu đời của con người đã xua tan cái khắc nghiệt trên những
nẻo đường hành quân của người lính.
- Câu thứ ba gợi vẻ đẹp âm thanh vũ điệu: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”. người lính
trong đêm liên hoan đắm mình mơ màng trong tiếng khèn với những man điệu. Khèn là
loại nhạc cụ độc đáo của vùng núi cao Tây Bắc. Đối với đồng bào dân tộc, tiếng khèn,
tiếng sáo hay tiếng đàn không chỉ là giai điệu đơn giản mà là giai điệu tình yêu. Nó như lời
tỏ tình của các đôi trai gái, nó khơi dậy những rung động tình yêu trong tâm hồn con
người. Trong sự hình dung và miêu tả của Quang Dũng, âm thanh tiếng khèn vốn vô hình
cũng trở nên hữu hình để có thể vận động cùng sự vận động của con người. “Khèn lên”
cho thấy âm thanh của tiếng khèn cũng dâng cao theo bước chân con người. Nhà thơ miêu
tả tiếng khèn bằng hai chữ “man điệu” vừa gợi âm thanh tiếng khèn, vừa gợi những vũ
điệu của sơn nữ mang đậm màu sắc văn hóa núi rừng.
- “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”, câu thơ bảy chữ thì có tới sáu thanh bằng khiến
nhạc thơ rung lên nhẹ nhàng diễn tả tâm hồn người lính bay bỗng, phiêu du tới những miền
đất xa xôi, đến tận Viên Chăn thủ đô của nước bạn Lào để dệt nên những ý thơ xây mộng
thanh bình, hướng về một ngày mai khải hoàn chiến thắng.
* Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức tranh vừa
phong phú về màu sắc, đường nét, vừa đa dạng về âm thanh. Với tâm hồn lãng mạn, tài
hoa và bằng cảm hứng nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy
vẻ đẹp đầy bản sắc văn hóa, phong tục của đồng bào miền biên cương của tổ quốc mà còn
cho ta thấy tình quân dân gắn bó keo sơn và tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống.
b. Bốn câu sau: nhớ về bức tranh thiên nhiên miền Tây.
- Với người lính Tây Tiến, mỗi vùng đất họ đi qua thấm đẫm bao kỉ niệm. Câu thơ mở đầu
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” lại tiếp tục khẳng định nỗi nhớ của Quang Dũng.
“Người đi” được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa
phiếm chỉ, vừa là tác giả, vừa là đồng đội những người tri âm, tri kỉ, đồng cam cộng khổ
sống chết với nhau. Cụm từ “chiều sương ấy” gợi nỗi nhớ về miền đất Châu Mộc – một
địa danh thuộc Sơn La, nơi có những cánh đồng cỏ bát ngát, nơi có dãy núi Pha Luông cao
ngất trời, có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng cũng như những người
lính Tây Tiến đã từng gắn bó với mãnh đất Châu Mộc, năm tháng trôi qua cảnh và người
nơi miền đất lạ ấy đã trở thành nỗi nhớ da diết trong tâm hồn. “Chiều sương” miêu tả
thiên nhiên đầy sương khói. Thiên nhiên ở đây chỉ có “Bản sương giăng, đèo mây phủ”,
nó là không gian đặc trưng của thiên nhiên vùng Tây Bắc và trở thành mô típ nghệ thuật
mỗi khi miêu tả về vùng đất này. Từ “ấy” không xác định được thời gian nhưng lại gợi về
thời khắc khó quên một đi không trở lại.
