You are on page 1of 139

TÀI LIỆU ÔN THI TN MÔN NGỮ VĂN – 2023

Phần 2: Nghị luận văn học


Bài 1: TÂY TIẾN (Quang Dũng)
1. Tác giả:
Quang Dũng là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng hơn hết
ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc
kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng, tài hoa, lãng mạn những cũng rất hồn
hậu, tinh tế.
2. Tác phẩm:
* Hoàn cảnh sáng tác
- Đoàn quân Tây Tiến:
+ Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng của quân đội Pháp ở Thượng Lào
và miền Tây Bắc bộ của Việt Nam.
+ Địa bàn đóng quân và hoạt động của Trung đoàn là một miền rừng núi rộng lớn và hiểm
trở của biên giới Việt – Lào gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và
Sầm Nứa (Thượng Lào).
+ Sau một thời gian hoạt động, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành lập trung đoàn
52.
- Chiến sĩ Tây Tiến:
+ Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là học sinh thanh niên Hà Nội
+ Bài thơ được viết trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp (1948
+ Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến. Tới cuối 1948, ông
được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng
thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng đã viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến”.
+ Năm 1957, khi in lại trong tập “Mây đầu ô”, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành “Tây Tiến”
* Bố cục
+ Đoạn 1: Nỗi nhớ về chặng đường hành quân, qua đó khắc họa bức tranh Tây Bắc hùng
vĩ, hiểm trở nhưng cũng rất đỗi thơ mộng và trữ tình
+ Đoạn 2: Kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ và bức tranh sông nước Tây Bắc
+ Đoạn 3: Bức chân dung người lính Tây Tiến
+ Khổ cuối: Lời thề, hẹn ước không quên Tây Tiến.
=> Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng, trong đó thể hiện tập trung
những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ và cũng là một trong những bài
thơ hay nhất trong số những bài viết về đề tài người lính thời kỳ kháng chiến chống Pháp
3. Phân tích (các đoạn thơ)
Đoạn 1:
MB:
TB
*GTC:
* Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, dòng hồi ức của tác giả về thiên nhiên, núi rừng miền Tây
Bắc, về chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn, Quang Dũng
đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ dữ dội lại vừa thơ mộng, lãng mạn:
- Hai câu thơ đầu là dòng cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ. Nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi
nhớ của mình về sông Mã, về Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc….
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Hình ảnh sông Mã là hình ảnh xuất hiện đầu tiên trong nỗi nhớ của QD, bởi Sông Mã là
dòng sông gắn bỏ, thủy chung với những bước chân hành quân của người lính Tây Tiến. Nó là
địa bàn hoạt động, địa bàn chiến đấu, cũng là một chứng nhân đã chứng kiến biết bao những
buồn vui, những gian khổ của người lính.
+ Từ hình ảnh dòng sông, nhà thơ bộc lộ một nỗi nhớ đậm sâu, da diết, mãnh liệt về Tây
Tiến, một nỗi nhớ dường như không thể kìm nén được đã phải bật thốt lên thành tiếng gọi:
“Tây Tiến ơi!”.
+ Nhớ về Tây Tiến, như một lẽ tất yếu, là nhớ rừng núi - không gian, địa bàn hoạt động
quen thuộc, những chặng đường hành quân mà những người lính Tây tiến đã trải qua
+ Để thể hiện nỗi nhớ đằm sâu trong tâm hồn của thi nhân, trong câu thơ “Nhớ về rừng núi
nhớ chơi vơi”, tác giả đã sử dụng điệp từ “nhớ” nhằm khẳng định nỗi nhớ ăm ắp trào dâng. Nỗi
nhớ ấy từ trong lòng người lan tỏa, trải dài ra cả một không gian rộng lớn.
+ Bên cạnh đó, nhà thơ còn có một sự sáng tạo, sự kết hợp từ vô cùng tinh tế: “nhớ chơi
vơi”- “chơi vơi” là một từ láy tượng hình thường dùng để miêu tả những sự vật hữu hình, đang
lơ lửng giữa không trung. Trong khi đó, nhớ là trạng thái vô hình trong lòng người, không thể
nhìn thấy mà chỉ có thể cảm nhận; “nhớ chơi vơi”, là một nỗi nhớ vừa vô hình vừa hữu hình, có
lúc nhòe mờ không thể nắm bắt được, có lúc lại hiện lên thành hình, thành khối. Một nỗi nhớ có
dáng có hình, cứ bồng bềnh, chênh chao, vừa thực, vừa hư.
- Sau hai câu thơ mở đầu, những kỉ niệm về Tây Tiến, về rừng núi cứ lần lượt hiện
lên trong kí ức của nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
+ Bằng một vài chi tiết giàu sức gợi, tác giả đã vẽ nên bức tranh miền Tây Bắc có những
đặc điểm riêng biệt với sức hút lạ kì:
~ Ở Sài Khao là cảnh sương núi dày đặc như bao phủ, vây bủa, nhấn chìm cả đoàn binh
mỏi mệt. Động từ “lấp” là động từ mạnh, nó tô đậm sự dữ dội đến khắc nghiệt của khí hậu
miền Tây.
~ Còn ở Mường Lát là cảnh “hoa về trong đêm hơi” – hình ảnh thơ gợi nhiều liên tưởng,
đó là mùi hương thơm nhè nhẹ của những bông hoa rừng, hay là những bông hoa rừng ẩn hiện
chập chờn trong làn sương mờ ảo…

=> Hành quân trong đêm, trong làn sương rừng dày đặc rất khó khăn nhưng đó cũng là
một cơ hội để các chiến sĩ thưởng thức hương hoa thoang thoảng, được ngắm nhìn nhưng bông
hoa rừng thoắt ẩn thoắt hiện. Vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên có thể xua tan biết bao mệt mỏi,
bởi họ là những người lính có tâm hồn lãng mạn, bay bổng nay lại bắt gặp được cảnh đẹp như
mơ, vẻ đẹp đậm màu sắc phương xa xứ lạ mà những người con của Hà Nội chưa một lần được
thưởng thức.
- Nhớ về miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Khổ
thơ tiếp theo là BTTN miền TB vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, qua đó nhà thơ đã khắc họa
chặng đường hành quân gian lao, vất vả, đồng thời cũng cho người đọc thấy ý chí kiên
cường, tinh thần lạc quan của người lính. Khổ thơ cũng thể hiện nét bút rất đỗi tài hoa của
Quang Dũng, nó chứng tỏ thơ ông vừa giàu chất nhạc, chất thơ, vừa giàu chất họa:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
+ Ba câu thơ đầu là những nét bút rắn rỏi, cứng cỏi, mạnh mẽ, khắc họa sắc nét bức tranh
thiên nhiên núi rừng miền Tây vô cùng hùng vĩ với cảnh đèo dốc cheo leo.
~ Nhà thơ đã sử dụng hàng loạt những từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”,
“heo hút” làm nổi bật lên một con đường hành quân quanh co, gập ghềnh, chênh vênh, thăm
thẳm tới mức: lúc đi lên thì như đi lên tận trời xanh, chạm được cả vào mây trời; lúc đi xuống
thì như xuống tận cùng của vực sâu. Sự hiểm trở thể hiện ở các từ láy trong câu thơ: khúc khuỷu
– gồ ghề, gập ghềnh, quanh co của dốc núi; thăm thẳm – gợi độ cao hun hút, độ xa vời vợi khi
đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn như không cùng; từ láy heo hút
vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng, lại được đảo lên đầu => nhấn mạnh vào sự hoang sơ, xa
vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây
~ Tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật đối: “ngàn thước lên cao” với “ngàn thước
xuống” hay “dốc lên” với “dốc thăm thẳm”, khiến câu thơ như bị bẻ đôi, bức tranh thiên nhiên
hiện lên với những sườn dốc, sườn núi dựng đứng.
=> 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm đã làm hiện lên bức thanh miền Tây
hiểm trở nhưng cũng rất hùng vĩ, kì thú. Qua đó, Quang Dũng đã tái hiện được những chặng
đường hành quân vô cùng vất vả của người lính. Nó chứa đựng biết bao sự nguy hiểm, có khi
chỉ sơ sẩy một chút thôi là có thể mất mạng. Trong những câu thơ này Quang Dũng đã sử dụng
chủ yếu thanh trắc, khi đọc lên thấy khỏe khoắn, nhưng dường như cũng thấy được cả hơi thở
mệt nhọc của những người lính trên đường hành quân.
~ Nhưng bằng ý chí, bản lĩnh, bằng tinh thần lạc quan của mình, những người lính Tây
Tiến đã vượt qua những những thử thách của thiên nhiên (những thử thách của thiên nhiên chỉ
càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung của người lính). “Đoàn quân” có thể “mỏi”
về thể xác nhưng tinh thần của họ dường như không hề “mỏi”. Trước khó khăn, gian khổ, thái
độ của người lính vẫn vui tươi, lạc quan, yêu đời, tinh thần tràn đầy khí phách. Hình ảnh thơ:
“súng ngửi trời” – từ “ngửi” đặt trong nghệ thuật nhân hóa tạo điểm nhấn cho câu thơ, nó cho
thấy điểm đứng của người lính là ở trên đỉnh đèo, đỉnh dốc và mũi súng đã có thể chạm vào
mây xanh. Đồng thời, động từ “ngửi” thể hiện nét hóm hỉnh, tươi vui, sự ngang tàng, ngạo
nghễ của người lính. Câu thơ ”Heo hút cồn mây súng ngửi trời” đã làm hiện lên hình ảnh những
người lính sừng sững, hiên ngang, uy nghi lẫm liệt giữa núi rừng, họ đã chinh phục được những
khó khăn, những đỉnh cao của đất trời.
+ Sau những câu thơ miêu tả con đường đèo dốc cheo leo, gập ghềnh, câu thơ thứ tư
Quang Dũng, với những nét vẽ mềm mại, đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên đẹp thơ mộng, thể
hiện tâm hồn lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khi vượt qua những con đường đèo dốc cheo leo, người lính Tây Tiến lại có thêm những
cơ hội để ngắm nhìn thiên nhiên miền Tây Bắc huyền ảo, mơ hồ: xa xa, lẫn trong màn mưa
núi, sương rừng là những nếp nhà sàn, những bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung
lũng - đây là một nét đẹp đặc trưng của miền Tây Bắc, miền đất xứ lạ phương xa đối với những
người lính Tấy Tiến.
- Một trong những đặc điểm nổi bật của hồn thơ Quang Dũng là chất bi tráng. Ông không
hề tránh né những đau thương, mất mát mà sẵn sàng nói đến những hiện thực tàn khốc
của chiến tranh (chiến tranh nào phải trò đùa!!!). Những người lính Tây Tiến trên chặng
đường hành quân gian nan đã có phút giây mệt mỏi, thậm chí là đã hi sinh – chỉ có điều qua
cách nói của nhà thơ ta thấy trong bao đau thương, mất mát ấy người lính hiện lên vẫn hào
hùng, bi tráng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
=> hai câu thơ khắc họa rất rõ nét h/a người lính trên đường hành quân, họ phải chịu vất
vả, gian khổ, hi sinh...
+ Hai chữ “dãi dầu” đã thể hiện sự khó khăn, vất vả, những người lính đã phải chịu “dầm
sương dãi nắng”, “gió bụi pha xương máu/Đói rét bao lần xé thịt da”, trên những cung đường
đèo dốc cheo leo, hành quân bất kể ngày đêm. Những khó khăn ấy càng ngày càng chất chồng
khi những người lính Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên vừa rời ghế nhà trường, là tầng
lớp trí thức của Hà Nội chưa quen với sương gió.
+ Do vậy, họ đã có những hy sinh, những mất mát trên chính những chặng đường hành
quân ấy. Những cụm từ “không bước nữa”, “gục lên súng mũ”, “bỏ quên đời” , QD không né
tránh sự thật mà sử dụng cách nói giảm, nói tránh (chết= không bước nữa, bỏ quên đời), tránh
nói trực tiếp đến sự hy sinh, mất mát, làm giảm nhẹ nỗi đau thương trong lòng bạn đọc cũng
như trong lòng mình, qua đó nó còn thể hiện tư thế của những người lính trong lúc hy sinh, sự
ngạo nghễ, coi thường cái chết, đối mặt với cái chết bằng tâm thế, thái độ vô cùng thanh thản:
với họ, cái chết chẳng qua chỉ là “không bước nữa”, chỉ giống như một giấc ngủ dài gục vội
lên súng mũ sau chặng đường hành quân vất vả, chỉ là tạm bỏ quên cuộc đời ở phía sau lưng
mà thôi. Hơn thế, ngay cả khi đã hi sinh họ vẫn không rời bỏ hàng ngũ chiến đấu, trên chặng
đường hành quân...
- Đối với Quang Dũng, núi rừng miền Tây không chỉ đẹp ở sự hùng vĩ, dữ dội, thơ
mộng mà nó còn hiện lên với vẻ đẹp hoang sơ, bí hiểm vô cùng. Những câu thơ tiếp theo
càng gợi lên sự vất vả của người lính giữa bốn bề hiểm nguy nhưng vẫn ánh lên sự dũng cảm,
kiên cường vì tổ quốc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông là những nơi xa lạ với
bạn đọc chúng ta, nhất là với những người lính TT, nhưng nhà thơ đã thật tài tình khi đưa tên
những địa danh này vào từng câu thơ của mình. Mới chỉ nghe tên thôi mà ta đã cảm thấy xa xôi,
bí hiểm, nhất là cái tên Mường Hịch: đọc lên thấy sự nặng nề, ghê rợn,…
+ Ở miền Tây xa xôi ấy, tiếng thác đổ gầm thét, gồng mình gào lên dữ dội như để chứng tỏ
cái oai linh của rừng thẳm. Tiếng nước từ thác dội xuống như sẵn sàng cuốn sạch hết mọi thứ
trên đường đi của nó.
+ Khi người lính dừng chân hạ trại, trong đêm khuya tĩnh mịch có thể nghe tiếng bước
chân của những loài thú dữ đang rình rập, đe dọa xung quanh khiến khung cảnh núi rừng càng
trở nên hoang dã, hiểm nguy. Đó chính là một khó khăn, nguy hiểm nữa mà người lính Tây
Tiến phải đối mặt trên bước đường hành quân.
+ Điệp từ “chiều chiều”, “đêm đêm” diễn tả nỗi nguy hiểm luôn luôn đe dọa, rình rập
người lính bất cứ khi nào. Sự nguy hiểm ấy không phải chỉ đến trong chốc lát, không phải trong
một ngày mà nó diễn ra hằng ngày, cả ngày lẫn đêm, như quy luật của tự nhiên.
+ Nhưng trước những hiểm nguy đó dường như họ không hề nao núng, sợ sệt. Với họ,
tiếng thác gầm, cọp rống chẳng qua là để “trêu người”.
- Có lẽ trong kí ức nhà thơ, trong nỗi nhớ nhung da diết, không chỉ hiện hữu cảnh
thiên nhiên miền Tây Bắc, không chỉ là chặng đường hành quân gian nan mà tâm hồn nhà
thơ khi ấy còn nhớ về những năm tháng không thể nào quên với những kỉ niệm về tình
quân dân thắm thiết:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
=> Đoạn thơ được mở đầu bằng nỗi nhớ và cũng kết thúc bằng nỗi lòng da diết nhớ
thương.
+ Nếu mở đầu bài thơ, tác gỉa viết: “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!” thì đến đây nhà thơ bộc
bạch “Nhớ ôi Tây Tiến”. Hai tiếng “nhớ ôi” vừa diễn tả được nỗi nhớ nhung mãnh liệt, không
thể kìm nén, phải bật thốt lên thành tiếng gọi.
+ Nỗi nhớ ấy gắn với kỉ niệm tưởng chừng rất bình thường, giản dị nhưng lại chan chứa
biết bao tình cảm, tình quân dân. Đây là khoảnh khắc mà người lính dừng chân hạ trại ở bản
làng nào đó, được dân làng, nhất là những thiếu nữ vùng Tây Bắc đón tiếp nồng hậu bằng
những nồi cơm đang bốc khói tỏa hương.
+ Các cụm từ “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi” là những hình ảnh giàu chất tạo hình.
Người đọc có thể hình dung ra trước mắt mình những làn khói ấm nồng đang lan tỏa, mùi
hương thơm của xôi nếp đầu mùa cứ vương vấn, quấn quyện, thoang thoảng đâu đây, nó gọi
mời, quyến rũ vô cùng.
 Kết thúc đoạn thơ thứ, với nỗi nhớ da diết khôn nguôi, Quang Dũng đã làm sống dậy cả một
vùng thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Vùng thiên
nhiên ấy đã gắn liền với những kỉ niệm của một thời chinh chiến tuy gian khổ nhưng chan chứa
yêu thương, chan chứa nghĩa tình. Qua đoạn thơ, nhà thơ cũng cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn của
người lính Tây Tiến, đó là những con người giàu ý chí, giàu bản lĩnh, coi thường, bất chấp, vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ nhưng đó cũng là những con người trẻ tuổi với tâm hồn lãng mạn,
hào hoa.
* NXC: Nhà thơ bộc lộ tài năng nghệ thuật của mình qua cách kết hợp cảm hứng lãng mạn
và chất hiện thực, kết hợp chất nhạc với chất họa, làm cho người đọc càng trở nên ấn tượng,
thích thú.
Đoạn 2:
MB
TB:
*GTC
* PT: Với QD, nhớ về Tây Tiến, không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên, mà nơi đây còn
lưu giữ bao kỉ niệm thắm đượm tình quân dân.
- Đó là kỉ niệm về một đêm liên hoan văn nghệ:
Những người lính Tây Tiến, trên đường hành quân, ngoài những vất vả, gian lao, có
lúc họ dừng chân hạ trại ở một bản làng nào đó, tổ chức đêm liên hoan văn nghệ có sự
tham gia của đồng bào địa phương:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ăm ắp tiếng cười, rất sôi động, rực rỡ được mở ra với
nguồn ánh sáng có sức lan tỏa rộng, tiếng nói, tiếng cười, tiếng khèn, điệu hát tưng bừng rộn rã.
Nguồn ánh sáng đó đã xua tan đi màn đêm đen tối nơi núi rừng, tiếng nói cười như xua tan sự
mệt mỏi sau những ngày tháng hành quân.
+ Không gian tràn ngập ánh sáng như trong đêm hội hoa đăng rực rỡ sắc màu, với người
lính Tây Tiến, quang cảnh ấy chẳng khác nào một “hội đuốc hoa”, như một lễ cưới lớn => Cái
nhìn ấy là nét dí dỏm, nét tinh nghịch, cái nhìn đa tình, lãng mạn của người lính Tây Tiến. Họ
quả là những con người giàu khát vọng hạnh phúc, giàu khát vọng yêu thương.
+ Cảnh đêm liên hoan văn nghệ ấy càng thêm phần sôi động, hấp dẫn với người lính khi có
sự xuất hiện của những người con gái xinh đẹp miền Tây Bắc.
~ Sự xuất hiện bất ngờ, xinh đẹp, lộng lẫy làm cho người lính vô cùng ngỡ ngàng, ngạc
nhiên, sung sướng đến hạnh phúc. Từ “kìa” để thể hiện sự bất ngờ đến khó tả, sự háo hức, say
đắm trước vẻ đẹp duyên dáng, dịu dàng của những người con gái.
~ Hai chữ “xiêm áo” gợi lên hình ảnh những thiếu nữ miền Tây Bắc khi xuất hiện chẳng
khác nào những nàng tiên, những nàng công chúa,
~ nhất là khi họ say sưa trong điệu kèn, tiếng nhạc, với những vũ điệu vừa hoang dã, vừa
tràn đầy sức sống: “Khèn lên man điệu nàng e ấp”.
=> Những từ “man điệu”, “e ấp” gợi hình ảnh những người con gái có những vẻ hấp dẫn,
quyến rũ độc đáo: họ vừa lộng lẫy, vừa mềm mại, duyên dáng, vừa e ấp, thẹn thùng, sự kín đáo,
có chút ngại ngùng nhưng cũng rất tình tứ, đấy sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt.
=> Chỉ bằng một vài nét phác họa, Quang Dũng đã làm nổi bật lên cảnh một đêm liên hoan
văn nghệ rực rỡ ánh sáng, rộn rã âm thanh, chan chứa tình người.
+ Được sống trong đêm liên hoan văn nghệ ấy, tâm hồn người lính càng như được xây đắp
bằng thơ, bằng nhạc, bằng họa: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
=> Những khoảnh khắc đó làm cho người lính thêm trẻ trung, vui tươi, như tiếp thêm sức
mạnh để họ vượt qua mọi gian nan phía trước, nó cũng là sức mạnh đã đẩy chiến tranh vào một
góc khuất, để niềm vui, sự yên bình được lên ngôi.
* Nếu như khổ thơ trước giống như bức tranh sơn mài rực rỡ thì khổ thơ tiếp theo,
với khung cảnh sông nước miền tây thơ mộng hiện lên trong kí ức của nhà thơ như bức
tranh lụa mượt mà:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Bức tranh sông nước hiện lên trong vẻ bình yên của buổi chiều với làn sương giăng mắc,
huyền ảo, lung linh, mặt nước dòng sông trải rộng mênh mang. Chỉ với hai tiếng “chiều
sương”, tác giả đã gợi ra được cả một miền không gian bồng bềnh, nửa thực nửa hư, cứ như ở
trong cõi mộng.
- Nhà thơ đã sử dụng câu hỏi tu từ “có nhớ”,“có thấy” cùng với phép điệp thể hiện nỗi
nhớ da diết, gợi lên những kí ức đậm sâu trong lòng mình. Nhịp thơ dồn dập như gọi về biết bao
kỷ niệm của một thời đã xa. Đó là bức tranh cảnh vật, con người trên sông nước miền Tây, ẩn
đằng sau đó là một thời chinh chiến gian lao.
- Hai chữ “hồn lau” gợi hình ảnh một dòng sông hoang vắng, hai bên bờ lau lách xào xạc.
Trong kí ức của QD, cảnh vật miền Tây Bắc dường như cũng mang linh hồn khiến con người
tha thiết nhớ thương.
- Quang Dũng nhớ về miền quê ấy không chỉ là nhớ về cỏ cây, sông nước, hoa lá, bến bờ
mà còn nhớ “dáng người trên độc mộc” – nhớ hình ảnh con người mình từng gặp, từng gắn bó,
“độc mộc” là chiếc thuyền làm bằng cây gỗ lớn, “dáng người trên độc mộc” – hình ảnh con
người hiện lên đầy kiêu hùng, dũng cảm mà cũng duyên dáng giữa dòng nước xối xả, mạnh mẽ
đặc trưng của miền Tây. Phải chăng tư thế đó đủ để người đọc nhận ra vẻ đẹp riêng của con
người Tây Bắc, của đoàn binh Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng? “Dáng
người” ở đây có thể là dáng hình của người Tây Bắc, cũng có thể là chính những chiến sĩ Tây
Tiến đang đối mặt với thách thức của thiên nhiên dữ dội chăng? Dù hiểu theo cách nào, dáng
người trong thơ Quang Dũng cũng luôn khảm sâu trong tâm trí nhà thơ, luôn hiên ngang kiêu
hùng mà uyển chuyển, tài hoa và khéo léo.
+ Trên mặt nước dòng sông còn có hình ảnh một bông hoa đang đong đưa trôi theo dòng
nước lũ. Dòng sông cuồn cuộn chảy, bông hoa vô cùng nhỏ bé nhưng vẫn có nét duyên dáng,
hài hòa với dòng sông, bông hoa như đang uốn mình, cố tình đong đưa theo dòng nước. Tác giả
sử dụng từ “đong đưa” chứ không dùng từ “đung đưa” để miêu tả. Từ “đung đưa” chỉ đơn
thuần là miêu tả cảnh vật trên từng con sóng, là sự chuyển động mà ta nhìn thấy bằng mắt
thường, nhưng “đong đưa” chỉ cái chuyển động nhẹ nhàng mà dường như rất tình tứ, không chỉ
được cảm nhận bằng mắt thường mà còn được cảm nhận bằng tâm hồn thi sĩ, nhà thơ diễn tả
được tình ý thầm kín của cảnh vật, cánh hoa rừng trên sóng nước như đang có chút lả lơi, gọi
mời. Cảnh vật vì thế mà cũng trở nên có hồn và sinh động hơn.
* NXC: Nếu ở đoạn thơ mở đầu, thiên nhiên miền Tây chủ yếu được khắc họa bởi nét dữ
dội, hiểm trở thì ở đoạn thơ này, Quang Dũng tập trung miêu tả nét trữ tình của con người hòa
quyện với thiên nhiên. Nếu ở khổ thơ trước, tác giả viết lên khúc nhạc rộn rã, sôi động thì ở khổ
thơ này là khúc nhạc êm đềm, du dương được cất lên bằng tâm hồn say đắm, thiết tha.
=> thơ QD giàu chất nhạc, chất họa
=> đoạn 2: qua nỗi nhớ QD về miền TB, chặng đường hành quân => vẻ đẹp tâm hồn lãng
mạn, hào hoa, đa tinh của người lính TT – nét đẹp riêng trong bức chân dung
KB:
-----------------------------------
Đoạn 3 + khổ cuối
* Quang Dũng không chỉ gợi mở bức chân dung người lính gián tiếp qua bức tranh
thiên nhiên, sau chặng đường hành quân, qua những kỉ niệm về một đêm liên hoan văn
nghệ, đến đoạn thơ thứ ba, nhà thơ trực tiếp khắc họa một cách rõ nét, chân thực về bức
chân dung người lính Tây Tiến từ diện mạo đến vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng và cả sự hy sinh
cao đẹp của họ.

- Trước hết, hình ảnh người lính được hiện lên với hình dáng bên ngoài khó quên,
đầy ấn tượng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
+ Với hai chữ “đoàn binh”, tác giả gợi mở bức chân dung một tập thể, một đoàn quân
đông đảo, hùng hậu, đầy sức mạnh
+ hình ảnh người lính TT hiện lên với vẻ bề ngoài khác thường, kì dị- những cái đầu trọc
lốc, làn da xanh màu lá rừng...
~ với bút pháp tả thực QD đã không hề có ý định né tránh những gian khổ trong thời kì đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu của người lính, cũng như của
dân tộc ta lúc đó thiếu thốn đủ đường: thiếu lương thực, thực phẩm; chặng đường hành quân thì
có biết bao những khó khăn, nguy hiểm đang rình rập, ốm đau, bệnh tật, do sự khắc nghiệt của
thiên nhiên, của địa bàn hành quân nơi “rừng thiêng nước độc”. Đặc biệt, hậu quả rụng tóc, làn
da xanh xao, vàng vọt ấy còn là do những cơn sốt rét rừng không ai lường trước được.
~ Nhưng có điều là, kết hợp với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã biến vẻ tiều tụy ấy
thành sức mạnh nội tại, phi thường. Người lính Tây Tiến tuy ốm mà không yếu, tuy thể trạng
mệt mỏi nhưng ý chí không bao giờ lung lay, da dẻ xanh xao nhưng vẫn toát lên sức mạnh của
chúa sơn lâm, “không mọc tóc”, chữ “không” là từ phủ định đã thể hiện được sự chủ động
trước khó khăn, gian khổ với thái độ coi thường.
TT không còn phải là đoàn quân bị sốt rét rừng làm rụng hết tóc mà trong giọng điệu
cứ y như là không thèm mọc tóc – nghe vừa có cái ngang tàng kiêu bạc, vừa thấy được cả giọng
tếu táo rất lính tráng; Vẫn biết là sốt rét rừng làm cho da dẻ người lính xanh xao như tàu lá,
nhưng qua tâm hồn lãng mạn của QD thì đó lại là màu xanh của lá ngụy trang, xanh màu áo lính
thiêng liêng truyền thống. Hình ảnh ẩn dụ“dữ oai hùm” khiến hình ảnh của người lính trở nên
uy nghi, lẫm liệt, dù ốm đau bệnh tật nhưng những người lính vẫn oai phong lẫm liệt như những
chúa sơn lâm.
=> Với khí phách ấy, đoàn binh Tây Tiến đã khiến giặc Pháp phải kinh hồn bạt vía;
- Hình tượng người lính hiện lên đầy ấn tượng không chỉ bởi diện mạo khác thường mà ở
họ còn có đời sống tâm hồn vô cùng phong phú, họ là những người lãng mạn, mộng mơ, giàu
khát vọng:
“ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
=> Ra đi từ đất thủ đô ngàn năm văn hiến, những chiến sĩ TT mang theo mình những nét
riêng của trai Hà thành hào hoa, kiêu bạc và mộng mơ.
+ là người có khát vọng:
~ Hai tiếng “mắt trừng” - như gợi hình ảnh đôi mắt mở to có cả sự giận dữ, lòng căm thù
và cả khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn người chiến sĩ. ~ “Mộng” ở đây là khát vọng giết
giặc lập công để giành lại độc lập dân tộc.
~ ”qua biên giới” - Có thời điểm địa bàn hoạt động cách mạng của người lính Tây Tiến là
bên kia đất Thượng Lào, trong tâm trí của họ lúc nào cũng cháy bỏng thù nhà, nợ nước, nên
lúc nào hướng ánh mắt, niềm khát vọng của mình “qua biên giới”, hướng về quê hương, đất
nước.
=> Câu thơ khắc họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính có lý tưởng và khát
vọng lớn lao, họ sẵn sàng ra đi vì nghĩa
+ Những người lính Tây Tiến khi xông pha ra xa trường, họ đã không chỉ mang theo bên
mình súng, ống, gươm, đao mà họ còn mang theo cả một thế giới tâm hồn lãng mạn với nỗi
nhớ về “dáng kiều thơm” – trong những giấc mơ đêm đêm họ vẫn mơ về những người con gái
đẹp nơi quê nhà:
~ Hình ảnh “dáng kiều thơm” là để chỉ những người con gái đẹp, là bóng dáng giai nhân
của Hà thành, người con gái của Hà Nội với vẻ thùy mị, nết na, thanh lịch, duyên dáng, yêu
kiều,…
=> Hình ảnh “dáng kiều thơm” có thể là người yêu, người vợ, người mẹ - những người
con gái, người phụ nữ tượng trưng cho nét đẹp của người Hà Nội, tượng trưng cho nét đẹp của
quê hương, là hậu phương vững chắc, những người đang từng ngày mong chờ người lính Tây
Tiến mang chiến thắng trở về. Nỗi nhớ ấy sẽ tiếp thêm sức mạnh để người lính tiếp tục cuộc
trường chinh, bởi họ hiểu rằng họ chiến đấu vì chính những người thân yêu nơi quê nhà.
- Với người lính Tây Tiến, họ không chỉ có một tâm hồn đẹp đẽ mà họ còn có một lí tưởng
cao cả, sự hi sinh cao đẹp:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
+ Cảm hứng và ngòi bút của Quang Dũng một lần nữa đã không né tránh hiện thực. Nhà
thơ đã tái hiện sự mất mát, đau thương của những người lính Tây Tiến trên chặng đường hành
quân gian khổ
~ Họ đã hy sinh, những nấm mộ của họ nằm dọc miền biên cương xa xôi, thậm chí ở
những nơi hoang lạnh nhất. Những từ ngữ như “rải rác”, “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” – gợi
lên miền đất xa xôi, thể hiện nỗi đau xót khi nhìn vào hiện thực của nhà thơ => những chàng
trai HN khi hi sinh thân xác của họ nằm lại nơi đất khách quê người
~ 3 tiếng “mồ viễn xứ” vừa gợi không khí trang nghiêm, cổ kính, vừa gợi cho người đọc
một niềm xót xa thương cảm. Khi lên đường, họ là những chàng trai trẻ đầy khát vọng, nhưng
khi ngã xuống họ chỉ còn là những nấm mồ hoang lạnh nằm rải rác nơi đất khách quê người.
+ Chỉ có điều, nói đến sự mất mát, đau thương nhưng âm hưởng của đoạn thơ không hề bi
lụy mà ngược lại, vẫn toát lên tinh thần bi tráng. Sự ra đi ấy tuy đau thương nhưng thật hào
hùng, ngạo nghễ chứ không hề bế tắc, bi lụy.
=> Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã sử dụng rất nhiều từ Hán Việt như “biên cương”,
“viễn xứ”, “chiến trường”, “độc hành”, …. với chủ ý muốn gợi lên giọng điệu trang trọng, làm
cho âm điệu của câu thơ trở nên rắn rỏi, gân guốc, giảm nhẹ nỗi đau thương, tạo nên giọng điệu
hào hùng, mạnh mẽ.
+ Ngoài ra, tinh thần bi tráng của người lính còn được thể hiện ở việc họ hi sinh vì lý tưởng
cao đẹp, chết vì quê hương, đất nước: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
~ Hai chữ “đời xanh” là từ chỉ tuổi trẻ - là quãng đời tươi đẹp nhất, giàu sức sống, hứa hẹn
một tương lai với nhiều điều tốt đẹp.
~ Vậy mà những người lính lại “chẳng tiếc”, họ sẵn sàng hy sinh quãng đời tươi đẹp ấy vì
quê hương, đất nước. Họ đã chiến đấu và hi sinh một cách thật thanh thản.
=> Trong câu thơ, hai tiếng “chẳng tiếc” với hai thanh trắc được đặt giữa 1 bên là chiến
trường, một bên là đời xanh thể hiện rõ sự dứt khoát, mạnh mẽ của những người lính. Đó chính
là tinh thần, lý tưởng “cảm tử cho tổ quốc quyết sinh” của cả thế hệ thanh niên Hà Nội đương
thời
=> Với Quang Dũng, nhà thơ chắc chắn không thể tránh khỏi niềm đau xót, tiếc nuối trước
sự hy sinh của đồng đội, tuy thế, ông cũng không né tránh hiện thực, đã phi thường hóa sự hy
sinh của những người lính, những con người mang vẻ đẹp của cả một thời đại.

+ Chân dung người lính Tây Tiến không chỉ trở nên đẹp đẽ lạ thường với lí tưởng sẵn sàng
hiến dâng cuộc đời cho quê hương, tổ quốc mà họ còn đẹp đẽ, cao cả ngay trong cái chết,
trong sự hy sinh:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
=> hai câu thơ này cũng làm toát lên chất bi tráng trong bức chân dung người lính TT, QD
không né tránh hiện thực nhưng phi thường hóa hiện thực, lãng mạn hóa hiện thực
~ “Áo bào thay chiếu” - trong thực tế, những người lính Tây Tiến hy sinh, họ trở về với
đất mẹ trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, khó khăn, đến cả manh chiếu bọc thây cũng không
có. Chính vì thế, đồng đội, những người còn sống đành phải chôn cất anh bằng chính bộ quân
phục đã sờn vai bạc màu sương gió.
~ Quang Dũng, bằng cảm hứng lãng mạn, đã biến bộ quân phục sờn vai bạc màu thành
tấm áo bào sang trọng khoác lên mình đồng đội để giảm bớt nỗi xót xa, khiến cái chết của các
anh trở nên đẹp hơn, cao cả hơn. Vì “áo bào” – ngày xưa là tấm áo vua ban cho tráng sĩ, anh
hùng chiến thắng trở về => người lính TT chính là người anh hùng ngã xuống vì đất nước
=> Đây chính là tấm lòng, sự trân trọng, tôn vinh, ca ngợi của nhà thơ dành cho đồng đội.
~ Không chỉ thế, khi miêu tả sự hy sinh của những người lính Tây Tiến, khắc họa tinh thần
bi tráng của người lính, nhà thơ đã sử dụng cách nói giảm, nói tránh “anh về đất”-
. cách nói vừa gợi lên tư thế hi sinh nhẹ nhàng, thanh thản,
. đồng thời bất tử hóa cái chết những người lính. Với Quang Dũng, sự hy sinh của những
chiến binh TT là sự trở về với đất mẹ vĩnh hằng, các anh đã hòa mình, hóa thân vào dáng hình
non sông đất nước, để làm nên Đất nước muôn đời.
=> Những người lính chính là những người anh hùng chiến đấu, hy sinh vì Đất Nước với
một tâm thế tự nguyện, thanh thản. Họ hy sinh mà không mong được ghi tên vào sử sách, được
ghi tên vào bia đá, bảng vàng. Với những người lính, với anh bộ đội cụ Hồ, với nhân dân nói
chung, chiến đấu hy sinh là để bảo vệ nền độc lập tự do của Đất Nước, làm nên chiều dài lịch sử
dân tộc. Đó là sự hi sinh vô cùng cao đẹp!
~ Sự hy sinh của những người lính Tây Tiến đã để lại bao nỗi tiếc thương cho thiên nhiên,
sông núi, đất nước, nhân dân:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
. Dòng sông Mã không chỉ là hình ảnh gắn liền, chia sẻ những vui buồn với cuộc đời của
người lính, mà còn tượng trưng cho thiên nhiên, cho đất nước.
. “Khúc độc hành” – âm thanh dòng chảy sông Mã là tiếng khóc đau thương, dữ dội, là
tiếng kèn bi tráng của thiên nhiên, cỏ cây, sông nước, của đất nước, quê hương tiễn đưa người
lính.
=> Trong tiếng gầm của dòng sông Mã, ta bắt gặp sự đau xót, tiếc thương, sự trân trọng
của nhà thơ cũng như của cả dân tộc dành cho người lính.
* NXC: Chỉ bằng tám câu thơ, Quang Dũng đã khắc họa bức chân dung về người lính đầy
đủ từ diện mạo, tâm hồn, sự hy sinh anh dũng, làm bật lên vẻ đẹp vừa lãng mạn hào hoa, vừa
hào hùng bi tráng.
* Khổ thơ cuối mang cảm xúc của nhà thơ khi quay trở về hiện tại, hơi thơ cứ vọng
dài thăm thẳm không dứt:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
- Ngay cả khi quay trở về với hiện tại rồi thì nỗi thương nhớ về đồng đội vẫn không thể
nguôi ngoai, cứ day dứt, da diết đến cháy bỏng trong lòng thi nhân. Nỗi nhớ ấy được thể hiện rõ
bằng những cụm từ “không hẹn ước”, “thăm thẳm một chia phôi”, “chẳng về xuôi”, …
Những người lính Tây Tiến đúng là những con người ra đi với một quyết tâm
“nhất khứ bất phục hoàn”, các anh đã hy sinh vì quê hương, đất nước, thân xác
các anh còn gửi lại ở miền viễn xứ, hồn còn ở Sầm Nứa nhưng đồng đội vẫn luôn
nhớ về các anh, tổ quốc đã ghi công các anh để thế hệ sau ngàn đời tưởng nhớ.
- Khi xa TT, dường như một phần tâm hồn nhà thơ gửi lại ở Sầm Nứa chứ chẳng nguyên
vẹn ở lại với Phù Lưu Chanh. Tấm lòng ấy cũng chính là lời thề không bao giờ quên Tây Tiến,
không bao giờ quên đồng đội và những vùng đất mình đã đặt chân tới, một thời kì lịch sử hào
hùng đã qua.
Lời kết:
Trong cuộc đời mỗi con người, có những kỉ niệm sẽ đi cùng ta đến khi ta nhắm mắt xuôi
tay, nó như là một phần cuộc sống, không thể thiếu đi được. Đối với Quang Dũng, nhà thơ đã
phần nào bộc lộ được nỗi lòng của mình cùng với những kỉ niệm đã đi cùng năm tháng về
những người đồng đội trong binh đoàn Tây Tiến. Đọc toàn bộ bài thơ, chúng ta lại cảm phục
tinh thần, ý chí bất khuất, kiên cường chiến đấu chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của thế
hệ cha anh. Qua đây, chúng ta lại càng thêm yêu quê hương, muốn cống hiến hết mình vì quê
hương để tiếp bước cha anh, kiến thiết đất nước ngày một giàu mạnh hơn.
-------------------------------------------------------------------------------
VIỆT BẮC (Tố Hữu)
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 7/1954, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, miền
Bắc đi lên xây dựng XHCN, phát triển kinh tế.
-10/1954, cơ quan trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội =>
Đây là một sự kiện lịch sử hết sức trọng đại, với nước ta là một trang sử mới đã mở ra.
- Xúc động trước cuộc chia tay giữa cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc, Tố Hữu đã
viết bài thơ này.
2. Cấu tứ bài thơ “Việt Bắc”
- Kết cấu theo lối hát đối đáp trong khúc hát dao duyên.
- Xây dựng hai hình tượng nhân vật cùng với cách xưng hô “ta - mình”- cách xưng hô
quen thuộc của đôi lứa yêu nhau trong khúc hát dao duyên => cán bộ cách mạng và đồng bào
VB sẽ hiện lên là đôi lứa yêu nhau, sau một khoảng thời gắn bó bây giờ phải chia xa..
=> Chất trữ tình - chính trị: tác giả đã biến một sự kiện trong đời sống chính trị của đất
nước trở thành một sự kiện trong đời sống tình cảm của con người nhất là tình yêu lứa đôi.
3. Bố cục bài thơ “Việt Bắc”
Bài thơ gồm có 3 phần:
- Phần 1: Tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.
- Phần 2: Gợi viễn cảnh tương lai tươi sáng của đất nước; Ngợi ca công ơn của Đảng, Bác
Hồ với dân tộc.
4. Bố cục của đoạn trích: 3 phần
- Phần 1 (8 câu đầu): Khúc hát chia tay giữa kẻ ở người đi.
- Phần 2 (12 câu tiếp): Lời khơi gợi kỉ niệm của người ở lại.
- Phần 3 (còn lại): Lời đáp của người đi.
+ 4 câu đầu: Lời khẳng định tình nghĩa của người đi.
+ 18 câu tiếp: Kỉ niệm của người đi về thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, con người Việt Bắc
cần cù lao động, nghĩa tình, tràn đầy tinh thần lạc quan.
+ 10 câu tiếp: Bức tranh tứ bình về Việt Bắc qua bốn mùa.
+ 22 câu tiếp: Kỉ niệm kháng chiến.
+ Còn lại: ca ngợi chiến lược của Đảng và Chính phủ, ngợi ca Bác Hồ
=> VB là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và
con người kháng chiến. Thể thơ lục bát, kiểu kết cấu đối đáp, ngôn ngữ đậm sắc thái dân
gian – tất cả đã góp phần khắc sâu lời nhắn nhủ của TH: hãy nhớ mãi và phát huy truyền
thống quý báu, anh hùng bất khuất, ân nghĩa thủy chung của cách mạng, của con người
VN.
(khúc hùng ca: tái hiện được cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng của DT;
khúc tình ca: thể hiện, ngợi ca ân tình, ân nghĩa cách mạng, đạo lý truyền thống dt “uống nước
nhớ nguồn”)
5. PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH
* Mở đầu bài thơ là khúc hát chia tay của kẻ ở người đi, trong đó 4 câu đầu là lời của
người ở lại (đồng bào VB- người còn gái trong tình yêu):
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
- Mở đầu bài thơ VB, mở đầu khúc hát chia tay đầy ân tình, người ở lại đã khơi gợi biết
bao nhiêu tâm tình bằng 2 câu hỏi – câu hỏi 1 gợi lên thời gian chứa đầy kỉ niệm:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
+ Trước hết, mười lăm năm là thời điểm tính từ thời điểm kháng chiến chống Nhật của
mặt trận Việt Minh (1940) cho đến lúc chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc (1954).
+ Cụm từ “thiết tha mặn nồng” càng tô đậm thêm cho tình nghĩa sâu nặng giữa kẻ ở
người đi.
+ Câu hỏi thứ hai của người ở lại là câu hỏi khơi gợi không gian chứa đầy kỉ niệm:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
~ Chỉ trong bốn câu thơ cụm từ “mình về - mình có” đã được lặp đi lặp lại thể hiện sự trăn
trở, day dứt và nỗi nhớ nhung trong lòng người ở lại.
~ Các hình ảnh “cây, núi, sông, nguồn” gợi lên không gian núi rừng Việt Bắc - nơi đôi lứa
đã có nhiều kỉ niệm trong những ngày tháng gắn bó. Đồng thời những hình ảnh này còn gợi
nhắc một câu ca dao quen thuộc:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn”
=> 4 câu thơ đầu là lời chia tay lưu luyến, bịn rịn của người ở, người ở nhắc nhở người đi
sống ở hiện tại đừng quên quá khứ, sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược, đừng quên kỉ
niệm của một thời đã qua; lời dặn dò kín đáo, sâu sắc: VB là cội nguồn cm, là trung tâm đầu
não, là cái nôi của cuộc kháng chiến. Xin người về đừng quên cội nguồn
- 4 câu thơ tiếp: tiếng lòng của người về xuôi mang theo bao nỗi nhớ thương, bịn rịn,
da diết
=> Trong lời hồi đáp của người đi, người đi đã không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của
người ở lại mà trả lời bằng cách bộc bạch cảm xúc, nỗi niềm của mình trước tình cảm của người
ở lại:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
+ Người đi bộc bạch chân tình cảm xúc của mình lúc chia tay, khi nghe lời bày tỏ của
người ở lại: người đi vốn đã lưu luyến vì tình cảm sâu nặng, gắn bó nay lại được nghe thấy
tiếng lòng, khúc hát chia tay đầy nhớ thương của người ở lại, khiến họ càng thêm bâng khuâng,
bồn chồn.
+ Các từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” diễn tả tâm trạng xao xuyến, bồi hồi, vừa nhớ
thương vừa có chút lo lắng của người đi, đã biết đến giây phút phải chia tay mà sao lòng vẫn
không đành, không yên.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
+ Hình ảnh “áo chàm” là một hình ảnh hoán dụ dùng để chỉ những người dân Việt Bắc.
Đây là hình ảnh gợi lên hình bóng của những con người lao động tuy nghèo khổ nhưng cần
kiệm và hết lòng với Cách mạng. Hơn nữa, màu chàm là màu xanh của cây lá nên nó còn gợi
lên hình ảnh núi rừng Việt Bắc.
+ Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” - thể hiện nỗi xúc động nghẹn ngào của
người đi. Trong câu thơ, hình ảnh “cầm tay nhau” mà “biết nói gì” thể hiện được niềm xúc động
nghẹn ngào của người ra đi. Cụm từ “biết nói gì” có thể hiểu theo hai cách. Thứ nhất, có thể do
xúc dộng quá nên chỉ biết nắm chặt đôi bàn tay mà không thốt được nên lời. Hoặc hay chăng do
trong lòng người có quá nhiều kỉ niệm, quá nhiều điều muốn nói mà không biết bắt đầu từ đâu,
chỉ biết bày tỏ tình cảm sâu nặng, nỗi niềm lưu luyến, bịn rịn bằng cách nắm chặt đôi bàn tay.
 Qua tám câu thơ đầu của bài thơ ta đã thấy được tình cảm gắn bó sâu nặng giữa kẻ ở
người đi, thấy được nỗi niềm lưu luyến, bịn rịn không nỡ rời xa. Đặt vào hoàn cảnh, cảm hứng
bấy giờ thì đó chính là tình quân dân thắm thiết.
Xét về mặt hình thức nghệ thuật, nó đã thể hiện đầy đủ những nét đặc trưng trong thơ Tố
Hữu, đậm chất trữ tình chính trị.