- Sau lời nhắn nhủ xao xuyến nhà thơ cất lên tiếng gọi đầy khắc khoải như một câu hỏi tu
từ, với phép điệp cấu trúc “có thấy…”, “có nhớ…” thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở
hướng về cảnh và con người miền Tây. “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”, nét đặc sắc trong
câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ “hồn lau” thay vì bờ lau, rừng lau, hàng lau, hoa lau. Hoa
lau có màu xám trắng, bông lau được tạo nên bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần một
chút gió rất nhẹ hoa cũng xao động, cả bờ lau đung đưa, mềm mại sắc trắng trong chiều
sương đã khiến rừng lau như có hồn, biết chia sẻ với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ
càng trở nên mênh mông, da diết. Khi đã xa miền Tây, câu hỏi “Có thấy hồn lau” càng
làm xao xuyến lòng người. Câu hỏi giành cho con người miền Tây “Có nhớ … đong
đưa”. “Độc mộc” là một loại thuyền đặc trưng phù hợp với sông nước vùng cao, được đục
từ một thân cây to có một người chèo lái. Hình ảnh “dáng người trên độc mộc” có thể là
con người Tây Bắc cũng có thể là người lính Tây Tiến. dù hiểu theo cách nghĩa nào cũng
toát lên vẻ đẹp con người mềm mại, duyên dáng nhưng cũng rất đổi khỏe khoắn, hào hùng.
- Câu thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” là một câu thơ đa nghĩa. Nghĩa thực, những
bông hoa rừng như muốn làm duyên bên dòng nước lũ. Nghĩa ẩn dụ, hình ảnh thơ có sự hô
ứng với câu thơ trước: dáng người trên độc mộc như những bông hoa đong đưa bên dòng
nước. Nhà thơ dùng “đong đưa” chứ không phải “đung đưa”. Nếu “đung đưa” chỉ thuần
túy tả chuyển động đưa đi đưa lại mang tính chất vật lí thì “đong đưa” vừa tả chuyển
động, vừa tả cảnh, vừa tả tình làm cho bông hoa vừa duyên dáng vừa rất đa tình. Chữ
“trôi” mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng, thanh thoát. Phải có
“tay lái ra hoa” thì con thuyền độc mộc vượt qua nước lũ, ghềnh thác mới êm nhẹ như thế.
Một chữ “trôi” tinh tế, một chữ “đong đưa” phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở
thành dòng suối thơ mộng, êm đềm, yên ả để con thuyền lướt nhẹ, êm trôi. Ý thơ thể hiện
được vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
3. Đoạn 3: Hình tượng người lính Tây Tiến hào hoa, hào hùng
a. Giới thiệu về người lính Tây tiến (Tiểu dẫn)
b. Hình tượng người lính trong đoạn thơ
* Hình tượng tập thể: Quang Dũng không xây dựng chân dung cá nhân mà xây dựng
hình tượng tập thể đoàn binh Tây Tiến. “Đoàn binh” là một từ Hán Việt âm vang, khỏe
khoắn gợi khí thế xung trận mạnh mẽ. Trong thời kì đầu chống Pháp, các nhà thơ mới
bước qua một sự kiện trọng đại của đất nước là CMT8 thành công. Bước qua sự kiện ấy,
các nhà thơ ấy đã cảm nhận được sức mạnh của tập thể, của cộng đồng. chính không khí
lịch sử, không khí thời đại đã chi phối cách nhìn con người trong văn chương. Đó là nhìn
nhận, phát hiện vẻ đẹp của con người trong mối quan hệ với tập thể, với cộng đồng. thời
gian gắn bó với binh đoàn Tây Tiến, tình cảm tự nhiên nhưng rất thiêng liêng nên khi rời
xa binh đoàn Tây Tiến cái để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ là hình ảnh một tập
thể gắn bó trong gian khổ, cùng nhau làm thành khí phách anh hùng của tuổi trẻ thời đại
mình.
* Bốn câu thơ đầu: Bức chân dung của người lính Tây Tiến.
- Trong kí ức của Quang Dũng, Tây Tiến là một “đoàn binh không mọc tóc”. Nét vẽ
ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của người lính Tây Tiến. Họ
phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện của cuộc sống ở rừng gian khổ, thiếu thốn.
Cũng có thể để thuận tiện hơn cho những trận đánh giáp lá cà. Có thể đó là hậu quả của
những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc làm rụng tóc. Dù hiểu theo cách nào,
đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh. Nhưng với
cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, hình ảnh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
đã chuyển hoàn toàn từ trạng thái bị động sang chủ động, người lính Tây Tiến vì thế hiện
lên không tiều tụy mà kiêu dũng, ngang tàng hơn. Hơn thế nữa, có thể coi hình ảnh “đoàn
binh không mọc tóc” là nét vẽ phi thường, làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình
tượng thơ.
- Chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp trong một ngoại hình đặc sắc “Quân
xanh màu lá dữ oai hùm”. Có thể hiểu đây là màu xanh của áo lính hay màu xanh của lá
ngụy trang khiến cho cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu đây
là câu thơ miêu tả gương mặt xanh xao, gầy ốm vì sốt rét, vì cuộc sống gian khổ ở rừng.
Cuộc sống gian khổ cùng căn bệnh quái ác ấy đâu chỉ riêng người lính Tây Tiến mà bất kì
người lính cụ Hồ chống Pháp nào cũng phải trải qua. Ta đã bắt gặp ở người lính trong thơ
Tố Hữu:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Hay Thôi Hữu cũng từng viết về họ với những câu thơ đầy chua xót cho một hiện thực
khốc liệt:
“Cuộc đời gió bụi pha sương tuyết
Đói rét bao lần cắt thịt da
Gương mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”.
Nhưng có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi miêu tả một đoàn quân
“xanh màu lá” chứ không phải xanh xao. Người lính Tây Tiến như hòa với thiên nhiên,
cây lá, ốm mà không yếu, gầy ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống. có thể thấy “không
mọc tóc” và “xanh màu lá” là một cách nói đẹp về một hiện thực thô ráp. So với các nhà
thơ cùng viết về hiện thực ấy thì Quang Dũng lãng mạn hơn rất nhiều.
- Ngay trong vế sau của câu thơ đã là một sự tương phản độc đáo, giữa “xanh màu lá” với
“dữ oai hùm”. Trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính vẫn toát lên vẻ dữ dội,
kiêu hùng, vẻ uy nghi, lẫm liệt tựa như những vị chúa tể rừng xanh. Cùng với hình ảnh về
một “đoàn binh không mọc tóc”, những gương mặt “dữ oai hùm” cũng là một nét vẽ đặc
sắc, ấn tượng của cảm hứng lãng mạn về bức chân dung oai phong của người lính Tây
Tiến. hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” còn gợi liên tưởng đến “cọp trêu người” ở đoạn thơ
trên đây là một liên tưởng thú vị, đầy trìu mến. Dường như ở mãnh đất hoang sơ, bí ẩn có
bóng hổ đe dọa, rình rập thì người lính phải có oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và
chiến thắng.
- Quang Dũng không chỉ chú trọng vào những khó khăn và hậu quả của nó mà còn nghiêng
về ca ngợi những vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng đem đến ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần
dũng cảm, ý chí ngoan cường vượt lên khó khăn và chiến thắng khó khăn. Bức tượng đài
chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ uy nghi, dữ dội
mà còn thể hiện trong chiều sâu đẹp đẽ của tâm hồn: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”.
“Mắt trừng” là ánh mắt luôn mở to, dữ dằn hướng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí
chiến đấu và khát vọng chiến thắng. “Gửi mộng” nghiêng về những biểu hiện lãng mạn,
những xao xuyến rất riêng tư. Đó là giấc mộng bay bỗng, là khát vọng lãng mạn của tâm
hồn người lính. Có thể lí giải được điều này nếu chú ý đến nhiệm vụ của binh đoàn Tây
Tiến: kết hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch, bảo vệ biên giới Việt Lào. Vì vậy
giấc mông gửi qua biên giới là giấc mộng trả thù nhà, đền nợ nước của những chàng trai
trẻ mang tinh thần thời đại và lí tưởng anh hùng.