* Sau lời hồi đáp của người đi, người ở lại tiếp tục cất lên những lời khơi gợi kỉ niệm-
minh chứng cho mười lăm năm thiết tha mặn nồng:
“Mình đi, có nhớ những ngày
…………………..
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Trong mười hai câu thơ này, mỗi một cặp câu thơ là một kỉ niệm sâu sắc không thể nào
quên trong lòng người ở lại.
- Trước hết đó là những kỉ niệm của một thời đấu tranh Cách mạng trong những ngày đầu
kháng chiến vô cùng gian nan, khổ cực:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Hình ảnh “Mưa nguồn, suối lũ, mây mù” vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh có ý
nghĩa tượng trưng. Đó là hình ảnh về Việt Bắc với địa hình hiểm trở, thiên nhiên thời tiết khắc
nghiệt; đồng thời nó cũng là hình ảnh tượng trưng cho những gian lao, khó khăn của những
ngày đầu kháng chiến, một cuộc kháng chiến gian khổ và trường kì, tương lai chiến thắng
dường như còn xa xôi.
- Đó còn là những kỉ niệm cuộc sống sinh hoạt chiến đấu vô cùng thiếu thốn, kham khổ:
“Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
+ Hình ảnh “miếng cơm chấm muối” tượng trung cho những thiếu thốn trăm bề trong
những ngày đầu kháng chiến.
+ tác giả đã sử dụng nghệ thuật tiểu đối giữa “miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng
vai” vừa tô đậm sự thiếu thốn gian khổ vừa thể hiện lòng quyết tâm, ý chí căm thù giặc của
chiến sĩ đồng bào. Hình ảnh “mối thù nặng vai”- CBCM và đồng bào VB ý thức rất rõ mối thù
với giặc ngoại xâm như đang đè nặng lên cả hai vai của họ, nhận thức nhiệm vụ cm là vô cùng
nặng nề, có nhiều khó khăn.
- Vì gắn bó trong những ngày khó khăn gian khổ, tình cảm đã sâu đậm, nên khi người cán
bộ Cách mạng về xuôi đã để lại biết bao nhiêu nồi nhớ thương trong lòng người dân Việt Bắc:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.”
=> hai câu thơ vừa gợi kỉ niệm, vừa gợi sự hụt hẫng trống vắng trong lòng người ở lại
+ “trám, măng” là những sản vật của núi rừng Việt Bắc, trong kháng chiến thì chúng đã
trở thành lương thực, thực phẩm thiết yếu, đồng bào VB đã dành tặng phục vụ kháng chiến, nay
người cán bộ Cách mạng về xuôi thì trám dẫu bùi cũng để rụng, măng dẫu ngon cũng để già,
những sản vật bây giờ cũng trở nên thừa thãi => lòng người ở lại trống vắng và hụt hẫng biết
bao nhiêu
+ nghệ thuật nhân hóa “núi rừng nhớ ai”, lối nói thậm xưng “trám bùi để rụng, măng mai
để già” đã thể hiện niềm thương nhớ như quên cả thời gian của người ở lại.
- Một kỉ niệm không thể nào quên và đã trở thành ân tình ân nghĩa của người ở lại đó là
kháng chiến dù rất gian khổ nhưng nhân dân vẫn một lòng son sắt thủy chung với Cách mạng:
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
+ Hình ảnh “Hắt hiu lau xám” vừa gợi lên được khung cảnh núi rừng VB, vừa gợi lên
những khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến thuở đầu.
+ Cụm từ “đậm đà lòng son” nhấn mạnh tấm lòng son sắt, thủy chung trước sau như một
của quân dân với kháng chiến.
+ Hai câu thơ trên tác giả đã một lần nữa sử dụng nghệ thuật tiểu đối đạt đến mức cổ điển,
làm cho câu thơ vừa uyển chuyển trang nhã lại vừa cô đọng, hàm súc.
- Những kỉ niệm ấy còn là những kỉ niệm về những năm tháng vẻ vang, oanh liệt từ thời
tiền khởi nghĩa với những thành tựu bước đầu:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Bốn câu thơ đã khái quát được cả một chặng đường với những trang sử hết sức vẻ vang của
dân tộc: từ thời kì thành lập mặt trận Việt Minh, kháng chiến chống phát xít Nhật thành công,
phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
 Mười hai câu thơ là lời khơi gợi kỉ niệm của người ở lại, nó không chỉ nhắc nhở những
ngày tháng kháng chiến mà còn thể hiện được nỗi niềm nhớ nhung tha thiết, tình cảm gắn bó
sâu nặng, nghĩa tình giữa chiến sĩ với đồng bào, giữa con người với kháng chiến với Cách
mạng.
Để làm nổi bật nỗi nhớ, tình cảm gắn bó giữa kẻ ở người đi, trong mười hai câu thơ, tác
giả đã sử dụng lặp đi lặp lại các từ “Mình đi, mình về, có nhớ, nhớ ai” nhằm diễn tả niềm xúc
động, tình cảm đang dâng trào trong lòng người ở lại. Gắn liền với mỗi cụm từ “Mình đi, mình
về” là một câu hỏi thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ thương, trăn trở, băn khoăn, day dứt của
người ở lại. Nhưng điều đặc biệt nhất là từ “mình” được sử dụng hết sức sáng tạo: có lúc chỉ
người đi, có lúc lại là người ở lại, có lúc như hòa nhập làm một trong câu “Mình đi, mình có
nhớ mình”.
Đoạn thơ trên đã thể hiện được tình cảm thủy chung son sắt nghĩa tình giữa kẻ ở người đi,
giữa cán bộ với đồng bào, giữa con người với kháng chiến. Đó là tình cảm tiêu biểu cho chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp nói
riêng, trong tình cảm yêu quê hương đất nước nói chung.

* Sau lời gợi nhắc hết sức thiết tha của người ở lại, người đi đã có lời hồi đáp nhằm
khẳng định tình cảm trước sau như một và điều đó đã được bộc lộ rõ nhất qua nỗi nhớ về
thiên nhiên, con người Việt Bắc, nhớ những kỉ niệm kháng chiến gian khổ nhưng rất hào
hùng.
- Bốn câu thơ tiếp là lời khẳng định tình cảm trước sau như một của người ra đi:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
+ đại từ nhân xưng “ta-mình” được lặp đi lặp lại theo lối điệp vòng đã thể hiện được tình
cảm gắn bó khăng khít không rời.
+ Câu trả lời của người đi là lời hồi đáp trực tiếp vào câu hỏi của người ở: người ở lại hỏi
“Mình đi, mình có nhớ mình” thì người đi trả lời chắc chắn “Mình đi, mình lại nhớ mình” => từ
« mình » tiếp tục được sử dụng khéo léo tài hoa
+ Trong lời người đi, tác giả đã sử dụng hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ để nhấn mạnh vào
tình cảm trước sau như một “sau trước mặn mà”, “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy
nhiêu”.
- Hình ảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc từ đây hiện lên rõ nét trong tâm trí của
người ra đi với tất cả tình yêu thương, niềm tự hào => khiến cho nỗi nhớ trong lòng người đi
lại có cớ tuôn trào mãnh liệt.
+ Trước hết đó là nỗi nhớ thiên nhiên núi rừng Việt Bắc - nơi chiến khu và kháng chiến
còn gian khổ:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bế lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.”

“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều


Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
~ Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ « Nhớ gì như nhớ người yêu/ Trăng …lưng nương » là
một trong số những câu thơ tuyệt bút của Tố Hữu với cách diễn đạt chẳng khác nào như những
câu ca dao xưa-
~ So sánh « như nhớ người yêu » thể hiện được tình quân dân thắm thiết, nỗi nhớ Việt Bắc
nồng nàn sâu đậm - chẳng khác nào nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi.
~ Với hình thức câu hỏi tu từ “Nhớ gì” càng nhấn mạnh vào nỗi nhớ da diết đang trào dâng
của nhân vật trữ tình.
~ Hình ảnh đầu tiên của VB trở về trong nỗi nhớ của người đi là bức tranh “trăng lên đầu
núi, nắng chiều lưng nương” – đây là những hình ảnh thơ rất đẹp, gợi lên một bức tranh núi
rừng Việt Bắc thơ mộng: ánh sáng của vầng trăng lấp ló đầu núi gợi lên khung cảnh núi rừng
VB trong một đêm trăng sáng lung linh, huyền ảo, mơ màng; đó là những buổi chiều nắng trải
dài ấm áp trên nương. => câu thơ tả cảnh tuyệt vời của TH.
~ Nhớ về thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp còn là nhớ về những bản khói cùng sương, ngòi
Thia, sông Đáy…
~ Nhớ về âm thanh của “tiếng mõ rừng chiều” – tiếng mõ gọi trâu về, tiếng chày giã gạo ở
bên những con suối là những âm thanh quen thuộc mà nếu từng sống ở Việt Bắc nó sẽ để nhớ,
để thương trong lòng người. Bởi đó là khoảnh khắc thanh bình, yên ả, êm đềm hiếm hoi ở chiến
khu. Chiến tranh như lùi xa để con người có cơ hội thưởng thức vẻ đẹp của VB.
+ Không chỉ là thiên nhiên mà con người Việt Bắc cũng để lại nhiều thương nhớ trong
lòng người đi.
~ Đó là những con người tảo tần, chịu thương chịu khó, “sớm khuya, đi về” câu thơ gợi sự
tảo tần, không quản gian lao khó nhọc để phục vụ, chở che cho cán bộ Cách mạng.
~ Đó còn là những con người biết đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi trong những năm
tháng gian lao của đất nước:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
=> Trong đoạn thơ, tác giả sử dụng các từ “đây, đó, đắng cay, ngọt bùi” đã gợi sự gắn bó
giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào Việt Bắc: cho dù có gian khổ thì lúc nào cũng có nhau,
đoàn kết, nghĩa tình. Các động từ “sẻ, chia” đã thể hiện sự đồng cam cộng khổ của đồng bào
Việt Bắc và cán bộ Cách mạng trong kháng chiến.
~ Trong hình ảnh những con người Việt Bắc, ấn tượng nhất, để lại hình ảnh sâu sắc nhất là
hình ảnh người mẹ Việt Bắc chịu thương chịu khó giàu đức hy sinh, lao động hết mình phục vụ
kháng chiến”
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
=> Hình ảnh “nắng cháy lưng” gợi lên nỗi vất vả khó nhọc của ngừoi mẹ; còn hai chứ “bẻ
từng” gợi lên dáng vẻ tần tảo, chịu thương chịu khó. Hình ảnh ngừoi mẹ Việt Bắc không chỉ là
hình ảnh giàu cảm xúc trong thơ Tố Hữu mà còn là một hình ảnh tiêu biểu trong thơ ca kháng
chiến.
~ Đó còn là những con người, đồng chí, đồng đội luôn có tinh thần lạc quan, luôn ý thức
thực hiện nhiệm vụ:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.”
* Trong nỗi nhớ, kỉ niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc tươi đẹp, bằng ngòi bút tài
hoa của mình, trong mười câu thơ tiếp, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên và con
người Việt Bắc qua bốn mùa vô cùng đặc sắc, đẹp như một bức tranh tứ bình:
“Ta về, mình có nhớ ta
………………….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
- Ở hai câu thơ mở đoạn, nhà thơ đã gợi mở cảm xúc và nỗi nhớ bao trùm của người cán bộ
Cách mạng:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”
+ Trước hết, tác giả vẫn sử dụng cách xưng hô “ta - mình” vô cùng quen thuộc trong ca
dao và cặp đại từ này được tác giả sử dụng rất linh hoạt có sự đảo lộn vị trí, đan xen vào nhau
để cho ta thấy được tình cảm gắn bó sâu nặng giữa kẻ ở người đi, giữa cán bộ và đồng bào.
Cách xưng hô này là cách xưng hô của đôi lứa yêu nhau, tạo cho câu thơ một giọng điệu ngọt
ngào tha thiết.
+ điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại đã khẳng định được nỗi nhớ thương với những kỉ niệm
như còn nóng hổi, vẹn nguyên trong tâm trí người ra đi.
+ Câu hỏi « mình có nhớ ta » - người kháng chiến hỏi người VB, ta về không biết mình có
nhớ ta không, hỏi thực ra là để tạo cớ, để giãi bày, để trải lòng mình với người ở lại.
+ nỗi nhớ ấy được chia đều cho cả hoa và người. Nỗi nhớ về “hoa” chính là nỗi nhớ về
thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp còn nỗi nhớ về “người” là nhớ về anh em đồng chí đồng đội,
đồng bào Việt Bắc gắn bó với nhau trong kháng chiến. Từ “cùng” là quan hệ từ nối giữa “hoa”
và “người” đã cho ta thấy nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc, con người Việt Bắc là cùng hiện lên
đồng thời, khác với từ “và, với”. Chính vì vậy trong tám câu thơ tiếp, cứ một câu thơ nhớ về
“hoa” thì liền sau đó là câu thơ nhớ về “người”.
=> Tám câu là 4 cặp lục bát, cặp nào cũng có cảnh có người, mỗi cặp là một bwucs tranh
trọn vẹn của VB về một mùa trong năm, mỗi mùa lại mang một sắc thái riêng, 4 cặp lục bát hợp
lại thành một bộ tranh tứ bình hoàn chỉnh về VB trong năm. Đoạn thơ là minh chứng cho Thi
trung hữu họa, khiến ta không khỏi liên tưởng đến bức tranh tứ bình nổi tiếng trong Truyện
Kiều, qua ngòi bút thiên tài của ND :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
=> Cái khác là trong tranh ND là toàn cảnh về thiên nhiên, còn tranh TH là sự đan xen,
hòa quyện giữa thiên nhiên và con người rất sinh động
- Bức tranh tứ bình về bốn mùa Việt Bắc được mở đầu bằng cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
+ Bức tranh thiên nhiên mùa đông Việt Bắc có gam màu nền là màu xanh của rừng già –
một màu xanh gợi lên sức sống bất tận và điểm xuyết trên phồng nền ấy là màu đỏ tươi của
bông hoa chuối rừng. Giữa màu xanh bạt ngàn ấy, hình ảnh bông hoa chuối đỏ tươi ấy hiện lên
giống như một búp sen hồng, một ngọn lửa nhỏ làm cả khu rừng ấy bừng sáng, khiến nó trở nên
ấm áp hơn. Nếu như đặt vào hoàn cảnh ra đời của bài thơ, màu đỏ ấy không chỉ là sắc màu nổi
bật của thiên nhiên mùa đông Việt Bắc mà nó còn tượng trưng cho niềm tin Cách mạng tràn đầy
nhiệt huyết, tinh thần của chiến sĩ, đồng bào.
+ Trên nền thiên nhiên ấm áp tươi vui ấy có sự xuất hiện hình ảnh con người đang trên đèo
cao trên đường lên nương làm rẫy. Con dao gài ở thắt lưng được ánh sáng mặt trời chiếu vào tỏa
ra một thứ ánh sáng lấp lánh theo từng bước chân người đi. Hình ảnh thơ này gợi lên tư thế, vẻ
đẹp của những con người đang làm chủ núi rừng, làm chủ cuộc đời, làm chủ lao động. Thiên
nhiên đã tô điểm làm cho vẻ đẹp con người trở nên vững chãi, khỏe khoắn hơn.
- Sau bức tranh mùa đông chính là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
+ Gam màu làm nền cho bức tranh có sự thay đổi, chuyển từ màu xanh của rừng già
thành màu trắng của hoa mơ, một vẻ đẹp tinh khiết, tinh khôi. Cách sử dụng từ ngữ trong câu
thơ của Tố Hữu rất độc đáo: từ “trắng” vốn là một tính từ nhưng tác giả lại sử dụng nó như một
động từ để diễn tả nhưng bông hoa mơ đang thời kỉ nở rộ, nó khiến cho cả khu rừng như đang
bừng sáng, tràn ngập sức sống. Cách sử dụng từ ngữ này cũng đã được một số nhà thơ áp dụng.
+ Trong khung cảnh trữ tình của mùa xuân, hình ảnh con người hiện lên với vẻ đẹp khéo
léo, tài hoa:
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Hình ảnh con người Việt Bắc trong mùa xuân được tác giả nhớ đến với công việc đan nón
– một công việc góp phần vào phục vụ kháng chiến: đồng bào đan mũ, đan nón, kết dệt lên
những vành mây phục vụ dân quân bộ đội. Hai chữ “chuốt từng” đã gợi lên sự cẩn trọng, khéo
léo, tài hoa trong đôi bàn tay người Việt Bắc.
- Đến bức tranh mùa hè, tác giả vẽ lên một bức tranh không chỉ có màu sắc sống động
mà còn có cả âm thanh đặc trưng:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
+ Âm thanh của tiếng ve chính là một đặc điểm, đặc trưng tiêu biểu của mùa hè.Tiếng ve
kêu giữa rừng đã làm cho không gian nơi đây trở nên xôn xao, náo nhiệt. Chính âm thanh này
đã gọi, đã đánh thức sự chuyển động của cảnh vật, làm cho cảnh vật như bừng tỉnh. Phách là
một loại cây thân gỗ ở rừng Việt Bắc, thường nở hoa vàng vào đầu mùa hè. Trước khi mùa hè
đến, trước khi tiếng ve cất lên gọi hè tới, dường như những nụ phách còn náu mình trong kẽ lá,
rừng phách còn là màu xanh, nhưng khi tiếng ve đầu tiên cất lên báo hiệu hè sang, cả rừng
phách nhất loạt trổ hoa vàng, sắc vàng lênh láng như từ trên trời cao “đổ” xuống tràn ngập cả
khu rừng.
+ Từ “đổ” đã diễn tả được sự chuyển đổi sắc màu vô cùng nhanh chóng, bất ngờ.
+ Trên nền bức tranh thiên nhiên mùa hè ấy xuất hiện hình ảnh “cô em gái hái măng một
mình”. Trong thơ xưa, giữa chốn rừng núi xuất hiện hình ảnh con người thường đem đến một
cảm giác đơn độc, lẻ loi. Nhưng ở đây chúng ta không hề thấy cảm giác đó mà ngược lại dường
như là thương yêu, cảm phục hơn bởi cách xưng hô “cô em gái” gợi lên một tình cảm thân
thương, trìu mến. Khi đặt vào hoàn cảnh kháng chiến chống pháp, việc hái măng chính là công
việc phục vụ kháng chiến. Việc sẵn sàng một mình hái măng đã thể hiện sự cần cù, chịu thương
chịu khó của người con gái ấy cũng như con người Việt Bắc.
- Khép lại bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp ấy là bức tranh mùa thu:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
+ Tố Hữu đã bắt đầu bức tranh ở mùa đông và khép lại ở mùa thu là có ngụ ý. Kết lại mùa
thu ấy vừa đúng thời điểm diễn ra cuộc chia tay lịch sử giữa cán bộ Cách mạng và đồng bào
Việt Bắc. Hơn thế, tác giả lựa chọn kết cấu bài thơ, xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình là đôi
lứa yêu nhau đang cất lên tiếng hát trong khúc hát dao duyên. Trong sinh hoạt văn hóa dân gian
Việt Nam, những khúc hát dao duyên này thường diễn ra vào những đêm trăng sáng dưới mái
đình gốc đa và những vầng trăng đẹp nhất thì thường diễn ra vào mùa thu. Chính nhờ điều này
nhà thơ đã tạo được chất trữ tình cho bài thơ.
+ Khung cảnh thiên nhiên trong đêm mùa thu thật đẹp. Từ “rọi” gợi lên ánh sáng ngời ngợi
của vầng trăng - một thứ ánh sáng có thể xuyên qua lớp lá dày để chiếu xuống mặt đất, để dệt
nên một tấm thảm hoa trăng tuyệt đẹp, thơ mộng, lãng mạn, một ánh trăng hòa bình. Tất cả đã
làm nên một khung cảnh thanh bình, êm đềm giữa núi rừng Việt Bắc.
+ Trong khung cảnh ấy, con người cất lên những tiếng hát ân tình thủy chung, làm lưu
luyến bước chân người ra đi. Tiếng hát ấy là tiếng hát của anh em – bạn bè, đồng chí – đồng
bào, giữa thời kì khó khăn gian khổ vẫn ca vang núi đèo. Đó cũng là tiếng hát chia tay đầy lưu
luyến, thiết tha của người ở lại.
 Trong nỗi nhớ của người đi, thiên nhiên và con người Việt Bắc hài hòa cùng tô điểm,
cùng tôn lên vẻ đẹp của nhau. Nếu cảnh vật tươi đẹp, rực rỡ, lung linh thì con người lại dũng
cảm, kiên cường, tảo tần, chịu thương, chịu khó, cảnh vật thơ mộng, huyền ảo thì con người tài
hoa, ân tình… Đặc biệt trong đoạn thơ, điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại khiến cho đoạn thơ có
âm điệu nhẹ nhàng, tha thiết, ngọt ngào chẳng khác nào khúc hát ru với những kỉ niệm ngập
tràn nhớ thương.
* Sau nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc tươi đẹp, trong lòng người đi
không thể nào quên những kỉ niệm kháng chiến, qua những kỉ niệm ấy, nhà thơ đã tái
hiện cuộc kháng chiến chống Pháp hào hùng của dân tộc.
- Trước hết đó là những kỉ niệm về những ngày tháng khó khăn gian khổ nhưng cũng rất
hào hùng. Chúng ta cũng đã có được những chiến thắng ban đầu nhờ vào tinh thần đoàn kết
của quân dân:
“ Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
+ Đoạn thơ trên đã tái hiện chân thực cảnh núi rừng Việt Bắc hùng vĩ với rừng cây, núi đá
trùng điệp. Đây là một địa hình hiểm trở, bộ đội ta đã lợi dụng địa hình ấy để đánh giặc. Và nó
chính là một chiến lược đã dẫn ta đến thành công của chiến thắng Điện Biên Phủ.
+ Bên cạnh đó hình ảnh rừng cây núi đá còn mang ý nghĩa tượng trưng cho nhân dân, cho
đồng bào Việt Bắc. Với biện pháp tu từ nhân hóa kết hợp với các động từ “giăng, che, vây” đã
cho ta thấy sự đồng lòng, đồng sức của nhân dân Việt Bắc. Trong kháng chiến gian khổ, nhân
dân Việt Bắc một lòng bao bọc, che chở, đoàn kết với cán bộ Cách mạng để cùng nhau kháng
chiến. Kháng chiến thành công là nhờ vào sức mạnh của tinh thần đoàn kết quân dân ấy “đất
trời ta cả chiến khu một lòng”.
+ Và kết quả chúng ta từ yếu thế bị “giặc lùng” đã lật ngược tình thế chủ động “vây quân
thù” và liên tiếp tạo nên những chiến thắng bước đầu:
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”
Tác giả đã liệt kê hàng loạt những địa danh mà mỗi địa danh đều gắn liền với một chiến
công của ta, ta có chiến thắng được những bước đầu giòn giã khiến cho quân giặc phải khiếp sợ.
Động từ “nhớ” gợi nhắc những kỉ niệm như còn đang nóng hổi về những chiến thắng vẻ vang,
thể hiện niềm tự hào, niềm vui chiến thắng. Tác giả sử dụng cặp quan hệ từ độc đáo “từ - sang”
gợi lên những chiến công nối tiếp nhau, cảm xúc và niềm vui chiến thắng cứ ào ạt chảy về.
- Trong kỉ niệm về kháng chiến, người đi còn nhớ về khung cảnh của Việt Bắc ra quân
rất hoành tráng với sức mạnh của toàn dân tộc:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
=> Ở VB đẹp nhất là hình ảnh toàn dân kháng chiến. Thực tiễn cm đòi hỏi phải miêu tả khí
thế của đám đông, quần chúng trên nền không gian lớn. Tố Hữu trước đó trong bài thơ “Ta đi
tới” đã từng viết:

+ Ở hai câu thơ đầu tác giả đã mở ra một bức tranh toàn cảnh về Việt Bắc rất hoành tráng,
kì vĩ, đậm chất sử thi. Hình ảnh “những đường Việt Bắc” đã mở ra một địa bàn kháng chiến với
những ngả đường bát ngát nối liền cả chiến khu Việt Bắc, gợi lên một không gian rộng lớn, kì
vĩ. Hai chữ “của ta” đã vang lên dõng dạc, tự hào như khẳng định tư cách làm chủ núi rừng, làm
chủ cuộc đời của con người Việt Bắc. Trong không gian, khung cảnh đậm chất sử thi ấy đã xuất
hiện hình ảnh của những đoàn quân đang ngày đêm nối đuôi nhau hành quân ra mặt trận với
những bước chân đầy sức mạnh “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Từ “đêm đêm” gợi lên
một khoảng thời gian dài, nối tiếp nhau mà những bước chân hành quân của cả dân tộc như
chưa bao giờ ngừng nghỉ. Đây là sức mạnh của sự bền bỉ, kiên cường, hiên ngang. Từ láy “rầm
rập” có sự dụng phụ âm “r” kết hợp với hình ảnh so sánh “như là đất rung” gợi lên những bước
chân hành quân vũ bão có thể làm rung chuyển đất trời. Qua những hình ảnh này cho thấy hình
ảnh cả dân tộc Việt Nam với sức mạnh ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ đang ngày đêm dồn
toàn tâm toàn lực cho kháng chiến
=> Chỉ với hai câu thơ Tố Hữu như làm sống dậy cả thời đại hào hùng của dân tộc, mở ra
một bức tranh toàn cảnh về Việt Bắc ra quân.
+ Để làm nên sức mạnh của dân tộc là có sự tham gia đóng góp của rất nhiều lực lượng mà
đầu tiên phải kể đến đó là Quân đội nhân dân Việt Nam – những người lính ngày đêm sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc:
“ Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
~ Điệp từ “điệp điệp, trùng trùng” vốn là từ được dùng để miêu tả sự kì vĩ của núi non. Ở
trong câu thơ này, tác giả đã sử dụng nó để miêu tả Quân đội nhân dân Việt Nam gợi lên được
một đội quân hùng hậu, đông đảo, đang nối đuôi nhau hành quân ra mặt trận. Ẩn trong câu thơ
chính là niềm tự hào của tác giả, là sự phát triển vượt bậc lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt
Nam mới ngày nào lực lượng còn ít ỏi mà giờ đây đã trở thành một đoàn binh mạnh mẽ nối
đuôi nhau ra chiến trường với khí thế quyết chiến quyết thắng, với một sức mạnh sánh ngang
tầm vóc núi sông.
~ Ngoài ra, bức chân dung anh bộ đội cụ Hồ qua ngòi bút của tác giả đã hiện lên với vẻ đẹp
vừa giản dị, mộc mạc, rất mực đời thường nhưng cũng hết sức cao cả, vĩ đại:
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
Sự giản dị toát lên từ trang phục với chiếc mũ nan rất bình thường, chiếc mũ được kết dệt từ
đôi bàn tay khéo léo của người Việt Bắc. Sự giản dị ấy còn toát lên từ sự hài hòa với thiên
nhiên, làm bạn với thiên nhiên. Cụm từ “ánh sao đầu súng” mang ý nghĩa tả thực. Đây là hình
ảnh những người lính hành quân trong đêm, mũi súng chĩa lên trời cao nhìn từ một góc độ nào
đó những ngôi sao từ trên bầu trời như sà xuống treo trên đầu súng. Hình ảnh này cũng cho thấy
những vẻ đẹp tâm hồn của anh bộ đội cụ Hồ. Họ là những con người yêu thiên nhiên, cảm nhận
được vẻ đẹp thiên nhiên, trong chiến đấu gian khổ vẫn có những phút giây thưởng thức vẻ đẹp
thiên nhiên.
Bên cạnh đó hình ảnh “ánh sao đầu súng” còn là hình ảnh mang tính biểu tượng, ẩn dụ
cho lí tưởng cao đẹp của người lính.
+ Để làm nên sức mạnh của toàn thể dân tộc trong cuộc kháng chiến trường kì này còn
phải kể đến lực lượng dân công hỏa tuyến:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”
Hai câu thơ trên dựng lên một bức tranh toàn cảnh rực rỡ, hoành tráng đầy khí thế: đó là
cảnh những đoàn dân công hòa tuyến đi trong đêm tối nhưng những ngọn đuốc lung linh đã xua
tan u ám bóng đêm núi rừng Việt Bắc – một không gian đậm chất sử thi hoành tráng, kì vĩ.
Động từ mạnh “nát đá”, những hình ảnh kì vĩ “muôn tàn lửa bay” để tiếp tục khắc họa vẻ
đẹp hào hùng của đoàn dân công hòa tuyến. Hình ảnh những tàn lửa toát ra từ các ngọn đuốc
càng làm cho khung cảnh núi rừng thêm rực rỡ. Đặc biệt hình ảnh “bước chân nát đá” đã cho
thấy sức mạnh lay trời chuyển đất, sức mạnh như vũ bão của dân tộc Việt Nam. Những người
dân công hòa tuyến vốn là những người nông dân bình thường, trong lao động vốn cần cù chịu
thương chịu khó và chính họ trong cuộc đời cũ, xã hội cũ bị chèn ép, đàn áp và dường như luôn
trong thế bị động chờ đợi. Còn ở trong bài thơ, hình ảnh những đoàn dân công ấy không chỉ làm
chủ cuộc đời, làm chủ vận mệnh của mình mà còn sức mạnh lay trời chuyển đất. Bước chân của
họ có thể làm nát đá, họ có thể biến đêm thành ngày.
+ Đi trong đêm trên những nẻo đường Việt Bắc còn có những đoàn xe cơ giới:
“ Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Hai câu thơ trên mang ý nghĩa tả thực:
những đoàn xe cơ giới đi trong đêm khi ánh đèn pha bật lên đã xua tan bóng đêm
thăm thẳm của núi rừng, làm cho núi rừng sáng bừng lên. Động từ “bật” kết hợp
với tính từ “sáng” đã miêu tả một nguồn ánh sáng mạnh mẽ, đột ngột đã làm chói
lòa, bừng sáng cả núi rừng. Nó cũng gợi lên sức mạnh của đoàn xe cũng chính là
sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng:
ý thơ “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” tượng trưng cho quá khứ đau thương của
lịch sử dân tộc - đó là những ngày tháng dân ta chìm trong màn đêm của kiếp sống
nô lệ; hình ảnh “đèn pha bật sáng” tượng trưng cho tinh thần quật khởi, sự vùng
lên đấu tranh của dân ta từ trong đau thương, mất mát. Vì thế “ngày mai” là biểu
tượng của một tương lai xán lạn, tương lai chiến thắng của dân tộc. Hình ảnh thơ
tuy giản dị nhưng ý thơ rất hàm súc, ý nghĩa.
+ Kết quả tất yếu của sức mạnh, của tinh thần đoàn kết dân tộc là những chiến công vang
dội, dồn dập liên tiếp:
“ Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”Trong đoạn thơ tác đã liệt kê hàng loạt những địa
danh
mà mỗi địa danh đều gắn liền với những chiến công vang dội: Hòa Bình, Tây Bắc,
Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, … Đây đều là những chiến dịch lớn,
chiến công oanh liệt của dân tộc. Tố Hữu đã đưa tên các địa danh vào thơ một cách
khéo léo, uyển chuyển tạo nên những vần thơ nhịp nhàng.
Tác giả còn sử dụng điệp từ “vui” kết hợp với các quan hệ từ “về, từ, lên” góp phần thể
hiện những chiến công giòn giã, nối tiếp nhau, chiến công nối tiếp chiến công, niềm vui gợi
niềm vui. Đồng thời nó còn giúp các nhịp thơ trở nên rộn rã, hào hùng.
Đoạn thơ như một khúc khải hoàn ca reo mừng chiến thắng là kết quả tất yếu của một cuộc
kháng chiến toàn dân.
 Có thể nói, cảm hứng sử thi và lãng mạn chi phối toàn bộ đoạn thơ từ cách sử dụng
hình ảnh, từ ngữ đến cách ngắt nhịp để tạo nên giọng điệu sôi nổi, hào hùng. Về hình ảnh, TH
đã triệt để sử dụng những hình ảnh tượng trưng mang màu sắc thần thoại có tình chất cường
điệu, phóng đại. Về từ ngữ, tác giả sử dụng động từ mạnh, những từ láy tượng hình, tượng
thanh khiến âm hưởng đoạn thơ mạnh mẽ, như rầm rập, điệp điệp trùng trùng, nát đá, thăm
thẳm... Về cách ngắt nhịp, TH sử dụng lối ngắt nhịp linh hoạt kết hợp với những điệp từ khiến
giọng điệu đoạn thơ dồn dập, hối hả
 Chỉ với một đoạn thơ ngắn, TH đã khắc họa thành công một bức tranh cả dân tộc ra trận
bằng một cuộc chiến tranh nhân dân thật hùng tráng. Bức tranh không chỉ làm sống dậy một
thời kì hào hùng của dân tộc ở căn cứ địa VB đang chuẩn bị cho một chiến công lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu mà còn đem lại cho người độc niềm tin và tình yêu với quê hương, đất
nước, niềm tự hào về lịch sử dân tộc. Đoạn thơ cũng rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ
TH.

* Trong nỗi nhớ của người cán bộ Cách mạng, một phần không thể thiếu để làm nên
chiến thắng đó là nhờ vào những chiến lược, sách lược sáng suốt hợp lí của cơ quan trung
ương Đảng, Chính phủ. Sự phối hợp nhịp nhàng, hài hòa giữa tiền tuyến và hậu phương đã
giúp chúng ta có những thắng lợi vả vang:
“Điều quân chiến dịch Thu – Đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Đặc biệt đó là sự chỉ đạo của Bác Hồ, niềm tin của nhân dân ta vào vị lãnh tụ:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.”
 Có thể khẳng định rằng bài thơ Việt Bắc nói chung và phần một của tác phẩm nói riêng
là một thành công trong sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu, là một tác phẩm thể hiện rõ được phong
cách nghệ thuật thơ Tố Hữu từ nội dung đến nghệ thuật. Qua đây tác giả không chỉ tái hiện
được một giai đoạn lịch sử gian khổ của dân tộc, rất đỗi hào hùng của dất nước mà còn ngợi ca
lối sống ân tình, ân nghĩa thủy chung, ngợi ca đạo lý truyền thống ngàn đời “Uống nước nhớ
nguồn”.
* Lời kết:
- Với giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng kết hợp với kết cấu xưng hô “Ta- mình”, bài
thơ ôm chứa bao nhiêu là niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào con người Việt Bắc. Nó
mang âm điệu của trữ tình,thể hiện tình yêu thiên nhiên , con người tha thiết và tấm lòng yêu
nước của Tố Hữu. Cuối bài thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi lên bao kỉ niệm . Kỉ niệm
ấy theo mãi trong lòng người đi và quấn quýt trong từng dấu chân của người ở lại. Lời thơ với
giọng điệu giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và
con người Việt Bắc. Nỗi nhớ của nhà thơ Tố Hữu đã đi vào trong lòng người đọc, như khúc dân
ca dịu dàng để lại bao say đắm ngọt ngào về một mảnh đất đã gắn bó với biết bao con người,
mà có lần Chế Lan Viên đã từng viết”

“ Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”

- Bàn về tình yêu Tổ quốc nhà thơ Tố Hữu đã từng tâm sự: Tôi yêu đất nước và nhân dân
tôi, tôi viết về đất nước và nhân dân tôi như viết về người đàn bà tôi yêu. Đúng vậy, thấm đẫm
trong mỗi trang thơ của Tố Hữu là một bản tình ca về quê hương Tổ quốc và người con đất
Việt, là những khúc hát yêu thương thấm đượm về nghĩa tình. Bài thơ “Việt Bắc” thể hiện rõ
nhất tình yêu bất diệt ấy của nhà thơ Tố Hữu
-------------------------------------------------
ĐẤT NƯỚC (Nguyễn Khoa Điềm)
1. Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong những năm
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khác với những nhà thơ cùng thời như Phạm Tiến Duật, Lê
Anh Xuân, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh…., Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một phong cách thơ trữ
tình – chính luận. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một
công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu
chung của cả dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải
nghiệm của chính mình.
2. Tác phẩm:
a) Hoàn cảnh sáng tác và xuất xứ đoạn trích:
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được sáng tác trong thời kì tác giả sống và làm việc tại
chiến khu Trị - Thiên từ 1971 và được xuất bản năm 1974 với nội dung nói về sự thức tỉnh của
tầng lớp thanh niên đô thị vùng tạm chiếm trước bước ngoặt lịch sử của dân tộc, trong cuộc đối
đầu giữa chính nghĩa và phi nghĩa để giành độc lập hòa bình cho Tổ quốc, cho dân tộc, về sứ
mệnh của lớp người trẻ tuổi đối với đất nước.
Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca này, với cảm hứng chủ đạo là
đất nước của nhân dân, là đoạn tiêu biểu của “Mặt đường khát vọng”.

b) Đề tài:
Đoạn trích “Đất Nước” mang lại cái nhìn mới mẻ về đất nước, một đề tài quen thuộc trong
văn học Việt Nam, mà qua đó đất nước hiện ra với vẻ đẹp nhiều chiều từ lịch sử, văn hóa, địa lí,
…để từ đó, tác giả khái quát đất nước là kết tinh của quá trình đấu tranh lâu dài của dân tộc, là
sự hội tụ của khát vọng của nhân dân và chính nhân dân là người làm nên đất nước, “Đất nước
là của nhân dân”.

c) Bố cục: Đoạn trích có thể chia làm hai phần:


- Phần 1: Tác giả đã tự đặt ra và trả lời hai câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? (từ đầu đến
“Đất Nước có từ ngày đó”) và Đất Nước là gì? (tiếp theo đến “Làm nên Đất Nước muôn đời…).
=> Tóm lại, phần 1: Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất nước.
- Phần 2: Từ những tiền đề ở phần 1, nhà thơ tiếp tục suy nghĩ: Vậy, ai đã làm nên Đất
Nước? (hay Đất Nước này do ai làm nên?).
=> Tóm lại, phần 2: Nhà thơ tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.
3. PHÂN TÍCH (ĐOẠN TRÍCH):
* PHẦN 1:
1. Đất Nước có từ bao giờ?
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…………………………………….
Đất Nước có từ ngày đó…”
- Câu thơ mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa người đọc trở về với cội nguồn của đất nước: Đất
Nước có từ bao giờ?:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.”
+ Câu thơ như lời thủ thỉ tâm tình giản dị, mộc mạc nhưng khẳng định được nguồn cội sinh
thành lâu đời của Đất Nước. Không biết Đất Nước có tự bao giờ, chỉ biết khi ta lớn lên, khi có
nhận thức về vạn vật ở xung quanh mình thì Đất Nước đã có rồi.
+ Cụm từ “đã có rồi” khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, và ở hiện tại, Đất Nước
vẫn hiện hữu ngay trước mắt chúng ta.
- Tác giả đã khắc họa hình ảnh Đất Nước tồn tại, Đất Nước hiện diện trong những gì
gần gũi, thân thuộc xung quanh ta chứ không phải những điều khó hình dung, cao xa nơi nào
cả:
“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Đất Nước thân thương hiện lên qua lời ru của bà, của mẹ:
“Ngày xửa ngày xưa…” là lời kể xuất hiện quen thuộc trong mở đầu những câu
chuyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại của văn học dân gian. Hình ảnh Đất Nước
có trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại ấy, điều đó càng chứng tỏ được sự
hình thành lâu đời của Đất Nước.
+ Không chỉ có thế, Đất Nước hiện lên giản dị, mộc mạc qua hình ảnh “miếng trầu”.
Tục ăn trầu là phong tục tập quán của con người Việt Nam. Với người Việt,
“miếng trầu là đầu câu chuyện”, ăn trầu thể hiện tình cảm thân thương, sự cảm
mến, quý trọng tình nghĩa. Người xưa có câu “miếng trầu nên dâu nhà người”,
miếng trầu đã se duyên cho đôi lứa nên vợ thành chồng. Hình ảnh “miếng trầu”
cho ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “Trầu cau”, câu chuyện mang ý nghĩa về tình
cảm anh em nghĩa tình sâu nặng, tình cảm vợ chồng nồng thắm, thủy chung. Đó
cũng chính là nét đẹp văn hóa của đất nước được dân gian gìn giữ suốt biết bao thế
hệ. Tác giả sử dụng từ “bắt đầu” để thể hiện nguồn cội sinh thành của Đất Nước là
từ những gì giản dị nhất, thân thuộc nhất trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
+ Đất nước được lớn lên từ truyền thống yêu nước kiên cường của dân tộc:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Cây tre vốn là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt
Nam trong chiến đấu. Hình ảnh «trồng tre đánh giặc» thể hiện truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Hình ảnh này còn gắn liền với truyền
thuyết Thánh Gióng, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta. Từ một chú bé
ba tuổi chẳng nói chẳng cười, khi nghe tin có giặc ngoại xâm thì mở lời xin đi đánh
giặc, rồi vụt cao lớn thành tráng sĩ, nhổ tre quét sạch quân thù.
+ Đất Nước không chỉ được hình thành từ truyền thống yêu nước và bề dày văn hóa của
dân tộc mà còn được tạo nên qua những thói quen sinh hoạt hằng ngày, qua những phong
tục tập quán, qua lối sống của nhân dân :
«Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên.»
Khi có gia đình, người phụ nữ Việt Nam lại rất đảm đang, vén khéo, lo toan công
việc, chính vì vậy, mái tóc luôn được búi gọn gàng ở sau gáy.
Người Việt Nam còn là những con người rất coi trọng tình nghĩa Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn - thành ngữ “gừng cay muối mặn” vốn để chỉ
những khó khăn, thử thách, những đắng cay mà con người có thể gặp phải trong
cuộc đời, nhưng đặt vào trong câu thơ, trong lời thơ lại khẳng định tình nghĩa vợ
chồng mặn mà, sâu đậm khi đã cùng nhau trải qua đắng cay. Đúng vậy, khi đã
cùng nhau trải qua khó khăn, thử thách thì người Việt Nam càng thương yêu nhau,
càng gắn bó, sẻ chia với nhau hơn.
=> Ở trong câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc đến những bài ca dao
quen thuộc, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, tình yêu lứa đôi:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.”
Hay : “Muối ba năm muối còn đang mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dù có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.”
+ Đất nước được trưởng thành từ truyền thống lao động cần cù của nhân dân ta:
“Cái kèo, cái cột thành tên”.
Đất Nước hiện lên từ những sự vật bình dị, đơn sơ: cái kèo, cái cột là những vật
không thể thiếu trong quá trình dựng nhà của người Việt. Cha mẹ cũng dùng tên
những sự vật ấy để đặt tên cho con, đó là tên gọi suồng sã, giản dị với niềm mong
ước dễ nuôi, dễ lớn.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”.
Đất nước ta là một nước nông nghiệp, nổi tiếng với truyền thống trồng lúa nước,
không chỉ sản xuất hạt gạo để cung cấp đời sống nhân dân trong nước mà còn xuất
khẩu ra các nước trong khu vực. Nhưng để sản xuất ra hạt gạo là quá trình vất vả
“một nắng hai sương”, cần cù chịu khó “xay, giã, giần, sàng” của nhân dân. Đó là
công việc lao động nặng nhọc, nhưng lại vô cùng quen thuộc của người Việt.
=> Qua đây, tác giả cũng muốn nhắc nhở chúng ta phải biết quý trọng công sức
lao động của những người nông dân không ngừng dựng xây Tổ quốc
 Qua chín câu thơ đầu, tác giả không chỉ gợi lên nguồn cội Đất Nước mà còn cảm nhận
về Đất Nước trên bình diện văn hóa, qua đó Đất Nước hiện lên giản dị, mộc mạc, gần gũi, thân
thuộc với mỗi người. Đó cũng là cách nhà thơ gián tiếp thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân
Dân”.
 Để làm nổi bật lên hình ảnh Đất Nước gần gũi thân thương, tác giả có sự kết hợp hài
hòa giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Chất liệu văn hóa dân gian đậm đặc nhưng cũng rất linh hoạt ở những câu ca dao,
truyện cổ tích, truyền thuyết, phong tục, tập quán. Những lời thơ, câu thơ có sự đan
xen giữa câu dài, câu ngắn, gợi lên giọng điệu du dương như câu hát ru của bà, của
mẹ về đất nước, lời thủ thỉ tâm tình của đôi lứa yêu nhau về cội nguồn quê hương
mình. Từ “Đất Nước” được dùng lặp đi lặp lại, luôn được viết hoa rất trang trọng
gợi lên sự thiêng liêng, niềm tự hào về đất nước của tác giả. Nhà thơ cũng sử dụng
từ ngữ mang màu sắc chính luận, làm nổi bật sự hình thành, phát triển của Đất
Nước như là ‘bắt đầu”, “lớn lên”, và đặc biệt là câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó.”
Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen
thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Việc sử dụng
chất liệu văn hóa dân gian ấy ko đơn thuần chỉ là một phương tiện nghệ thuật, cũng
ko phải là một mô-tuyp sáng tạo... mà nó còn thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng Đất
nước của Nhân dân của nhà thơ.
Có thể nói, tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm
nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.
- Đất Nước không chỉ được cảm nhận qua bình diện văn hóa, truyền thống lâu dài
của dân tộc mà còn được tác giả cảm nhận trên bình diện không gian địa lí:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.”
+ Trong đoạn thơ trên, tác giả đã viết theo lối triết tự, tách từ “Đất Nước” ra làm hai thành
tố “Đất” và “Nước” - “Đất Nước” vốn là một khái niệm trừu tượng để chỉ một quốc gia, một
dân tộc nhưng ở đây, nhà thơ đã tách ra thành hai thành tố như vậy để làm cho hình ảnh Đất
Nước trở nên cụ thể, dễ hiểu, dễ cảm nhận hơn.
+ Từ đây, với Nguyễn Khoa Điềm, không gian địa lí của Đất Nước trước hết là không
gian gắn liền với những sinh hoạt đời thường, là không gian sinh tồn, gắn bó với mỗi
người.
~ “Đất là nơi anh đến trường”Con đường đến trường là con đường gắn với nhiều sự vật
quen thuộc, gắn với quê hương thân thương của mỗi con người. Nơi đó đã cho “anh” cả một
chân trời kiến thức, chắp cánh cho “anh” vững bước vào đời.
~ “Nước là nơi em tắm”Hình ảnh bến nước, bến sông quê hương là nơi lưu giữ những kỉ
niệm của tuổi ấu thơ. Đất Nước đã gột rửa tâm hồn em trong sáng, dịu hiền, cho em được đắm
mình trên dòng sông quê mẹ.
~ Đất Nước còn là nơi anh và em hò hẹn, lưu giữ những kỉ niệm lứa đôi, bên bến nước, gốc
đa, sân đình. Không những thế, Đất Nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của
những người đang yêu. Đất Nước – nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm,

=> Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy: không gian địa lý của Đất Nước là những gì thân
thuộc, gắn liền với mỗi người chứ không hề xa vời, trừu tượng,
+ Bên cạnh đó, nhà thơ cũng không quên khắc họa lên không gian kì vĩ của Đất Nước
với những hình ảnh của núi rừng, sông bể rất đáng tự hào:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Chỉ có điều khi đọc những câu thơ này ta nhận thấy ngay cả khi khắc họa không gian kì vĩ
của Đất Nước, nhà thơ vẫn khiến hình ảnh Đất Nước thật gần gũi, thân thuộc gắn bó với mỗi
người. Ở đây, tác giả đã rất khéo léo sử dụng những câu hò vùng Bình Trị Thiên để gợi lên hình
ảnh về núi bạc, về biển khơi. Những câu hò, câu hát ấy cũng gợi nhắc người đọc về những câu
chuyện cổ tích quen thuộc, gắn liền với mỗi người thuở ấu thơ. Đó là truyện cố tích “Cây khế”,
sự tích về cá ngư ông…. Chính những câu chuyện cổ tích này, với không gian về núi vàng, núi
bạc, về biển khơi xa thẳm đã khiến cho hình ảnh Đất Nước vừa lớn lao, hùng vĩ song hết sức
bình dị, thân thuộc.
=> Tác giả không chỉ cảm nhận không gian địa lí Đất Nước gắn liền với sinh hoạt
đời thường, mà còn cảm nhận về một không gian lớn lao, kì vĩ mênh mông, nhưng
cách diễn đạt của nhà thơ vẫn khiến Đất Nước gần gũi, thân thuộc hơn.
=> Ngoài việc sử dụng nghệ thuật tách từ thì tác giả còn sử dụng chất liệu văn
hóa dân gian một cách linh hoạt, uyển chuyển trong ca dao, truyện cổ tích, câu hò,
điệu hát dân gian, …
+ Không gian địa lí của Đất Nước là không gian sinh tồn, nơi người dân Việt Nam
đoàn tụ, sinh sống bao đời.
“ Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
- Đất nước còn được cảm nhận trên bình diện chiều dài thời gian lịch sử :
+ Khi gợi lên chiều dài lịch sử Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm không sử dụng chính sử,
không sử dụng những con số mà tác giả sử dụng những huyền thoại, truyền thuyết, dã sử,… nó
khiến hình ảnh Đất Nước hiện lên hết sức gần gũi, thân thuộc.
Lạc Long Quân và Âu Cơ
….
bằng huyền thoại, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi lên cả một quá khứ lịch sử lâu đời
của Đất Nước. Với tác giả, Đất Nước được ra đời từ thuở hồng hoang của loài
người, từ thủa đồng bào ta được sinh ra từ “bọc trứng”. Qua đây, tác giả cũng đã
bộc lộ niềm tự hào về nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt Nam, chúng ta là con
Rồng, cháu Tiên.
=> Trong một đoạn thơ ngắn, nhà thơ đã vận dụng những câu chuyện truyền
thuyết, gợi mở sự hình thành của dân tộc Việt Nam đó là truyền thuyết “Con Rồng,
cháu Tiên”, “Lạc Long Quân”, ….
+ chiều dài lịch sử của Đất Nước vẫn còn đang được tiếp nối bởi cuộc đời của mỗi người,
đang được nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
~ Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ mang màu sắc chính
luận như “gánh vác”, “dặn dò”, để gợi lên sự tiếp nối giữa các thế hệ con người để
tạo nên chiều dài lịch sử vô cùng vô tận của Đất Nước. “Những ai đã khuất” là thế
hệ đi trước, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta; “những ai bây giờ ” là hiện tại,
là chính chúng ta; “sinh con đẻ cái” – sự gợi mở về thế hệ tương lai của Đất Nước.
=> Bất kể những ai đang sống trọn vẹn phần đời của mình, đó là đang góp phần
làm nên chiều dài lịch sử của dân tộc, là đang hòa mình vào dòng chảy lịch sử của
Đất Nước. Một cuộc đời “trọn vẹn” là sống để vừa gánh vác phần người đi trước
để lại, yêu nhau, sinh con đẻ cái, biết cúi đầu trước ngày giỗ Tổ, khi khuất đi thì
dặn dò con cháu về chuyện của tương lai, để làm sao cho trọn nghĩa tình với Tổ
quốc. Trong cảm nhận của nhà thơ về chiều dài lịch sử của Đất Nước: Đất Nước có
quá khứ lịch sử lâu đời, lịch sử ấy vẫn đang được nối tiếp bằng cuộc đời của mỗi
người, bằng cuộc đời của chính chúng ta. Để gợi lên chiều dài lịch sử lâu đời của
đất nước, bên cạnh việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, tác giả đã kết hợp với
lớp từ chính luận hết sức đặc sắc và cảm xúc thiêng liêng nhưng hết đỗi chân
thành.
<=> Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống
lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong chiều rộng
của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của
văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy được thể hiện
gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng: Đất Nước của Nhân Dân vẫn là tư
tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
- Từ cách cảm nhận Đất Nước về nguồn cội sinh thành, chiều sâu văn hóa, không gian
địa lí, thời gian lịch sử, nhà thơ đã cho ta thấy hình ảnh Đất Nước gần gũi, thân thuộc, gắn bó
với mỗi người. Không chỉ vậy, trong mười ba câu thơ tiếp theo, tác giả khẳng định: Đất
Nước không chỉ là khách thể tồn tại ở bên ngoài chúng ta mà Đất Nước còn là chủ thể có
trong mỗi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.”
+ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “anh-em” kết hợp với giọng điệu
thủ thỉ, tâm tình đã làm cho hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách đậm đà chất trữ
tình, trở thành câu chuyện tình cảm của đôi lứa.
+ Trong lời trò chuyện thủ thỉ tâm tình ấy, tuổi trẻ Việt Nam (anh-em) đã ý thức được sự
hòa nhập giữa cái tôi – ta, giữa cái riêng – chung qua việc khẳng định: Trong mỗi con người
đều mang một phần của Đất Nước cũng giống như ai cũng có của riêng mình một miền quê để
thương, để nhớ, để tự hào
+ Khi mỗi người đều mang một phần hình hài Đất Nước mà “cầm tay nhau”, “cầm tay mọi
người”, tức là tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu ĐN, « từ chân trời của một người đến với chân
trời của mọi người ». Chúng ta có tinh thần đoàn kết, biết hòa nhập cái tôi – ta, cái riêng –
chung thì hình ảnh Đất Nước sẽ “hài hòa nồng thắm”, “vẹn tròn to lớn”.
+ làm nên hình ảnh Đất Nước toàn vẹn, non sông nối liền một dải thì không thể thiếu đi bất
kì một cá nhân nào, cũng như không thể thiếu đi bất kì một thế hệ nào. Nếu thế hệ cha anh tạo
nên cho Đất Nước một lịch sử lâu đời, nếu chúng ta bây giờ đang tiếp nỗi chiều dài lịch sử ấy
của Đất Nước thì thế hệ con cháu chúng ta – thế hệ tương lai sẽ “mang Đất Nước đi xa”.
=> Qua đây, tác giả muốn nhắn nhủ chúng ta rằng: Để làm nên sự trọn vẹn của Đất Nước
thì không chỉ có sự đoàn kết của mỗi cá nhân trong hiện tại mà còn có sự nối tiếp của các thế hệ
giữa quá khứ - hiện tại – tương lai. Hình ảnh “đi đến những tháng ngày mơ mộng” bộc lộ ước
mơ, khát vọng về tương lai tốt đẹp, Đất Nước hòa bình, thống nhất, đó là những tháng ngày với
niềm tin và hy vọng về những điều tốt đẹp nhất đến với chúng ta, đến với Đất Nước.
+ Từ việc khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với Đất Nước, tác giả đã nêu lên tinh thần
trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
~ Sự dồn nén về cảm xúc của nhà thơ được thể hiện qua lời gọi thiết tha “em ơi em”, qua
điệp từ “phải biết”.
~ Mỗi người chúng ta cần phải có trách nhiệm với Đất Nước vì Đất Nước là máu xương
của mình. Câu thơ vừa mang tính chất khái quát nhưng cũng rất cụ thể. Khái quát ở chỗ hình
ảnh Đất Nước nhìn trên bất kì bình diện nào cũng gắn bó với mỗi người, là chủ thể có trong mỗi
người, đã trở thành một phần máu thịt không thể tách rời. Cụ thể ở chỗ: Để làm nên Đất Nước,
có biết bao thế hệ những con người đã hy sinh vì quê hương, đất nước; tổ tiên, ông bà chúng ta
cũng sinh sống trên mảnh đất này, khi ra đi cũng gửi lại một phần thân xác nơi đây.
~ Trách nhiệm của mỗi người với Đất Nước là “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” thì sẽ “làm
nên Đất Nước muôn đời”.
Đây là những lớp từ chính luận để tác giả nhấn mạnh sự cống hiến, hy sinh vì quê
hương, đất nước cũng chính là hy sinh vì những người thân yêu, vì máu thịt của
mình, vì tổ tiên, ông bà và vì chính bản thân chúng ta.
Tóm lại, trong phần một của đoạn trích Đất Nước (chương V trường ca MĐKV), Nguyễn
Khoa Điềm đã cảm nhận, định nghĩa Đất Nước trên nhiều bình diện khác nhau, thể hiện cái
nhìn tổng hơp, toàn vẹn về Đất Nước.
Qua cảm nhận ấy, tác giả đã làm hiện lên hình ảnh Đất Nước gần gũi, thân thuộc, gắn bó
với mỗi người, góp phần thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Để góp phần thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”, nhà thơ đã sử dụng
chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo.
Văn hóa dân gian là lời ăn tiếng nói của nhân dân, là tư tưởng, tâm hồn, tình cảm
của nhân dân, vì thế việc sử dụng chất liệu văn hóa dân gian với Nguyễn Khoa
Điềm không chỉ đơn thuần là một phương tiện nghệ thuật mà nó còn chứng tỏ ông
thấm nhuần tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
Hình ảnh Đất Nước hiện lên cũng rất mới mẻ, độc đáo:
Đất Nước được định nghĩa, cảm nhận trên nhiều phương diện khác nhau và ở
phương diện nào cũng thấy hình ảnh Đất Nước hiện lên cụ thể, gần gũi với mỗi
người, không hề xa vời, trừu tượng (không gian địa lí được nhìn nhận bằng những
gì thân thuộc nhất, giản dị nhất với mỗi con người chứ không phải những điều khó
tưởng tượng, chiều dài lịch sử của Đất Nước được đo bằng cuộc đời của chính
chúng ta chứ không phải đo bằng những con số,…). Nhà thơ làm nổi bật hình ảnh
Đất Nước mới mẻ, độc đáo qua chất liệu văn hóa dân gian như những điệu hò, câu
hát, truyện cổ tích, truyền thuyết,…
* Không chỉ thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân” một cách gián tiếp qua việc
khắc họa hình ảnh Đất Nước gần gũi, thân thuộc, gắn bó với mỗi người, có trong mỗi
người, tác giả còn tập trung khẳng định trực tiếp: Nhân Dân chính là những người làm
nên Đất Nước trong phần thơ tiếp theo.
- Trước hết, nhà thơ khẳng định Nhân dân chính là những người đã làm nên không
gian địa lí của Đất Nước.
+ Với Nguyễn Khoa Điềm để có được dáng núi hình sông, danh lam thắng cảnh trên khắp
mọi miền Đất Nước là nhờ vào sự đóng góp, sự hóa thân của những cuộc đời, những ước mơ,
khát vọng của Nhân Dân:
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hừng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.”
+ Nguyễn Khoa Điềm khi ngắm dáng núi hình sông trên khắp quê hương, đất nước đã
không nhìn bằng con mắt của những nhà địa lí để thấy những danh lam, thắng cảnh là do thiên
nhiên, tạo hóa ban tặng, do sự kiến tạo của vỏ Trái Đất, những đặc điểm về địa hình trên Đất
Nước Việt nam, mà nhà thơ đã nhìn bằng tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Cho nên mỗi
một danh lam thắng cảnh, dáng núi hình sông, tên đất, tên làng đều là do Nhân Dân đóng góp,
hóa thân mà thành:
~ Sở dĩ có núi Vọng Phu là bởi có biết bao người vợ nhớ chồng qua những cuộc chiến
tranh đến hóa đá mà thành.
~ Ở Thanh Hóa có danh lam mang hình và được gọi tên là hòn Trống Mái là vì có cặp vợ
chồng yêu nhau hóa thân mà thành.
~ Có những ao, đầm là do gót ngựa của Thánh Gióng, chú bé làng Phù Đổng để lại sau
cuộc chiến đấu chống giặc Ân.
~ Ở vùng đất Phong Châu – Phú Thọ có những ngọn núi mang hình những chú voi chầu về
đất Tổ. Đó là sự hóa thân của những người con có hiếu, có lòng trung thành với Đất Nước, với
quê hương.
~ Ngay cả con rồng, một con vật linh thiêng tưởng chừng chỉ có trong truyền thuyết cũng
nằm im để góp cho Đất Nước dòng sông Cửu Long xanh thẳm.
~ Những cậu học trò nghèo bằng ước mơ, khát vọng học hành đã hóa thân để góp cho Đất
Nước núi Bút, non Nghiên. Nếu không có sự đóng góp, hóa thân của những con người bình dị
này thì Đất Nước Việt Nam chúng ta ngày nay khó có thể được thế giới biết đến như bây giờ.
Núi Bút – Non Nghiên => truyền thống hiếu học
~ Ngay cả những con vật bình thường như con cóc, con gà cũng hóa thân để trở thành
những danh lam thắng cảnh tô điểm cho Đất Nước, như hình ảnh Vịnh Hạ Long hay biết bao
danh lam thắng cảnh khác …
~ Những tên đất, tên làng cũng chính là tên của những người đã có những đóng góp cho
quê hương, xứ sở: Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm,… Đó là những con người mà họ đã
sẵn sàng hy sinh bản thân, dùng trí tuệ để khai hoang, lập ấp, để chiến đấu bảo vệ quê hương.
Người đời sau, để ghi nhớ công ơn của họ đã lấy tên của những con người này để đặt tên cho
làng, cho xã như một cách để bày tỏ lòng biết ơn, sự tri ân với thế hệ đi trước.
+ Trong đoạn thơ này, để làm nổi bật vai trò to lớn của Nhân Dân trong việc làm nên
không gian điạ lí Đất Nước, tác giả đã sử dụng những điệp từ “góp”, “những”, điệp cấu trúc
câu,… và phép liệt kê: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên,… để nhấn mạnh vai
trò to lớn của Nhân Dân. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Nhân Dân
đã không tiếc công sức của mình để tạo dựng nên hình ảnh Đất Nước Việt Nam tươi đẹp với
những danh lam thắng cảnh, những miền quê trù phú.
+ Từ đó, những câu thơ tiếp theo, tác giả đã cất lên lời khái quát về công lao, sự đóng góp
của Nhân Dân với Đất Nước:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
~ Tác giả đã đặt cạnh nhau những từ: “ruộng đồng”, “gò bãi” để gợi lên không gian địa lí
của Đất Nước vô cùng rộng lớn.
~ Hình thức câu hỏi tu từ nhưng để khẳng định: Ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi cũng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha.
=> Dấu ấn của Nhân Dân, công lao của Nhân Dân có ở trên khắp mọi miền Đất Nước, quê
hương. Nhìn vào bất kì hình sông thế núi nào cũng là “dáng hình của Nhân Dân”, là sự hóa thân
của những con người bình dị, đâu cũng gợi lên ao ước, khát vọng, ước mơ đẹp đẽ của ông cha
ta về truyền thống hiếu học, khát vọng hạnh phúc,…
=> Đó cũng là lời nhắc nhở về lối sống đã trở thành truyền thống, bản sắc văn hóa riêng
của người Việt Nam. Đó là sự thủy chung, tình yêu thương nồng nàn, là sự hiếu thảo,… Nhà
thơ đã bộc lộ suy nghĩ của mình, để làm nên Đất Nước phải có sự đóng góp, hóa thân của
những cuộc đời, những số phận con người đã “hóa núi sông ta
 Nguyền Khoa Điềm đã nêu lên lời khẳng định vai trò, công lao vô cùng to lớn của Nhân
dân trong việc làm nên không gian địa lí của Đất Nước, bằng nghệ thuật điệp từ, liệt kê, chất
liệu văn hóa dân gian được thể hiện ở chỗ: mỗi một ý thơ đều lấp lánh những câu chuyện cổ
tích, những huyền thoại, truyền thuyết: sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng,
truyền thuyết về các vua Hùng, sự tích hòn Trống Mái, sự tích về núi Bà Đen.
những lớp từ chính luận: dáng hình, ao ước, Đất Nước bốn nghìn năm,…đã cho ta thấy sự
dồn nén cảm xúc của nhà thơ ở những câu thơ cuối.
- Nhân Dân không chỉ làm nên những dáng núi, hình sông, những danh lam thắng
cảnh mà Nhân Dân còn làm nên chiều dài lịch sử cho Đất Nước:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh.”
+ Trong đoạn thơ này nhà thơ đã sử dụng một con số mang tính ước lệ để gợi lên chiều dài
lịch sử của Đất Nước: Đất Nước đã có bề dày, có chiều dài lịch sử bốn nghìn năm, đó là một bề
dày lịch sử thật đáng tự hào.
+ Để làm nên chiều dài lịch sử đó phải kể đến công lao đóng góp của Nhân Dân.
~ Những từ ngữ, hình ảnh “con gái, con trai bằng tuổi chúng ta”, “người người lớp lớp” gợi
lên một cộng đồng, một tập thể vô cùng đôg đảo, hùng hậu, không phân biệt già – trẻ, gái – trai,
… đó chính là Nhân Dân bao đời.
~ Khi Đất Nước hòa bình, Nhân Dân chính là người “cần cù làm lụng” để xây dựng quê
hương
~ Nhưng khi Đất Nước có chiến tranh, cũng chính Nhân Dân đã sẵn sàng chiến đấu, hy
sinh để bảo vệ tổ quốc:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con”.
Vai trò của nam giới với lịch sử đất nước được khẳng định trước hết trong
việc chiến chinh, sẵn sàng đối đầu với kẻ thù nguy hiển để bảo vệ quê hương, bảo
vệ gia đình. Còn người phụ nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ sẽ trở thành hậu
phương vững chắc, trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những người lính
ngoài tiền phương. Thế nhưng trong tình thế nguy cấp của Đất Nước thì ngay cả
“đàn bà cũng đánh” mỗi khi “giặc đến nhà”. Người phụ nữa Việt Nam vẫn khẳng
định vai trò của mình với Đất Nước, với quốc gia. Họ không còn chỉ là những
người biết « tề gia nội trợ » mà họ sẵn sàng xông pha lên mặt trận, có nhiều người
phụ nữ đã trở thành anh hùng. Trong lịch sử ghi lại biết bao tấm gương về những
người phụ nữ anh hùng như: Bà Trưng, Bà Triệu, chị Võ Thị Sáu, chị Trần Thị Lý,

+ Với Nguyễn Khoa Điềm, trong quá trình khẳng định vai trò của nhân dân trong việc làm
nên lịch sử Đất Nước, tác giả cũng không phủ nhận những công lao của những vị anh hùng kiệt
xuất, những con người đã được ghi danh vào sử sách, những người anh hùng mà “cả anh và em
đều nhớ”.
+ NKĐ đặc biệt ngợi ca và đề cao công lao của những người anh hùng vô danh :
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
=> Nhà thơ đã khẳng định: Nhân dân bao đời nay vẫn hy sinh thầm lặng để xây dựng và
bảo vệ Đất Nước.
~ Những cụm từ: “biết bao”, “bốn nghìn lớp người”, đã gợi lên hình ảnh của nhân dân
không chỉ đông đảo, hùng hậu mà đó còn là những con người bền bỉ, kiên trì vượt qua bao
nhiêu khó khăn, biết bao thăng trầm của lịch sử để chiến đấu, bảo vệ đất nước, bảo vệ quê
hương.
~ Nhân dân, những người anh hùng vô danh ấy cả khi “sống” và khi “chết” đều “giản dị và
bình tâm”, họ lặng lẽ, âm thầm lao động, cống hiến, chiến đấu, hy sinh vì Đất Nước với một
tâm thế tự nguyện, thanh thản. Họ hy sinh vì quê hương, Đất Nước mà không mong được ghi
tên vào sử sách, được ghi tên vào bia đá, bảng vàng mà với nhân dân, chiến đấu hy sinh để bảo
vệ nền độc lập tự do của Đất Nước, làm nên chiều dài lịch sử dân tộc.
+ Câu thơ “Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” là lời khẳng định chắc nịch về vai trò to lớn của
nhân dân, thể hiện lòng biết ơn, sự khâm phục, ngưỡng mộ của nhà thơ dành cho những người
anh hùng vô danh, dành cho Nhân Dân.
+ Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã không sử dụng chất liệu văn hóa dân gian mà thay vào
đó là những từ ngữ mang màu sắc chính luận như “Đất Nước”, “anh hùng”,….kết hợp với
những điệp từ, câu thơ viết theo kiểu vắt dòng, với giọng điệu hào hùng, trang trọng nhưng
cũng tràn đầy cảm xúc.
 Từ đây, chúng ta càng thấy rõ vai trò của nhân dân trong việc làm nên chiều dài Đất
Nước, từ lúc hòa bình, nhân dân làm lụng, lao động để xây dựng Đất Nước; khi chiến tranh,
nhân dân chiến đấu để bảo vệ Đất Nước; bên cạnh đó, tác giả không phủ nhận công lao của
những anh hùng nổi tiếng nhưng ông đặc biệt ngợi ca công lao của những nhân dân – những
anh hùng vô danh. Đó cũng là điểm mới mẻ, độc đáo trong đoạn thơ này.
- Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc muốn khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, ngoài
việc khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, yếu tố vô cùng quan trọng là phải có bản sắc văn
hóa riêng. Nhân dân ta trong quá trình lao động, chiến đấu để xây dựng và bảo vệ tổ quốc
đã không ngừng sáng tạo ra biết bao những giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa
tinh thần cho Đất Nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
+ Trong lao động, nhân dân ta đã sáng tạo, lưu giữ và lưu truyền rất nhiều những giá trị
văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần cho Đất Nước.
~ Hạt lúa
là giá trị văn hóa thể hiện đời sống vật chất không thể thiếu, là bữa cơm, là hạt
gạo đã nuôi lớn con người Việt Nam biết bao đời nay. Hạt lúa còn là hình ảnh gợi
lên nét đặc sắc của nền nông nghiệp, nền văn minh lúa nước của người Việt Nam
từ thói quen sản xuất, lao động, cấy lúa, là lương thực, thực phẩm chính, hạt gạo
phải một năng hai sương xay, giã, dần, sàng.
~ Con người trong lao động cũng đã phát hiện ra lửa, sử dụng lửa trong đời sống sinh hoạt,
lao động… đó là một bước ngoặt trong nền văn minh loài người cũng như văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm cũng tự hào khi Nhân Dân ta hòa mình vào trong nền văn minh nhân loại,
Hình ảnh « chuyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi » còn gợi lên lối sống tình nghĩa
“tối lửa tắt đèn có nhau” của người Việt Nam.
=> Hình ảnh của hạt lúa, ngọn lửa là những giá trị văn hóa vật chất thiết yếu
trong đời sống của con người Việt Nam bao đời. Nhưng ẩn sâu trong những giá trị
văn hóa vật chất đó là sự kết tinh của những giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống,
đạo lí, lối sống của con người Việt Nam được hình thành trong lao động.
~ Nhân dân cũng chính là những người lưu giữ và lưu truyền giọng nói, giọng điệu
ngôn ngữ, tiếng nói của người Việt. Tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ là một trong những
yếu tố văn hóa tinh thần mà làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Người
lưu truyền không ai khác là nhân dân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân
dân. Tiếng Việt có sức sống kì diệu từ nhân dân, trải qua biết bao cuộc đô hộ, biết
bao thời kì khó khăn, bị đồng hóa dân tộc nhưng tiếng Việt vẫn còn được lưu
truyền đến tận ngày hôm nay, nó là linh hồn của dân tộc. Câu thơ cũng giúp chúng
ta hình dung được sự giản dị, cũng hết sức chân thật trong cách lưu truyền, đồng
thời gợi ra khung cảnh của gia đình truyền thống của người Việt Nam rất đầm ấm,
hạnh phúc; những người cha, người mẹ đang dạy con tập nói, đang dang tay đỡ
con trong những bước đi chập chững đầu đời.
~ Nhân dân, trong quá trình khai khẩn bờ cõi, trong quá trình di dân lập ấp đã gánh theo
tên xã, tên làng,
hay chính họ đã mang theo nếp sống, những phong tục tập quán của quê hương
mình đến những vùng đất mới để lưu giữ những văn hóa ấy.
~ Nhân dân cũng chính là những người “đắp đập be bờ”, tạo nên những miền quê trù phú,
những khu vườn đầy hoa thơm trái ngọt để dành cho con cháu đời sau. Câu thơ còn gợi lên lối
sống, truyền thống đạo lí của con người Việt Nam đó là “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ
kẻ trồng cây”….
+ Trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, nhân dân cũng đã hình thành và truyền lại cho
con cháu đời sau tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu chuộng tự do, hòa bình:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Trong tư tưởng của nhà thơ, Nhân Dân chính là những người đã làm nên không gian địa
lí của Đất Nước, làm nên chiều dài thời gian lịch sử, chiều sâu văn hóa cho Đất Nước. Để làm
nổi bật tư tưởng ấy, nhà thơ đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian một cách sáng tạo, khéo léo,
điệp từ “họ” được lặp đi lặp lại, đặt ở đầu mỗi câu thơ nhằm nhấn mạnh vai trò, công lao to lớn
của nhân dân, phép liệt kê được dùng để cho thấy những giá trị văn hóa nhân dân sáng tạo nên
là vô cùng phong phú, đa dạng.
+ Hai câu thơ tiếp theo, tác giả đã khái quát, khẳng định trực tiếp tư tưởng “Đất Nước của
Nhân Dân”:
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
~ Nguyễn Khoa Điềm kết hợp giữa biện pháp điệp nối tiếp “Để Đất Nước này là Đất Nước
Nhân dân - Đất Nước của Nhân dân…” và những từ chính luận như “Đất Nước”, “ Nhân dân”
luôn được viết hoa một cách trang trọng để nhấn mạnh vào tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.
~ Ở vế thứ hai của cặp câu thơ, tác giả có sự lặp lại theo chiều tăng tiến, nhấn mạnh hơn,
khẳng định một cách sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân bằng cụm từ “Đất Nước của ca
dao thần thoại”.
Ca dao thần thoại là sáng tác của nhân dân, được nhân dân lưu truyền, lưu giữ.
Đó cũng là tấm gương phản chiếu đời sống tâm hồn, tình cảm, trí tuệ của Nhân
dân. Hình ảnh Đất Nước cũng được lưu giữ ở ca dao thần thoại: sự tích trầu cau,
An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, …
+ Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang
trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải nhờ đến “Một
mối xa thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống
từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, Nguyền Khoa Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm
cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi người dân trong đất nước này:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.”
Trong đoạn thơ này, tác giả đã lấy ý từ những câu ca dao dân ca quen thuộc để
cho chúng ta thấy trong ca dao thần thoại đã lưu giữ “điệu hồn của dân tộc”. Cho
đến nay nó vẫn là những bài học quý giá mà nhân dân bao đời để lại.
~ Qua ca dao thần thoại, ta thấy người Việt Nam là những con người biết yêu thương nồng
nàn, đắm say, câu thơ “Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”” được lấy ý từ bài ca dao quen
thuộc:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
~ Người Việt Nam là những con người biết quý trọng tình nghĩa hơn bất cứ thứ của cải vật
chất nào:
“Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
~ Người Việt Nam cũng là người có lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, kiên trì,
bền bỉ:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Ca dao “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què”.
~ Người Việt ta là những người lạc quan, yêu lao động, yêu đời:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Trên bất kì những dòng sông nào ở đất nước Việt Nam đều gắn liền với những điệu hò, câu
hát như hò trèo thuyền, hò kéo lưới,… Điều này cho ta thấy được tâm hồn yêu đời, yêu lao động
của nhân dân ta. Đây là những phẩm chất, bản sắc văn hóa dân tộc độc đáo của người Việt.
Những phẩm chất đáng quý, đặc sắc, những nét văn hóa tươi đẹp được lưu truyền bằng ca dao
thần thoại.
 Qua đoạn trích, tác giả khắc họa hình tượng Đất Nước vô cùng mới mẻ, độc đáo.
Tác giả tập trung khẳng định và nhấn mạnh vào tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
Không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà tư tưởng này đã có một quá
trình lâu dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Đó là từ tác phẩm “Bình
Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã sáng tác với mục đích cốt để yên dân, để chống giặc
Minh:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Hay trong tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, ông
đã ca ngợi những anh hùng giữ nước là những người nông dân nghĩa sĩ “cui cút
làm ăn, toan lo nghèo khó”…. Trong bài thơ “Đất Nước”- Nguyễn Đình Thi đã
ngợi ca hình ảnh Đất Nước của những anh hùng áo vải:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
Đó là trong lịch sử văn học, còn ngay cả trong lịch sử tư tưởng, chúng ta đã
từng bắt gặp những quan niệm đề cao vai trò của nhân dân đối với Đất Nước. Tư
tưởng của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh với những quan niệm như “dĩ dân vi bản”
hay “dân là dân nước, nước là nước dân”.
Cái mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm trong hình tượng Đất Nước cũng như trong
việc thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là ở chỗ : Hình tượng Đất Nước được cảm
nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện, tác giả đã khẳng định, ngợi ca công lao
to lớn của Nhân dân trong việc làm nên, đóng góp, sáng tạo nên tất cả những phương diện,
những bình diện của Đất Nước, điều đó làm nổi bật lên vai trò của Nhân dân đối với Đất Nước
được cụ thể hóa, được khẳng định trực tiếp vì Nhân dân đã làm nên lịch sử, địa lí, văn hóa,…
Không chỉ có thế, xét trên phương diện nghệ thuật, sự sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm để làm
nổi bật tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” là dùng chính lời ăn tiếng nói hằng ngày, sử dụng
chất liệu văn hóa dân gian để khẳng định các phương diện của Đất Nước. Qua đây, tác gỉa đã
làm nên một khúc ca có giai điệu riêng để hòa vào bản hợp xướng hào hùng về Đất Nước, về tổ
quốc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói riêng và văn học Việt Nam nói chung,
nhất là đề tài viết về tổ quốc, về đất nước.
 Đoạn trích “Đất Nước” trích trong Trường ca Mặt đường khát vọng vừa là một thành
công nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm, đồng thời cũng là một tiếng nói góp phần không nhỏ
vào sự cổ vũ, động viên tinh thần đấu tranh của Nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
trường kì. Đoạn trích cũng như tác phẩm đã tạo ra những rung động âm vang trong lòng người
đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành, sự trải nghiệm của bản thân, những suy tư sâu lắng
của nhà thơ cũng như cả thế hệ trẻ đương thời đối với đất nước, góp thêm một thành công cho
dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước, về nhân dân, bằng
tiếng nói đậm đà chất dân gian là vẻ đẹp riêng của chương thơ, tạo nên ấn tượng trong lòng bạn
đọc nhiều thế hệ. Cho đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn tìm thấy nhiều bài học cho bản thân
mình.
KẾT BÀI
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất
nước . Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu
tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc “Đất Nước” của Nguyễn Khoa
Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn Đất Nước mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con
người Việt Nam trong mọi thời đại.
----------------------------------------------------------

SÓNG (Xuân Quỳnh)