- Mang trong tim lí tưởng anh hùng nhưng không có nghĩa thế giới của người lính chỉ bó
hẹp trong mục tiêu thực hiện lí tưởng mà trái lại, cuộc sống dù gian khổ, khốc liệt song nó
không ngăn cản người lính có những phút riêng tư với những rung động, cảm xúc đầy lãng
mạn:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
“Đêm” không chỉ là thời gian mà còn là ước lệ nghệ thuật để thể hiện phần riêng tư sâu kín
trong tâm hồn con người. Theo cấu trúc câu thơ có thể hiểu, người lính miền viễn xứ khi
xa quê hương vẫn mơ màng nhớ về Hà Nội, nhớ về thủ đô hoa lệ đẹp như một “dáng kiều
thơm”. Cũng có thể hiểu theo một cách rất lãng mạn, đó là nỗi nhớ về người thiếu nữ Hà
Thành đáng yêu, kiều diễm qua hình ảnh ẩn dụ “dáng kiều thơm”. Câu thơ gợi cả vóc
dáng và sắc hương của các cô gái Hà Nội hào hoa, thanh lịch trong nỗi nhớ của người lính
Tây Tiến.
- Bàn về hai câu thơ, nhà thơ Vũ Quần Phương từng nhận xét: “Hai câu thơ như chứa đựng
cả hai thế giới. Sự tương đồng trong hai nét nghĩa “mộng” – “mơ”, sự tương phản trong
hai nét nghĩa giữa chung – riêng cùng nhau đã làm nên vẻ đẹp toàn diện cho người lính”.
Họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà còn là
những chàng trai lãng mạn, mộng mơ, có trái tim chan chứa tình yêu thương cũng giống
như hình ảnh:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng, lá rơi đầy”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng
mạn khi tình yêu thương trở thành động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu. Còn lí tưởng lại
khiến tình yêu trở thành cao cả, lớn lao. Đó là những nét khắc họa chân thực và cảm động
về cả một thế hệ người Việt Nam dằn lòng, gạt tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.
c. Bốn câu sau: Sự hi sinh, mất mát của người lính Tây Tiến
- Câu thơ đầu tiên mang đến cảm giác ảm đạm, buồn bã về cái chết:
“Rãi rác biên cương mồ viễn xứ”
Một trong những thiếu sót dễ nhận thấy của thơ ca Cách mạng là các tác giả viết về chiến
thắng nhưng lại né tránh những chi tiết về sự mất mát, hi sinh. Quang Dũng không thế, ông
nhìn cuộc sống của người lính Tây Tiến theo đúng những gì ông nếm trải, có khó khăn,
gian khổ, có ước mơ, nỗi nhớ riêng tư, có nhiều nấm mồ viễn xứ. Từ láy “rải rác” đứng ở
đầu câu kết hợp với ba từ “mồ viễn xứ” đem đến cho ta cảm nhận không phải là một cái
chết mà nhiều cái chết, nhiều chiến sĩ Tây Tiến đã ngã xuống nơi biên ải xa xôi. Trong một
câu thơ tác giả sử dụng rất nhiều từ Hán Việt thì từ “mồ” lại là từ thuần Việt có giá trị biểu
cảm và biểu đạt thật xúc động. Tác giả không sử dụng từ “mộ” mà dùng từ “mồ”. “Mồ” là
một từ miêu tả chính xác thực tế chiến trường lúc đó. Khi các anh hi sinh trên đường hành
quân, việc chôn cất sơ sài, vội vả, đồng đội xót lòng để các anh lại với nấm mồ hoang lạnh,
hiu hắt, đơn sơ trên đường. Bản thân cái chết đã gợi sự buồn bã, càng lạnh lẽo hơn khi các
anh không được nằm bên nhau. Những nấm mồ rải rác trên chặng đường hành quân gian
khổ, những nấm mồ thiếu hơi ấm của quê hương, gia đình. Tuy nhiên, câu thơ gợi ra cái bi
nhưng không lụy, nỗi bi thương được vơi đi khi Quang Dũng sử dụng phần lớn từ Hán
Việt tạo nên màu sắc vĩnh hằng. Đây là nghi lễ của ngôn từ mà Quang Dũng dùng để
tưởng nhớ những đồng đội đã ngã xuống.