1. Vài nét về tác giả:
- Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu
tử
- Đặc điểm hồn thơ: tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc đời
thường, bình dị, nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu.
2. Bài thơ “Sóng”
* Hoàn cảnh sáng tác
Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi
Sóng ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu
cho hồn thơ và phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào
(1968).
* Âm điệu, nhịp điệu của bài thơ
- Âm điệu bài thơ Sóng là âm điệu, của những con sóng ngoài biển khơi, lúc ào ạt, dữ dội
lúc nhẹ nhàng, khoan thai. Âm điệu đó được tạo nên bởi: Thể ngũ ngôn với những câu thơ được
ngắt nhịp linh hoạt.
- Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” - lúc phân tách, soi chiếu vào nhau, lúc nhập
hòa làm một trong một cái tôi trữ tình duy nhất là Xuân Quỳnh.
3. PHÂN TÍCH BÀI THƠ
Mở bài:
C1: Tình yêu là đề tài muôn thủa của VHNT, là nguồn cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ
thiết tha với đời, với người. Có thể nói rằng, từ khi có con người thì đã có tình yêu và con người
còn tồn tại thì tình yêu còn bất diệt. Lịch sử thơ ca nhân loại từ xưa đến nay đã có biết bao
nhiêu bài thơ tình nổi tiếng ca ngợi tình yêu của con người – những tuyệt phẩm ấy đã từng làm
xúc động biết bao thế hệ. ở VN, những năm kháng chiến chống Mỹ, tuy phạm vi thơ ca chủ yếu
mở rộng về phía những tình cảm lớn như tình yêu tổ quốc, đất nước, nhân dân, cách mạng…
nhưng thơ ca vẫn dành một khoảng nhất định cho tình cảm riêng tư. Nhiều bài thơ ca ngợi tình
yêu nam nữ ra đời trong thời kỳ này còn mãi làm xúc động trái tim bạn đọc. “Sóng” của XQ –
một nhà thơ nữ tài hoa- là một bài thơ như thế.
Thân bài:
1. GTC:
- (hoàn cảnh ra đời)
- Bài thơ có hai hình tượng sóng và em sóng đôi nhau. Hình ảnh sóng trước hết là một sự
vật thiên nhiên, là sóng biển. Bên cạnh đó, sóng còn mang nghĩa biểu tượng, là sóng tình yêu
trong biển khơi tâm hồn của người phụ nữ. Tác giả mượn sóng để nói lên những cung bậc cảm
xúc trong lòng người con giá đang yêu. Hình tượng em là sự hóa thân của cái tôi XQ. Nữ sĩ trải
lòng mình lên những trang thơ, giãi bày những cmar xúc, suy tư trong tình yêu. Sóng và em
2. Phân tích
* Khổ 1: => miểu tả sóng vừa chân thực, cụ thể, vừa tiềm tàng những nét nghĩa ẩn dụ
gợi sự liên tưởng sâu sa, tinh tế tới cảm xúc tình yêu của người phụ nữ:
- Mở đầu bài thơ, Xuân Quỳnh đã miêu tả những trạng thái thật trái ngược của sóng:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ.
+ Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi: lúc biển động
phong ba, sóng dữ dội, ồn ào; khi trời yên bể lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ.
~ Hai câu thơ có tới 4 tính từ mang sắc thái tương phản cả về ngữ âm và ngữ nghĩa đã miêu
tả những trạng thái khác nhau – gợi sự thất thường muôn đời của sóng
~ giữa các cặp từ tương phản là từ “và” cho thấy đại dương mênh mông vỗn luôn hàm
chứa, luôn tồn tại đồng thời những trạng thái đối lập, những thay đổi đột ngột, bất ngờ (khi dữ
dội, lúc dịu êm…) => Những đối cực ấy đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo trước nhưng nhiều lúc
cũng khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
=> Mượn hình tượng sóng, người phụ nữ đang yêu trong bài thơ đang tự nhận thức về
những biến động trong lòng mình, đang chân thành bộc bạch mà không hề giấu giếm những trạng
thái tâm lí, tình cảm: vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn đang khao khát yêu đương:
lúc giận dữ, hờn ghen, khi dịu hiền, sâu lắng, lúc nhớ nhung mong ngóng - giận dỗi; khi vui, lúc
buồn, khi mãnh liệt sôi nổi, lúc dịu dàng đằm thắm, khi gần gũi như những con sóng âu yếm vỗ
bờ - lúc lại xa xôi như những con sóng rời bờ, tít tắp ngoài khơi…
=> tình yêu là vậy, nó vốn mang trong mình nhiều đối cực, mâu thuẫn; nhưng đó là những
mâu thuẫn trong thống nhất bởi tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của một trái tim yêu chân
thành, mãnh liệt.
=> trái tim người con gái khi yêu vốn rất nhạy cảm, rất dễ bị tổn thương
=> Cấu trúc của hai câu thơ cũng bộc lộ tinh tế nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu: sau
những dữ dội ồn ào, cả hai câu đều kết lại bằng trạng thái dịu êm, lặng lẽ => người phụ nữ có thể
buồn vui thất thường, có thể có những biểu hiện phức tạp tới khó hiểu trong tình yêu, nhưng điều
cuối cùng họ khao khát hướng tới vẫn là cảm giác bình yên.
+ Tiếp đó, sóng hiện lên thật mạnh mẽ trong hành động vượt thoát khỏi giới hạn chật hẹp
và thiếu sự đồng cảm (Sông không hiểu nổi mình) để đến với biển rộng bao la, đến với môi
trường đích thực của nó.
“Sông” – có 2 cách hiểu trong mối quan hệ với sóng:
(1): Sông là chủ thể, là đối tượng cụ thể => ý thơ là một sự tuyên bố mạnh mẽ và kiên
quyết: nếu sông không hiểu nổi những khát vọng mãnh liệt của mình thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi
chật hẹp, từ bỏ một không gian có thể là quen thuộc, bình yên, tìm ra tận bể - nơi có sự đồng cảm
lớn lao, nơi có thể tìm thấy một tình yêu đích thực.
(2) “sông” là trạng ngữ chỉ không gian, nơi chốn, sông là bối cảnh, là hoàn cảnh sống, một
yếu tố thường có sức chi phối mạnh mẽ tời tâm hồn và tính cách con người => ý thơ thể hiện sự
cố gắng không mệt mỏi của sóng để được sống đúng với bản ngã của mình: giới hạn của sông
làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không thực sự là mình – không được thỏa sức
vẫy vùng, không hiểu nổi mình, không nhận ra mình. Sóng tìm ra bể lớn để thỏa sức vẫy vùng, để
là chính mình giữa đại dương mênh mông, phóng khoáng, để có thể nhận thức được sức mạnh và
những khát khao của mình trong những mãnh liệt của đam mê
=> sóng không còn là sóng trong những giới hạn chật hẹp thì tình yêu cũng không còn là
tình yêu nếu bị ràng buộc, bị chi phối bởi những điều kiện
=> người phụ nữ không chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, họ luôn khát khao khám phá
chính mình trong tình yêu, khao khát một tình yêu lớn lao, khao khát được giải phóng mọi giới
hạn để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu
=> Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã đến với tình yêu
một cách đầy tự tin và chủ động. Con người ấy thật minh bạch và quyết liệt trong khát vọng tìm
đến một tâm hồn đồng điệu, có thể thấu hiểu, sẻ chia, tìm đến một khung trời tình yêu cao cả, bao
dung.
2. Khổ 2: Từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả một quy luật muôn thuở của
tình yêu: Tình yêu gắn liền với tuổi trẻ, tuổi trẻ luôn khát khao yêu đương:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- nếu ở khổ 1, sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ 2, sóng được soi chiếu trong
thời gian
+ sóng được đặt giữa ngày xưa và ngày sau – những khái niệm chỉ thời gian và ý nghĩa
khẳng định của cụm từ “vẫn thế” đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng ->
+ “vẫn thế” => hàng ngàn năm, hàng triệu năm qua, những con sóng ngoài biển khơi vẫn
cất lên những bài ca bất tử. Nó vẫn là nó, vẫn “ru mãi ngàn năm” như bản tình ca của biển. Từ
ngày xưa khi chưa có mình, sóng đã xôn xao, cồn cào như thế; ngàn năm sau khi ta tan biến vào
hư vô, sóng vẫn vỗ về rạo rực thế kia, vẫn vừa dữ đội vừa dịu êm, vẫn từ sông ra biển để được là
mình...
- Cũng như sóng, khát vọng tình yêu mãi mãi là một khát khao cháy bỏng, bồi hồi trong
trái tim con người, nhất là tuổi trẻ.
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
+ trong cảm nhận của người phụ nữ đang yêu khi đứng trước đại dương, mặt biển giống
như vồng ngực trẻ trung, cường tráng của trời đất, sóng tựa nhịp thở phập phồng mang khát vọng
tình yêu bồi hồi trong ngực biển => biển tựa như người, sóng giống như nhịp đập của trái tim yêu
đương, còn biển thì còn sóng, còn con người thì còn khát vọng tình yêu
+ Bao nhiêu thế kỉ qua, con người đã đến với tình yêu, đã sống mà không thể thiếu tình yêu
và sẽ còn yêu chừng nào còn tồn tại; khát vọng tình yêu là khát vọng vĩnh hằng của con người và
mãnh liệt nhất của tuổi trẻ
=> Từ trải nghiệm của bản thân, Xuân Quỳnh khẳng định một chân lí: Khát vọng tình yêu
là vĩnh viễn. Nó không chỉ thường trực trong tâm hồn con người, đặc biệt là tuổi trẻ, mà còn
khiến người ta trẻ lại, tái sinh như con sóng biển ào lên rồi lại tan ra hòa nhập vào biển cả mãi
mãi.
3. Khổ 3: Bằng hình tượng Sóng, Xuân Quỳnh diễn tả sự băn khoăn, trăn trở của con
người với tình yêu, con người khi yêu: Tình yêu là gì mà lại khiến con người luôn khao khát như
thế?
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
- Khổ thơ gợi hình ảnh một người con gái một mình trước biển suy tư:
+ khi đứng trước cái vô biên, người ta thường quên đi những cái nhỏ nhặt tầm thường,
những lo toan vặt vãnh mà chỉ nghĩ đến những gì lớn lao cao cả: nghĩ về biển lớn, về tình yêu...
=> tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng, rất đặc biệt của con người, (biển là điều
huyền diệu lớn lao hiện hữu trước mắt, thì tình yêu là điều lớn lao, huyền diệu hiện hữu, thường
trực ở trong lòng); tình yêu thường phát triên theo những quy luật chung của cuộc sống và quy
luật riêng của tình cảm lứa đôi. Trước khát vọng tình yêu mãnh liệt, trước sự kì diệu của tình yêu
con người thường có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong lòng nó và luôn muốn
cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu
+ Nhu cầu lý giải, cắt nghĩa thể hiện ở những suy tư sâu lắng “em nghĩ” + nhịp thơ =>
những phút giây tâm hồn lắng lại để ngẫm nghĩ, lý giải, truy tìm nguồn gốc của tình yêu, cảm xúc
hiện hữu, thường trực trong lòng.
- Suy ngẫm ấy còn hiện lên qua những câu hỏi về sóng, về gió:
“Từ nơi nào... nữa”
+ những câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô đến vô cùng, miên man
không dứt:
~ câu hỏi đầu tiên về sóng => lời đáp dễ dàng, chóng vánh “sóng bắt đầu...” => cách lý giải
đầy trực cảm, hồn nhiên
~ câu hỏi thứ 2 riết ráo, lý trí, muốn đẩy những băn khoăn lên đến tận cùng “gió .. đâu” =>
không có câu trả lời => thế giới tự nhiên có muôn vàn những điều bí ẩn
+ sau cùng là câu hỏi muôn đời “Khi nào ta yêu nhau” => câu trả lời “không biết nữa”
=> cả gió và tình yêu đều bí ẩn và kì lạ, đều không thể cắt nghĩa – đều không có lý lẽ, hay
quy luật, nếu có thì cũng là quy luật riêng của trời đất, lý lẽ riêng của tình yêu. Em không biết gió
có từ đâu, em không biết những xao xuyến của trời đất có từ bao giờ, cũng như em không biết khi
nào ta yêu nhau, càng không thể cắt nghĩa vì sao ta yêu nhau.
=> đây cũng là một quy luật phổ biến trong tình yêu: trực cảm thường đến trước lý trí,
thậm chí nhanh hơn lý trí, dẫn dắt lý trí => đó cũng là nét hấp dẫn của tình yêu: khi con người
không thể lý giải nổi tình yêu của mình thì chính là lúc họ đang sống thật nhất với những cảm xúc
vô tư, chân thành của tình yêu
+ Cấu trúc đảo trong 2 câu thơ cuối của khổ thơ: đáp trước- hỏi sau khiến câu trả lời duyên
dáng như một nụ cười vừa bối rối, vừa hạnh phúc; bỗi rối vì sự bất lực của lý trí và hạnh phúc khi
nhận ra một điều kì diệu: tình yêu đích thực không cần một lý do nào, tình yêu lớn lao hơn mọi
thứ lý trí trên đời; tình yêu hồn nhiên giản dị mà mãnh liệt, như sóng, như gió, như thiên nhiên
muôn đời bí ẩn, như một lẽ tự nhiên huyền diệu của đất trời.
4. Khổ 5, 6, 7:
* Khổ 5: Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Bằng việc khai thác trạng thái đa dạng, đối
lập của hình tượng Sóng, tác giả đã diễn tả nỗi nhớ cồn cào, khắc khoải của người phụ nữ khi yêu
:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ .
Ngày đêm không ngủ được.
Lòng em nghĩ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
- 4 câu đầu là hình ảnh của sóng trong cả không gian và thời gian:
+ điệp từ “con sóng”, hình ảnh đối lập: mặt nước- lòng sâu, ngày – đêm =>khắc họa hình
ảnh những con sóng hăm hở trào dâng, xô bờ, nhịp điệu câu thơ dồn dập=> nhịp điệu sóng, nhớ
cồn cào
+ sử dụng nghệ thuật nhân hóa, đó là những con sóng đang nhớ bờ cồn cào, mãnh liệt; đó
là những con sóng vì nhớ bờ mà thao thức, ngày đêm ào ạt vỗ bờ như không cần biết đến thời
gian.
=> Nỗi nhớ ấy đầy ắp không gian, dù dưới lòng sâu hay trên mặt nước, nỗi nhớ ấy tràn
ngập thời gian dù là ngày hay đêm
=> XQ mượn hình tượng sóng diễn tả được nhiều cung bậc cảm xúc của nỗi nhớ trong trái
tim của người con gái khi yêu: “con sóng dưới lòng sâu” – nỗi nhớ âm ỉ, da diết; “con sóng trên
mặt nước”- nỗi nhớ cồn cào mãnh liệt; đo đếm bằng chiều dài của thời gian, nỗi nhớ từ ngày vào
đêm; nỗi nhớ bao trùm cả không gian và thời gian
- Thực ra, chỉ cần ý nghĩa nhân hóa trong hình ảnh con sóng nhớ bờ, khổ thơ đã có thể gợi
ra nỗi nhớ cồn cào, da diết của tình yêu. Nhưng hình như khi muốn bộc lộ nỗi nhớ của người phụ
nữ đang yêu, trạng thái cảm xúc đặc biệt này không đựng vừa trong hình tượng sóng qua tầng
nghĩa ẩn dụ, cho nên XQ đã kéo dài khổ thơ => khổ thơ đặc biệt gồm 6 dòng thơ, vượt ra khỏi
những khuôn khổ, mực thước thông thường; nỗi nhớ còn được bộc lộ trực tiếp:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
+ hai câu thơ trước hết là nỗi nhớ trong nét nghĩa tương đồng với hình tượng sóng:
~ sóng vỗ bờ cả ngày và đêm, sóng nhớ bờ từ ngày vào đêm, em cũng nhớ anh mọi lúc,
mọi nơi; nếu sóng vì nhớ bờ mà ngày đêm không ngủ được thì em vì nhớ anh mà thức cả trong

~ nếu nỗi nhớ của sóng bao trùm, chế ngự cả cái không cùng của không gian và thời gian
thì nỗi nhớ của em với anh lại xâm chiếm toàn bộ thế giới vô biên của tâm hồn; “lòng em nhớ” –
lòng => nơi sâu thẳm nhất=> nỗi nhớ sâu sắc, chân thành, phơi trải lòng mình không dấu
diếm... – cách sử dụng từ ngữ tinh tế
+ nỗi nhớ còn được bộc lộ sâu sắc, tinh tế, độc đáo qua diễn đạt “trong mơ còn thức”.
“Mơ” – trạng thái mộng mị của con người trong giấc ngủ; “trong mơ... thức” – nỗi nhớ vẹn
nguyên thức tỉnh, chưa một giây phút nào mộng mị, phôi phai => nỗi nhớ thành tiềm thức
+ Tuy nhiên trạng thái “trong mơ còn thức” không chỉ là nỗi nhớ, đó dường như là những
dự cảm lo âu của một trái tim phụ nữ luôn khát khao tình yêu và hạnh phúc nhưng lại có quá
nhiều những trải nghiệm đắng cay, một trái tim từng bầm dập đau đớn vì những tổn thương mất
mát trong tình yêu cho nên luôn lo sợ
=> do vậy, người phụ nữ đang yêu mà “cả trong mơ còn thức” thì thức không chỉ để nhớ
tới anh, thức còn để trông giữ tình yêu, để tình yêu không tuột khỏi tầm tay.
=> Trăn trở, âu lo, bất ổn luôn là nét ám ảnh quen thuộc trong hồn thơ XQ, cũng là nét
riêng tạo nên cái mong manh xa xót cho tình yêu
=> như vậy trong khổ 5, nhà thơ đã thông qua sóng để thể hiện cả nỗi nhớ và những dự
cảm lo âu của một trái tim luôn đầy ắp tình yêu cùng những trải nghiệm cay đắng.
=> người phụ nữ có một tình yêu mãnh liệt, táo bạo tỏ bày – nét đẹp rất hiện đại
- Khổ 6: sự thủy chung son sắt trong tình yêu
C/Y: qua việc thể hiện nỗi nhớ ở khổ 5, nhà thơ đã khẳng định tình yêu đích thực, mãnh
liệt không phụ thuộc vào thời gian ngày đêm- thức ngủ, sự khẳng định tình yêu ấy ở khổ 6 lại tiếp
tục với phẩm chất thủy chung, son sắt:
+ hai câu thơ đầu:
Dẫu xuôi
Dẫu
Hai câu thơ đã nói lên được những khó khăn, trắc trở mà con người có thể gặp trong
cuộc đời, trong tình yêu:
~ hình ảnh “phương Bắc- Nam” gợi những không gian xa xôi, cách trở, những không
gian thường được lấy làm biểu tượng cho sự xa cách trong tình yêu, cuộc đời:
Vừa thoáng tiếng còi tàu
Lòng đã Nam đã Bắc
~ Các động từ - cặp từ đối lập: xuôi, ngược => lại thể hiện những vất vả, gian khó, truân
chuyên...
=> XQ có cách diễn đạt lạ so với cách nói thông thường: người ta thường nói ngược bắc
xuôi nam => XQ lại nói xuôi bắc ngược nam – sự khác biệt này hình như đã hé mở những éo le,
trắc trở có thể xuất hiện trong tình yêu nói chung, trong tình yêu của nữ sĩ nói riêng; điệp cú pháp
ở hai câu đầu làm đậm thêm những éo le, những xa xôi, cách trở
~ Nhưng từ “dẫu” điệp lại ở đầu 2 câu thơ lại khẳng định bản lĩnh kiên cường của người
phụ nữ, không sợ, sẽ vượt qua khó khăn...
=> với XQ, khó khăn trong tình yêu không chỉ là những gian truân, vất vả mà còn là những
trắc trở, éo le. Ý thơ của XQ có lẽ còn hàm chứa: không dễ dàng gì để tới được bến bờ của
hạnh phúc, nhưng khi con người có thể vượt qua những thử thách, khó khăn thì tình yêu lại càng
bền vững, bến bờ hạnh phúc của tình yêu sẽ lại càng thêm quý giá.
=> XQ đã cho thấy một quan niệm rất đẹp về tình yêu: tình yêu đích thực không phụ thuộc
vào không gian Nam, Bắc, những phương hướng ngược xuôi, trái tim chỉ biết yêu thương mà
không bận tâm đến những logic, những khó khăn trắc trở của cuộc đời, có thể vượt qua không
gian, thời gian để gìn giữ tình yêu
+ hai câu sau => bản lĩnh trọn vẹn của người phụ nữ trong tình yêu, đó là sự thủy chung,
son sắt, bất chấp mọi thử thách, khó khăn, trắc trở:
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
~ nhà thơ sử dụng các cặp từ đối lập: nơi nào- một phương => người phụ nữ son sắt, thủy
chung chỉ duy nhất hướng về phương anh, phương có người yêu dấu- giữa cuộc đời rộng lớn,
giữa vũ trụ bao la, anh là bến bờ hạnh phúc duy nhất để lòng em hướng tìm.
=> nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu khiến vũ trụ không còn Nam Bắc Đông Tây
mà như được chia đôi: phương trời có anh đẹp đẽ, ấm áp, tươi sáng; mọi phương không có anh
đều trở nên lạnh lẽo, u buồn
~ nếu ở khổ 5, nhà thơ bộc lộ nỗi nhớ nồng nàn, sâu đậm trong tình yêu, thì ở khổ 6, sắc
thái cảm xúc cơ bản vẫn là nỗi nhớ khi người phụ nữ một lòng chung thủy, tha thiết hướng về
anh, nhưng thay cho từ “nhớ” là “nghĩ” – trong nghĩ có cả yêu thương, cả mong nhớ, cả trăn trở,
âu lo, cả giận hờn, buồn bã...
=> không chỉ là nỗi nhớ bất chợt, anh đã trở thành ý nghĩ luôn canh cánh, thường trực
trong lòng em; nếu “nhớ” là xúc cảm tự nhiên, cảm tính, thì “nghĩ” là tình cảm lâu bền lắng đọng,
những suy tư sâu sắc, chín chắn...
=> những khát vọng tình yêu sôi nổi, cháy bỏng được bày tỏ vừa mạnh mẽ, táo bạo, chân
thành, vừa nữ tính => qua đó làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ vừa hiện đại vừa truyền
thống (thủy chung- truyền thống; chủ động giữ gìn, hướng về phương anh- hiện đại)
- Khổ 7: Niềm tin vào tình yêu => thông qua hình tượng sóng, nhà thơ mượn quy luật
khách quan của trời đất để kiểm chứng và thể hiện niềm tin vào sự thủy chung của mình,
niềm tin vào bến bờ hạnh phúc và đích đến cuối cùng tốt đẹp của tình yêu:
“Ở ngoài kia đại dương
...
Dù muôn vời cách trở”
+ XQ phát hiện: sóng dù xa bờ thì vẫn tới bờ, qua đó thể hiện niềm tin: tình yêu dù có cách
trở, khó khăn, thử thách – sẽ đến được bến bờ hạnh phúc của tình yêu
+ trong 2 câu thơ cuối, tg sử dụng phép đảo ngữ “Con…. trở”:
~ nếu câu thơ theo cấu trúc thông thường: Dù muôn vời… bờ => ý thơ sẽ thuận, sự khẳng
định sẽ chắc chắn, đầy lý trí với một kết cục có hậu và bình ổn
~ Nhưng XQ lại chọn một kết cấu đảo thể hiện một niềm tin sâu sắc nhưng trong lòng vẫn
ẩn chứa một chút mong manh, một chút bất ổn đầy cảm tính, lo âu => niềm tin vào tình yêu của
XQ mãnh liệt, chân thành mà không hề dễ dãi, ngây thơ.
=> một người phụ nữ đã từng mất mát, đổ vỡ trong tình yêu nên luôn hiểu rằng con đường
đến với hạnh phúc thường không ít những cay đắng, gian nan; một trái tim đã bao lần bầm dập,
đau đớn nên niềm tin vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm vị đắng của sự nếm trải
~ câu kết: Dù muôn vời cách trở như một lời nói thêm để tự dặn lòng, tự nhắc mình đừng
bao giờ mất niềm tin, nhưng cũng đừng ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ dàng trong tình yêu =>
chính vì sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ vào tình yêu càng đáng quý, đáng trân
trọng.
 qua 3 khổ thơ, XQ bộc lộ cảm xúc, khát vọng tình yêu chân chính, mãnh liệt, đó là nỗi
nhớ nhung da diết, sự thủy chung son sắt, niềm tin vào tình yêu, đích đến của tình yêu
 vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu vừa có nét truyền thống vừa hiện đại
- Khổ 8: không dừng lại ở một niềm tin vào tình yêu, vào một kết thúc có hậu của
tình yêu, mà trái tim nhạy cảm, giàu suy tư của XQ tiếp tục mở ra những trăn trở, suy
ngẫm về sự trôi chảy của thời gian, sự hữu hạn của kiếp người:
Cuộc đời tuy dài

Mây vẫn bay về xa
+ hình “sóng” và “em” tách nhau, để “em” nhìn vào sóng, thực tại để chiêm nghiệm, suy tư
về cuộc đời
+ XQ nhận ra: thời gian cuộc đời cứ trôi chảy, một đi không không trở lại, trong dòng thời
gian vũ trụ thì kiếp người là hữu hạn => 100 năm cuộc đời tưởng là dài, nhưng năm tháng trôi đi
thì 100 năm sẽ hết, cuộc đời sẽ kết thúc. Giống như: biển cả tưởng bao la, những đám mây vẫn
bay, trôi xa, vượt thoát khỏi lòng đại dương để về cuối trời
=> cặp từ đối lập: cuộc đời - năm tháng; biển cả - mây trời => cuộc đời tuy dài, biển cả tuy
rộng nhưng năm tháng sẽ trôi qua hết, như mây kia sẽ bay qua biển rộng, sẽ đến với không gian
bao la trong vũ trụ không cùng.
~ khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của thời gian và sự hữu hạn của cuộc
đời, khi cuộc đời là hữu hạn thì tình yêu cũng sẽ có lúc phôi pha, tình yêu sẽ hết khi cuộc đời
không còn nữa
=> XQ là người phụ nữ giàu trắc ẩn, lúc nào cũng có âu lo
=> bởi XQ là một người từng trải, nhất là từng chịu sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương. Vì thế
con người ấy luôn khao khát sự bình yên, khao khát sự vĩnh hằng vô tận. Càng khao khát lại càng
buồn bã, tiếc nuối khi nhà thơ nhận ra cuộc đời của mỗi người lại ngắn ngủi, mong manh như một
áng mây phù du…
XQ trong tình yêu, dường như lúc nào cũng có những âu lo- nhất là trước sự trôi
chảy của thời gian:
Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi
(Nói cùng anh)
Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
Chỉ em là đã khác với em xưa
(...)
Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
Chỉ em là đã khác với em thôi!
(Hoa cúc)
Bình thường, sự âu lo ấy có thể dẫn con người đến những phản ứng tiêu cực (thất vọng,
chán chường hoặc sống gấp, thả trôi theo dòng đời) nhưng cũng có thể là động lực khiến con
người sống tích cực và mạnh mẽ hơn (sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu…). Xuân
Quỳnh đã chọn cho mình một cách ứng xử thật tích cực và thật đẹp. Chị không chán nản, tuyệt
vọng mà trái lại càng khao khát được sống hết mình trong tình yêu
- Khổ 9: Xuân Quỳnh lại có mong ước thật da diết:
Làm sao được tan ra
….
Để ngàn năm còn vỗ
=> XQ khát vọng được sống hết mình, dâng hiến hết mình cho tình yêu để tình yêu trở
thành vĩnh hằng, bất tử
+ “làm sao” cấu trúc câu nghi vấn thể hiện nỗi trăn trở và niềm mong ước da diết và thành
thực
+ “tan ra” – âm điệu nhẹ nhàng => được hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ” hòa vào biển
lớn – mong ước được sống hết mình, được hi sinh, dâng hiến cho tình yêu, được sống mãnh liệt
trong tình yêu
=> khao khát cháy bỏng trong tình yêu đã được nhà thơ bày tỏ chân thành táo bạo
=> khi sống hết mình, yêu hết mình, để tình yêu lớn lao tới mức tan hòa trong cái vô biên
biển cả, của trời đất thì lúc ấy tình yêu cũng sẽ được nhập hòa vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình
yêu sẽ trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời vũ trụ.
BL: (1) thế nào là sống hết mình cho tình yêu:
* Tình yêu, hạnh phúc của tình yêu- không dễ dàng => sống hết mình với tất cả cung bậc
cảm xúc của tình yêu: hạnh phúc, sung sướng, khổ đau...
* khi yêu không ích kỉ (không chỉ đắm chìm trong trong tình yêu, mà còn bằng sức mạnh
tình yêu con người yêu đời, yêu cuộc sống, cống hiến => sống hết mình với tình yêu:
Tình yêu là sức mạnh: Ôi những đêm dài hành quân nung nấu/ Bỗng bồn chồn nhớ mắt
người yêu;
tình yêu đôi lứa là cội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước: Tình yêu làm đất lạ hóa
quê hương
=> tình yêu lứa đôi hòa nhập tình yêu cuộc đời, quê hương, đất nước => tình yêu trở thành
vĩnh hằng
<=> Như vậy cách để XQ kéo dài cuộc đời của mình để sống trọn vẹn với tình yêu là “tan
ra thành sóng”- tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu cuộc đời, hòa vào biển lớn tình yêu bất tận,
muôn đời. Đó là thái độ sống dám cháy hết mình, dâng hiến cuộc đời cho tình yêu- một tình yêu
không vị kỉ, mà là một tình yêu đã hòa vào biển lớn để tồn tại vĩnh hằng.
 khát vọng mãnh liệt – so sánh với XD, một người được “ông hoàng của thơ tình”, ca
ngợi là một người khát sống thèm yêu – mà trong bài “Biển” XD viết:
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
Một người cuồng nhiệt, đắm say trong tình yêu như XD mà còn nghĩ đến lúc “thôi dào
dạt”- còn XQ, nữ tính hơn, đằm thắm hơn, nhưng cũng mãnh liệt hơn khi XQ khao khát, kết thúc
bài thơ bằng câu “Để ngàn năm còn vỗ”
Ý thơ, và tình yêu mãnh liệt cũng từng được XQ thể hiện trong bài Tự hát:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi
KL:
- bằng sử dụng hình tượng “sóng”, thể thơ ngũ ngôn, hình ảnh đối lập, từ ngữ giàu giá trị
biểu cảm...
- diễn đạt thật hay, sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ VN khi yêu:
+ Tâm hồn mang vẻ đẹp truyền thống thể hiện ở chất nữ tính, đằm thắm, giàu cảm xúc, sự
thủy chung, nhớ thương .....
+ Vẻ đẹp hiện đại: táo bạo, chủ động, khát vọng sống, dâng hiến trọn vẹn cho tình yêu
----------------------------------------------------------
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG CON SÔNG ĐÀ
(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- Nguyễn Tuân)
MỞ BÀI
- Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ ngay đến “chủ nghĩa xê dịch”. Ông tới miền
Tây Bắc rộng lớn, xa xôi không chỉ để thoả mãn cái thú tìm đến miền đất lạ cho thoả niềm khát
khao “Xê dịch” mà chủ yếu để tìm kiếm “chất vàng” của thiên nhiên và ở tâm hồn của người
lao động. (suốt đời đi tìm cái đẹp – SĐ, người lái đò => vẻ đẹp của thiên nhiên, con người đất
nước mà NT kiếm tìm sau cm tháng 8)
- Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước
dữ dội hoặc những cảnh thiên nhiên đẹp một cách tuyệt đỉnh, tuyệt vời.
- “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của nhà văn. Tác phẩm là
những trang văn miêu tả rất tinh tế vẻ đẹp hình tượng con sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng
cũng rất trữ tình và thơ mộng.
II. Thân bài:
1. Khái quát:
 "Người lái đò sông Đà" rút từ tập tùy bút "Sông Đà" của Nguyễn Tuân.
 Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, đặc biệt là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1958.
=> Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập: hung bạo và
trữ tình.
2. Phân tích:
a. Sông Đà hung bạo: cái hung bạo ấy của SĐ được thể hiện rõ qua:
- Cảnh "đá bờ sông dựng vách thành":
+ những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp,
nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững trãi,
thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của SĐ với vách đá như thành
cao, vực thẳm, hào sâu.
+ Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
 "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
 Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném
hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách;
 Độ hẹp của lòng sông Đà, khi bị những vách đá lớn bên bờ sông chèn ép tới
nghẹt thở, còn được tái hiện một cách tài hoa khi nhà văn sử dụng động từ “chẹt”
trong một hình ảnh so sánh rất ấn tượng với cái yết hầu: vách đá chẹt lòng sông Đà
như một cái yết hầu
 "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm
thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"
=> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng, nhà văn tạo ra ấn tượng
tương phản của xúc giác (hẹp, sâu, tối đến mức mùa hè cũng thấy lạnh), ấn tượng
đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông, lấy nhà cao gợi ra thành vách... =>
truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lãnh lẽo đột ngột khi con
thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành.
=> những hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với kết cấu câu trùng điệp của kiểu
ngôn từ không xác định: nào, mấy... trong so sánh “khung cửa sổ của tầng nhà....
điện” đã làm tăng cảm giác về độ cao hun hút, thăm thẳm của vách đá qua cái nhìn
chới với, rợn ngợp của người quan sát.
=> Cảm giác như N.T luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng đầy ăm ắp để tìm cho
được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Mặt ghềnh Hát loóng:
=> dòng sông Đà vốn lắm thác nhiều ghềnh vốn đã từng được nhắc đến trong ca dao:
Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác trăm ba cái ghềnh
Nhà văn có thể vanh vách hơn bảy mươi cái thác trên SĐ. Đáng chú ý, ở quãng ghềnh Hát
lóong có những ghềnh sông cảnh tượng rất dữ dội, nguy hiểm:
"Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm "
+ bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu
trùng điệp, nhịp văn ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh trắc,
NT tái hiện hình ảnh con sông Đà với sóng, gió dữ dội, cuồng nộ- những con sóng
dữ cứ cuồn cuộn chồm lên nhau, rồi đổ ập xuống, ghê rợn trên mặt ghềnh
+ động từ “xô”
điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chuyển động liên tiếp, mạnh mẽ,
thể hiện sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác
+ từ láy ‘gùn ghè” và hình ảnh so sánh nhân hóa
“như lúc nào cũng đòi nợ xuýt...” đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và
cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.
=> Với từ “nợ xuýt” nhà văn cũng đóng góp thêm vào Từ điển TV một từ mới mẻ,
độc đáo => nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiên mà đòi bằng mạng sống của
con người. Những người lái đò qua đó sơ xuất tay lái thì sẽ bị lật ngửa bụng thuyền
ra.
- Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của SĐ là những hút nước ở
quãng Tà Mường Vát:
+ "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc
lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống
rồi đánh chúng tan xác" ...
=> Lối so sánh sống động,
đặc sắc khiến hút nước SĐ hiện ra trong hình ảnh cái giếng bê tông ... xoáy tít
đáy, trong âm thanh ghê rợn của “cửa cống cái bị sặc”, như rót dầu sôi vào...=>
khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như
muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
+ từ láy tượng hình “lừ lừ”, tượng thanh “ặc ặc”, hình ảnh so sánh nhân hóa “thở”,
“kêu” như “cửa cống cái...”
tất cả đều góp phần làm hiện ra hình ảnh và âm thanh của hút nước như một con
quái vật đang giận dữ đến ghê người.
+ NT tưởng tượng:
~ phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ như đi qua một quãng đường “mượn
cạp ra ngoài bờ vực” đã giúp người đọc hình dung cảm giác hãi hùng;
~ nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to
lớn, nghênh ngang bị “lôi tuột” xuống đáy hút nước, “trồng ngay cây chuối
ngược”... => những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn
tượng sâu đậm về sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà.
~ “có anh bạn quay phim táo tợn...” => nhằm gợi lên chân thực cảm giác sợ hãi
của con người khi nhìn thấy hút nước, tưởng tượng bị hút nước ấy nó lôi tuột
xuống, cả một “khối pha lê” nước “sắp vỡ tan” bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp
vào người.
- Nhưng có lẽ khủng khiếp nhất ở cả diện mạo và tâm địa của SĐ là thác đá sông Đà-
SĐ dưới ngòi bút của NT hiện hình là “mụ gì ghẻ”, “kẻ thù số 1”
+ Âm thanh thác nước sông Đà:
 Khi miêu tả âm thanh thác nước SĐ, Nguyễn Tuân giống như một nhạc trưởng
đang điều khiển một dàn nhạc giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
 Ban đầu tác giả để SĐ cất lên khúc nhạc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu
khích", "giọng gằn mà chế nhạo". => nhiều cung bậc âm thanh, cảm xúc đan xen, hòa quyện
vào nhau => SĐ dữ dội khó lường
 Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên
khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man
dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng"
=> Với nghệ thuật so sánh – ss kép (gợi lên cả một trường liên tưởng)
NT đã khiến SĐ thực sự trở thanh một sinh thể sống động đang giận dữ gầm gào,
đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện;
=> sự tài hoa tinh tế của NT còn thể hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống những từ
ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng
để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung hãn của dòng sông vừa gợi tả được
khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá SĐ; đây cũng là cách làm
tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy hứng thú cho người đọc.
=> đặc sắc nhất là những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp hình ảnh dữ
dội
“hàng ngàn con trâu mộng... bùng bùng” – âm thanh thác nước SĐ được Nguyễn
Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn
núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy hình ảnh gợi tả âm
thanh, N.T quả là đã chơi ngông trong nghệ thuật ngôn từ. (NT là nghệ sĩ ngôn từ
trên dòng sông chữ nghĩa – tài hoa, độc đáo của NT sử dụng từ ngữ, sáng tạo hình
ảnh)
=> qua so sánh, tiếng thác đá SĐ hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng
của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với
âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ, cháy dữ dội trong lửa... =>
cách miêu tả khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính
giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những
ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác, xúc giác
+ Dữ dội nhất là sông Đà bày thạch trận trên sông, giao nhiệm vụ cho mỗi hòn:
~ Tg khái quát về thạch trận sông Đà:
. Thác đá hiện ra với câu văn ngắn giống như một tiếng reo ngỡ ngàng “Tới cái
thác rồi”
. “sóng bọt đã trắng xóa... đá” – câu văn miêu tả đồng thời cả đá và nước thác; tình
từ “trắng xóa” gây ấn tượng về sóng, gió, bọt nước trào sôi mãnh liệt, sóng tung
lên làn hơi nước làm mặt sông mờ trắng
. “chân giời đá” – hình ảnh đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá
SĐ ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt.
. NT còn phát hiện: đá SĐ cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng
lúc tấn công uy hiếp con người “đá ở đây.... mỗi lần có chiếc thuyền... một số hòn
bèn nhổm...”
=> NT sử dụng thuật ngữ quân sự, gợi dậy những bí ẩn, hiểm ác của đá SĐ hàng
ngàn năm nay, nó dữ dằn, đột ngột “nhổm dậy vồ lấy...”
. những thuật ngữ quân sự, thể thao, võ thuật được NT tận dụng triệt để “thạch
trận, cuộc giáp lá cà....; hệ thống dày đặc những động từ: hò la, ùa vào,... khiến
thác đá SĐ thực sự trở thành một chiến trường với những trận hỗn chiến ác liệt
giữa con người và thiên nhiên
=> Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù
đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá
=> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du
côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ
~ SĐ càng dữ dội, ác liệt hơn trong cuộc chiến với người lái đò qua 3 trùng vi
. Trùng vi thứ nhất
Sông Đà bày ra:
năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông.
Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng
vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai
trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền
tới tấp: "Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí
trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà
thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang
trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái
luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò".
Người lái đò:
. Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai:
Sông Đà:
"Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch
qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh
khuýp quật vu hồi chiếc thuyền". Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết
sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử
"vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã
tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Người lái đò:
. Đến trùng vi thứ ba:
Sông Đà:
Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này
lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo
đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một
trận đấu bóng quyết liệt.
Người lái đò:
Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành
và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với "tay
lái ra hoa".
=> Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày
thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây
Bắc với "diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một".
Con sông mà "hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người
Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà". Chẳng thế mà
sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông
hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".

<=> thông qua sự quan sát tinh tế, cách diễn đạt tài hoa, những tri thức uyên bác, NT đã
làm hiện lên hình ảnh SĐ hung bạo, hiểm ác, không chỉ như một loài thủy quái, kẻ thù số 1 của
con người mà còn trở thành một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa, khơi gợi được
cảm giác vừa hãi hùng lại vừa ngưỡng mộ, mê đắm
<=> SĐ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số
một về thể loại tùy bút VN.

b. Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm
nét thơ mộng, trữ tình
Vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi “vặn mình vào một cái bến cát”, khi chút bọt
nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “tan xèo xèo trong trí nhớ”, ngòi bút tài
hoa của NT lại bất ngờ dẫn người đọc đến một SĐ êm đềm như một giấc mơ, dịu
hiền như một miền cổ tích.
- Để làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình của SĐ, NT có cách quan sát và miêu tả rất dặc biệt: ở
nhiều góc độ, ở thời điểm, giúp người đọc hiểu rõ về SĐ, cũng thể hiện phong cách nghệ thuật
của NT - miêu tả đến tận cùng đối tượng;
- Làm nên nét trữ tình đầu tiên là hình dáng mềm mại, hiền hòa, dòng chảy êm đềm
của SĐ. Vẻ đẹp này được gợi lên từ những câu văn với các hình ảnh so sánh SĐ như
+ “cái dây thừng ngoằn nghèo” – hình “dây thừng” gợi cảm giác về dòng sông hiền hòa,
êm đềm. Chính nhà văn cũng bình luận “không ai có thể ngờ” “sợi dây thừng” ấy lại là con
sông “làm mình làm mẩy với con người”
+ "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân". Đây là câu văn dài, có nhịp điệu, hình ảnh so sánh giàu giá trị biểu cảm đã gợi lên
những nét thi vị đặc biệt của dòng sông:
~ câu văn dài, điệp ngữ “tuôn dài” vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, đem
đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, vừa tô đậm dòng sông uốn lượn. SĐ tuôn chảy từ những
dãy núi hùng vĩ vùng biên giới TB, miên man chảy xuống đồng bằng, hòa vào sông Hồng rồi
thao thiết đổ ra biển...
~ Trong câu văn này, những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu cũng làm tăng thêm sự yên
ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông ở khúc hạ nguồn (câu văn xuôi mà giàu chất thơ)
~ khi so sánh dòng sông như “một áng tóc trữ tình”- dòng sông như áng tóc dài của
thiếu nữ buông lơi; dáng hình của người thiếu nữ...Gợi lên mái tóc của Đà giang như nối dài
đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng
tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà
giống như một kiệt tác của trời đất.
Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành
“áng tóc trữ tình” để miêu tả “áng sông”. Cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và
đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông.
=> tuy nhiên, nhà văn đã đem đến cho SĐ nét mềm mại đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ
tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ lớn lao của dòng sông khi vẫn gợi độ dài, bởi
sự tuôn chảy miên man...
~ NT sử dụng nhiều hình ảnh, từ ngữ giàu giá trị biểu cảm để gợi lên sắc đẹp diễm
tuyệt của sông Đà – của một người đàn bà kiều diễm: động từ “bung nở”, từ láy “cuồn cuộn”
kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc
như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương
khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà gợi cảm biết bao!
có thể thấy SĐ, trong hành trình về đến hạ lưu, đã nhận thêm vào dòng chảy của
mình nét thơ mộng, huyền ảo của “mây trời”, sự tươi tắn rực rỡ của hoa ban, hoa
gạo tháng hai, và cái đặc biệt ấm áp, thật gần gũi, yên bình của làn “khói Mèo đốt
nương xuân” => cách miêu tả, viết câu của NT đã cho thấy vẻ đẹp của SĐ làm say
mê trái tim nghệ sĩ; bởi SĐ là vẻ đẹp của “đất nước Tổ Quốc bao la”, nó gắn bó,
gần gũi, thân thiết với con người.
=> Nhà văn của những vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã có sự thay đổi cơ bản
trong quan niệm thẩm mĩ: cái đẹp không cô đơn, lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra
ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc sống đời thường
của những người lao động bình thường.
- Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc
nước.
+ Vẻ đẹp của sắc nước SĐ gợi lên từ câu thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân
về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay
trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính
vẻ đẹp của mây trời TB đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn.
=> Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương vốn có màu xanh
thẫm vì sự phản quang của mây trời Tây nam thành phố “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím” SH hiện lên đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát
hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa.
+ trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu:
~ Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của
Sông Gâm Sông Lô.
. “xanh ngọc bích” – xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm,
trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời
. so sánh với sắc “xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô - cách so sánh quen
thuộc của NT – một nhà văn thích khoe tài, khoe uyên bác, khẳng định mình có
kiến thức địa lý uyên thâm, miêu tả cái gì cũng phải đến kiệt cùng của đối tượng,
đây cũng là cách để thể hiện niềm yêu mến của NT với SĐ
~ Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ
cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
. “lừ lừ chín đỏ” – từ ngữ tượng hình gợi tả dòng chảy chậm rãi, điềm đạm của con
sông đầy nặng phù sa ở thượng nguồn đổ về
. so sánh “da mặt người... thu về” – không chỉ làm hiện lên sắc nước đặc trưng của
SĐ mùa thu (trạng thái của sự vật được miêu tả chính xác ở khoảnh khắc ấy khi so
sánh với sự vật khác), mà còn thể hiện sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa những đe dọa
của dòng sông vẫn “năm năm báo oán...”
=> ngay cả khi miêu tả nét thơ mộng, trữ tình của dòng sông, hình ảnh của một SĐ
hung bạo vẫn như ám ảnh đâu đây trong sự quan sát và cảm nhận của một nhà văn
luôn say mê với những cảm giác mạnh.
- Con Sông Đà gợi cảm trong mối quan hệ với con người, SĐ như một “cố nhân” với
vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu", làm cho người đi
rừng dài ngày khi gặp lại dòng sông thì "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng".
+ Hai chữ “cố nhân” vừa là hình ảnh nhân hóa – dòng sông là một người bạn cũ, vừa
đem đến một nét đẹp cổ kính, xưa cũ, vương vấn lòng người như trong Đường thi
+ Vì là một cố nhân nên con người khi gặp lại dòng sông:
~ lúc mới nhìn thấy dòng sông qua “loang loáng như trẻ con nghịch gương...”, qua
“miếng sáng” lấp lóa nắng của dòng sông thấp thoáng, ẩn hiện giữa những vạt cây => mà háo
hức, bồn chồn, vội vàng, khao khát.
=> Hình ảnh “miếng sáng lấp loáng” đã gợi sự trong sáng rực rỡ của nắng xuân
trên mặt nước sông Đà.
~ Tg liên tưởng mặt sông với cái “miếng sáng” ấy giống như “một màu nắng tháng ba
Đường thi...” cũng gợi lên được cảm xúc bâng khuâng nhớ thương, xao xuyến của nhà văn.
Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên
đi Quảng Lăng” – Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm
khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ
Đường đã hiện lên vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên, thanh bình.
=> NT đã gợi hình ảnh dòng sông không chỉ chảy trôi trong không gian mà còn
trôi chảy trong thời gian miên viễn, xa xăm, dòng sông Đà như từ xa xưa, từ
những trang thơ tuyệt bút của cổ nhân chảy về => tô đậm vào vẻ thơ mộng của SĐ
(dòng sông như được phủ lên một lớp bụi của thời gian)

~ gặp lại dòng sông là được chiêm ngưỡng một bức tranh non sông cẩm tú với “bờ sông
Đà, .... trên sông Đà”
=> một câu văn đặc biệt toàn chủ ngữ, hai chữ “Sông Đà” điệp lại như nhịp lên
niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng
của bờ bãi Đà giang => nhà văn như đang hân hoan choán ngợp giữa không gian
mênh mông, hòa vào không gian ấy, bị cuốn theo những xúc cảm dồn dập, gấp
gáp, cuốn mình đi theo những say đắm, khát khao...
~ Gặp SĐ, gặp lại “cố nhân” thì nhà văn- người đi rừng dài ngày- rất vui “Chao ôi!
Trông con sông, vui như thấy nắng ...quãng”. Tg đã diễn tả niềm vui bằng hình hình ảnh so
sánh đọc đáo, mới lạ:
. “nắng giòn tan” - ẩn dụ đẹp gợi ra cái nắng thật trong, thật sáng, mỏng, nhẹ, nó
hoàn toàn tương phản với cái u ám, trĩu nặng của bầu trời những ngày mưa dầm
=> gợi niềm vui lâng lâng sảng khoái của nhà văn khi gặp lại dòng sông.
. “nối lại chiêm bao đứt quãng” – một việc gần như không thể có trong đời người,
nên nối lại được giấc mơ là hi hữu, hiếm quý => diễn tả được cảm giác sung
sướng, hạnh phúc của nhà văn
=> NT là nhà văn của chủ nghĩa xê dịch, ông nhiều lần tới SĐ, bất cứ lúc nào, nếu
muốn, ông cũng có thể đến với “cố nhân” của mình; vậy mà qua so sánh, có thể
thấy cảm giác khi gặp lại dòng sông lần nào cũng tươi mới, kì diệu như được nối
lại một giấc mơ đẹp, như vừa được tận hưởng niềm vui chưa từng có trong đời, lần
cuối cùng, lần duy nhất => tình yêu mến của NT với SĐ
~ gặp lại dòng sông “nó đằm đằm âm ấm” – tình cảm thân thương, yêu quý, gắn bó
=> Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân
thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người
bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về.

=> Với tất cả sự gợi cảm của mình, SĐ đã thực sự trở thành “cố nhân”, tình nhân,
thực sự đã trở thành người bạn cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá
khứ, bao thương nhớ trong hiện tại, bao hẹn hò thủy chung trong tương lai. SĐ dẫu
có lúc trái tính, trái nết mà vẫn có sức hấp dẫn mê hoặc lòng người.

- Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ
mộng: "Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi". Có những cảnh hoang vu, hoang
sơ đến kì lạ: "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ
tích tuổi xưa". Cảnh sông Đà còn là những gì nguyên sơ, trong lành "những nương ngô nhú
lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu
cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm".
+ những câu văn ngắn nhiều thanh bằng gợi nên một cõi êm đềm, hoang sơ, vắng lặng
như chưa từng có dấu vết của con người
+ Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ
đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”.
. tính từ “lặng tờ” được lặp lại + câu văn mang nghĩa khẳng định “Hình như từ đời
Trần...” khiến cho sự êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm – không chỉ vì cái yên ả trong
không gian mà còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian.
. so sánh độc đáo: bờ sông hoang dại... tuổi xưa
So sánh (như bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích tuổi xưa) không hề làm rõ, làm hiện hình
cụ thể hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu
tượng (tiền sử, nỗi niềm cổ tích), nó như càng đẩy dòng sông trôi xa vào miền
mộng ảo, phiêu diêu, vào cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoặc
của tuổi thơ => Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng
hoang của đôi bờ sông Đà, người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng tờ, hoang dại của
một dòng sông trong trẻo, êm đềm
+ sự yên ả, êm đềm đến mức mơ hồ của SĐ khúc hạ lưu tiếp tục được nhà văn tô đậm
hơn với những hình ảnh thơ mộng, những hình ảnh thuộc về thế giới trong lành, nguyên sơ,
thuần khiết, sức sống:
“mấy lá ngô non đầu mùa...”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”;
hình ảnh “con hươu thơ ngộ...”, cất tiếng hỏi nhà văn bằng ‘tiếng nói của...”; tiếng
“cá dầm xanh...” khẽ khàng, dịu nhẹ; => nhiều chi tiết thuộc về ảo giác, là sự
tưởng tượng phong phú của nhà văn
=> những chi tiết, hình ảnh này càng chứng minh rõ: đến với SĐ là NT bước lạc
vào một cõi trong trẻo, an lành, thuần hậu, nguyên sơ- một thế giới tưởng chừng
như không có thực, là thế giới của cổ tích

+ Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn
bỗng cảm thấy "thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu",
=> việc giật mình thèm một tiếng còi... => còn là một cách để NT thấy mình vẫn
còn đang trong thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người của nền văn minh hiện
đại (tiếng còi là âm thanh của cuộc sống hiện đại) – mơ về âm thanh của cuộc sống
hiện tại giữa bờ bãi SĐ cũng là một cách để nhà văn gián tiếp tô đậm sự lặng tờ,
hoang dại của dòng sông (lấy động để tả tĩnh). SĐ ở hạ lưu là một dòng sông quá
đỗi êm đềm.
Tg bộc lộ khát vọng, muốn thiên nhiên được đánh thức bởi sự hiện diện của con
người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ. Nhà văn hướng tới tương lai đẹp
đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng
thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người. Đó là
ước mơ hiện đại hóa miền TB => đã hòa mình vào phong trào, khát vọng của ĐN
của ND

+ Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con
sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh bênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu
tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến
rũ, có linh hồn, giàu sức hút. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ
"như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe
những giọng nói êm êm của người xuôi". Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó "trôi
những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển
trên dòng trên".

NT khám phá vẻ đẹp thực tế của SĐ – nguồn tài nguyên thiên nhiên mang lại sự giàu có
cho đất nước=> gắn bó hơn, yêu dòng sông – thiên nhiên TB là vàng mười của TQ

=> trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn trực tiếp xuất
hiện
qua lời kể hào hứng: tôi đã nhìn say sưa...; trong những lời cảm thán nồng nàn:
Chao ôi... => vậy là, bên cạnh một NT sắc sảo, tài hoa, uyên bác còn có một NT
đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao xuyến nỗi nhớ nhung như một tình nhân, như
một cố nhân; khi bồng bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ
sông Đà, bãi SĐ; khi thì lại say đắm muốn tan hòa vào thế giới êm đềm, bát ngát
của dòng sông; nhất là lại luôn lai láng niềm mong ước của một thi nhân muốn đề
thơ vào sông nước
=> đó là cái tôi tài hoa nghệ sĩ – suốt đời rong ruổi đi tìm cái đẹp; cái tôi luôn có cảm
hứng mãnh liệt với những cái tuyệt mĩ; cái tôi giàu suy tư trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất
nước

Nhận xét chung:


* SĐ là biểu tượng của vẻ đẹp của thiên nhiên TB, “vàng mười” của tổ quốc; Nguyễn
Tuân say mê miêu tả dòng sông, vẻ đẹp của đất nước, quê hương với tất cả sự tinh tế của cảm
xúc, và bằng một tình yêu thiên nhiên, đất nước thiết. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự
hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có ,
Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam- đặc biệt ở
thể tùy bút.
* Hình tượng con sông Đà trong tùy bút đã thể hiện được những nét độc đáo trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
- NT vốn là người nghệ sĩ của những cái phi thường, xuất chúng, đối tượng của ông
phải tạo được ấn tượng mạnh đập vào giác quan của người nghệ sĩ. SĐ là một đối tượng như
thế. Ngay ở lời đề từ, NT đã trích hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu
2 câu thơ này đã khẳng định nét độc đáo của SĐ, bản thân nó chứa đựng những nét phi
thường không giống với dòng sông nào. SĐ dữ dội, bạo liệt: vách thành đá, sóng gió dữ dội, hút
nước xoáy tít đáy, trùng vi thạch trận... Có thế nó mới thu hút được 1 nghệ sĩ như NT. Có thể
nói, NT đến với SĐ chính là sự độc đáo đi tìm cái độc đáo.
- NT thường tiếp cận đối tượng ở phương diện thẩm mĩ, văn hóa, nếu là con người
phải là nghệ sĩ tài hoa, còn nếu là cảnh phải đạt đến mức tuyệt vời, diễm lệ. SĐ cũng mang
nét đẹp ấy ở dáng vẻ mềm mại, thướt tha, lộng lẫy mà mơ màng; ở màu nước thoắt ẩn, thoắt
hiện... Khi viết về SĐ trữ tình quả thật NT đã hiến cho đời những trang hoa, tờ hoa, làm sống
dậy trong tâm trí người đọc 1 dòng sông cẩm tú của non sông gấm vóc.
- NT có phong cách nghệ thuật nổi bật là tài hoa, uyên bác
+ nét tài hoa của ông được thể hiện trong việc sử dụng từ ngữ, sáng tạo hình ảnh, cách
viết câu văn.
Về sử dụng ngôn từ, NT xứng đáng là một bậc thầy, ngôn từ của NT phải “nóng rẫy” sự
sống, phải nổi hình, nổi khối, phải có âm thanh, sắc màu. VD khi NT viết “SĐ tuôn dài...” thì
chữ “áng” thường để nói về những áng văn thơ tuyệt bút, mái tóc mềm mại, NT dùng từ này để
nói về SĐ là ông muốn khẳng định duyên dáng SĐ, SĐ cũng chính là áng thơ tuyệt vời mà tạo
hóa ban tặng cho con người TB. Khi tả về âm thanh của hút nước, ghềnh thác, NT viết “ặc ặc”
“ghùn ghè”... những từ này đã biến hút nước, ghềnh thác trở thành loài thủy quái đang giẫy
giụa, gào thét đến ngạt thở để hăm họa, uy hiếp con người.
NT cũng rất giỏi trong việc sáng tạo những hình ảnh so sánh. Khi tả bờ đá SĐ, ông viết
“vách đá thành chẹt ...” - khiến người đọc hình dung bờ đá SĐ chính là những ngón tay khổng
lồ của thần đá đang bóp cổ con sông Đà. Còn khi tả tiếng thác nước “thế rồi nó rống lên như
tiếng của một ngàn con trâu mộng...” quả thật không ai như NT lấy lửa tả nước, rừng tả sông -
vậy mà những sự đối lập ấy khi được NT so sánh vói nhau vẫn rất phù hợp, đặc biệt tạo được ấn
tượng mạnh của ngôn ngữ, hình ảnh kì thú của lối chơi ngông.
Cách viết câu văn của NT rất độc đáo, có lúc ông viết câu trường phú, trùng điệp, tầng
tầng, lớp lớp; nhưng có những câu văn lại rất ngắn gọn, tỉnh lược một cách bất ngờ. Khi tả độ
dài của SĐ NT viết “SĐ tuôn dài... nương xuân”- 1 câu văn thật dài kết hợp với việc sáng tạo
khi dùng dấu chấm, dấu phẩy khiến SĐ trở nên dài hơn bội phần, đáng lẽ phải đặt dấu “,” giữa
hai từ “tuôn dài” nhưng NT không làm vậy. Khi miêu tả vẻ êm đềm, nên thơ của SĐ NT lại viết
“Thuyền tôi...”- những câu văn ngắn toàn thành bằng khiến nó trở thành những câu thơ gợi cảm
giác bâng khuâng, êm ái... những câu văn như thế khiến cho NT như một nhà thơ, rất thơ.
+ bên cạnh nét tài hoa thì uyên bác cũng là một đặc điểm nổi bật của pc nghệ thuật
NT. Ông thường sử dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau trong trang văn của
mình để miêu tả đối tượng, đối tượng được xoay lật, ngắm nghía ở nhiều góc độ, phương diện
khác nhau => đối tượng, những gì NT miêu tả, khắc họa hiện lên vừa chính xác khoa học vừa
sinh động hấp dẫn. Qua hình tượng con SĐ ta thấy NT có một kiến thức địa lý thực tế rất phong
phú. Ông đã từng đến vùng thượng lưu để thấy SĐ hung bạo, đã xuống vùng hạ lưu để thấy SĐ
trữ tình, ông đã từng đi thuyền trên sông để thấy có cảm giác như đang đứng ở hè một cái ngõ
nào mà ngóng vọng lên tầng nhà thứ mấy nào... ông đã từng ngồi trên máy bay để đến với SĐ
để thấy SĐ ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng, ông đến với SĐ mùa xuân để thấy nước SĐ
xanh màu ngọc bích, đến với SĐ mùa thu để thấy nước SĐ lừ lừ chín đỏ...
Với kiến thức lịch sử phong phú, NT cho người đọc thấy SĐ đã từng găn với chiến công
của người anh hùng cứu nước. Với kiến thức của ngành điện ảnh ông đã truyền cho người đọc
cảm giác hãi hùng khi ngồi xem những thước phim tư liệu quay cảnh những cái hút nước SĐ
mà người quay phim đã ngồi vào một chiếc thuyền thúng tròn vành rồi cho cả người, cả thuyền,
máy quay xuống đáy hút nước rồi quay ngược ống kính lên.
Với vốn tri thức về quân sự, thể thao, võ thuật, NT đã biến thác đá SĐ thành thạch trận với
nhiều trận tuyến. Ở trận địa ấy có boong ke chìm, pháo đài nổi, những binh hùng tướng mạnh
sử dụng nhiều chiến thuật, lối đánh giáp lá cà, khuýp quật vu hồi hay thúc trái, túm thắt lưng,
phòng ngự, hậu vệ...
Có thể nói còn rất nhiều tri thức của nhiều ngành, nhiều môn được vận dụng một cách sáng
tạo trong việc khắc họa con SĐ. Có thể nói, NT đến với thể loại tùy bút và đến với SĐ như một
cuộc hội ngộ tất yếu - tài năng, tính cách ấy phải đến với thể loại ấy và dòng sông ấy. Tuy nhiên
qua hình tượng con sông Đà ta không chỉ thấy bút lực tuyệt vời của NT mà còn thấy một tấm
lòng tha thiết, tự hào với từng tấc đất, dòng sông của tổ quốc. Sau những trang viết ấy là một
tình yêu thầm kín, là niềm tự hào về tổ quốc, giang sơn hùng vĩ, tươi đẹp.

III. Kết bài:


Tùy bút NLĐSĐ là một thành công nghệ thuật của một tài năng đã tìm đúng hướng. Tuy
nhiên gốc của chữ “tài” bao giờ cũng là chữ “tâm”. Văn NT đâu chỉ là lâu đài, dòng sông chữ
nghĩa mà còn là bể thẳm của tâm hồn. Chính tình yêu đất nước đã làm dào dạt thêm tấm lòng
thơ lai láng khi NT đặt bút viết về SĐ, khiến dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy mãi
trong dòng văn học nước nhà cũng như trong niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê
hương của biết bao thế hệ bạn đọc.
-------------------------------------------

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

(NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ-Nguyễn Tuân)


MỞ BÀI
- Nguyễn Tuân là nhà văn có hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng. Trước 1945
ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vang bóng một thời, Một chuyến đi… sau năm 1945 ông
nổi tiếng với thể loại tùy bút mà tiêu biểu là các tác phẩm: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, tùy bút
Sông Đà…
- Người lái đò Sông Đà là tác phẩm trích trong tùy bút Sông Đà được viết nhân chuyến
thực tế Tây Bắc năm 1958.
- Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ là hình tượng con Sông
Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn là bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ - một
tay lái ra hoa.
THÂN BÀI
1. Giới thiệu chung.
- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà được in trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tuỳ
bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền
Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống
Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau,
sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng
cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo dồi dào, mới mẻ.
Trong Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân, với lòng tự hào của mình, đã khắc hoạ những
nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà
hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí
dũng của con người lao động mới - chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua
hình ảnh người lái đò sông Đà.
=> Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bắc) có "tay lái ra hoa". Đó là những
người lao động mới, không chỉ thành thục lão luyện trong nghề, thông minh, tài trí
mà còn cực kì tài hoa, mang cốt cách nghệ sĩ.
2. Phân tích
* Ngoại hình, lai lịch, nghề nghiệp
- Đó là một ông lái đò bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình vẫn đẹp như một
pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun. Cánh tay “lêu nghêu
như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng
tượng”. Cặp mắt tinh anh, “nhỡn giới vòi vọi”. Trên ngực của ông nổi lên một số "củ
nâu" thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân
chương lao động siêu hạng".
- Ông lái đò sông Đà có "tay lái ra hoa", đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao
phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn 20 năm chèo đò, có 10 năm chỉ huy một con
thuyền có 6 mái chèo, đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh
kiến về xuôi, cho nên ông thuộc lòng từng con thác, cái ghềnh, ông nắm chắc “binh pháp thần
Sông, thần Đá”.
=> người lao động gắn bó với nghề nghiệp, dấu ấn nghề nghiệp hằn in trên thân thể, ngấm
vào xương thịt
* Không chỉ mang vẻ đẹp ngoại hình gắn với lao động sông nước, ở ông còn có nhiều
phẩm chất đáng quý:
- Người lái đò là một người từng trải, giàu kinh nghiệm, có sự hiểu biết sâu sắc về luồng
lạch trên sông Đà.
+ “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đ inh vào
lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà, đối với ông lái đò
ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu
và những đọan xuống dòng ”.”
+ Chính vì vậy “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá. Ông đã
thuộc qui luật phục kích của lũ đá”.
=> Đó chính là hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng
trải và giàu kinh nghiệm.
- Ông cũng là người thông minh, linh hoạt, dũng cảm, tài hoa - ông như một viên tướng
tài ba, như một nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác sông Đà.
=> Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu hằng ngày. Và ngày
nào cũng phải giành lấy sự sống từ tay nhưng con thác. Vẻ đẹp của người lái đò,
được ngòi bút NT thể hiện qua cảnh vượt thác SĐ. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của
mình vào hoàn cảnh khốc liệt, mà ở đó, tất cả những phẩm chất tuyệt vời của
nhân vật được bộc lộ. Nếu không dũng cảm, không thông minh, linh hoạt, điêu
luyện thành thục trong nghề, thì người lái đò sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống
của mình. Nhà văn gọi cảnh vượt thác sông Đà là cuộc chiến đấu gian lao của
người lái đò trên chiến trường sông Đà.
Đó là cuộc vựơt thác nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một
trận đánh mà đối phương bộc lộ diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một. Lòng
dũng cảm, sự thông minh, kinh nghiệm sông nước, nhất là chất tài hoa nghệ sĩ của
ông lái đò thể hiện ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường qua các
trùng vi thạch trận.
+ Ở trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng:
"Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra, “kẻ thù”
rất mạnh, hung hăng: những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm
thanh viện" đã liều mạng xông vào mà "đá trái” mà “ thúc gối vào bụng và hông thuyền… Có
lúc chúng đội cả thuyền lên". Nguy hiểm là vậy nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ
mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”. Ngay cả lúc bị con ‘thủy quái” này đánh miếng đòn hiểm
nhất “bóp chặt lấy hạ bộ” đau điếng – mặt “méo bệch” đi - nhưng vị thuyền trưởng vẫn “hai
chân vẫn kẹp lấy cuống lái”, cất tiếng chỉ huy của ông sắc lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát
khỏi nguy hiểm.
~ Trong hình ảnh mặt “méo bệch đi”- NT có cách sử dụng từ độc đáo “méo bệch”
=> làm hiện ra không chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn, mà còn
nhợt nhạt vì phải dầm lâu trong nước lạnh
~ sự đau đớn của ông còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm nhận của thị giác
và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống mà châm lửa vào đầu sóng”- đây là cách miêu tả thông qua cảm giác rất
quen thuộc của NT- vết thương đau đớn của ông lái đò được thể hiện bởi cảm giác
tóe đom đóm và rát bỏng như lửa cháy
=> môi trường lao động càng khắc nghiệt thì càng nổi bật lòng dũng cảm của
người lái đò
~ qua miêu tả tiếng hô chỉ huy “ngắn gọn...” của người lái đò, NT cũng không giấu
được lòng ngưỡng mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình
thản của người lái đò
+ Trùng vây thứ hai lại vô cùng hiểm trở, SĐ bố trí nhiều cửa tử hơn, lệch phía bờ hữu
ngạn, với "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Người lái đò không chỉ
dũng mãnh, kiên cường mà còn thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dạn kinh
nghiệm. Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở. Ông lái đò cũng thay đổi chiến thuật, nhanh tay, nhanh mắt, bắt đầu cuộc tấn công
bằng cách "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi" ông cho con thuyền"phóng nhanh vào
cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy". Bọn “thủy quân” đứa thì "ông tránh
mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến" (động từ =>
hành động chính xác, linh hoạt điêu luyện). Cuối cùng ông thắng còn bọn đá tướng thất bại
thảm hại đưa cái mặt "tiu nghỉu, xanh lè thất vọng".
~ kinh nghiệm dày dạn và trí nhớ siêu phàm của ông đò được thể hiện trong chi tiết
“ông nhớ mặt từng đứa...” để có cách ứng phó phù hợp
~ những động tác linh hoạt uyển chuyển điêu luyện của ông đò khi “lái miết một
đường chéo”, khi “tránh mà rảo bơi chèo lên”, khi “đè sấn, chặt đôi mở đường
tiến”
=> đây có thể coi là những biến pháp kì diệu của một tay lái ra hoa - trí tuệ và tài
hoa của con người đã chiến thắng cả thần sông thần đá
+ Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết cả". Đã vậy, SĐ còn bố trí "bọn
đá hậu vệ" canh cửa hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền",
"chọc thủng" trùng vây rồi khéo léo điều khiển con thuyền "vút qua cổng đá cánh mở cánh
khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác.
Sông nước lại thanh bình.
~ hình ảnh con thuyền lao vút qua khe hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn,
cách ngắt câu, sự kết hợp những động từ, danh từ nối tiếp “vút, vút...” “cửa ngoài,
cửa trong...” đã thể hiện sự điêu luyện và khéo léo, sức mạnh của ông lái đò
~ tốc độ phi thường của con thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của
ông lái đò không chỉ thể hiện qua những động từ giàu sắc thái gợi hình và biểu cảm
“vút vút...”, qua hình ảnh so sánh “như một mũi tên tre”, làn hơi nước mà con
thuyền xuyên qua => con thuyền không còn lướt trên mặt nước mà thực sự bay
trong làn hơi nước trên mặt sóng
=> tài năng của ông lái đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, kinh nghiệm, sức mạnh thể
lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm,
kì diệu
=> Qua đó, ta thấy ông lái đò vừa oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng
song toàn, quyết đoán và quyết thắng, vừa hiện lên như một nghệ sĩ tài hoa.
Nhất là vẻ đẹp nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, với tay lái ra
hoa của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi hết lời.
=> Nguyễn Tuân đã tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến
ảo thần kì với liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm, nhân
hóa, cường điệu … => Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng, một bức
tranh hòanh tráng.
=> cuộc chiến giữa ông lái đò với dòng sông thọat đầu tưởng như không cân sức,
nhưng cuối cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng
cảm, tài hoa của người lái đò.
- Đặc biệt, phong thái cốt cách nghệ sĩ còn thể hiện ở sự ung dung, khiêm nhường,
bình dị của ông khi cuộc chiến sinh tử đã hoàn thành
+ Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần trong cuộc sống
của ông.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở
những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy
lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị
chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối
hợp nhịp nhàng, chính xác => phẩm chất cần có của nghệ sĩ, chứng tỏ sự điêu
luyện, thành thục...
+ Không những thế, khi vượt qua gian nguy, thì sóng nước lại tan xèo xèo trong trí
nhớ “sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , và
tòan bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh … Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc
chiến thắng vừa qua ”.
Giọng văn nhẹ nhàng, nhà văn như muốn nghỉ ngơi sau chặng đường dài cùng
nhân vật của mình đua tranh tài trí với thiên nhiên hung dữ.
Cũng qua giọng văn nhẹ nhàng, ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp của người lái đò. Đó là
sự khiêm nhường, bình dị, ung dung bởi vì “ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái
thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ … ”. Cái phi thường đã trở thành bình
thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hòa quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ .
Thái độ bình thản của người lái đò càng làm đậm thêm tầm vóc lớn lao của những
người anh hùng trong cuộc sống đời thường bình dị khi họ coi việc chiến đấu và
chiến thắng SĐ dữ dội, hiểm ác, việc giành sự sống từ những cửa tử của ghềnh
thác SĐ chỉ là chuyện thường ngày.
3. Nhận xét chung
- Qua việc vượt qua thạch trận với 3 cửa ải trên thác đá sông Đà, ông lái đò sừng sững hiện
lên với sức mạnh, bản lĩnh phi thường, tri thức phong phú, với tư thế của người tướng trận tài
ba, dũng mãnh và với phong cách của một người nghệ sĩ tài hoa, điêu luyện.
=> Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị,
nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, trở thành đại diện của CON
NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh của
thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười đã qua thử lửa của nhân dân Tây Bắc.

- Qua hình tượng NLĐ, ta thấy được sự thay đổi quan niệm về người anh hùng, người nghệ
sĩ của NT. Nếu trước cm tháng 8 ông quan niệm chỉ có trong chiến đấu mới có anh hùng, chỉ có
trong nghệ thuật mới có nghệ sĩ, thì sau cm tháng 8- nhất là trong NLĐSĐ- ông khẳng định:
những người lao động bình thường như ông lái đò kia cũng có thể trở thành anh hùng, nghệ sĩ
trong công việc của mình.
- Đằng sau hình ảnh ông lái đò dũng cảm, tài hoa ta bắt gặp 1 niềm tự hào, sự trân trọng
của NT đối với con người VN trong thời đại mới. Nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm
phục trước những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi
là “vàng mười qua thử lửa” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân
khẳng định rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa, nó có trong cuộc sống lao động,
trong hành trình tìm miếng cơm manh áo của nhân dân lao động . Những người bình dị có trí
dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật. Họ là đối tượng của cái đẹp, của ánh
sáng thẩm mĩ hiện đại.
- Qua hình tượng ông lái đò, người đọc còn thấy rõ phong cách nghệ thuật độc đáo
của NT:
+ NT thường khám phá, miêu tả đối tượng ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ - nếu là con
người sẽ là một nghệ sĩ tài hoa => ông lái đò kia cũng là một nghệ sĩ chèo đò tài hoa đang
thầm lặng đề thơ trên sóng nước Đà giang
=> có người đã gọi tay lái điêu luyện của ông chính là 1 tay lái ra hoa- mỗi hành động cử
chỉ đều đạt tới mức điêu luyện tinh tế giống như của một người nghệ sĩ.
VD: nắm chặt bờm sóng, ghì cương lái; lái miết một đường chéo; điều khiển con thuyền
như là tự động lái được lượn được, thuyền như một mũi tên tre...; sau khi vượt thác sông Đà
không một lời nào bàn tán về cuộc chiến đủ tướng dữ...
+ NT có cảm quan sắc nhọn, vốn thích những gì phi thường, xuất chúng, thì ông lái đò
kia là một minh chứng tuyệt vời. Nếu không có bản lĩnh, sức mạnh và khí phách phi thường
người lái đò ấy sao có thể vượt qua những cửa ải chết người hàng ngày, hàng giờ để giành sự
sống “từ tay nó về tay mình” – tập hợp rất nhiều những phẩm chất tuyệt vời của người lao
động
+ Nét nổi bật trong phong cách nghệ thuật của NT là sự tài hoa, uyên bác.
~ Nét tài hoa thể hiện trong việc dùng từ, sáng tạo hình ảnh, viết câu văn. Chẳng hạn
khi NT viết “Nhưng ông cố nén vết thương...như luồng sóng” thì 2 từ “méo bệch” vừa tả được
nỗi đau như méo mó cả gương mặt giống như từ “méo xệch”, đồng thời còn miêu tả được sắc
mặt tái nhợt đi vì đau của ông lái, vì dầm lâu trong nước (trắng bệch); hoặc khi NT viết “Nắm
chặt được cái bờm sóng...”- 2 từ “bờm sóng”, “cương lái” của NT dùng thật lạ, thật hay. Nó
khiến sóng nước và việc lái thuyền giống như đang điều khiển một con ngựa bất kham, người
điều khiển phải thật cao tay mới có thể thuần phục được. (bờm sóng= luồng sóng, cương lái-
cán chèo, cuống lái) => NLĐ trở thành viên dũng tướng đang tả xung hữu đột giữa một trận đồ
bát quái
Những hình ảnh so sánh mà NT tạo ra cũng thật độc nhất vô nhị. Để so sánh việc vượt
thác của ông lái đò, NT viết “cưỡi lên sóng thác sông Đà phải...”, hoặc “thuyền như một mũi tên
tre...”- những hình ảnh so sánh này vừa làm nổi bật sự hung dữ, nguy hiểm của thác nước vừa
làm nổi bật tốc độ phi thường của con thuyền dưới sự điều khiển của ông lái đò.
Cách viết câu văn của NT cũng rất độc đáo, có khi ông dùng câu ghép, câu trùng điệp
tầng tầng lớp lớp, nhưng cũng có lúc ông lại viết “Thế là hết thác”. Câu văn đột ngột giống như
một tiếng thở phảo nhẹ nhõm của người lái đò khi đã vượt hết những cửa ải nguy hiểm. TP đạt
được những thành tựu về nghệ thuật là một tp mà nội dung nằm ở hình thức, quan niệm của NT:
câu văn phải phải biết co duỗi nhịp nhàng. Đúng là với NT lao động nghệ thuật là lao động
khổ sai
Sự uyên bác của NT được thể hiện trong việc ông dùng tri thức của nhiều ngành, nhiều
môn trong trang văn của mình. Với kiến thức quân sự, võ thuật, thể thao... phong phú ông đã
biến cuộc vượt thác kia thành cuộc chiến đấu giáp lá cà đầy khốc liệt. Có rất nhiều từ ngữ, thuật
ngữ quân sự xuất hiện trong đoạn văn như: nắm chắc binh pháp, cửa tử, cửa sinh, tướng đá …,
chỉ huy, ….có thể nói nhà văn đã trở thành một nhà chỉ huy ngôn từ để lấy trong kho ngôn ngữ
của nhà võ, nhà binh vốc hào phóng lên những trang viết, để mỗi dòng chữ đều ngồn ngộn hơi
thở và sức sống. NT là một người nghệ sĩ chèo đò tài hoa trên dòng sông chữ nghĩa.
KẾT LUẬN
- NT đặc biệt yêu thích, trân trọng những người tài hoa nghệ sĩ, điều đặc biệt là các nhân
vật của ông, nhất là những nhân vật trong các tác phẩm viết sau cm tháng 8, dù làm bất cứ nghề
gì cũng thành nghệ sĩ trong công vệc của mình- điều đó thật đúng với ông lái đò.
- Qua hình tượng người lái đò SĐ, NT không chỉ bộc lộ được niềm tự hào trân trọng của
mình với con người VN mà còn truyền được niềm tự hào trân trọng ấy cho nhiều thế hệ bạn
đọc.
-------------------------------------------------------------

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)


1. Tác giả
– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông có sở trường đặc biệt về thể bút ký, tùy bút.
- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất
trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức
phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý… Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê
đắm, tài hoa
2. Tác phẩm
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là bài tùy bút xuất sắc viết tại Huế năm 1981, rút từ tập bút
ký cùng tên.
- Tập bút ký: gồm 8 bài ký, viết ngay sau năm 1975, trong đó thấm đẫm lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng. => cảm hứng ấy được thể hiện rõ nét trong tình yêu,
lòng tự hào sâu sắc của nhà văn đối với vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên đất nước,
với truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc, với những phẩm chất cách mạng kiên
cường của con người Việt Nam thời đại mới.
3. PHÂN TÍCH Hình tượng sông Hương
MB
- Nhắc đến Huế là nhắc đến dòng SH hiền hòa thơ mộng. Dường như dòng sông ấy đã trở
thành biểu tượng của xứ Huế mộng mơ, SH đã từ lâu trở thành nguồn thi cảm, nguồn cảm xúc
của biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn để rồi những cảm xúc ấy hiện lên thành những trang tuyệt
bút.
- Một trong những tác phẩm viết thành công về Huế, SH là tùy bút “Ai đã đặt tên...” của
HPNT. Tp là cái nhìn toàn diện về vẻ đẹp phong phú, đa dạng của SH. Qua vẻ đẹp nhiều sắc
thái, nhiều khía cạnh của SH, HPNT cũng thể hiện một ngòi bút bút kí phóng khoáng, tài hoa
uyên bác.
TB
* Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất cố đô, HPNT sớm mang trong mình một tình yêu
thiết tha, sâu nặng với SH. Trong các tác phẩm của ông thì những tp viết về Huế và SH có một
vị trí vô cùng quan trọng. Bài bút kí “Ai...” được ông viết vào tháng 1 năm 1981, là kết quả của
một quá trình trải nghiệm, khám phá, tìm hiểu và cũng là kết quả của một tình yêu lớn mà ông
dành cho SH và xứ Huế.
a. Dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý (Vẻ đẹp thiên nhiên)
Vẻ đẹp thiên nhiên của SH được khám phá theo chiều dài của không gian với nhiều dáng
vẻ, nhiều nét đẹp phong phú, sinh động => tg miêu tả vẻ đẹp của Hương theo thủy trình của nó.
* Dòng sông nơi thượng nguồn
– Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông
Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ
sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
+ Câu văn thể hiện sự thương mến của tg cho dòng sông quê hương, dòng sông
thuộc về một thành phố duy nhất- chỉ thuộc về mảnh đất, con người xứ Huế mà
thôi
+ Câu văn cũng thể hiện niềm tự hào sâu sắc khi đặt sông Hương ngang hàng với
các dòng sông đẹp trên thế giới, thậm chí còn kiêu hãnh khẳng định sự độc đáo của
dòng sông quê hương => thể hiện tình yêu đặc biệt của HPNT với sông Hương và
xứ Huế.
– Với trí tưởng tượng và niềm say mê, bằng những hình ảnh so sánh, nhân hóa, Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã làm nổi bật hình ảnh sông Hương ở khúc thượng lưu với vẻ đẹp hoang dại đầy
cá tính
+ Hình ảnh so sánh SH với “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với cả
chiều dài – chiều rộng hùng vĩ và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và niềm say mê của
nhà văn, bởi “trường ca” là áng văn chương, một bản nhạc có dung lượng lớn thường mang đậm
cảm hứng ngợi ca, còn “rừng già” lại là hình ảnh của những cánh rừng đại ngàn hoang sơ, bí ẩn,
mênh mông => hình ảnh gợi lên một sông Hương hoang dại, mênh mang nơi thượng nguồn.
+ Dòng sông chảy qua dãy Trường Sơn đã nhận vào dòng chảy của nó tất cả những sắc thái
phong phú, đa dạng của rừng già: khi “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”, khi “mãnh liệt qua
những ghềnh thác”, khi “cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”, và có lúc lại “dịu
dàng say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”…
~ Nhà văn đã viết những câu văn dài với nhiều vế ngắt liên tiếp, vừa thể hiện sự
đắm say của nhà văn khi khám phá SH, vừa gợi dậy cái dư vang của trường ca, cái
âm vang của rừng núi
~ các danh từ (bóng cây đại ngàn, ghềnh thác, đáy vực bí ẩn) góp phần gợi lên sự
hoang sơ, bí ẩn của SH giữa rừng già Trường Sơn
~ phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm (rầm rộ, mãnh
liệt, cuộn xoáy) như tái hiện được âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông
giữa cánh rừng đại ngàn
~ những hình ảnh đối lập (rầm rộ, cuộn xoáy... với dịu dàng, say đắm) đã giúp nhà
văn làm hiện lên hình ảnh dòng sông Hương nơi thượng nguồn với đồng thời cả
sức mạnh và vẻ đẹp.
=> SH hiện lên với những lớp sóng hung hãn cuộn trào bởi sự tiếp sức của thác
ghềnh, sóng gió, những xoáy hút dữ dội tiềm ẩn nỗi kinh hoàng của vực sâu, những
miên man, da diết của cỏ cây hoa lá nơi rừng đại ngàn => một dòng sông vừa tràn
đầy sức mạnh hoang sơ, man dại, khơi gợi những bí ẩn say mê, vừa ngời sáng vẻ
đẹp kiêu sa, rực rỡ.
+ Không dừng lại trong những miêu tả trực tiếp, nhà văn còn dùng phép nhân hóa khiến
dòng sông được miêu tả như một “cô gái Digan phóng khoáng và man dại”, “bản lĩnh gan dạ”,
“tâm hồn tự do và trong sáng”,
~ bằng hình ảnh “cô gái di gan” – tg đã liên tưởng, so sánh cái mạnh mẽ, phóng
khoáng của một bộ tộc yêu thích cuộc sống tự do, lang thang nay đây mai đó với
dòng chảy hoang dã, khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên quyến rũ
đắm say, tràn đầy sức sống
+ Sắc thái nhân hóa càng đậm nét khi nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở
hai khúc thượng lưu và hạ lưu, không phải bằng những kiến thức địa lý thông thường, mà trong
cái nhìn suy tư của nhà văn, sông Hương như một người con gái vốn mang sức mạnh hoang dã
của rừng già, đã được chế ngự để nhanh chóng tạo cho mình một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”
khi về đến Huế, giống như một người con gái, theo thời gian đã trưởng thành, đẹp hơn lên. Đó
là, sông Hương khi về tới Huế đã hoàn toàn trở thành “người mẹ phù sa” của “một vùng văn
hóa xứ sở”
NX: Những hình ảnh phong phú, ấn tượng, những liên tưởng tài hoa và thủ pháp nhân hóa
đặc sắc, từ ngữ giàu giá trị biểu cảm, câu văn súc tích (thể hiện sự mêm đắm, tài hoa), kiến thức
địa lý uyên bác… tg đã làm hiện lên dòng sông Hương ở khúc thượng nguồn với vẻ đẹp của
một sức sống mãnh liệt đầy cá tính => qua đó cho thấy cách cảm nhận, suy tư có bề sâu trí tuệ
của nhà văn.
=> nhà văn tìm thấy “chiếc khóa để mở cánh cửa tâm hồn” của người con gái SH, khám
phá phần tâm hồn sâu thẳm của SH – chiếc chìa khóa ấy chình là tình yêu của tg với dòng sông,
bằng tình yêu này, nhà văn làm cuộc hành trình ngược dòng sông tìm về thượng nguồn giữa
rừng già TS để khám phá, miêu tả
b) Sông Hương về tới đồng bằng
- Sau hành trình vạn dặm xa xôi từ rừng già Trường Sơn, người tình mong đợi đã đến đánh
thức người con gái đẹp. Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, sông Hương hiện ra như một
“cô gái đẹp nằm ngủ mơ màng” … => vẻ đẹp gợi cảm, mĩ lệ mà trần đầy sức sống
- Ra khỏi rừng già TS hoang dại, rừng núi thâm u, dòng sông như bừng thức sự trẻ trung và
niềm khao khát thanh xuân khi “chuyển dòng liên tục”, “vòng khúc quanh đột ngột”, “uốn mình
theo những đường cong thật mềm”, “vẽ một hình cung thật tròn… ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt
qua vực… đi giữa âm vang… trôi đi giữa hai dãy đồi…”
=> nhà văn sd tính từ, danh từ và cụm tính từ, cụm danh từ để gợi vẻ đẹp mềm mại, duyên
dáng, trữ tình
=>Trên phương diện địa lý, HPNT đã khám phá và phát hiện dòng chảy của SH không
theo một quy luật nhất định nào: lúc chảy theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn chén, vấp Ngọc
Trản; lúc lại chuyển hướng Tây Bắc “vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán”, rồi vẽ
hình cung theo hướng Đông Bắc... => cứ mỗi lần SH chảy qua địa điểm, địa danh nào đó, là
một lần độc giả được mở mang tầm mắt, được hiểu biết thêm về những khu vực địa lý, thiên
nhiên tươi đẹp của vùng đất cố đô.
=> Ngoài ra những câu văn dài nối tiếp nhau gợi lên dòng chảy miên man vừa mạnh mẽ
với “những dư vang của Trường Sơn” như còn phảng phất, vừa duyên dáng đầy nữ tính trong
những khúc lượn vòng mềm mại, nhiều khúc quanh, khúc quanh đột ngột – đồng thời, gợi hình
ảnh cô gái táo bạo, mạnh mẽ, chủ động tìm đến người tình – táo bạo nên có lúc hơi vội vàng,
hấp tấp – hình như rẽ nhầm lối mới quanh, ngoặt nhiều lần đến như vậy
=> Trong hành trình tìm kiếm của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng “dịu dàng, trí
tuệ”, SH vẫn có lúc cho người đọc thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của một bản lĩnh kiên
cường.
– Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cảm nhận độc
đáo của nhà văn, dòng sông phản chiếu được những vẻ đẹp phong phú của cảnh vật đôi bờ:
~ sông Hương đã góp nhặt sắc núi Ngọc Trản để đem đến cho mình màu “xanh
thẳm”;
~ sông Hương hiền dịu lượn quanh những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở
nên “mềm như một tấm lụa”, lấy ánh phản quang của những ngọn đồi, mây trời tây
nam thành phố khiến sắc nước SH cũng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, rực rỡ,
kiêu sa;
~ Khi SH chảy qua rừng thông, chảy qua “đám quần sơn lô xô”, SH đã thấm vào
lòng mình vẻ đẹp “u tịch”, “trầm mặc… như triết lý, như cổ thi”, và SH như tiếp
nhận được cả niềm kiêu hãnh âm u tỏa ra từ “giấc ngủ nghìn năm” của những vua
chúa trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ. SH như một tấm gương phản chiếu được
bề dạy lịch sử, văn hóa của Huế.
~ Khi thoát ra khỏi những vực sâu, những núi đồi “sừng sững như thành quách”,
những “đám quần sơn lô xô”, những lăng tẩm u buồn…, cái nhìn trìu mến và lãng
mạn của nhà văn đã thấy dòng sông đã như bừng sáng, tươi tắn khi gặp “tiếng
chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia”, giữa những “xóm làng trung du
bát ngát tiếng gà”.
=> Cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của
tiếng gà nơi thôn quê đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và đời,
như thực, như mơ…
=> Đoạn văn miêu tả đã cho thấy vẻ đẹp của sông Hương chính là sự hắt bóng kỳ diệu vẻ
đẹp của quần thể thiên nhiên mơ mộng xứ Huế – thiên nhiên Huế như nguồn phù sa tuyệt vời
bồi đắp vẻ đẹp nên thơ cho dòng sông Hương, “người con gái dịu dàng” của mình.
=> Sự kết hợp tài hoa hai bút pháp kể và tả trong cảm quan cắt nghĩa đã làm nổi bật vẻ đẹp
của sông Hương trong sự phối cảnh kỳ thú giữa dòng sông và cảnh sắc phong phú, đa dạng của
thiên nhiên xứ Huế. Bút kì của HPNT giàu chất trí tuệ.
c) Sông Hương khi về tới Huế: sông Hương hiện ra đẹp thơ mộng bởi những đường nét
uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị.
– Trước tiên, sông Hương được miêu tả trong “nét thẳng thực yên tâm” khi vào đến thành
Huế,
~ cách miêu tả đặc sắc của nghệ thuật nhân hóa gợi vẻ đẹp, cảm giác thanh thản,
bình yên của một dòng sông (người con gái) khi tìm thấy chính mình, tìm thấy tình
yêu của mình khi về với thành phố – một thành phố như chỉ dành riêng cho nó, tồn
tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ, vẫy gọi, luôn tin vào dòng sông thân yêu từ
miền thăm thẳm đại ngàn xa xôi; nghệ thuật nhân hóa => dòng sông trở nên gần
gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.