- Câu thơ tiếp theo khắc họa tư thế lên đường của người lính vang lên thành lời thề sông
núi “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”:
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh của những chiến sĩ xưa, đó là
những con người gạt tình riêng, ôm chí lớn ra đi không “vương thê nhi”. Cùng với cách
diễn đạt chủ động trong sắc thái phủ đinh như: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa” hay
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
đã tô đậm lí tưởng cao cả và khí phách kiên cường của người lính, của những người chiến
sĩ anh hùng. “Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, là quảng thời gian đẹp
nhất trong cuộc đời, quảng thời gian một đi không trở lại. Nhịp thơ liền mạch cho thấy
quyết tâm cao độ của những thanh niên ưu tú, sẵn sàng hiến dâng cuộc đời, hiến dâng tuổi
thanh xuân cũng có nghĩa là hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước. Sau này, trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, ta lại bắt gặp những câu thơ chân thành, xúc động nói về ý
chí cao đẹp:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi
Thì còn chi tổ quốc?”
(Những người đi tới biển – Thanh Thảo)
Như vậy, sau câu thơ đầu nói về cái chết với những nấm mồ, câu thơ tiếp theo thể hiện lí
trí, lí tưởng và khí phách của người chiến sĩ Tây Tiến. Phải chăng đây chính là hàm ý sâu
xa của bài thơ: các anh đã nằm lại trong những nấm mồ viễn xứ nhưng khí phách, tinh thần
vẫn sống mãi với tuổi hai mươi, với tổ quốc, nhân dân. Các anh là bất tử, vẻ đẹp hào hùng
toát ra từ tâm nguyện, ý chí của các anh vẫn có sức cổ vũ mãnh liệt tới muôn đời.
- Không chỉ hình ảnh cái chết, câu thơ còn thể hiện việc chôn cất, tiễn biệt tử sĩ cũng gây
ấn tượng mạnh cho người đọc:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Bút pháp mỹ lệ hóa của cảm hứng lãng mạn đã biến tấm áo sờn rách của người lính chiến
trở thành tấm áo bào đẹp đẽ, thiêng liêng. Quang Dũng có kể lại “Khi tử sĩ nằm xuống
không đủ manh chiếu để liệm”. Họ được chôn cất trong chiếc áo của mình. Cái hay của
câu thơ là sự thực bi thương được nhà thơ tái hiện bằng đôi mắt lãng mạn, vừa yêu thương,
vừa trân trọng, thành kính. Nhà thơ phủ lên thi thể đồng đội hình ảnh áo bào. Người đọc
cảm nhận được ở người lính Tây Tiến phảng phất dáng nét tráng sĩ xưa với tư thế hiên
ngang, lẫm liệt, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, coi cái chết ngoài chiến địa lấy da ngựa bọc
thây là niềm tự hào của đấng trượng phu. Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi không
phải chỉ vì lí tưởng cao cả và khí phách hào hùng mà còn được gợi ra qua cách nói giảm
coi cái chết chỉ là “về đất”. không chỉ làm dịu nỗi đau bởi “về đất” mà còn gợi lên nghĩa
sâu xa. Đất gợi sự bền vững muôn đời của non sông, đất nước. “Về” gợi sự ấm áp, bình
yên. Từ sự đón nhận, ấp ủ, nâng niu, các anh từng từ biệt gia đình, quê hương ra đi về
miền viễn xứ với mộng chiến trường cao đẹp, các anh đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh
anh dũng. Nay tổ quốc trìu mến thân thương dang rộng vòng tay đón những người con
thân yêu trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Sự trở về này đã nhập các anh vào thế giới cha
ông:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
- Âm hưởng bi tráng gợi ra từ hình tượng người lính Tây Tiến được Quang Dũng đẩy lên
đến đỉnh điểm trong câu thơ kết đoạn:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu bài thơ: “Sông Mã xa rồi Tây
Tiến ơi”, nay sông Mã trở lại với âm thanh hào hùng, dữ dội trong cảnh tiễn đưa tử sĩ.