~ so sánh cầu Tràng Tiền “như vành trăng non”: chính xác kiến trúc, gợi mở đợi
chờ, gặp được SH vành trăng ấy sẽ tròn đầy, viên mãn
(GV: toàn bộ câu văn có màu sắc của chiếc cầu, có ánh sáng của bầu trời, có nét
dịu dàng của cô gái Huế - đó là vành trăng non mới hé, e ấp, dịu dàng như buổi yêu
đầu- những vành trăng mơ màng, vẫy gọi, mở ra cả một bầu trời yêu đương tha
thiết)
=> SH đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi trở về với thành phố
Huế
=> vẻ đẹp xứ Huế trong tổng thể rất hài hòa giữa thiên nhiên và con người
– Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng
quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ.
~ Đó là giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên “sông Hương uốn một cánh cung rất
nhẹ sang đến Cồn Hến”, với liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, “đường
cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu”. (Đây là một ss lạ, dùng tiếng “vâng” vốn trừu tượng – một cách biểu hiện sự
thuận tình, đồng lòng, “không nói ra” gợi e ấp, ngại ngùng => rất nữ tính, rất Huế;
SH sao giống cô gái với bờ môi cong đang e ấp, tình tứ, mê say
- Tác giả so sánh với các dòng sông nổi tiếng trên thế giới để thấy được vai trò của SH
trong đời sống tâm hồn của người dân xứ Huế. SH làm nên nét đẹp riêng cho Huế:
~ SH giống như sông Xen chảy vào thành phố Pari, sông Đa nuýp chảy vào
Budapet, SH cùng chảy qua Huế, làm nên nét đẹp riêng của Huế “những nhánh
sông đào mang nước SH tỏa đi khắp phố thị...” => chảy chậm thực chậm, cơ hồ
chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh
=> SH như muốn ở lại lâu hơn, gắn bó hơn với mảnh đất và con người cố đô (càng
yêu thì người ta lại càng có xu hướng hòa quyện vào nhau, muốn ở lại bên nhau
mãi mãi)
~ Vì có SH, mà trong tổng thể, Huế “vẫn giữ nguyên dạng của một đô thị cổ, trải
dọc hai bờ sông”, với những “xóm thuyền u sầm xúm xít...” “những ánh lửa thuyền
chài”, một vẻ đẹp cổ kính mà “không một thành phố hiện đại nào có thể có được”
=> Trải qua bao thăng trầm, SH hòa mình vào Huế để làm nên nét đẹp riêng cho
Huế, tình yêu giữa SH và Huế như đang thăng hoa để tôn lên nét đẹp của nhau.
- Tg còn so sánh với dòng Nê – va để khẳng định: đến với SH mỗi người được sống hòa
mình với thiên nhiên, với những cảm xúc thật sự trong tâm hồn mình mà không phải nuối tiếc
bất cứ điều gì.
<=> Những so sánh, nhân hóa đặc sắc, những liên tưởng mang đậm chất trữ tình khiến
SH, khi chảy vào thành phố, hiện ra thủy chung và tình tứ giữa thành phố quê hương, vừa dịu
dàng mềm mại như một bức tranh lụa huyền ảo, vừa tha thiết đắm say như một bản nhạc êm
đềm. => Bút kí của HPNT giàu trí tuệ, uyên bác, suy tư đa chiều..., hành văn hướng nội, súc
tích...
d. Sông Hương lưu luyến rời khỏi kinh thành: Dù gắn bó, nhưng theo quy luật của
muôn đời của dòng sông, SH cũng đã đến lúc phải giã từ Huế để về với biển. Cuộc chia tay của
SH với thành phố yêu quý rất lưu luyến, bịn rịn...
- Sông Hương theo hướng chính bắc ôm lấy đảo cồn Hến để lưu luyến ra đi giữa màu xanh
của tre trúc, của hàng cau và của khói sương Vĩ Dạ => Hình ảnh SH hiện ra huyền ảo, mơ
màng, hư thực như trong cõi mộng.
- Tưởng rằng SH cứ mơ màng như thế giữa sắc màu tươi xanh của VD, nhưng SH lại có
khoảnh khắc thảng thốt giật mình khi nó nhận ra mình sắp không còn được gần Huế, như “sực
nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”, nên nó đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu lần
cuối.
~ SH đã làm một cuộc ngược dòng ngoạn mục, dường như nó muốn kéo dài những
giây phút bên người tình, nó đã quay ngoặt lại bằng sức mạnh của tình yêu để gặp
thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ.
~ Sự lưu luyến này gợi liên tưởng đến sự bịn rịn của đôi tình nhân trước giờ li biệt.
Giây phút này chẳng khác nào khoảnh khắc của Thúy Kiều và Kim Trọng trong
đêm khi Thúy Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà KT để
tiếp tục tình tự.
~ Bởi thế, HPNT đã gọi khúc ngoặt bất ngờ của sông Hương là một “nỗi vương
vấn” “một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” – SH càng trở nên quyến rũ, say
đắm ...
=> Cái nhìn đắm say và đa tình của người viết khiến sông Hương hiện ra như một
người tình vừa dịu dàng, say đắm mãnh liệt, vừa chung thuỷ của đất cố đô. Nó đã
sống trọn vẹn với tình yêu bằng cả một trái tim yêu say đắm.
- Khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên của SH, xứ Huế => vẻ đẹp tràn đầy sức sống của đất nước và
con người VN => tình yêu thiên nhiên, xứ Huế, quê hương, ĐN của HPNT
2. Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc
Nhìn từ góc độ địa lý, sông Hương khúc thượng nguồn là “bản trường ca của rừng già”; về
tới Huế, sông Hương mang âm hưởng của một điệu slow chậm rãi sâu lắng, một bản tình ca tình
tứ ngọt ngào; nhưng nếu đặt trong quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương lại là bản anh hùng
ca hào hùng, bi tráng, là chứng nhân nhẫn nại, kiên cường của mảnh đất và con người xứ Huế
qua bao thăng trầm trong lịch sử.
– Là một trong số những dòng sông có mặt từ thuở đầu lập nước, sông Hương đã chứng
kiến và tham gia hầu hết vào những biến cố quan trọng vừa oanh liệt vừa đau thương trong suốt
chiều dài của lịch sử của dân tộc.
~ Sông Hương xuất hiện trong lịch sử trước hết với vai trò một dòng sông biên
thùy của đất nước các vua Hùng,
~ trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng sông “viễn châu”, dòng
sông ở chốn xa xôi của Tổ quốc, SH đã cùng con người tham gia vào những trận
chiến đấu oanh liệt để bảo vệ chủ quyền nước Đại Việt thân yêu, SH có tên là Linh
Giang – dòng sông thiêng gắn bó và bảo vệ biên cương
~ Dòng sông cũng đã từng “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ” trong thế kỷ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với
máu của bao cuộc khởi nghĩa”.
~ Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của thế kỷ XX, sông Hương lại đóng
góp sức mạnh của mình để làm nên chiến thắng trong Cách mạng Tháng Tám
1945; đến mùa xuân Mậu Thân năm 1968, sông Hương kiên cường chịu đựng nỗi
đau với những mất mát không thể bù đắp khi thành phố Huế bị bom Mỹ tàn phá,
khi những di sản văn hóa bị hủy hoại. Cũng vì thế, sông Hương đã trở thành một
“nét son” trong lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc.
=> Đặt sông Hương trong chiều dài lịch sử từ thời dựng nước của các vua Hùng tới thời
đánh Mỹ, nhà văn đã thể hiện không chỉ tình yêu mà còn là niềm tự hào sâu sắc về dòng sông
quê hương, tự hào về mảnh đất và con người xứ Huế, tự hào về con người Huế rất kiến cường,
rất giàu lòng yêu nước.
Tác giả coi sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang” – sông Hương đã
mang trong mình những âm vang hào hùng, bi tráng của lịch sử với cả những chiến
công và những đau thương của con người xứ Huế.
Sông Hương còn được coi là dòng sông “của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc” – nghệ thuật ẩn dụ đã làm hiện lên vai trò của một chứng nhân lịch sử, đồng
thời thể hiện sự miêu tả rất tinh tế đã gợi ra những sắc thái khác nhau cùng tồn tại
trong một dòng sông, của HPNT.
=> Vì “sử thi” còn được gọi là “anh hùng ca”, là thể loại gắn với những chiến
công, gợi đến chiến tranh; nhưng “màu cỏ lá xanh biếc” lại là sắc màu mang chất
trữ tình của cuộc sống, gợi sức sống, tình yêu và sự bình yên => Sông Hương vì
thế là một dòng sông trữ tình, thơ mộng, vừa là thiên anh hùng ca hào tráng, vừa là
khúc tình ca tươi mát, dịu dàng.
=> SH như là một người con gái của mảnh đất cố - người con gái anh hùng; khi
đất nước, quê cần, lên tiếng gọi, người con gái sẵn sàng dâng hiến tuổi thanh xuân,
cuộc đời mình để chiến đấu bào vệ quê hương, “tự hiến đời mình làm một chiến
công”; khi đất nước hòa bình, trở về cuộc sống đời thường, SH lại “làm một người
con gái dịu dàng”- vẫn góp nét đẹp riêng làm nên xứ Huế dịu dàng, mộng mơ...
3. Sông Hương với những vẻ đẹp văn hóa
* SH là dòng sông âm nhạc
- Chất nhạc của dòng sông cũng được thể hiện qua những âm thanh của mặt nước dòng
sông và cuộc sống đôi bờ.
Đó là âm thanh gợi cõi vô thường huyễn hoặc của “tiếng chuông chùa Thiên Mụ
ngân nga tận bờ bên kia”, âm thanh nồng ấm thân yêu của “những xóm làng trung
du bát ngát tiếng gà”, điệu hò, giọng hò… ; âm thanh không lời của một tình yêu e
ấp, âm thanh của chính dòng sông được ví như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”, “tiếng nước rơi bán âm”, tiếng “những mái chèo khua đập nước”…;
- Qua cách cảm nhận độc đáo và lãng mạn, nhà văn đã coi sông Hương là cội nguồn sinh
thành ra toàn bộ nền âm nhạc cổ điển xứ Huế, cảm hứng đề ND viết lên những câu thơ tuyệt bút
về tài đàn của TK
~ đó là giai điệu du dương của Tứ đại cảnh, một bản nhạc cổ về Huế tương truyền
do Tự Đức sáng tác.
~ Sự thơ mộng của sông Hương trong đêm, tiếng nước rơi trầm bổng từ những mái
chèo khuya thánh thót khiến nhà văn liên tưởng đến “phiến trăng sầu” của Nguyễn
Du trong những đêm dạo thuyền trên sông Hương, đó là cảm hứng để ND viết
những câu thơ tuyệt bút về tài đàn của TK:
“Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
=> Sông Hương thực sự trở thành nguồn cảm hứng vô tận của âm nhạc bởi chính
dòng sông cũng là bản nhạc êm đềm, những khúc tình ca xao xuyến lòng người.
– Chất nhạc còn hiện ra qua cách nhà văn miêu tả dòng chảy của sông Hương:
~ “một dòng sông trôi đi chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”,
trong đó từ nhịp ngắt, các yếu tố điệp cho đến so sánh đều góp phần làm đậm thêm
nhịp chảy chậm rãi, yên ả của dòng sông; SH đang nhảy một điệu slow
(MR) có lúc nhà văn không giấu được tình yêu thiên vị của mình khi so sánh dòng
chảy băng băng của sông Nêva lúc xuân về với “điệu chảy lặng tờ” của dòng sông
xứ Huế, nhà văn còn cho rằng chỉ dòng chảy êm lặng ấy mới giúp con người cảm
nhận được tâm hồn dịu dàng, đa cảm của một dòng sông “ngập ngừng như muốn
đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng” – nét
đẹp tâm hồn của người Huế
* SH là dòng sông của thi ca
– Nhà văn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương, một dòng thơ không bao giờ lặp lại
mình (mỗi tp lại có nét riêng khi viết về SH), mỗi thi nhân đều tìm cho mình một cảm hứng mới
mẻ, độc đáo về dòng sông, thậm chí mỗi lần đến SH, các thi nhân lại có cảm xúc khác nhau.
Điều đó không chỉ xuất phát từ cảm nhận chủ quan của thi sĩ mà còn vì những vẻ đẹp phong
phú, biến ảo của dòng sông. Người con gái – sông Hương ấy khơi gợi những cảm hứng khác
nhau cho các nhà thơ,
~ thường ngày, SH xanh biếc - với cảm nhận của TĐ, SH lại “dòng sông trắng...”
~ có lúc SH “tha thướt, mơ màng”, có lúc mang vẻ đẹp hùng tráng như “kiếm dựng
trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát,
~ khi mang “nỗi quan hoài vạn cổ” (SH mang vẻ đẹp của hoài niệm với nỗi buồn
mênh mang) trong thơ Bà Huyện Thanh Quan,
~ Có khi lại mang “sức mạnh phục sinh tâm hồn” trong những bài thơ Tố Hữu
(Tiếng hát sông Hương)
=> Khi nhắc đến sức mạnh phục sinh tâm hồn của sông Hương, nhà văn đã ngưỡng
mộ ngợi ca: “Dòng sông quả thực là Kiều, rất Kiều” – niềm trân trọng thân yêu đã
biến một danh từ chỉ tên người được tính từ hóa, khẳng định vẻ đẹp SH: vẻ đẹp đa
đoan – nhưng rất trong sáng, kiên cường, thủy chung làm say lòng người của một
dòng sông “trong veo” có thể cuốn đi tất cả những ô uế của cuộc đời: “Không gian
sặc sụa mùi ô uế Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi”
* Sông Hương là dòng sông của những phong tục tập quán, lưu giữ những nét đẹp văn
hóa ngàn đời của mảnh đất cố đô:
- là những xóm thuyền u sầm xúm xít với những cây đa cây cừa cổ thụ, linh hồn mô tê xưa
cũ, lập lòe ánh lửa thuyền chài trong đêm sương... - gợi nét riêng trong nhịp sống, cách sống
của người dân hai bên bờ SH => nét đét đẹp cổ kính mà không một thành phố hiện đại nào có
thể có được
- là dòng sông gắn với những điệu hò mênh mang, da diết,
- là những đêm rằm tháng 7 với lễ hội hoa đăng,
- là màu sương khói trên sông Hương giống như màu áo cưới của các cô dâu trong tiết
sương giáng.
- Dòng sông có cả huyền thoại về tên sông; SH có tên là Hương Giang- nước SH rất thơm
– Đoạn trích kết lại bằng câu hỏi của một nhà thơ: “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”,
+ câu hỏi bâng khuâng này cũng là nhan đề của bài bút ký, đã làm rõ cảm hứng cắt nghĩa,
+ cảm hứng của tình yêu và niềm ngưỡng mộ say mê với dòng sông bởi tình yêu đích thực
luôn khát khao đi đến tận cội nguồn.
+ Dòng sông được ai đó gọi là sông Hương – cái tên gợi cảm nhận thơm tho, thanh quý,
vừa lãng mạn vừa quý giá,
+ Câu hỏi gợi đến những ẩn dụ của nhà văn về người con gái sông Hương vừa đẹp người,
rất quyến rũ (có chút “lẳng lơ kín đáo”) mà đẹp nết (thật “dịu dàng”, “mãi chung tình với quê
hương xứ sở”) => SH có tên đẹp vì nó rất đẹp (ở mọi góc nhìn)
* Nhận xét chung:
– Từ tình yêu say đắm với dòng sông quê hương, từ những hiểu biết phong phú về văn hóa,
lịch sử, địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm hiện lên những vẻ đẹp khác nhau của sông
Hương trong một văn phong tao nhã, hướng nội, qua đó người đọc nhận ra tình yêu và sự gắn
bó tha thiết của một trí thức yêu nước với cảnh sắc quê hương và lịch sử dân tộc.
- Đoạn trích bài bút ký mang đậm những nét đặc sắc của thể tùy bút và PCNT của HPNT,
vì chất tự do phong túng và hình tượng cái “tôi” tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
một hồn thơ thực sự trong văn xuôi với trí tưởng tượng lãng mạn và những xúc cảm sâu lắng.
=> Nét nổi bật trong phong cách của HPNT qua hình tượng SH là phóng túng, tài hoa, lãng
mạn, giàu chất thơ và giaù vốn tri thức:
+ Nét phóng túng, lãng mạn, tài hoa, giàu chất thơ:
~ Nét phóng túng trong ngòi bút của HPNT thể hiện ở điểm nhìn trần thuật rất linh hoạt,
chủ động. Chính thể văn bút kí đã cho phép người viết thoải mái, linh hoạt trong cách trần thuật,
miêu tả để bộc lộ cách nhìn, cách cảm của mình về đối tượng. HPNT đã khéo léo dẫn dắt người
đọc đi theo bước chân và dòng cảm xúc của mình để đến với SH, khi ngược thượng nguồn, khi
xuôi hạ lưu, lúc về thành phố (1). Ông còn phát hiện vẻ đẹp SH qua nhiều góc độ từ cảnh sắc
thiên nhiên đến văn hóa, lịch sử (2); Sự suy tư đa chiều: đang ngắm SH lặng lờ trôi qua kinh
thành HPNT lại đưa người đọc theo dòng hoài niệm (1) của một chàng nghệ sĩ lãng du để tới
Lêningrat ngắm dòng Nêva nước chảy băng băng. Đang ôn lại những chiến công của SH ông lại
khéo léo đưa ra lời nhận xét phẫn nộ của một nhóm giáo sư trong một tp khoa học về cuộc
chiến tranh không quân ở Đông dương và lời phát biểu đầy xúc động của Đại tướng VNG trong
hội nghị tổng kết chiến tranh ở Huế (2).
“nghị luận sắc bén”: “sự mất mát của Huế... nền văn minh”
=> NT từng nhận xét “tùy bút là lối chơi độc tấu”, trong bài tùy bút này, HPNT giống như
người nhạc trưởng hướng dẫn người đọc đi theo những giây phút thăng hoa của mình.
~ Nét tài hoa, lãng mạn, giàu chất thơ trong ngòi bút của HPNT được thể hiện trong việc
sáng tạo hình ảnh, sử dụng ngôn từ và viết câu
Thế mạnh của HPNT là sáng tạo những hình ảnh so sánh độc đáo và tài hoa, có lúc ông
ví SH như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại, có khi lại như người mẹ phù sa dịu
dàng, trí tuệ, có lúc là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, lúc là nàng Kiều trong đêm tình
tự. Từ thượng nguồn đến hạ lưu khi miêu tả SH ông luôn so sánh với hình ảnh người con gái
đẹp với nhiều sắc thái, nhưng tất cả đều toát lên vẻ đẹp mãnh liệt mà dịu dàng, sâu sắc, đa tình
mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình. Khi ví SH với người đẹp, với giai nhân chính là
lúc HPNT bộc lộ nét lãng mạn, đa tình và rất đỗi tài hoa của mình.
~ HPNT còn rất nhiều hình ảnh giàu chất thơ: khi miêu tả cầu Trường Tiền nhìn từ phía
ngoại ô Kim long tg đã so sánh như “vành trăng non”- đó là so sánh vừa chính xác vừa gợi
cảm. Chính xác bởi cầu Trường tiền được kiến trúc theo kiểu vòng cung. Gợi cảm vì vành trăng
non gợi lên một vể đẹp mềm mại, thanh tao, duyên dáng. Hơn thế, hình ảnh vành trăng non còn
gợi một vẻ đẹp khuất lấp mà càng nhìn càng thấy say đắm, là vành trăng non đầu tháng, e ấp
đợi chờ, khát khao sự tròn đầy viên mãn. Khi miêu tả khúc quanh của SH tác giả viết “đường
cong ấy làm cho SH như mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”- hình
ảnh so sánh này vừa tả được cái dáng vừa bắt được cái hồn của con sông. Hai tiếng “đường
cong” gợi dáng hình một người con gái đẹp, quyến rũ, còn tiếng “vâng” không nói ra kia diễn tả
sự thuật tình, e ấp khi người con gái tìm được người tình muôn thuở... thật là độc đáo, tài hoa.
~ Trong cách sử dụng ngôn ngữ: nếu tùy bút của NT thiên về gây ấn tượng mạnh với rất
nhiều động từ thì ngôn ngữ của HPNT lại dịu ngọt êm đềm giàu chất thơ, tạo cảm xúc bay
bổng, lâng lâng. Ông sử dụng rất nhiều tính từ gợi cảm để tả SH như: dịu dàng, say đắm, cong,
mềm, chậm, ngập ngừng, lặng lờ, yên tĩnh, u tịch, vẫn vương...
Ông sử dụng hàng loạt những cụm danh từ để gọi SH – xứ Huế một cách trìu mến như:
người tình mong đợi, người gái đẹp, người tài nữ, điệu slow tình cảm, người con gái dịu dàng...
Cách dùng ngôn từ như thế tạo cho tp một chất thơ đậm đà.
HPNT chủ yếu sử dụng những câu văn trùng điệp có sự kết hợp hài hòa giữa bằng, trắc,
nhịp ngắn, nhịp dài đan xen, khi đọc lên có lúc như âm điệu 1 bài thơ trữ tình, có khi kéo dài
mãi như một điệu hò Huế vang xa...
+ Giàu vốn tri thức: 1 yêu cầu không thể thiếu với người viết tùy bút là vốn tri thưucs
phải uyên bác. Qua việc khác họa hình tượng SH, HPNT đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu này. Ông
đã vận dụng tri thức của nhiều bộ môn, lĩnh vực để khám phá, phát hiện SH ở nhiều khía cạnh.
~ Kiến thức địa lý: với vốn tri thức địa lý thực tế sâu sắc, phong phú, tg đã đưa người đọc
qua nhiều điểm mà SH chảy qua, từ rừng già Trường Sơn đến núi Kim Phụng, Ngọc Trản... Cồn
Hến... ngoại ô Vĩ Dạ...; ông còn cho biết SH đổi dòng ở đâu, với sự trải nghiệm ông còn đưa
người đọc đến với nhiều dòng sông trên thế giới như sông Xen của Pari, sông Đa nuyp của Bu
đa pét... để thấy rằng điệu chảy lững lờ của SH ít dòng sông nào có được.
~ Kiến thức lịch sử: với vốn lịch sử sâu sắc, HPNT cho ta thấy SH là dòng sông của
những chiến công vang dội, ghi lại những khoảnh khắc chói lọi của dân tộc.
~ Với kiến thức âm nhạc HPNT đã đưa ta đến với những điệu hò Huế, với nên âm nhạc
cổ điển của Huế để thấy rằng đó là nền âm nhạc mang nét đặc sắc riêng của Huế gắn liền với
SH.
~ Với cái nhìn của một họa sĩ, tg thấy SH biến ảo lung linh với những gam màu rực rỡ
thay đổi theo nhịp thời gian: sớm xanh...
~ Với vốn văn hóa dân gian sâu sắc, tg còn giúp ta hiểu hơn về tên gọi SH, cái tên ấy gắn
liền với một huyền thoại, đó là người làng Thành trung ...- cách giải thích này khiến SH trở nên
đẹp hơn, huyền diệu hơn, bí ẩn hơn. Nó khiến những người yêu SH, yêu Huế muốn tìm kiếm,
khám phá hơn nữa.
KẾT LUẬN
- Bài tùy bút này đã đưa người đọc đến với SH để khám phá những nét đẹp phong phú, đa
dạng. Đồng thời thưởng thức một ngòi bút bút kí tài hoa uyên bác của tác giả.
- Qua tác phẩm, ta thấy 1 HPNT giàu trải nghiệm, có tâm hồn phong phú, có tình yêu sâu
nặng, thiết tha với quê hương xứ sở. Chình tình yêu ấy đã truyền cho HPNT 1 cảm xúc mãnh
liệt để rồi hiện lên thành những trang viết tài hoa,
- giúp người đọc có thêm cái nhìn về SH, thêm yêu và tự hào về non sông gấm vóc VN.

4. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng
sông?”

* Một cái “tôi” uyên bác với vốn tri thức, vốn sống phong phú, đa dạng, sâu sắc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức, hiểu biết từ nhiều lĩnh vực, nhiều
phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, thơ ca, âm nhạc… cùng với vốn sống, sự trải nghiệm
thực tế để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương, của mảnh đất, con người xứ Huế. (Ví dụ:
vốn tri thức về địa lí trong cách miêu tả tỉ mỉ, chính xác dòng chảy của Hương Giang qua những
địa danh khác nhau ; vốn kiến thức về lịch sử khi viết về sông Hương trong mối quan hệ với
lịch sử từ thời xa xưa khi còn là đất nước các vua Hùng…; vốn văn hóa khi khám phá vẻ đẹp
của sông Hương và xứ Huế ở phương diện văn hóa….).

* Một cái “tôi” tài hoa, tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng bay bổng

– Cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã trở thành niềm cảm hứng, đề tài
của nhiều người nghệ sĩ: Sông Hương được khám phá từ nhiều góc nhìn, trong các mối quan hệ
với địa lí, lịch sử, văn hóa, trong mối quan hệ với cuộc đời… Từ đó, dòng sông hiện lên với vẻ
đẹp phong phú: Khi thì mãnh liệt, phóng khoáng, man dại, hừng hực sức sống; khi thì dịu dàng,
đắm say, mơ màng; lúc lại trầm mặc cổ kính, sâu lắng…Đặc biệt, dòng sông luôn được hình
dung như một người con gái đẹp với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.

– Tài năng nghệ thuật khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương và cảnh sắc, con người xứ Huế:
Trí tưởng tượng với những liên tưởng phong phú, bay bổng thể hiện qua các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ…; ngôn ngữ giàu chất thơ; lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm, tài
hoa…

* Một cái “tôi” gắn bó máu thịt với sông Hương, xứ Huế, với quê hương, đất nước

– Tác giả miêu tả sông Hương bằng một tình yêu đắm say; hiểu thấu nỗi niềm của nó trong
từng khúc, từng đoạn của dòng chảy; đưa sông Hương đến với mọi người với tất cả vẻ đẹp của
nó…Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là “người tình mong đợi” của sông Hương.

– Từ tình yêu sông Hương, tác giả cũng thể hiện tình yêu, sự gắn bó thiết tha với con người
và văn hóa xứ Huế.

– Trách nhiệm, lòng tự hào của một công dân đối với đất nước khiến Hoàng Phủ lật từng
trang lịch sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương. Những trang
văn của ông chảy vào tâm hồn người đọc tình yêu mê say với dòng sông, với văn hóa, con
người xứ Huế để người đọc thêm yêu hơn non sông, đất nước mình.

* Đánh giá

Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích là sự hội tụ cái tài, cái tâm của nhà
văn. Đó là cái “tôi” mang nặng tình cảm yêu thương với dòng sông Hương, với Huế, với quê
hương đất nước mình. Đó cũng là cái “tôi” uyên bác, tài hoa trong nghệ thuật thể hiện của thể
bút kí.

-------------------------------------------------------------

VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)

1. Tác giả:
- Tên khai sinh là Nguyễn Sen; Sinh năm: 1920. Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông; Viết văn
từ trước Cách mạng tháng 8 – sáng tác với nhiều thể loại. (Tác phẩm thành công biểu: Dế mèn
phiêu lưu kí – đồng thoại); sau cm tháng 8 thành công với tp VCAP

- Là nhà văn lớn, cây bút văn xuôi hàng đầu của nền VHVN hiện đại.

- TH có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền =>
“Tô Hoài như một từ điển sống, một pho sách sống” (Trần Đăng Khoa).

- Có biệt tài trong việc miêu tả thiên nhiên và phong tục; lối trần thuật hóm hỉnh sinh động;
vốn từ vựng giàu có => tác phẩm có sức lôi cuốn, lay động người đọc.

- là người gắn bó với cuộc sống và con người miền núi => tác phẩm viết về đề tài miền núi
trở thành những sáng tác quan trọng và có giá trị của TH

2. Tác phẩm:

– VCAP (1952) là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc của TH; Được in
trong tập “Truyện Tây Bắc” - Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.

– Nội dung:

+ Cốt truyện: xoay quanh cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ (ở Hồng Ngài, ở Phiềng Sa)
=> bị áp bức, bốc lột, hành hạ cả về thể xác và tinh thần, nhưng họ vùng lên đấu tranh (từ tự
phát đến tự giác) để giải phóng số phận

+ TH đã phản ảnh chân thực cuộc sống, quá trình mà người lao động TB đấu tranh chống
lại chúa đất, thực dân

+ TH thương cảm cho số phận người lao động TB; khám phá, ngợi ca vẻ đẹp sức sống,
khát vọng sống của người TB

=> lần đầu tiên người đọc đến một tác phẩm viết chân thực, xúc động về người miền núi
TB

- Nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm là Mị, một phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh, nhưng có
vẻ đẹp tâm hồn và có sức sống mãnh liệt, dám đứng lên đấu tranh giải phóng số phận mình, để
đến với tự do, hạnh phúc.

- Phần 1: Mị ở Hồng Ngài- bị áp bức, bóc lột, hành hạ, tưởng như mất đi sức sống, tê liệt
tinh thần phản kháng, nhưng Mị là người có sức sống tiềm tang, vùng lên đấu tranh giải phóng
số phận; phần 2: Mị ở Phiềng Sa – 2 vc được giác ngộ cách mạng, trở thành du kích.

II. PHÂN TÍCH

1. Phân tích nhân vật Mị

MB
- TH là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi hiện đại VN. Trước CM tháng 8
ông đã thành công tác phẩm “Dế mèn...”, sau cm ông lại khẳng định tên tuổi của mình qua
nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biêu là VCAP

- VCAP xoay quanh số phận cuộc đời của Mị- một người con gái có cuộc đời đầy tủi nhục
nhưng cũng có sức sống tiềm tàng, bằng sức sống ấy, MỊ đã tự vùng lên đấu tranh để giải phóng
số phận mình

- Qua nhân vật này, TH đã ca ngợi sức sống, khát vọng của người dân miền núi trước cm
tháng 8: từ trong đau thương tìm đường đến với hạnh phúc, tự. Cũng qua đây, nhà văn đã khẳng
định ngòi bút miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật sắc sảo, tinh tế

TB:

1. GTC

- hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, khái quát giá trị tư tưởng của tp

- Sức sống tiềm tàng: là một dạng sức sống tiềm ẩn, nó tồn tại âm thầm, sâu kín trong tâm
hồn, nó thường ẩn đằng sau vẻ bề ngoài thẫn thờ, vô cảm của nhân vật; sức sống ấy là khát
vọng một thời nhưng do hoàn cảnh vùi dập mà khát vọng ấy vùi sâu trong câm lặng; nhưng nó
không hề bị mất đi, nó vẫn âm thầm, bền bỉ - giống như viên than hồng vùi trong bếp tàn, chỉ
cần cơn gió thổi đến là viên than hồng sẽ bùng lên thành ngọn lửa; sức sống tiềm tàng của Mị
giống như cây hoa ban hoa đào TB, mùa đông thì khẳng khiu, như đã héo khô, nhưng đến khi
mùa xuân về, cây hoa... lại bừng nở sắc hoa, tràn đầy sức sống

=> Mị là người có sức sống tiềm tàng: Mị vốn có sức sống mãnh liệt, nhưng bị bắt làm dâu
gạt nợ ở nhà TL PT thì sức sống ấy bị vùi dập, mất đi; đến đêm tình mùa xuân, đêm mùa đông –
gặp được những điều kiện thuận lợi, sức sống của Mị lại hồi sinh, trỗi dậy mạnh mẽ, mãnh liệt

2. Phân tích

=> Nhân vật Mị hiện lên trong cách giới thiệu của tác giả ở ngay đầu câu chuyện gợi lên
cho người đọc một sự lôi cuốn "Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có
một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay
sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi".
- Vị trí, xuất hiện của Mị đã nói lên tất cả, ngồi quay sợi gai bên tảng đá, cạnh tàu ngựa.
Con người ngang hàng với những vật vô tri, mang thân phận trâu ngựa, thậm chí không bằng
trâu ngựa.
- Hình ảnh của Mị đối lập với khung cảnh giàu có, tấp nập ở nhà TL PT, người đọc, ai ở xa
về đều thấy tò mò, đặt câu hỏi: cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt
lúc nào "buồn rười rượi". Khuôn mặt buồn gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh
=> tg quay về quá khứ kể chuyện: trước khi về làm dâu gạt nợ, nguyên nhân Mị bị bắt về
làm dâu gạt nợ, vì sao Mị buồn, không nói...
=> kiểu mở đầu tp, kiểu giới thiệu nhân vật gây ấn tượng

* Mị trước khi bị bắt về làm dâu gạt nợ ở nhà Thống lí.


- Là cô gái xinh đẹp, tài hoa. Cô thổi sáo, thổi lá hay “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá
cũng hay như thổi sáo”, trai làng vì mê tiếng thổi lá mà ngày đêm thổi sáo đi theo Mị, trai đến
“đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”

- Mị là người con gái có tính cách mạnh mẽ, tự chủ, khát vọng sống tự do, hạnh phúc:

+ Cũng như nhiều cô gái khác, Mị khát khao yêu và đã có người yêu theo sự lựa chọn của
trái tim mình.

+ Trước món nợ của cha mẹ và ý định bắt Mị về làm dâu gạt nợ của nhà thống lý Pá tra,
Mị đã tha thiết xin được ở nhà cuốc nương làm ngô trả nợ thay cho bố mẹ, xin cha “đừng bán
con cho nhà giàu” – cô muốn tự quyết định số phận của mình, không chấp nhận biến mình
thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu, sống tự do, hạnh phúc bằng chính đôi bàn tay lao động
của mình

- Mị cũng là một cô gái có trái tim vị tha, nhân hậu.

Ở nhà với cha mẹ, Mị là người con hiếu thảo, nết na, chăm chỉ. Mị tự nguyện làm việc trả
nợ thay cho bố mẹ; khi bị bắt về làm dâu gạt nợ, không chịu nổi kiếp sống đọa đầy, đau khổ Mị
muốn giải thoát bằng cái chết, vậy mà vì thương cha Mị đã không đành lòng chết, Mị gạt nước
mắt, chấp nhận quay về nhà thống lý, chấp nhận sống tiếp kiếp sống nô lệ nhọc nhằn, khổ ải, bị
đày đọa, vùi dập.

=> Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc, có sức sống mãnh liệt, có những
phẩm chất đáng trân trọng và xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

* Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ ở nhà thống lý Pá Tra, làm vợ A Sử.

- Nguyên nhân:

+ Bố mẹ Mị vay tiền bố thống lí Pá Tra, mỗi năm nộp lãi một nương ngô, mẹ Mị chết vẫn
chưa trả hết nợ. Vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ nghèo, Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà
thống lí. Người con gái tài năng, xinh đẹp, Mị đã trở thành một món hàng gạt nợ không hơn.

+ Nhà thống lý PT lợi dụng hủ tục “cướp vợ” – AS đến lừa, cướp Mị về cúng trình ma =>
chi tiết này mang ý nghĩa hiện thực và tố cáo sâu sắc: với thủ đoạn cho vay nặng lãi của bọ
thống trị miền núi, lợi dụng hủ tục, thần quyền => biến những người lao động tự do thành người
ở gạt nợ, con dâu gạt nợ

– Những ngày đầu làm dâu, Mị cay đắng, tủi hờn cho số phận của mình cho nên có đến
mấy tháng trời “đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc hình như là cách duy nhất Mị có thể thể hiện nỗi
cay đắng, tủi nhục, uất ức, phán kháng và tự thương cho cố phận của mình. Rồi một đêm, Mị
trốn về nhà, quỳ lạy cha định đi chết với nắm lá ngón giấu trong tay áo.

Nhìn bề ngoài, “muốn chết” là hành vi tiêu cực của kẻ chán đời, chán sống.. nhưng thực
chất đó lại là biểu hiện của lòng yêu đời, đó chính là sự phản kháng mạnh mẽ với thực tại của
một người con gái có ý thức sâu sắc về khát vọng và cảnh ngộ của mình. Chính lúc tìm đến với
cái chết là lúc Mị đòi được sống một cách đúng nghĩa nhất => với Mị nếu không được sống tự
do, hạnh phúc thì thà chết còn hơn.

* Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, cuộc đời của Mị bắt đầu mở ra với những
trang tăm tối nhất. Với bao nỗi khổ đau cả về thể xác lẫn tinh thần

- Về thể xác:

+ Cũng như nhiều người đàn bà trong nhà thống lý Pá tra, Mị bị bắt về để rồi biến thành 1
công cụ lao động biết nói. Khối công việc khổng lồ cứ luân chuyển, tuần hoàn như một
quy luật cuốn Mị đi theo những tháng năm mòn mỏi, “suốt năm suốt đời”, “mỗi năm mỗi
tháng, mỗi mùa lại làm đi làm lại”, “cả đêm, cả ngày”. Có khi là cõng nước, chẻ củi, hái
thuốc phiện, bẻ ngô ... thái cỏ ngựa, dệt vải, xe đay... dù làm việc gì cũng “gài sẵn một bó
đay trong cánh tay để tước thành sợi” ... cô gái xinh đẹp ngày nào, giờ đây chưa một phút
được ngơi tay, phải làm việc quần quật

=> công việc tuần hoàn cả ngày lẫn đêm khiến Mị nghĩ mình không bằng con trâu
con ngựa. Mị trở thành 1 công cụ lao động biết nói, bị vắt tàn cạn sức lao động mà
chẳng bao giờ dám nói một lời.

+ Không chỉ bị bóc lột sức lao động mà Mị còn bị đánh đập 1 cách tàn nhẫn.

Trong đêm tình mùa xuân, đúng lúc trai gái nô nức hẹn hò, đúng lúc tiếng sáo gọi bạn
yêu lửng lơ bay ngoài đường, Mị đã bị A sử trói đứng trong góc nhà đến nỗi nước mắt giàn
giụa mà không làm sao lau đi được => phải nói chưa có một người chồng nào trói vợ như
A Sử, trói vợ mà hắn như đang trói một bó củi hay một con vật vậy. Trói vợ xong, hắn tắt
đèn, đi ra, khép cửa buồng lại và tiếp tục đi chơi. .. TH đã miêu tả một cách rành rọt, kĩ
lưỡng từng động tác để người đọc thấy sự thản nhiên của A Sử, cái ác đã thấm vào máu,
nhân tính thành thú tính. Hiểu được như thế để thấy Mị khổ nhục như thế nào trong nhà
thống lý Pá Tra.

Sau cả đêm bị trói đứng như thế, khi vừa được cởi trói, dù đau đớn Mị vẫn phải vào
rừng tìm thuốc dấu xoa cho chồng. Phần vì mệ mỏi, phần vì thể xác ê ẩm, có lúc Mị mệt
ngủ thiếp đi, bị AS giơ chân đạp vào thẳng vào mặt

Chưa hết, trong những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, Mị thổi lửa hơ tay bên
bếp, A sử đi chơi về thấy vậy cũng vô cớ đạp Mị ngã ngay ra cửa bếp.

=> thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận của một con vật trong tay một tên chủ độc
ác

- Về tinh thần: không chỉ bị đày đọa về thế xác mà Mị còn bị vùi dập hủy hoại về tinh
thần.

+ Trước hết là Mị bị đầu độc tinh thần bởi thần quyền, khi bắt Mị về là đem cúng trình
ma, mà đã cúng trình mà nhà nó rồi thì “chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Hắn
đã dùng sức mạnh của thần quyền để trói chặt đời Mị vào bóng ma vô hình để rồi Mị cứ
luôn bị ám ảnh bởi bóng ma ấy.
+ căn buồng nơi Mị ở tối tăm, chật chội, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông
ra cũng chỉ thấy mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay nắng- căn buồng chẳng khác
nào địa ngục giữa chốn trần gian, nó giam hãm, vùi dập, hủy hoại sức sống và khát vọng
của người con gái trẻ tuổi.

+ Sống trong nhà thống lý PT lúc nào cũng người ra người vào tấp nập thế nhưng
Mị không tìm được sự chia sẻ đồng cảm nào, Mị hoàn toàn cô độc.