Quang Dũng không viết “vang lên”, “cất lên” mà viết “gầm lên”. Cụm từ “gầm lên” miêu
tả âm thanh tiếng sóng sông Mã nhưng đã thể hiện trọn vẹn lòng người trong những cung
bậc cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc nhất, có bi phẫn, đau xót, có tiếc thương, cảm phục. Sông
Mã từng gắn bó với các anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua miền Tây.
Nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên, đất trời, sông núi gầm
vang khúc độc hành bi tráng đưa tiễn những người con yêu quý trở về yên nghỉ trong lòng
đất mẹ. Dòng sông Mã đã trở thành khúc ca của trời đất, vũ trụ khóc thương và cảm phục
những người chiến sĩ anh hùng. Cũng có thể thấy ý nghĩa khúc độc hành vừa mạnh mẽ,
hào tráng, vừa phảng phất âm hưởng cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã. Mạnh mẽ, hào tráng vì
là khúc ca dành cho người chiến sĩ kiêu hùng. Còn cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã là cảm giác
không tránh khỏi khi phải đứng trước cái chết, phải đưa tiễn những người thân yêu trong
chuyến ra đi cuối cùng.
4. Khổ thơ cuối
- Khổ cuối được xem là khúc vĩ thanh của quân hành Tây Tiến, hoàn tất hình tượng và cảm
xúc chủ đạo của bài thơ. “Tây Tiến người đi không hẹn ước”, Tây Tiến là cuộc hành
trình tiến về phía Tây của tổ quốc, của những thanh niên, học sinh Hà Nội; Tây Tiến còn là
tên của một binh đoàn. “Người đi” là người lính Tây Tiến, gợi hình ảnh chinh phu, lữ
khách. “Không hẹn ước” có thể hiểu là người lính ra đi không hẹn ngày trở lại. Hiểu như
vậy, câu thơ này có nét hô ứng với câu thơ ở khổ trước: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời
xanh”. Đó là lí tưởng lên đường vang lên thành lời thề sông núi “quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh”, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Thấm đượm vẻ đẹp bi tráng, người lính coi
sinh mệnh của tổ quốc lớn hơn tính mạng của chính mình, sẵn sàng hi sinh tuổi xanh với
bao hoa mộng cho đất nước, quê hương. Đây là lí tưởng cao đẹp của con người Việt Nam
trong hai cuộc kháng chiến:
“Chúng tôi đã đi….
….còn chi tổ quốc”
Ý thơ của Quang Dũng khác nhau về giọng điệu nhưng cùng sắc thái “Nhất khứ bất phục
hoàn” (một đi không trở lại). Mang trí lớn của những tráng sĩ thuở xưa, câu thơ của Quang
Dũng tỏa sáng một triết lí, một lẽ sống cao đẹp “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Người
chiến sĩ Tây Tiến sánh tựa vẻ đẹp của người tráng sĩ Kinh Kha:
“Gió thổi hiu hiu hề
Nước sông Dịch lạnh ghê
Tráng sĩ một đi không trở về”
“không hẹn ước” cũng có thể hiểu là những người chiến sĩ Tây Tiến tuy không hẹn với
nhau nhưng vẫn quy tụ về mãnh đất Tây Bắc để hợp thành một đoàn binh với cái tên kiêu
hãnh “Tây Tiến”. Họ có chung lí tưởng cao đẹp, có tình đồng đội thắm thiết không thể
phai nhòa. Tây Tiến đã trở thành gia đình gắn bó máu thịt với từng người lính.
- Câu thơ thứ hai khắc họa hình ảnh con đường ra trận của đoàn binh Tây Tiến: “Đường
lên thăm thẳm một chia phôi”. Những từ “thăm thẳm”, “chia phôi” vừa tái hiện con
đường hành quân gian khổ với dốc lớn, đèo cao, mưa nguồn, suối lũ trên mãnh đất Tây
Bắc dữ dội, vừa ngụ ý chỉ sự xa cách về không gian thăm thẳm giữa chiến trường khói lửa
với mãnh đất quê hương Hà thành yêu dấu. Mặt khác, câu thơ dường như là một lời nhắc
nhớ, như đánh thức tâm trạng của thi sĩ: Tây Tiến hào hùng, hào hoa một thời nay đã trở
thành quá vãn.
- Hai câu cuối là một lời thề thủy chung:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”.
“Ai” là một đại từ phiếm chỉ gợi cảm xúc bâng khuâng, vừa để chỉ người lính Tây Tiến,
vừa để chỉ chính nhà thơ. “Mùa xuân ấy” là mùa xuân 1947 – năm thành lập binh đoàn
Tây Tiến, cũng có thể hiểu rộng hơn đó là mùa xuân của tuổi trẻ, một đoạn đời tươi đẹp,
hào hùng mà người lính đã sống và chiến đấu cho quê hương, đất nước. Câu thơ cuối có
hai cách hiểu: Chỉ người lính đã hi sinh sẽ ở lại mãi với chiến trường Tây Bắc, cũng có thể
hiểu người lính Tây Tiến có biết bao kỉ niệm gắn bó với miền Tây Bắc thì dẫu có về xuôi
rồi vẫn còn thương, còn nhớ, tâm hồn còn lưu luyến ở Sầm Nưa. Tây Tiến trở thành miền
tâm hồn không thể quên của người lính, đúng như Chế Lan Viên từng viết:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Tiểu kết: Khổ thơ cuối khái quát được chiều sâu tư tưởng, chủ đề của cả thi phẩm. Khổ thơ
thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của Quang Dũng: lãng mạn, đậm chất bi tráng. Quang Dũng
đã phác họa thành công bức chân dung của người lính Tây Tiến, tiêu biểu cho vẻ đẹp và
sức mạnh của anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là bức tượng đài
được khắc tạc bằng tình yêu của Quang Dũng đối với đồng đội, đất nước, quê hương. Đặt
trong bối cảnh buổi đầu kháng chiến còn gian khổ, đây chính là cách Quang Dũng ngợi ca
tinh thần lạc quan lãng mạn, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng của người lính Tây Tiến nói riêng
và con người Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
5. Những đặc sắc nghệ thuật
- Tác phẩm đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn; xây dựng được
hình tượng thơ độc đáo bức tranh thiên nhiên Tây Bắc và hình tượng người lính Tây Tiến.
Ngôn ngữ phong phú, đa dạng: cùng với việc sử dụng lớp từ ngữ giàu giá trị biểu cảm, tạo
hình (từ láy) là những ngôn ngữ trang trọng, màu sắc cổ kính (từ Hán Việt), lớp từ vựng
sinh động của lối nói hàng ngày in đậm phong cách người lính (nhớ chơi vơi, súng ngửi
trời, anh bạn…), những lớp từ địa danh mới mẻ. Đặc biệt là sự sáng tạo ngôn ngữ với sự
kết hợp độc đáo, mới lạ tạo nghĩa mới, sắc mới cho từ: đêm hơi, hoa về, mùa em. Giọng
thơ có lúc tha thiết, bồi hồi, lúc hồn nhiên tươi vui, bang khuâng, man mác, lúc lại trang
trọng rồi lắng xuống bi tráng và có lúc đầy chiêm nghiệm, suy tư mang tính triết lí.