=> Cuộc đời làm dâu gạt nợ của Mị là c/đ trăm ngàn, đắng cay, khổ nhục. Ở đó Mị đã bị
đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần. Cha con thống lí đã chôn vùi tuổi xuân, đã bóp chết mọi khát
vọng ước mơ của Mị không thương tiếc. Mị không có quyền làm người, Mị không phải là 1 con
dâu, Mị chỉ là 1 con vật không hơn không kém.
=> Từ nỗi khổ nhục của Mị, TH đã lên án, tố cáo sự tàn bạo tột cùng của cha con thống lí
cũng là của PK miền núi.
- Với tất cả những nỗi đau về thể xác và tinh thần ấy, Mị dần mất đi sức sống, tê liệt tinh
thần phản kháng:
+ Khi cha mất, Mị cũng không còn nghĩ có thể ăn lá ngón tự tử => sức phản kháng dường
như đã hoàn toàn tê liệt, ngủ yên
+ Ở lâu trong cái khổ “Mị quen khổ rồi” – tưởng như mình là con trâu, con ngựa, chẳng
qua đổi từ tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác => không thể đổi phận => chấp
nhận, cam chịu
+ Mị dần trở thành cái bóng lặng lờ, vô cảm, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”,
mặt lúc nào cũng cúi xuống buồn tười rượi
+ Mị mất ý niệm về không gian, về thời gian, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm
tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một
màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai.
=> thật không ở đâu mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu,
sau quá trình bị vùi dập, bị hành hạ, con người lại tự coi rẻ mình một cách tuyệt vọng như
vậy
=> chiều sâu nhân đạo của ngòi bút Tô Hoài đã nêu lên một sự thực đau lòng: con người
bị áp bức, nếu cứ bị hành hạ, vùi dập, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến một lúc nào
đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng

- Đến đây, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tp được thể hiện thật sâu sắc. Nó tố cáo
tội ác ghê gớm của giai cấp thống trị miền núi không phải chỉ ở sự bóc lột sức lao động, ở sự
đánh đập tàn bạo mà sâu sắc hơn là chúng hủy diệt sức sống, khát vọng của con người

* Sức sống của Mị hồi sinh mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân

- Để chuẩn bị cho việc trỗi dậy sức sống của Mị, Tô Hoài đã miêu tả những yếu tố ngoại
cảnh tác động đến tâm hồn cô.

+ Tác nhân đầu tiên chính là vẻ đẹp, sức sống của mùa xuân. “Trong các làng Mèo
đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Trai gái,
trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi kèn và nhảy múa => Không
khí mùa xuân rộn ràng về trên rẻo cao đã khiến lòng Mị xốn xang những cảm xúc.
+ Tác nhân tiếp theo là âm thanh tiếng sáo. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình
yêu đôi lứa, khát vọng hạnh phúc, quá khứ - tương lai hạnh phúc, tự do, khát vọng sống

=> Khi nghe tiếng sáo đầu núi vọng lại, Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
Một cô Mị bao ngày câm lặng, lầm lũi giờ bỗng cất tiếng hát, dù đó chỉ là những tiếng nhẩm
thầm, thì vẫn là một tín hiệu về sự đổi thay, dấu hiệu của sức sống hồi sinh. Bằng việc nhẩm
thầm theo lời bài hát, cô đã trở về với quá khứ, nhớ lại những giai điệu ngọt ngào từ thuở xa
xôi, đã bắt đầu mở lòng mình để đón nhận và hòa vào âm thanh nồng nàn của tình yêu trong
tiếng sáo “Ta không có con trai con gái/ Ta đi tìm người yêu”

- Rồi Mị uống rượu. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”.

=> Cái cách Mị uống rượu được nhà văn đặc tả đầy ấn tượng. Không phải là uống để thưởng
thức mà là uống như để quên đi phần đời cay đắng vừa qua, uống để nén bao nhiêu tủi cực , uất
hận vào lòng. Mị như muốn dùng cái men say của rượu để dìm đi những nuối tiếc, khát khao và
phẫn uất đột ngột bùng cháy trong lòng; muốn mượn cái đắng cay của rượu làm vơi đi những
cay đắng trong lòng.

=> Nhưng uống để cho quên thì lại càng nhớ. Một khi rượu không còn đủ sức làm người ta
quên thì nó lại quay lại thức tỉnh cả con tim và lý trí. Rượu là chất men đánh thức phần đời đã
mất, nó góp phần làm sống lại một quá khứ đầy ắp niềm vui sướng… nhất là lúc đang lịm đi vì
men rượu tai Mị lại nghe văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng – từ “văng vẳng” không chỉ
gợi tiếng sáo ở xa, đó còn là những âm thanh của hoài niệm đưa Mị về với tiếng sáo và bài hát
của người bạn tình năm xưa.

- Chén rượu, tiếng sáo mùa xuân đã đánh thức sức mạnh trong con người Mị, giúp cô can
đảm thoát ra thực trạng bị trói buộc, cầm tù về thể xác lẫn tinh thần. Người đàn bà tưởng như
không còn sợi dây liên hệ với cả hiện tại và quá khứ, không thiết nghĩ đến tương lai, nay “lịm
mặt ngồi đấy”, “sống về ngày trước” với bao khát vọng tình yêu, tuổi trẻ.

=> Tiếng sáo gợi nhắc thời thanh xuân của Mị: “Ngày trước Mị thổi sáo giỏi” “Có biết bao
nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Âm thanh tha thiết của tiếng sáo đã tác
động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị, khơi dậy những kỉ niệm về tuổi thanh xuân bấy lâu bị vùi lấp
trong cuộc sống làm dâu gạt nợ đầy cơ cực cay đắng. Tiếng sáo như ngọn gió len lỏi vào sâu
thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức khát vọng hạnh phúc lứa đôi, thổi bùng lên đốm lửa sống
tưởng chừng đã nguội tắt trong Mị.

=> Tâm hồn Mị như thăng hoa trong ngập tràn cảm xúc. Từ trong chết mòn, chai lì vô
cảm, Mị bỗng thấy “phơi phới trở lại”. Cô “đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày
trước”. Đó phải chăng là niềm vui của một kẻ tìm lại được chính mình. Hồi tưởng về mùa xuân
tươi đẹp thời con gái cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh.

- Rồi cô ý thức được Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Nhận thấy mình còn
trẻ và còn muốn được đi chơi có nghĩa là trong Mị rất khao khát tự do. Lần đầu tiên, sau những
tháng ngày mất hết ý niệm về thời gian, không gian, mất hết ý thức về bản thân, bây giờ Mị đã
có ý thức trở lại. Mị nhận ra giá trị và khát vọng của mình, thấy mình có quyền được sống, được
đi chơi Tết như bao người phụ nữ có chồng khác. Lòng ham sống trong Mị đã trỗi dậy. Khát
vọng hạnh phúc thuở nào trong Mị đã bừng tỉnh.
- Trong giây phút ấy, Mị còn thầm so sánh mình với người đàn bà khác để nhận ra sự bất
công mà mình phải chịu “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi…”. Mị nhận ra tình trạng phi lý
trong cuộc hôn nhân của mình “không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Cái thực tế
đau khổ mà tưởng như cô đã quen, đã thờ ơ chấp nhận đến mức không còn tưởng đến sự chết
nữa, nay bỗng trở nên phi lý tới không thể chấp nhận. Mị hiểu được hoàn cảnh đau xót, tủi
nhục, bất hạnh của mình.

- Đỉnh điểm của cảm xúc và nhận thức ấy là Mị lại muốn “chết ngay”. Chết để không
phải nhớ lại quá khứ và những ước mơ, khao khát của mình. Bởi “nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa
ra”…

=> Muốn chết là biểu hiện của sự thức tỉnh lòng ham sống, lòng khát khao hạnh phúc, sự
phản kháng với hoàn cảnh, thể hiện tâm trạng đau đớn bởi sự xung đột gay gắt giữa một bên
là khát vọng sống đã thức tỉnh với một bên là thực tại bất hạnh vẫn đang hiện hữu.

=> Khi bắt đầu nhận ra nỗi cay đắng, phẫn uất trong lòng mình, cảm thấy không thể tiếp tục
chấp nhận kiếp sống tủi cực đau đớn, càng nghĩ càng thấy “nước mắt ứa ra” cũng có nghĩa là
Mị đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi, vô cảm suốt bao nhiêu năm nay, sức sống hồi sinh với
những cảm xúc rất con người đã thức dậy.

- Tuy nhiên, vào lúc Mị muốn chết nhất ấy thì “tiếng sáo vẫn bay lơ lửng ngoài
đường”. Cả không gian ngập tràn tiếng sáo. Tiếng sáo lửng lơ mời gọi “Anh ném pao.... rơi
rồi”

+ nghe tiếng sáo vọng lại, Mị ngồi nhẩm thầm theo bài hát của người đang thổi

+ Mị say, sống với tiếng sáo, lòng vui sướng thấy mình trẻ lại, muốn đi chơi

+ tiếng sáo mời gọi, thúc giục Mị đi chơi

=> tiếng sáo là biểu tượng cho quá khứ, khát vọng…

- Tiếng sáo tha thiết như tiếng gọi tha thiết của tình yêu và cuộc sống đã thôi thúc Mị
hành động.

+ Mị đến góc nhà “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”.

=> Sức sống, khát vọng sống, kv hạnh phúc hồi sinh nên hành động của Mị không chỉ thắp
lên ngọn đèn vật lý để thắp sáng căn buồng mà còn bao hàm ý nghĩa Mị đang thắp sáng cuộc
đời quá ngột ngạt, tăm tối của mình. Mị thắp lên ánh sáng để xua đi bao âm u, lạnh lẽo nơi
ngục tối đang giam hãm tuổi thanh xuân và khát vọng hạnh phúc của Mị, cũng là thắp lên
ngọn lửa lòng, ngọn lửa sống trong tâm hồn Mị. Trong đầu Mị luôn chập chờn ý nghĩ: Mị
muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Ý nghĩ ấy thúc giục Mị tiếp tục hành động nối tiếp hành
động.

+ Mị quấn lại tóc, lấy cái váy hoa, tay Mị làm mà đầu Mị dập dờn tiếng sáo.
Từ một người đàn bà cam chịu, lầm lũi, ý thức tê liệt, cả cái chết để giải thoát cũng không
muốn, bây giờ lại muốn làm đẹp , muốn đi chơi…đây là cả một quá trình thay đổi lớn. Ta thấy
Mị đang dần dần hồi sinh với những cảm xúc rất chân thực, những mong muốn rất chính đáng
của một con người- niềm mong ước được sống một cuộc sống tươi sáng, mới mẻ, đẹp đẽ hơn,
đồng thời đó cũng là những hành động đấu tranh lặng lẽ, tự phát nhưng rất quyết liệt của Mị với
số phận.

<=> những câu văn ngắn mang nhịp điệu gấp gáp như thể Mị đang nhanh chóng, dứt khoát
thực hiện hành động giải phóng cho mình, rũ bỏ khỏi cường quyền áp bức, thoát khỏi căn
buồng kín mít, thoát khỏi địa ngục trần gian đã giam hãm tuổi xuân của cô- cho dù là chỉ trong
một đêm tình ngày Tết.

=> Tô Hoài đã miêu tả thành công công những xung đột gay gắt trong lòng Mị, đó là xung
đột giữa lòng yêu đời và sự chán đời, giữa lòng ham sống với sự tuyệt vọng vì bị cầm tù,
đày đọa. Sức sống, lòng ham sống đã sống dậy, nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân
vật không hề đơn điệu, dễ dàng. Một thời gian dài, Mị sống trong sự giao thoa giữa quá khứ và
hiện tại, quá khứ đẩy đưa Mị đi- hiện tại trì níu lại. Những sức sống cứ lớn dần, ám ảnh tuổi
xuân cứ mạnh dần, cho đến khi nó chiếm trọn tâm hồn Mị. Tới lúc đó, Mị hành động như một
kẻ mộng du, không thấy, không nghe A Sử nói

- Giữa lúc lòng yêu đời, sự ham sống, sức hồi sinh trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là
lúc nó bị quật xuống phũ phàng nhất.

A Sử thản nhiên, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà bằng cả một thúng sợi đay và
bằng cả một mái tóc thanh xuân của cô. Hành động tàn bạo ấy của hắn đã trói cái
khát vọng vừa mới manh nha, của người phụ nữ tội nghiệp. => Sợi dây trói là hiện
thân hung tợn của một lối hành xử đầy tính dã man thời trung cổ, hiện thân của sự
vùi dập quyền sống chính đáng, tự do và hạnh phúc của con người.

Việc A Sử tắt đèn, “khép cửa buồng lại” một cách lạnh lùng tàn nhẫn như dập tắt
luôn sự sống vừa mới bùng lên trong Mị, phong kín cánh cửa tâm hồn mà Mị vừa
hé mở.

- Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột nhà ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt
giữa niềm khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo, lạnh lùng. Lúc bị trói,
Mị vẫn còn như sống trong tâm trạng mê say với tiếng sáo ngoài kia. Mị như quên mình đang bị
trói, quên những đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút khao cuộc sống, khát khao được
hưởng tình yêu, hạnh phúc mãnh liệt, Mị đã "vùng bước đi".
Nhưng, thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt “chân tay đau không cựa
được”, nên dẫu mong ước mãnh liệt đến mấy, Mị cũng không vượt qua nổi. Hai biểu tượng của
ước mơ và thực tại hiện ra trong hai âm thanh trái ngược, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết
và tiếng chân ngựa đạp vào vách khô khan. "Mị không nghe tiếng sáo nữa chỉ còn nghe tiếng
chân ngựa đạp vào vách (...). Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” – thực tại phũ
phàng đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng.
- Mị còn nghĩ đến số phận của những người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, nhớ
về câu chuyện người đàn bà đời trước bị trói đến chết trong nhà thống lý, nghĩ thế Mị sợ quá,
Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết

=> Ý nghĩ về cái chết lúc này khiến Mị sợ, có lẽ từ nay Mị không thể yên ổn với suy nghĩ
buông xuôi, cam chịu để tiếp tục sống cảnh trâu ngựa cho đến chết. Khát vọng hạnh phúc tình
yêu tuổi trẻ đã hồi sinh, lại bị vùi dập và đang chờ đợi một ngọn gió thổi bùng lên lần thứ hai

NX => Mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu nồng nàn đã khơi dậy sức sống mạnh
mẽ trong tâm hồn Mị. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt ấy đã bùng lên thành ngọn lửa khao khát
sống, khao khát tự do, hạnh phúc. Mặc dù ngọn lửa ấy bị AS dập tắt một cách tàn bạo, sự trỗi
dậy của tâm hồn Mị trong đêm tình mùa xuân chưa thể đổi thay cuộc đời và số phận nhưng đó
chính là những biểu hiện tích cực thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Mị. Kết cục ấy cũng nói lên
rằng, chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể tự giải thoát cho mình; nhưng nó
vẫn hứa hẹn một cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Qua Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân, TH đã không chỉ bộc lộ được tấm lòng
nhân ái, thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc mà ông còn bộc lộ năng lực miêu
tả, phân tích tâm lý nhân vật xuất sắc, ông như hóa thân vào để nói hộ nhân vật của mình những
nỗi niềm sâu kín, những khát vọng âm thầm. Cách để TH làm nổi bật tâm trạng của nhân vật là
kết hợp tả cảnh với tâm cảnh, kết hợp giữa cử chỉ, hành động với độc thoại nội tâm. Đặc biệt là
TH đã sáng tạo được 1 chi tiết nghệ thuật đặc sắc có hiệu quả cao để diễn tả sức sống, khát
vọng trong tâm hồn đó là tiếng sáo. Tiếng sáo được miêu tả từ xa đến gần giống như sức sống
mỗi lúc một mãnh liệt trong tâm hồn Mị, ban đầu nó lấp ló ở ngoài đầu núi rồi văng vẳng đầu
làng, lửng lơ bay ngoài đường, dập dờn trong đầu Mị, và khi Mị biết mình đang bị trói thì tiếng
sáo cũng ngừng lặng giống như sức sống trong Mị bị vùi dập phũ phàng.

=> cũng qua tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân, TH đã bày tỏ niềm tin tưởng đồng
thời ngợi ca sức sống mãnh liệt của con người. Cho dù bị đầy đoạn đến tột cùng đau khổ, nhưng
khát vọng và sức sống ấy vẫn âm thầm mà bền bỉ để rồi khi gặp được điều kiện thuận lợi sức
sống ấy, khát vọng ấy lại bừng lên. Đó cũng là biểu hiện cảu giá trị nhân đạo

* Mị trong đêm mùa đông cắt dây cởi trói cứu A Phủ và chạy trốn cùng A Phủ

–Trước cảnh A Phủ bị trói đứng, lúc đầu Mị là người hoàn toàn vô cảm, vô hồn – với
người khác và với chính mình; cô thản nhiên thổi lửa hơ tay, “A Phủ có là cái xác chết đứng
đấy”, Mị cũng thế thôi. Đôi mắt mở trừng trừng của A Phủ chẳng gợi cho Mị một điều gì. Mị
thờ ơ, không đoái hoài đến cảnh một người con trai bị trói, bị đói và rét đang chờ chết bên cạnh
mình; bản thân bị A Sử “đánh ngã ngay xuống cửa bếp” cô cũng dửng dưng, không thấy bất
bình, chẳng hề sợ hãi, “đêm sau, Mị vẫn ra ngồi sưởi như đêm trước”…

- Một lần trở dậy, khi "ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A
Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại".

+ Dòng nước mắt của AP, dòng nước mắt bất lực tuyệt vọng khi phải đối mặt với cái chết
đến rất gần, làm cho một cái gì đó chưa chết hẳn trong lòng Mị đột ngột thức dậy, Mị nhớ
lại đêm năm trước … Mị không còn sống với ngọn lửa nữa. Lửa vạc đi mà cô không thổi. Mị
chìm vào quá khứ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, nhiều lần khóc
nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được.

GV: Dòng nước mắt của A Phủ là một chi tiết có ý nghĩa nghệ thuật. Một
người con trai khỏe mạnh, cường tráng bây giờ hốc hác thê thảm với “hai hõm má
đã xám đen” khi bị trói đứng chờ chết. Một người con trai ngang tàng, mạnh mẽ
bây giờ phải lặng lẽ khóc, dòng nước mắt không thể kiềm chế vì quá đắng cay,
không thể che giấu vì không tự lau đi được. Dòng nước mắt đàn ông “lấp lánh”
trong ánh lửa khiến nỗi thống khổ, sự đau đớn và bất lực cùng cực của con người
trở nên hiện hữu sống động.

+ Nỗi đau đớn tủi cực trong quá khứ đã giúp Mị nhận ra nỗi đau đớn tủi cực của AP đêm
nay, Mị đã cảm nhận nỗi đau của AP bằng nỗi đau của chính mình, sự đồng cảm trong cảnh ngộ
đã dẫn dắt cho trái tim thờ ơ, vô cảm của Mị rung động xót thương… “Trời ơi, nó bắt trói đứng
người ta đến chết…Người kia việc gì mà phải chết”. Từ chỗ thương mình, Mị đã đồng cảm,
xót thương cho AP

+ Từ thương mình, thương AP, Mị trỗi dậy lòng căm thù cha con thống lí.

Đoạn độc thoại nội tâm của Mị đã thể hiện sự giằng xé, xung đột trong tâm hồn
người phụ nữ trẻ. Tô Hoài quả là một nhà văn rất có biệt tài trong việc miêu tả nội
tâm nhân vật, đặc biệt là những trạng thái cảm xúc miên man của Mị. Hình dung ra
cái chết của của mình, nhớ tới người đàn bà ngày trước ở nhà thống lý… nghĩ đến
cái chết của AP sắp tới…Mị chợt nhận ra tất cả những cái chết ấy đều có nguyên
nhân từ sự tàn bạo của cha con nhà thống lý PT, lòng thương thân thức dậy tình
thương người, lòng nhân hậu dẫn đến sự căm hờn, phẫn uất “chúng nó thật độc
ác”. Với Mị, Mị có thể cam chịu “ta là thân đàn bà…”, nhưng lòng Mị lại bất bình
“người kia việc gì phải chết thế”

 Bao nhiêu năm tháng sống trong sự thờ ơ vô cảm, có lẽ đây là ý nghĩ đầu tiên Mị
dành cho người khác, bất bình thay cho người khác.
 Lòng thương người, sự bất bình trước một hiện thực tàn nhẫn đến vô lý đậm nét
hơn khi Mị nhận rõ tình cảnh của AP “chỉ đêm mai là người kia chết…. phải chết”.
Những từ “chết” xuất hiện liên tiếp trong tâm trí Mị cũng là một biểu hiện rõ nhất
của niềm ham sống một lần nữa trở lại với Mị, Mị kinh hoàng khi nghĩ đến cái
chết, phẫn uất, bất bình khi nghĩ tới cái chết của những người hiền lành lương
thiện, những con người cùng cảnh ngộ với mình.

+ Cũng vì thế, khi Mị tưởng tượng ra cảnh AP trốn thoát còn cô sẽ bị trói đứng vào cột nhà
để thế mạng nhưng “nghĩ thế Mị vẫn kg thấy sợ.” Có lẽ lúc này, tình thương người và lòng
căm thù kẻ bạo tàn độc ác đã chiến thắng nỗi sợ hãi trong con người Mị.

 Như vậy, nguyên nhân khiến Mị cởi trói cho A Phủ là do sự thúc đẩy của cảm giác
bất bình, phẫn uất, do sự thức tỉnh của lòng nhân hậu, thương người, sự đồng cảm
với những người cùng cảnh ngộ, là sự vùng dậy tự phát, đột ngột mà quyết liệt
trong sự bức bách khắc nghiệt của hoàn cảnh.
+ Nó thúc đẩy cô đi tới hành động: cắt dây trói cứu AP. Cô lấy con dao nhỏ cắt nút dây
mây giải phóng cho A Phủ

 Nhưng có lẽ, khi rút dao cắt dây trói cho AP, Mị vẫn như đang làm theo sự mách
bảo của tiềm thức mơ hồ của lòng nhân hậu vốn có, vì thế nên khi gỡ hết được dây
trói ở người AP thì Mị cũng hốt hoảng, có lẽ lúc ấy, lí trí của Mị mới chợt nhận ra
tiềm thức đã xui khiến cô nổi loạn làm một việc thật ghê gớm

+ Giải thoát cho AP, Mị đồng thời cũng thoát ra khỏi trạng thái vô cảm, lặng lẽ, trái tim
nhân hậu hồi sinh thì đồng thời khát vọng sống cũng hồi sinh. Mị không còn vô cảm với nỗi đau
khổ của người khác thì đến lúc cũng không thể vô cảm với nỗi đau khổ của chính mình.

Khi nhìn thấy A phủ “quật sức vùng lên chạy” thì Mị “đứng lặng trong bóng tối”. Giây
phút đứng lặng ấy chính là giây phút trong lòng Mị ngổn ngang, rối bời mâu thuẫn với những ý
nghĩ ở lại hay ra đi. Mị đã tận mắt nhìn thấy một con người bên bờ vực của cái chết đang mạnh
mẽ thoát ra khỏi chốn địa ngục trần gian, tìm cho mình sự sống, khiến Mị đột ngột cũng hiểu ra
điều mình cần làm ngay đó là tự giải thoát đời mình khỏi sự thống trị, đày ải, trói buộc tàn bạo
của cường quyền và thần quyền suốt bao nhiêu năm qua

+ Khát vọng và sức sống trong Mị đã lấn át suy nghĩ ở lại, Mị chạy vụt ra đuổi theo A Phủ
với câu nói dồn dập trong gió lạnh “A Phủ cho tôi đi”, “ở đây thì chết mất”.

=> khi cầm dao cắt dây trói cho A Phủ Mị không hề sợ chết. hành động táo bạo ấy chỉ
nhằm một mục đích là cứu A phủ, nhưng khi A Phủ đã chạy đến với khoảng trời tự do thì Mị lại
sợ chết. Đó chính là biểu hiện của nỗi khát sống, của khát vọng tự do.

Tác giả đã miêu tả những hành động của Mị trong những câu văn ngắn cùng
những động từ mạnh mẽ, gấp gáp “Mị cũng vụt chạy ra… nói…. thở…” => không
còn những độc thoại nội tâm, dường như hành động của Mị nhanh hơn cả lý trí,
những hành động chịu sự chi phối của khát vọng sống vốn luôn tồn tại đâu đó
trong tiềm thức, khát vọng sống đã đột ngột thức dậy mãnh liệt, bất ngờ trong
lòng Mị. Người đàn bà lặng lẽ, vô hồn, vô cảm ấy đang hối hả tự cứu mình, người
đàn bà câm lặng như tảng đá ấy đã cất lên tiếng nói xin được giải thoát “AP cho
tôi đi…”, người đàn bà hơn một lần muốn chết ấy nay lại khẩn thiết mong được
sống, mong được theo AP bởi nỗi kinh hoàng trước cái chết “ở đây thì chết mất”.

Bước chân “băng đi” của Mị như đang đạp đổ mọi áp chế, mọi cường quyền =>
khát vọng sống đã thức tỉnh hoàn toàn như sự thức tỉnh khát vọng tuổi trẻ, tình
yêu trong đêm tình mùa xuân và không còn dừng lại ở ảo giác hay khát khao mà
trở thành những hành động quyết liệt, triệt để chống lại số phận, chống lại vòng
cương tỏa độc ác của cha con nhà thống lý, giành lại cho mình quyền được sống,
quyền tự do.

- Mị cắt sợi dây hữu hình trên người AP và chính lúc ấy cô cũng đã cắt luôn hai sợi
dây vô hình lâu nay trói buộc thân phận mình. Đó là sợi dây của thần quyền và cường
quyền. Cứu AP cũng có nghĩa là Mị tự giải thoát cho chính mình. Chạy theo AP là Mị đã chạy
theo tiếng gọi của sự sống và tự do, hạnh phúc.
Từ đêm tình mùa xuân đến đêm mùa đông cứu A Phủ là một hành trình dài Mị tìm
lại chính mình để rồi tự giải thoát mình khỏi những gông xiềng của cường quyền
bạo lực và thần quyền hủ tục. Nếu trong đêm tình mùa xuân, sức sống và khát
vọng của Mị đã không chiến thắng được hoàn cảnh phũ phàng thì trong đêm mùa
đông này sức sống và khát vọng ấy đã đủ mạnh, đủ lớn để không có gì dập tắt
được.

Có thể nói, hành động Mị cởi trói cho A Phủ rồi tự giải phóng mình là kết quả của
một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, nó là cả một quá trình diễn biến tâm lý phức tạp
trong tâm hồn của một cô gái miền núi. Sức sống ấy đã vượt lên tất cả đưa Mị đi từ
đêm mùa đông giá lạnh, tối tăm đến với chân trời mới ngập tràn ánh sáng và hạnh
phúc

=> Sức sống mãnh liệt của Mị tiêu biểu cho sức sống và khát vọng tự do của
người lao động nghèo miền núi Tây Bắc.

* Bằng lối kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, bằng khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo,
miêu tả nhân vật qua một số nét chân dung lặp lại, khai thác dòng suy nghĩ và tiềm thức chập
chờn của nhân vật, Tô Hoài xây dựng thành công nhân vật Mị. Hình tượng nhân vật Mị tiêu
biểu cho số phận đau thương và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc,của ng dân
lao động TB dưới sự áp bức của bọn chúa đất. Họ là những con người đã từ đau thương vươn
lên đấu tranh tự gp cuộc đời mình.

Qua nhân vật Mị, nhà văn thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông đã đồng cảm với số
phận bất hạnh của con người, nhất là người phụ nữ , đồng thời căm phẫn lên án, tố cáo sự tàn
bạo của giai cấp thống trị miền núi. Không chỉ thế, nhà văn còn ngợi ca những vẻ đẹp của người
dân lao động TB, đó là khát vọng sống, khát vọng tự do, tư tưởng đấu tranh phản kháng và khả
năng làm CM để tự giải phóng cuộc đời mình. Đâylà nét mới trong tư tưởng nhân đạo của Tô
Hoài cũng như của VH giai đoạn 45-75.

---------------------------------------------

2. Nhân vật A Phủ

* Lai lịch hoàn cảnh:

+ Lúc nhỏ bơ vơ đau bất hạnh: cha mẹ, anh chị em chết trong trận dịch bệnh đậu mùa, chỉ
con sót lại một mình A Phủ. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem
xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A
Phủ đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang
mùa khác.

* Phẩm chất, tính cách

+ A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề
“biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ
chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi
săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh
khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi
trẻ. “Ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng
cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở
các làng trong rừng”. Bởi vậy, AP được nhiều người con gái trong làng mê, trở thành niềm ao
ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt
trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Tuy nhiên với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt
của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không
ruộng nương, không tiền bạc ấy, nên không thể lấy nổi vợ, không thể có gia đình, hạnh phúc.

* Cuộc đời đau thương tủi nhục: – Bị phạt vạ và làm nộ lệ cho thống lí: Do tính tình phóng
khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi
hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A
Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới
tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ cho thấy sự khảng khái, không cúi đầu nhẫn nhục trước
kẻ xấu. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo,
dã man hơn cả thời trung cổ. Bọn thống lí và chức việc kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh
đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi… Cứ mỗi lần
bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên,
môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như hổ mang phù”. Như vậy dưới ách
thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật
thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van
xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. Cuối
cùng, với cách xử kiện quái gở, người phát đơn kiện cũng là người xử kiện, A Phủ đã thống lí
Pá Tra buộc làm người ởkhông công để trả nợ “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng
bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Cũng như Mị, A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị
khinh rẻ, bị ngược đãi bởi chúa đất Hồng Ngài.

– Cuộc đời nô lệ: A Phủ bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót,
bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.Bi thảm
và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn
tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống
lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc và
cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ lại. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho
A Phủ “đứng chết ở đấy”. Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm
mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ
đã nằm bên bờ vực của cái chết. “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp
chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng.Tuy vậy, với khát
vọng mãnh liệt, với bản chất gan góc, sẵn có, A Phủ không chịu chờ cái chết mà tìm mọi cách
tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên
tay”. Khi bị thống lí trói chặt hơn, APtuyệt vọng, những tưởng chết đói chết rét trong nhà thống
lí, nhưng được sự giải cứu của Mị, “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi” trốn khỏi
Hồng Ngài.

– Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt vừa vạch
trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ, mặt
khác bày tỏ sự đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, đồng
thời ca ngợi sức vươn lên mạnh mẽ của họ để tự giải phóng cuộc đời mình.

– Kết luận: Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ hiện lên thật sinh động. Nhà văn
miêu tả không qua những diễn biến tâm lí của nhân vật mà chủ yếu thông qua hành động.
Cùng với Mị, cuộc đời A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận, phẩm chất và con đường đi của
người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh
sáng rực rỡ của nhân phẩm, ánh sáng tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ,
sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

3. Kết luận về nội dung và nghệ thuật:

* Nghệ thuật

+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét
(Với Mị, tác giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây
ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập
chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản
đơn).

+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng
(cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu
ăn thề,…).

+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất
thơ.

+ Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

+ Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.

4. Tổng kết

Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời
tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến,
đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ,
khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc
đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ
chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước
thử thách của thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

----------------------------------------

VỢ NHẶT (Kim Lân)

1. Tác giả:

- Tên thật: Nguyễn Văn Tài


- Quê: huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh
- Xuất thân: dân ngụ cư (mẹ dân ngụ cư lấy bố là dân bản xứ, bản thân cùng vợ từ quê ra
Hà Nội, đẩy xe bò ăn cháo cám…), chỉ được học hết bậc tiểu học, vừa làm thợ vừa viết văn
(Liên hệ với Macxim Gorki, Nguyên Hồng…) KL là bài học về sáng tạo, tài năng.
- Tham gia hội Văn hóa cứu quốc.
b. Sáng tác
- Thế giới nghệ thuật: Khung cảnh nông thôn và người nông dân lam lũ, chịu thương chịu
khó, gắn bó tha thiết với cách mạng.
- Thành công nổi bật:
+ Viết hay về thú phong lưu đồng ruộng (liên hệ Nguyễn Tuân): Chọi gà, Con mã mái,
Đôi chim thành.
+ Hiểu sâu sắc cảnh ngộ, nỗi lòng, tâm lí của người nông dân nghèo.

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết
ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo trong kháng chiến
chống Pháp. Hoà bình lập lại (1954), dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện
Vợ nhặt. Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).

* Tóm tắt: Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là
dân ngụ cư, trong một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo
Tràng chỉ sau một câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang
tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó
của mình và thương con, thương nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo
nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để
cứu sống mình.

3. PHÂN TÍCH
3.1. Tình huống truyện:
MỞ BÀI
- Đề tài về nông thôn, người nông dân là một đề tài lớn trong VH HT PP trước 1945, đồng
thời cũng là một đề tài lớn của VH sau cách mạng. Nhiều nhà văn tên tuổi đã gặt hái được thành
công ở đề tài người nông dân như VTP với Vỡ đê (1936), NTT với Tắt đèn (1937), NCH- Bước
đường cùng (1938), NC với Chí Phèo (1941)…
- KL là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, cũng là nhà văn viết về nông thôn và người nông
dân. Nói như Nguyên Hồng: KL là một nhà văn một lòng đi về với đất với người, với thuần hậu
nguyên thủy của cuộc sống nông thôn. Vốn là con đẻ của đồng ruộng, KL thấu hiểu sâu sắc về
nông thôn, về người nông dân, ông có hướng khai thác đề tài riêng, độc đáo: phản ánh vẻ đẹp
của người nông dân, những người sống cực nhọc, nghèo khổ mà vẫn chan chứa tình người, yêu
đời, trong sáng, lạc quan.
- Vợ nhặt là tp tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của KL cũng như hướng khai thác đề tài
này
- Một trong những thành công của truyện ngắn Vợ nhặt là đã xây dựng được một tình
huống truyện độc đáo, hấp dẫn. Từ tình huống truyện ta thấy được giá trị hiện thực và chiều sâu
nhân đạo của ngòi bút KL
THÂN BÀI
(1). Về tình huống trong truyện ngắn:
- Tình huống là sự kiện nổi bật nhất mà khi nhà văn đặt nhân vật của mình vào đó sẽ giúp
nhân vật bộc lộ tính cách, số phận, qua đó thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm.
=> Đối với truyện ngắn, việc nhà văn xây dựng được tình huống truyện mới lạ, hấp dẫn
cũng là một thành công nghệ thuật lớn, then chốt. Bởi vì, tình huống truyện góp phần làm nổi
bật tính cách nhân vật, góp phần thể hiện tư tưởng tác phẩm.
- Truyện ngắn Vợ nhặt đã tạo ra được một tình huống như thế. Tình huống truyện không có
gì phức tạp hay to tát mà vẫn cô đúc những mâu thuẫn, nghịc lý trớ trêu đến tột độ của hiện
thực. Tình huống truyện cơ bản là việc Tràng nhặt vợ giữa nạn đói thê thảm
(2) Phải thấy rằng đây là một tình huống truyện lạ, bởi 2 lý do:
- Thứ nhất: một người như Tràng hội tụ đủ những điều kiện không thể lấy nổi vợ lại bống
nhiên có vợ một cách dễ dàng. Tràng vốn nghèo khó, lại là dân ngụ cư – hạng người lúc bấy giờ
thường bị coi rẻ, khinh thường. Hơn nữa anh lại xấu trai: cái đầu nhẵn thin, hai con mắt gà gà
nhỏ tí, thân hình vập vạp, lưng to như lưng gấu… Thêm vào đó tính nết lại ngộc nghệch,
thường chơi đùa với lũ trẻ trong xóm. Có tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm, hay ngửa mặt lên trời
cười hềnh hệch… Người như vậy mà bống nhiên có vợ theo không. Chuyện Tràng có vợ cứ như
chuyện chàng Ngốc gặp tiên, như chuyện thần kì giữa thời buổi ảm đạm.
- Lý do thứ hai làm cho tình huống Tràng có vợ là một tình huống lạ: người như Tràng đến
nuôi thân không nổi, lại giữa thời buổi đói kém, đói tới mức miếng ăn là cả một vấn đề sinh
mạng mà Tràng lại đèo bòng vợ con
- Chính tình huống truyện lạ đã dẫn đến tâm trạng ngạc nhiên của hết thảy mọi người:
+ tác phẩm mở đầu bằng sự ngạc nhiên của người dân xóm ngụ cư. Trong một buổi chiều
chạng vạng khi thấy Tràng về làng cùng một người đàn bà lạ, thì mọi người ngạc nhiên lắm. Họ
đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán, họ đoán, họ phân vân… nhưng rồi hình như họ cũng
hiểu được đôi phần qua cử chỉ thèn thẹn của người đàn bà lạ đi cùng Tràng. Khi nhận ra đó là
vợ Tràng, họ cũng chưa hết ngạc nhiên bởi thời buổi đói kém này mà anh còn rước thêm một
miệng ăn nữa về nhà
+ Tiếp đến là sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ. Tâm trạng ngạc nhiên của bà cụ ngày một tang.
Lúc đầu ngạc nhiên khi thấy người đàn bà lạ trong nhà. Càng ngạc nhiên hơn khi người ấy lại
đứng đầu giường con trai mình mà lại chào mình bằng u. Đến khi Tràng nhắc lại “Kìa nhà tôi
nó chào u” thì cụ hiểu ra người đàn bà ấy đã là con dâu bà. Hiểu ra rồi mà lòng người mẹ ngồn
ngang bao cơ sự.
+ chính Tràng – người nhặt được vợ- cũng không khỏi ngạc nhiên. Nhìn thị ngồi ngay giữa
nhà mà anh ngờ ngợ như không phải thế. Cho đến tận sáng hôm sau mà anh vẫn con chưa hết
bang hoàng “việc hắn có vợ đến hôm nay…. không phải” => đúng là Tràng đang sống trong
tâm trạng với sự ngạc nhiên “rõ ràng trước mắt mà ngờ chiêm bao”
(3) Tình huống truyện trong Vợ nhặt không chỉ lạ mà còn éo le cảm động
- tình huống truyện éo le, cảm động được gợi lên từ tâm trạng éo le của mọi người xung
quanh việc Tràng có vợ:
+ chuyện Tràng có vợ nên vui hay buồn, nên mừng hay lo? Người dân trong xóm ngụ cư
mừng cho anh mà cũng lo thay cho anh. Họ vui mừng khi một người nghèo khổ như Tràng đã
có vợ “những khuôn mặt u tối, hốc hác vì đói bỗng rạng rỡ hẳn lên, có một cái gì tươi mát đang
thổi đến cái xóm nghèo khổ tăm tối này… nhưng liền sau đó họ lại lo cho anh với những tiếng
thở dài ngao ngán “biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này hay không?”
+ Đặc biệt là bà cụ Tứ, lòng ngổn ngang bao cơ sự với những tâm trạng vui mừng, buồn
tủi, thương lo đan xen. Bà cụ vui mừng vì con đã có vợ. Bà cụ buồn tủi vì con có vợ khi gia
cảnh quá nghèo, hơn nữa bổn phận làm mẹ mà cụ không giúp gì được cho con. Bà cụ thương lo
cho con bởi bà cụ nghĩ không biết chúng nó có nuôi nổi nhau qua cái nạ đói này không? Trên
gương mặt người mẹ nghèo khổ những giọt nước mắt lăn giữa nụ cười. Bà cụ nghẹn ngào nói
“năm nay thì đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”
+ Tràng cũng sống trong tâm trạng hết sức éo le. Một mặt trước niềm vui, niềm hp lớn anh
sung sướng đến bang hoàng. Nhưng mặt khác anh cũng cảm thấy lo, thấy chợn “thóc gạo này
đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”

- Tình huống truyện của Vợ nhặt càng éo le hơn khi hạnh phúc của vợ chồng Tràng diễn ra
trong bối cảnh thê lương, ảm đạm của xã hội, của gia đình. Hạnh phúc của đôi vợ chống trẻ
được đặt trên cái nền âm thanh tiếng khóc hờ của những gia đình có người chết đói. Tiếng khóc
thê thiết, tiếng trống thúc thuế rùng rợn – tiếng trống thúc thuế gợi lên không khí ảm đạm, chết
chóc:
Nửa đêm thuế thúc trống dồn
Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy (Tố Hữu)
Hạnh phúc của vợ chống Tràng diễn ra trong không khí chết chóc của làng quê với mùi
gây của xác người chết, mùi khét lẹt của đống rấm. Gia đình Tràng đói quay, đói quắt, bữa cơm
đầu tiên đón nàng dâu mới cả nhà phải ăn cháo cám, mọi người ăn mà như nuốt hờn nuốt tủi
vào, ăn mà tránh nhìn mặt nhau.
(4) Tình huống truyện góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc:
* Giá trị hiện thực: Tác phẩm đã phản ánh tình cảnh thê thảm của người nông dân lao
động nghèo khổ trong nạn đói 1945, đồng thời cho thấy tấm lòng của người dân hướng đến cm
- Qua việc Tràng có vợ giữa ngày đói kém, KL đã thể hiện đầy ám ảnh cuộc sống bi thảm
của người nông dân lao động lúc bấy giờ. Việc hai người gặp nhau rồi thành vợ chống đúng là
cười ra nước mắt. Chỉ vài ba câu bông đùa, chỉ một bữa bánh đúc thế mà Tràng có vợ. Đúng là
“vợ nhặt”- vì đói kém mà thân phận con người mới rẻ rúng đến thế.
Chỉ bằng vài ba nét phác họa tác giả đã gợi lên không khí thê lương của xã hội: người tha
phương cầu thực từ Thái Bình, Nam Định… từ khăp các nơi đổ về HN. Những gia đình bồng
bế, dắt díu nhau, dật dờ xanh xám như những bóng ma… người chết nằm ngổn ngang khắp lều
chợ, người chết đói nằm như ngả rạ… không khí vẩn lên mùi ẩm thối rác rưởi và nùi gây của
xác người. Tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết …
- Truyện ngắn cho thấy tấm lòng người dân hướng tới cm. Chỉ với mấy chi tiết thoáng qua
ở cuối truyện, KL đã phản ánh được 1 hiện thực cơ bản lúc bấy giờ: tiếng trống thúc thuế dồn
dập, những lời trao đổi của vợ chồng Tràng về cm. Câu chuyện đã kết thúc những trong óc
Tràng vẫn thấy đoàn người nghèo đói kéo nhau đi trên đê Sộp phía trước là lá cờ đỏ to lắm =>
chỉ mấy chi tiết này cũng đủ cho thấy người dân đói khổ ấy khao khát cm biết nhường nào.
* Truyện ngắn VN còn chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu sắc:
- TP không chỉ thể hiện niềm thương cảm của nhà văn đối với những người lao động nghèo
khổ mà còn lên án tố cáo những kẻ gây ra nạn đói 1945, đẩy thân phận còn người đến chỗ rẻ
mạt. Thân phận người vợ nhặp rẻ mạt như cái rơm, cọng rác có thể nhặt được ở lề đường.
Chuyện cưới xin, chuyện tram năm của đời người hệ trọng là thế vậy mà đối với Tràng thì lại
đơn giản xót xa đến tội nghiệp. Một đám cưới mà cô dâu về nhà chồng trong bộ quần áo rách
như tổ đỉa, một đám cười là không hề có cưới xin cũng không có nổi bát cơm cúng gia tiên, mời
hang xóm, người thân. Đúng là vì quá đói, nghèo mà thân phận con người mới rẻ rùng đến thế.
- Truyện VN còn là tiếng nói khẳng định đề cao bản chất tốt đẹp của người lao động nghèo
khổ đó là tình người, tình mẫu tử của những người dân nghèo trong cơn hoạn nạn
+ VN là bài ca về tình người ngay cả khi người ta tưởng như không có gì cần hơn là miếng
ăn thì tình người và chỉ có tình người mới đem đến cho con người niềm hạnh phúc thực sự. Khi
biết Tràng có vợ, những khuôn mặt u tối, hốc hác của người dân xóm ngụ cư bỗng rạng rỡ hẳn
lên “có một cái gì lạ lùng tươi mát…của họ” – cái gì ấy chắc chắn không phải là cảm giác về
miếng ăn mà chỉ có thể là cảm giác về hạnh phúc. Người dân xóm ngục cư vui mừng khi họ
được chứng kiến hai số phận nghèo khổ đã neo buộc cuộc đời với nhau để trụ vững giữa lúc
dòng thác đói nghèo như muốn cuốn phăng đi tất cả, một người nghèo khổ, nghèo đến thảm hại
như Tràng mà còn dám vỗ túi đầy hào hững “rich bố cu” … “hơi đắt nhưng chả cần” => thì sự
giàu có ấy, hào phóng ấy đâu phải chỉ là ở tiền bạc mà còn là ở tình người. Đạo lý của dân tộc là
lá lành đùm lá rách thì ở Vợ nhặt người đọc còn chứng kiến cảnh lá rách nhiều đùm lá rách
nhiều hơn
+ Vợ nhặt còn là bài ca về tình mẫu tử: có thể thấy điều này qua tình cảm của bà cụ Tứ
dành cho con trai và con dâu. Khi biết con trai mình có vợ bà cụ ngổn ngang những vui mừng,
buồn tủi, thương lo… tất cả đều xuất phát từ cái gốc là lòng mẹ thương con. Trong hoàn cảnh
miếng ăn là cả một vân đề sinh mạng nhưng bà cụ Tứ không hề hắt hủi người đàn bà đã theo
không con trai mình về nhà làm vợ. bà cụ đã đón nhận con dâu với tất cả tấm lòng bao dung,
thơm thảo của người mẹ nhân từ. bà cụ nói “các con phải duyên…” – hai chữ “mừng lòng” thể
hiện được niềm vui, sự mãn nguyện của bà cụ.
+ Cùng với việc khẳng định đề cao bản chất tốt đẹp của người lao động nghèo khổ, KL còn
khẳng định khát vọng chân chính của họ- đó là khát vọng về hạnh phcus gia đình.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng hướng tới một tổ ấm gia đình. Nhìn hình thức
thì việc vợ nhặt đến với Tràng là do cái đói xô đẩy, những về bản chất thì hai người đã đến với
nhau theo tiếng gọi của khát vọng hạnh phúc gia đình. hạnh phúc làm cho cuộc đời mỗi người
thêm ý nghĩa. Người đi nhặt vợ, người là vợ nhặt- 2 điều tưởng như vô nghĩa ấy đến với nhau
làm cho cuộc đời thêm ý nghĩa. Hạnh phúc không giúp con người thoát khỏi cái đói, cái chết
nhưng nó cứu con người thoát khỏ tình trạng phi nhân tính, làm cho con người sống người hơn.
Sauk hi Tràng có vợ, cuộc sống gia đình Tràng khác hẳn, mọi người đều thay đổi, trở nên tốt
hơn và người hơn.
- Truyện ngắn VN cũng là tiếng nói khẳng định khát vọng sống, niềm tin vào cuộc sống,
vào tương lai. Có thể nói VN đã thể hiện được ý tưởng của KL mà có lần ông đã phát biểu trực
tiếp: trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn quẫn nào, người dân xóm ngụ cư
vẫn khao khát vướn lên trên cái chết, vươn lên cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng. Đêm tân
hôn, 2 hào dầu thắp thay “hoa chúc”, cái ánh sáng ngời lên từ ngọn đèn dầu ấy cũng là ánh sáng
của niềm vui, niềm tin bừng lên giữa đêm đen dầy đặc. Một người nghèo khổ như Tràng cũng
sẵn sàng hoang phí khi cần thiết để thắp lên as của niềm vui, niềm tin.
Ở truyện này, người nói nhiều đến tương lai nhất là bà cụ Tứ chứ không phải đôi vợ chống
trẻ. Có là nghịch lý chăng khi một bà già lọng khọng, gần đất xa trời lại nói nhiều đến ngày mai
mà lẽ ra tương lai là thuộc về lớp trẻ. Nếu là nghịch lý thì nghịch lý này lại chứa cái lí sâu sắc:
người già còn nói nhiều đến ngày mai, tin ở ngày mai, vậy thì niềm tin vào tương lai của lớp trẻ
còn tha thiết, mãnh liệt biết chừng nào. Phải chăng nhà văn sử dụng thủ pháp nghệ thuật đòn
bẩy để làm nổi bật niềm tin vào cuộc sống và tương lai của những người lao động nghèo khổ.
Truyện ngắn vợ nhặt có kết cấu theo chiều hướng phát triển. Truyện mở ra là một buổi
chiều chạng vạng, 1 ngày tàn với cái đói thê thảm thì khi kết thúc lạ là cảnh buổi sớm, cảnh một
ngày mới với hình ảnh lá cờ đỏ Việt Minh. Đó là một kết thúc lạc quan thể hiện niềm tin, hi
vọng vào cuộc sống, vào tương lai.
KL:
Sáng tạo tình huống truyện lạ, éo le, cảm động, hấp dẫn người độc là một trong những
thành công xuất sắc của VN. Như chúng ta đã biết, truyện ngắn VN của KL có 3 thành công lớn
về nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện… trong đó
việc xây dựng tình huống truyện giữ vai trò then chốt.
Nếu tình huống truyện thể hiện tài năng nghệ thuật của KL thì giá trị hiện thực và giá trị
nhân đạo lại thể hiện cái tâm – tấm lòng của nhà văn. Suy cho cùng cái tài ấy trước hết phải có
cái tâm ấy. Đó là lòng thương cảm, sự khẳng định đề cao bản chất tốt đẹp và những khát vọng
chân chính của người lao động nghèo khổ. Chân lý mà KL muốn khẳng định trong VN cũng là
chân lý mà Xuân Diệu nói tới “sự sống chẳng bao giờ chán nản”

3.2. Nhân vật Tràng

Mở bài

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu
tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ
thành công nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn
khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp .

Thân bài

(1) GTC:
- Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết
sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí được coi là truyện ngắn xuất sắc
nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu
thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại,
Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung
và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật. Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan
điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong
sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết,
hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho
những con người đó là nhân vật Tràng .
(2). Phân tích:
* Nhà văn đã đã khắc họa nhân vật Tràng với nhiều chi tiết nói về ngoại hình, tính cách,
gia cảnh… nhưng nhà văn cũng khẳng định gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng tự
hào nào cả: người thô kệch, lưng to bè như lưng gấu, đầu trọc, nhà nghèo, dân ngụ cư. Điểm ấn
tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ nghệch, Tràng có cái tật vừa đi, vừa nói, vừa cười tủm tỉm một
mình. Hơn nữa, Tràng sống với 1 người mẹ đã già, nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở "rúm ró trên
mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại", giữa nạn đói... Tuy nhiên ở Tràng cũng có điểm
đáng quý: vui vẻ, dễ gần, tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa.
Dù vậy, với gia cảnh của mình, lại ở trong nạn đói thê thảm, anh chưa bao giờ dám nghĩ
đến chuyện mình có thể lấy nổi vợ; tức là anh đã ế vợ và không có khả năng lấy được vợ.
Nhưng bất ngờ thay, Tràng bỗng nhiên lại có vợ theo, lại nhặt được vợ. Qua tình huống Tràng
“nhặt vợ”, nhà văn KL đã làm toát vẻ đẹp của nhân vật: một con người có tấm lòng đôn
hậu, giàu yêu thương, một khát vọng hạnh phúc thường trực, cháy bỏng, một người luôn
biết hướng đến tương lai...

* Tràng là một người giàu tình người: tuy sống trong gia cảnh nghèo khó nhưng Tràng
lại rất giàu tình thương người, Tràng sẵn sàng sẻ chia đồng cảm, cưu mang những người đồng
cảnh ngộ, những người khốn khổ khác trong đời.

- Chuyện bắt đầu từ việc: giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, giữa lúc không ai
nghĩ đến chuyện dựng vợ gả chồng, thì Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ- lấy vợ một cách rất
dễ dàng. Cuộc gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thật chóng vánh chỉ qua hai
lần gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên để rồi “nên vợ, nên chồng”:

+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt
“Muốn….”. Không ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít. Tràng thích lắm vì từ khi
cha sinh mẹ đẻ đến giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.

+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, khi người đàn bà sầm sập chạy đến đòi
“ăn gì thì ăn, chả ăn giầu” giữa chợ, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.... => cái nhìn của Tràng với thị đầy thương xót, Tràng nhận ra
người đàn bà ấy đang đói, sắp chết vì đói

Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “rích- bố -cu” chứng tỏ Tràng sẵn sàng thiết đãi thị.

=> Câu nói kết hợp với cử chỉ vỗ túi là một hành động rất hào hiệp. Trong bối cảnh mà
người ta lo thân không xong, ai cũng đứng trên miệng vực thẳm của cái chết, Tràng lại không
phải là người giàu có gì về tiền bạc, vậy mà Tràng đã dốc túi đãi thị một chặp bốn bát bánh đúc
mà chẳng hề đắn đo toan tính. Giữa nạn đói kinh hoàng, miếng ăn là cả một vấn đề sinh mạng,
cho nhau được một miếng ăn quý giá biết bao nhiêu.

+ Sau khi ăn xong, người đàn nói một câu chữa thẹn, Tràng cũng đáp lại một câu “bông
phèng”: “Này … rồi cùng về”, thế mà thị đã theo Tràng về thật.

=> Hoàn cảnh nạn đói ghê gớm, bản thân Tràng lại rất nghèo, không biết mình có nuôi nổi
mình không cho nên sau lời nói bông phèng ấy, Tràng cảm thấy "chợn", sợ đèo bòng. Tuy nhiên
anh chặc lưỡi: "chậc,kệ!" đầy thách thức. Lấy vợ lúc ấy là « đèo bòng », là thêm một miệng ăn,
là san sẻ bớt phần sống của mình cho người khác. Thế mà Tràng đã làm việc ấy thật nhẹ nhàng,
giản dị.

=> Lòng thương người của Tràng còn lớn hơn cả nỗi thương mình. Tấm lòng ấy thật đáng
quý biết bao.

* Bên cạnh vẻ đẹp của tình người, Tràng còn có vẻ đẹp của khát vọng hạnh phúc.

- Vốn là người chịu nhiều thiệt thòi và khó có cơ hội đến với hạnh phúc nên Tràng đã
không bỏ lỡ khi hạnh phúc đến với mình. Lúc quyết định đưa người đàn bà về làm vợ, ngoài
lòng thương người còn là khát vọng hạnh phúc cháy bỏng. Cái tặc lưỡi đầy thách thức kia chính
là hành động dám đánh cược với số phận, với cái đói để biết được hương vị của hạnh phúc. Đó
chính là hành động dũng cảm để giành lấy hạnh phúc của mình.
=> Từ khi hạnh phúc đến với Tràng, tâm hồn Tràng xuất hiện nhiều cung bậc, trạng thái
cảm xúc mới mẻ mà trên hết là niềm hạnh phúc ngập tràn.

– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư với niềm vui khác lạ : tâm trạng của anh hôm
nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con mắt thì sáng lên lấp lánh…Nụ cười và ánh mắt ấy chính là
biểu hiện của hạnh phúc đang hiện hình trên gương mặt của Tràng. Hạnh phúc như một thứ ánh
sáng diệu kì từ bên trong tâm hồn, rạng ngời trên gương mặt đang nở ra vì sung sướng, trong
ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân hoan.

Trước ánh mắt nhìn đầy tò mò, phỏng đoán và ngạc nhiên của người dân trong xóm, trước
những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất đắc ý, mặt cứ vênh lên như thể
chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.

=> KL đã miêu tả thật tinh tế và trìu mến cảm giác hạnh phúc ngập tràn trong lòng người
đàn ông nghèo khổ: Tràng gần như quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái
đói đang đe dọa trước mắt cũng không sợ những ngày tháng đói khổ, ghê sợ ở phía trước…Có
cái gì đó mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Đó là cảm giác sung
sướng, hạnh phúc của người đàn ông lần đầu tiên được biết thế nào là hạnh phúc. Đúng là dẫu
có cực khổ, cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy người ta cũng luôn luôn khao khát hạnh
phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi, kể cả lưỡi hái tử thần.

Hạnh phúc làm Tràng biến đổi sâu sắc. Sự biến đổi đầu tiên thể hiện trong thái độ với
người vợ nhặt. Tràng đã thấy « trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người
đàn bà đi bên… ». Với Tràng người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào để kiếm miếng ắn,
bám chặt lấy hắn để trốn chạy cái đói tuyệt nhiên không phải là vợ theo, vợ nhặt mà là người vợ
thực sự theo đúng nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái
ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình, muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần
được coi thường đồng tiền, một lần được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ
về.

Từ việc làm có vẻ hơi bốc đồng khi mua hai hào dầu đến những việc lo toan nhỏ bé mà
cảm động như việc mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa
thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân trọng hạnh phúc
của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của một con người đã thực sự
trưởng thành.

– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói
“Không có người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục
cằn kia bỗng mềm mại, dịu dàng hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc
với lòng mình “Quái, sao nó lại buồn thế nhỉ?”. Vốn vô tâm bộc tuệch, vậy mà bây giờ, Tràng
lại cứ băn khoăn áy náy đến xót xa khi nhìn thấy vẻ buồn bã của vợ khi nhìn thấy chị ngồi bần
thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có lẽ trong sâu xa lòng mình, Tràng cũng phần nào hiểu được
nguyên nhân của nỗi buồn tủi, chua xót của người vợ đang thất vọng, bẽ bang khi nhận thức sâu
sắc tình cảnh thế thảm của cả hai người. Nỗi xót xa của Tràng vì thế không chỉ là tình thương,
sự quan tâm mà hàm chứa cảm giác tội lỗi của một người chồng ý thức được trách nhiệm của
mình với gia đình, với vợ con mà lực bất tòng tâm.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng
hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ
ngợ như không phải thế”. Chính hắn cũng không tin nổi là mình đã có vợ, mọi thứ đến nhanh và
bất ngờ quá khiến cho cả hắn và thị đều không định hình nổi có phải là sự thật. Một sự “ngờ
ngợ” rất đáng yêu và đáng trân trọng.

Bên cạnh tâm trạng hạnh phúc hắn còn thấy lo, tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối rối như một
đứa trẻ. Sự lo lắng của Tràng vừa có nét tâm trạng của một người đầu tiên có một hạnh phúc
quá lớn, quá bất ngờ chỉ sợ nó tuột khỏi tầm tay ; vừa là cái lo của một người con hiếu thuận,
Tràng đã quyết định một việc lớn trong đời mà chưa kịp hỏi ý mẹ. Nên Tràng nóng lòng, sốt
ruột, mong mẹ về.

- Khi mẹ về hắn mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc này tâm trạng của Tràng
phức tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại vừa lo… Tràng đã giới thiệu với mẹ người
vợ nhặt một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn “nhà tôi …”. Chỉ khi người mẹ nói “Các con phải
duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái, anh như trút
được gánh nặng trong lòng.

=> Quả thật, hạnh phúc là phương thuốc kì diệu đánh thức những cảm xúc mới mẻ, lạ lùng
trong tâm hồn của người con trai quê mùa ấy.

=> KL đã miêu tả được những trạng thái tâm lý chân thực và cảm động, thể được thái độ
trân trọng cùng tình thương yêu của Tràng với người đàn bà - mới sáng nay còn xa lạ, nhưng từ
bây giờ sẽ gắn bó với hắn suốt đời.

=> Nhà văn cũng đã xây dựng đoạn đối thoại sinh động giữa Tràng với mẹ, giúp người đọc
nhận ra Tràng là một người nông dân tuy bần hàn, nghèo đói nhưng lại có một trái tim và tấm
lòng hồn hậu, vẹn tròn, dung dị như vậy. Anh vừa xót thương cho thân phận người đàn bà xa lạ
nghèo khổ ấy, nhưng duyên số đưa đẩy hai người đến với nhau nên hắn đón nhận như một điều
trời ban.

=> Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ.
Để làm nổi bật tình yêu thương, khát vọng hạnh phúc của Tràng. Mặc dù người vợ được hắn
nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng , khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi
chuyện lấy thị là một điều nghiêm túc. Có rất nhiều lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để
nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm gia đình để thách thức với cái đói
đang tung lưới bủa vây. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói.

* Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau: Một người có khát vọng hạnh phúc là người có
những thay đổi lớn lao khi hạnh phúc đến, đồng thời có những suy nghĩ sâu sắc về hạnh phúc
lâu dài. Điều đó được thể hiện qua tâm trạng của Tràng vào buổi sáng hôm sau, qua tình cảm,
thái độ, hành động của Tràng với cuộc sống gia đình

- sáng hôm sau Tràng tỉnh dậy muộn thấy trong người êm ái, lửng lơ như vừa từ trong giấc
mơ đi ra...

=> cái êm ái lửng lơ của một người sung sướng, hạnh phúc, đang chìm đắm trong men say
của tình yêu. Tình yêu, hạnh phúc quả thật có sức mạnh thật kì diệu. Trong khoảnh khắc ngập
tràn hạnh phúc ấy, “hắn” dường như quên tất cả đói khát, quên những tháng ngày tủi cực, quên
cả cái chết đang rình rập, đe dọa.

- Một cảm giác mới lạ của hạnh phúc bất ngờ khiến Tràng phải ngạc nhiên, ngỡ ngàng
“như không phải thế, ra hắn đã có vợ rồi đấy ư”. Với Tràng, không ngạc nhiên sao được bởi chỉ
với vài câu bông phèng, 4 bát bánh đúc mà hắn lại nên vợ nên chồng với một người đàn bà xa
lạ. Một bước ngoặt, một hạnh phúc tưởng chừng như không thể đến với một người vừa thô
kệch, có phần ngờ nghệch, nghèo, đói, lại còn là dân ngụ cư như Tràng. Ai có thể ngờ được,
chuyện dựng vợ gả chồng vốn là chuyện trọng đại của cả cuộc đời con người lại đến với hắn
một cách tình cờ, ngẫu nhiên như thế. Phải chăng là hạnh phúc quá lớn lao nên Tràng “vẫn cứ
ngờ chiêm bao”?

- Không chỉ ngạc nhiên vì mình đã có vợ, Tràng còn ngạc nhiên ngỡ ngàng khi trước mặt
anh mọi thứ đều thay đổi dưới bàn tay vun vén của mẹ và vợ : nhà cửa sân vườn hôm nay đều
được quét tước sạch sẽ; mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân
hong; hai cái ang nước vẫn để khô cong dưới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp… đó là hình
ảnh của sự sống, là cái sinh khí mới mẻ của một mái ấm gia đình mà lần đầu tiên Tràng được
cảm nhận, nó dường như đã xua đi nỗi ám ảnh đói khát đang bủa vây. Tràng cảm nhận được sự
đổi thay kì diệu “xung quanh mình vừa có cái gì thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Những cảm nhận
này cho thấy Tràng đâu con ngờ nghệch vô tâm nữa. “Hắn” đã có những quan sát, nhận thức về
cuộc sống, về thế giới xung quanh. Đúng là tình yêu và hạnh phúc gia đình đã khiến con người
trưởng thành nhanh chóng.

- Nhìn cảnh mẹ và vợ đang lúi húi dọn dẹp – hình ảnh bình dị nhưng lại khiến cho Tràng
xúc động. Dường như đây là lần đầu tiên Tràng cảm nhận được lòng mình đang rung lên niềm
xúc động chân thành, thấm thía khi chứng kiến những sinh hoạt hết sức đời thường, bình dị.
Hình ảnh người mẹ lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở, nghe âm thanh tiếng chổi từng
nhát kêu sàn sạt trên mặt đất của vợ, lòng hắn dấy lên nỗi niềm “thấm thía cảm động”. Đó là
niềm xúc động của một người vừa nhận ra hạnh phúc đâu phải là cái gì quá trừu tượng, xa xôi,
hạnh phúc có ngay trong cuộc sống bình dị, thường ngày. Hạnh phúc của sự bình yên, ấm áp.
Một anh Tràng mỗi ngày chỉ biết chơi đùa với lũ trẻ con, bây giờ dường như thật sự đã đổi
khác, “lớn lên” qua những điều “thấm thía” ấy.

- Cuộc sống gia đình và hạnh phúc vợ chồng đơn sơ, bình dị đã làm Tràng còn thay đổi
nhận thức, ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm, thực sự trở thành một người
chồng, một người con đầy yêu thương

+ Anh nhận thấy người vợ nhặt hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền
hậu, đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.

+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng” – hai chữ lạ lùng nói lên sự
thay đổi lớn lao trong suy nghĩ của Tràng. Tình cảm với gia đình của Tràng không hề hời hợt,
bâng quơ, dù lúc trước có thể vô tâm, còn bây giờ gia đình là máu thịt, có mạch kết nối bền chặt
trong anh.

+ Từ nhận thức mình đã có một gia đình Tràng đã nghĩ đến những điều xa xôi hơn Hắn sẽ
cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đây chẳng phải là một
khát vọng thầm kín mà vô cùng mãnh liệt trong Tràng hay sao, trong một con người vốn vẫn
đang mang trong mình một số phận bất hạnh giữa nạn đói thê thảm. Khát vọng về một mái ấm
gia đình, một nơi che mưa, che nắng, một tổ ấm có vợ, có con cái của hắn- khát vọng đời
thường giản dị mà trong cảnh đói khát lại trở nên thiêng liêng, quý giá, cảm động biết bao. Bình
thường Tràng không thể lấy nổi vợ, chẳng thể có một tổ ấm đơn sơ như thế. Nhưng bây giờ, cái
đói lại mang đến hạnh phúc cho hắn, và tổ ấm kia là có thực, chứ không phải là chuyện xa vời
với hắn nữa.

Cùng bởi vậy nên Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng. Nguồn vui như
tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc
của cái đói. Tràng vui không chỉ vì có vợ, con mà lớn lao hơn là Tràng có cả một gia đình.

- Suy nghĩ ấy, khiên lần đầu tiên hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận
phải lo lắng cho vợ con sau này”. Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn
phận và trách nhiệm với gia đình, đó là quy luật tâm lý tất yếu. Tràng cũng vậy. Có lẽ ý thức về
bổn phận là một phạm trù vừa mới định hình trong Tràng, từ khi hắn nhận thức được sự thiêng
liêng của hai tiếng “gia đình”. Hắn đã thực sự trưởng thành và trở thanh một người đàn ông của
gia đình.

- Không chỉ thay đổi trong suy nghĩ, ý thức, trách nhiệm với gia đình, mà Tràng muốn biến
cảm xúc và ý thức thành những hành động cụ thể, Tràng hăm hở, hào hứng “xăm xăm…tu sửa
căn nhà” – những gì tốt đẹp nhất trong Tràng đã bừng thức, một sự sống mới mẻ tràn ngập
trong lòng người đàn ông đang sống bên bờ vực thẳm của cái chết. Cái dáng vẻ “xăm xăm” ấy
nói lên biết bao quyết tâm, sự nhiệt thành, biết bao tình yêu của hắn dành cho gia đình. Hành
động ấy trước đây đâu phải là hành động thường nhật của hắn (trước đây là dáng vẻ khật
khưỡng, là đôi mắt gà gà đăm đắm vào bóng chiều), đó là một chuyển biến lớn. Chính niềm
hạnh phúc được sống trong tình yêu thương, tình mẹ con, vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm
trong lòng hắn biết bao ước vọng về hạnh phúc, biết bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt
đẹp hơn. Vì tin nên Tràng hăm hở trong hành động, Tràng muốn biết ước mơ, khao khát ấy
thành hiện thực.

3. NXC:

- ở đoạn văn này cũng như trong tác phẩm, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình
huống truyện độc đáo- tình huống nhặt vợ để qua đó thấy được sự thay đổi trong tâm trạng, tính
cách cảu Tràng từ khi có vợ. Đoạn trích đã thể hiện diễn biến tâm lý tinh tế của Tràng ở buổi
sáng đầu tiên sau khi có vợ bằng cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, kết hợp với ngôn ngữ kể, tả
mộc mạc, giản dị…

- Qua nhân vật Tràng, nhà văn Kim Lân không chỉ đồng cảm sâu sắc với số phận cùng
khổ của người nông dân nghèo Việt Nam trước cách mạng tháng Tám mà còn phát hiện, ngợi
ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Đó là vẻ đẹp của tình người, của khát vọng hạnh phúc. Đoạn trích đã
diễn tả thành công sự đổi thay trong tâm trạng của nhân vật Tràng: từ bất ngờ, bỡ ngỡ đến hạnh
phúc tột cùng; từ ngờ nghệch, vô tâm trở thành người đàn ông trưởng thành, có trách nhiệm. Sự
đổi thay ấy nói lên sức mạnh của tình yêu thương, sức mạnh của khát vọng hạnh phúc ... có thể
biến những điều không thể thành có thể, biến đau khổ thành ngọt ngào. Xây dựng hình tượng
nhân vật Tràng, nhà văn đã thể hiện thái độ đồng cảm, trân trọng với khát vọng hạnh phúc
của con người để từ đó khẳng định: dù trong tình huống bi thảm tới đâu, dù kề bên cái chết, con
người vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng vào
tương lai, vẫn muốn sống cho ra người. Đây cũng chính là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của
tác phẩm.

- Trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn
ngập sự đầm ấm, hoà hợp.

=> hạnh phúc đã biến Tràng thành một người khác hẳn. Nét khờ khạo, thô sơ, ngờ nghệch
đã biến mất, chỉ còn lại đó một người đàn ông trưởng thành biết lo toan, vun vén hạnh phúc,
biết hướng đến tương lai. Ca ngợi sức mạnh của tình người, sức mạnh của hạnh phúc chính là
biểu hiện của giá trị nhân đạo mà KL đã mang đến cho tp qua nhân vật Tràng.

* Tràng còn là một người có niềm tin vào cuộc sống, hướng đến tương lai:

- Giữa cảnh đói khát thì Tràng vẫn sẵn sàng nắm lấy cơ hội hạnh phúc, nhặt vợ để có gia
đình; khi đã có gia đình lại nghĩ đến sinh con đẻ cái; bữa cơm sáng khi bà cụ Tứ toàn nói
chuyện vui, chuyện sung sướng- Tràng thấy hạnh phúc, thấy hòa hợp (cùng chung suy nghĩ với
mẹ)

- Biến đổi lớn lao mới mẻ nhất của Tràng được KL miêu tả trong chi tiết: khi nghe vợ kể
về những “đoàn người nghèo đói…” => Tràng có cảm giác “tiếc rẻ vẩn vơ” – cảm giác của
Tràng cho thấy từ nay, khi có một gia đình phải chăm lo, chắc chắn Tràng sẽ không bao giờ bỏ
lỡ cơ hội đến với cách mạng, đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Bởi
hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về
Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người dân khốn khổ, đập tan xiềng
xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc.

Ở cuối truyện, ngay khi Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chat vào miệng thì hình
ảnh “lá cờ đỏ…” vẫn phấp phới trong tâm trí Tràng, nó đem lại niềm tin sâu sắc cho bạn độc:
những người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất.
Bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh phúc và
cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.

Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt, gieo một
hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta. Nhà
văn KL, qua nhân vật Tràng, đã chỉ ra con đường duy nhất mà người nông dân đấu tranh giải
phóng số phận mình đó là đến với cách mạng.

(3). NXC

- Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo, diễn
biến tâm lý được miêu tả chân thực, tinh tế, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách
nhân vật. Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc
biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút miêu tả, phân tích tâm lý sắc sảo.

- Hình ảnh nhân vật góp phần thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Kết luận

- Qua tình huống Tràng nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng
sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống
chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm
nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo đó chính là tình người
và hi vọng. Tràng và người vợ nhặt như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen
lên ngọn lửa. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là
niềm tin của KL về một tương lai sẽ sinh sôi nảy nở dù dân tộc đang đứng trước sự diệt vong.

3.3. Phân tích nhân vật người “vợ nhặt”

(1) - Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư.
Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó
chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ
cùng thời. Do đó, người ấy rất dễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số
phận đặc biệt không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở.
- Sự xuất hiện của nhân vật có vai trò quan trọng cho sự vận động và phát triển của cốt
truyện
- Qua nhân vật người vợ nhặt, KL đã đem đến cho tác phẩm của mình những giá trị hiện
thực, nhân đạo sâu sắc
(2)
* Người “vợ nhặt” là nạn nhân thê thảm của nạn đói:

- Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không
tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ
không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị giống như là một cánh bèo nổi trôi trong nạn đói,
là cảnh củi khô trôi dạt vào cuộc đời Tràng. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được
gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho
người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

– Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:

+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi
trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy
giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị
đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình bị cái đói hủy hoại ghê gớm: Đó là người phụ
nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con
mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch
nhác, tội nghiệp hơn nữa.

+ Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà dường như còn tàn hại cả tính cách, nhân
phẩm của thị. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong
cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự
trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn
một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng
ăn lên trên nhân cách.

=> những hình ảnh chua xót, thảm hại của một người đàn bà đã bị cái đói hủy
hoại không chỉ hình hài dáng vẻ mà cả nhân cách cùng những phép tắc xã giao,
những ý tứ lễ nghĩa tối thiểu, sĩ diện, xấu hổ, bấu víu vào một câu hò bông phèng
để kiếm miếng ăn thật, bám vào câu đùa tầm phơ tầm phào để theo không một
người đàn ông xa lạ, mong tìm chốn nương thân

=> chua xót hơn là người đàn bà khốn khổ ấy dường như ý thức được nỗi nhục
nhã xấu hổ khi lăn xả vào miếng ăn nhưng lại không thể kiềm chế sự them khát
miếng ăn, không thể chế ngự được sự dày vò, gào thét của cái dạ dày đang đói khát

=> thị trở thành vợ theo, vợ nhặt – người vợ được lấy về do một hành động ngẫu
nhiên, thờ ơ, không chủ tâm, người vợ được nhặt về như cỏ rác.

* Nhưng người vợ nhặt cũng là một nhân vật được KL gửi gắm niềm tin vào bản chất
tốt đẹp của con người ngay khi bị đẩy xuống đáy vực của đói khát.

- Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống
mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ:

Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta
cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý,
đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra
sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị
theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư?

=> Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng
khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại, thị chấp nhận theo
không Tràng.

=> Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt
lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là
một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: “Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên
cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai”.

- Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ có lòng tự
trọng, rất ý tứ, biết điều:

+ Ngay khi miêu tả người đàn bà lăn xả vào miếng ăn, KL vẫn cho người đọc thấy được
nỗi xấu hổ, khổ sở của một nhân cách bị vùi dập vì đói: dù cố tỏ ra đáo để chạy ton ton đẩy xe
cho Tràng, đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đến khi được mời ăn thị đon đả ăn thật nhá, ừ ăn thì ăn sợ
gì… => việc phủ định cái sợ lại cho thấy thị đang sợ hãi, đang xấu hổ - cũng có nghĩa là thị
chưa bị hủy hoại hoàn toàn lòng tự trọng, chưa mất hết ý thức về liêm sỉ

+ Trên đường về nhà chồng, tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng
sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị
ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa
khuôn mặt” => đây thực sự là hình ảnh của người vợ ý tứ, nết na phép tắc, không còn mảy may
dáng vẻ của cô gái chỏng lỏn ngoài kho gạo lúc trước

+ Về đến nhà chồng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng
nhưng cũng là sự chấp nhận. Thị đã bỏ qua cả lễ giáo, sĩ diện theo không một người đàn ông xa
lạ, thô kệch, vụng về những mong chạy trốn cái đói, vậy mà bây giờ, khi xuống đến nấc thang
cuối cùng của sự hạ giá về nhân cách, cái đói lại hiện ra trong quang cảnh thảm hại của ngôi
nhà tuềnh toàng, rách nát. Thị hoàn toàn có thể quay đi khi không tìm thấy cái mà thị đã bất
chấp tất cả để tìm kiếm, vậy mà thị vẫn ở lại, có lẽ vì thị đột ngột tìm thấy những điều thị không
dám nghĩ đến trong hoàn cảnh khốn khổ, những điều quý giá hơn cả miếng ăn trong ngôi nhà
rúm ró ấy, đó là tấm lòng nhân hậu của những người sẵn lòng cưu mang, đùm bọc thị khi chính
họ cũng đang đói khát. tấm lòng ấy khiến thị ngạc nhiên, xúc động và hiểu rằng, khi bước qua
chiếc cổng tre nhà Tràng trở thành người vợ hiền dâu thảo, thu vén đảm đang, mang lại hạnh
phúc cho những người nhân hậu, thị sẽ tìm thấy cho mình niềm vui được làm vợ, làm mẹ, được
có một mái ấm gia đình, được hạnh phúc. => thị đã có cách ứng xử đúng mực dù thất vọng.

Ngoài ra, trong tiếng thở dài đó, có lẽ, vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả
những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức
được trách nhiệm của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của
thị thật đáng quý biết bao.

+ Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi
bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào
đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng.
Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

- Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu,
đúng mực, biết lo toan:

+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách.
Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ
nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành
bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm
nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn
như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng
trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã
có sức cảm hóa với thị.

+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi
người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn lặng lẽ, cam chịu,
bằng lòng. Chị đón lấy bát cháo, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt tối lại nhưng điềm nhiên và vào
miệng… => những cử chỉ này cho thấy người đàn bà đã hiểu những cố gắng và cả tấm lòng của
người mẹ, thị không chỉ cư xử ý tứ mà còn có một tấm lòng trân trọng nghĩa tình, đặc biệt là
một bản lĩnh dũng cảm.

=> cử chỉ và thái độ điềm nhiên của thị đã làm vợi dịu đi rất nhiều nỗi cay cực, chua xót,
tủi hổ của người mẹ chồng nhân hậu. Nếu bà cụ Tứ thể hiện tấm lòng của người mẹ qua những
cử chỉ ân cần, ấm áp thì người con dâu cũng không phụ tấm lòng yêu thương ấy khi thể hiện
tấm lòng của người con trong cách ứng xử ý tứ, dũng cảm => đó đều là những cách ứng xử sáng
ngời bản chất người, nồng ấm tình người, cho dù họ đang phải ăn thức ăn của loài vật.

=> hơn nữa việc thị điềm nhiên chấp nhận miếng cháo cám đắng chát cũng chứng tỏ thị sẽ
chấp nhận đối mặt với tất cả những khó khăn sắp tới bên cạnh những con người nhân ái từ nay
đã là gia đình, là người thân của thị

=> thị đã hoàn toàn thay đổi, hay đúng hơn là thị đã trở về với bản chất tốt đẹp của mình
trong vai trò của một người vợ hiền, dâu thảo, ý tứ, nết na, chăm chỉ vun đắp cho tổ ấm hạnh
phúc của mình

+ Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống
thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng
thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết
này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc
Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta
thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.

=> Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể
hiện ở đây. Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân, một mặt nhà
văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã cướp đi mọi
giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được; Mặt khác
vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng con
người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa.
Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để
vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân
vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ
mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Kết bài: Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này,
nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn
cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.

3.4. Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” của
tác giả Kim Lân

Mở bài:

- KL là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với hơi thở của vùng nông thôn Bắc Bộ
VN. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như “Làng”, Con chó xấu xí…

- Tác phẩm Vợ nhặt được trích từ tập truyện Con chó xấu xí là tác phẩm xuất sắc của KL.
Truyện vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp vừa là bài ca ca ngợi vẻ đẹp tình
người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Điều đó được thể
hiện rõ nét nhất qua nhân vật bà cụ Tứ

Thân bài:

1. Truyện ngắn Vợ nhặt được Kim Lân sáng tác ngay sau Cách mạng tháng Tám. Nhưng
bối cảnh của tác phẩm là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Những tháng ngày 1945 ấy, cái đói cứ
bao vây nơi nơi, tưởng đâu đâu cũng ngửi thấy "mùi đói". Làng quê chìm trong ko khí tang
thương với tiếng quạ kêu thê thiết, của những nhà có người chết đói và thân phận rẻ rúng của
bao cảnh đời: người ta có thể nhặt được vợ giữa đường chợ chỉ với 4 bát bánh đúc và mấy câu
đùa cợt....

- Câu chuyện cảm động được diễn biến trong bóng tối của thời đói khát và chết chóc, tuy
vậy nhưng nhà văn vẫn thể hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm
khao khát hạnh phúc của những người nghèo khổ.

- Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật
bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng, người đã “nhặt” vợ: một người mẹ có số phận bất hạnh nhưng giàu
tình người, giàu yêu thương, luôn có niềm tin hướng tới tương lai

2. Phân tích nhân vật

Đến khoảng cuối câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện như để
hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan hệ "mẹ chồng nàng dâu" với người "vợ
nhặt". Bà cụ Tứ đóng một vai trò đặc biệt quan trọng giúp KL thể hiện những tư tưởng nhân
đạo sâu sắc cho truyện ngắn của mình. Đây là nhân vật được nhà văn miêu tả chi tiết, sinh động
từ ngoại hình, dáng vẻ đến những cử chỉ, hành động, từ những lời đối thoại đến những dòng độc
thoại nội tâm. Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật.

* Ngoại hình- số phận:

+ Bắt đầu là cái dáng: "hung hắng ho, lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính
toán gì trong miệng". Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của những
người mẹ già, người bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc
lại trong ta một dáng hình. Có phải chăng? Kim Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để
cảm thông cùng với những nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ nghèo khổ, già
nua, còm cõi, nay sức khỏe đã yếu mà vẫn luôn trĩu nặng những lo toan về cuộc sống.

+ Đến hình ảnh: "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa,
dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người
chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến
đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dằng dặc của mình"

=> Qua những câu văn này ta biết được người phụ nữ nông dân này có một số phận đầy bất
hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê tái. Bà đã mất đi người chồng và đứa con gái
út yêu thương. Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu dễ biến
tan. Ta không gặp một cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp những quằn quại quay quắt,
ta chỉ gặp ở đó một con người của hiện tại với một cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn
trông về bờ quá khứ. Điều ấy lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng
kinh nghiệm và sự từng trải, bằng một nỗi lòng đầy ám ảnh của một quá vãng nặng trĩu những
đắng cay.

+ Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh
Tràng - đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con mình
chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất.

=> Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 còn hiện lên rất chân
thực qua diễn biến tâm trạng đầy phức tạp, những lời nói tưởng như lẩm cẩm mà xiết bao ân
tình với Tràng, với người đàn bà xa lạ khi Tràng nhặt về làm vợ.

2. Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ

- Lúc đầu bà cụ không ngờ con mình lấy vợ nên không biết, không thể nghĩ ra người đàn
bà ở trong nhà mình là ai vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình khó lấy được vợ, nhất là giữa nạn
đói khủng khiếp này. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy ngạc
nhiên:

+ bà ngạc nhiên vì thái độ của Tràng hôm nay khác qua, thấy mẹ, Tràng reo lên như một
đứa trẻ và gọi với vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài
cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có đon đả
đến thế. Mà còn gọi với vào trong nhà nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa
con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà hấp háy hai con mắt nhìn Tràng, chậm
hỏi: "Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà. "Bà lão “phấp phỏng”
bước theo con vào trong nhà. Có lẽ bà cụ Tứ đã linh cảm thấy có một cài gì đó quan trọng và
bất thường đang chờ đợi

+ Rồi bà lão ngạc nhiên như không thể hiểu nổi: "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường
con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?". Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy
cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người
đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
=> Sự ngạc nhiên của bà cụ được thể hiện qua những câu hỏi dồn dập trong dòng độc thoại
nội tâm, qua bước chân lập cập, run rẩy rồi đứng sững lại, thậm chí như không tin nổi vào mắt
mình.

=> Chính sự ngạc nhiên tột cùng này cho thấy cái nhìn tinh tường và trái tim nhạy cảm của
người mẹ - dường như bà ngay lập tức nhận ra có một điều gì đó thiêng liêng, lớn lao đang đến
với cuộc đời con trai mình. Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng
năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến
với bà quá bất ngờ

=> Thái độ ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng đem đến nỗi xót xa cho thân phận con người khi
chỉ vì đói và cảnh ngộ gia đình mà người mẹ tội nghiệp không thể tin được vào những điều bà
đang phỏng đoán.

- Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tùi
cực, ai oán, xót thương cho mình và cho con

+ Tâm trạng bà cụ Tứ cứ băn khoăn, ngạc nhiên cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông
qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..."

=> Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, nhiều biến động hơn và tinh
tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong tâm não của nhân
vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái "cúi đầu nín lặng". Câu
văn “Bà lão cúi đầu nín lặng” - không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng
rưng tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im
lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa. Cái im lặng
chấp nhận. Người mẹ từng trải thoáng chốc hiểu ra tất cả những uẩn khúc, những éo le, oái ăm,
bi hài của cảnh ngộ, những cay đắng, trớ trêu trong việc nhặt vợ của con, hình dung được cảnh
ngộ của người vợ nhặt. Đó là những “cơ sự” bà đoán ra mà không nỡ hỏi. Sự nín lặng của bà cụ
Tứ không chỉ cho thấy sự từng trải mà còn là biểu hiện rõ nhất của trái tim nhân hậu.

+ Từ đó, bà chìm đắm trong những “ai oán, xót thương, bà càng nghĩ càng thương
mình, thương con:

~ Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức
rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân
này. Con mình thật bất hạnh khi chẳng được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng cho đáng hoàng, tử tế,
phải đi nhặt vợ một cách éo le, chua xót

~ Bà Tứ tự trách mình: làm mẹ đã không lo nổi vợ cho con "Chao ôi! người ta dựng vơ
gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này -
còn mình thì..." => Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy.
Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ
đây, giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Trong
lòng bà ngổn ngang dòng hồi tưởng về những năm tháng dằng dặc trong quá khứ, với những
cay đắng chồng chất của cuộc đời bà, của chồng và của đứa con gái đã mất;
~ Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko
biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống 2
hàng nước mắt", Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của
mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời
vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt
khô héo. "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không".

=> Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi
đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối. Bà khóc vì bà cảm thấy mình chưa làm tròn trách
nhiệm của một người mẹ. Giọt nước mắt của nỗi lòng thương con đứt ruột tuôn trào.

+ Bà tủi phận thương mình, thương con trai và thương cả người con dâu:

~ Thương con trai vì nghèo, đói, “người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới
lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ…”

~ Bà xót thương cho người đàn bà, cảm thương cho tình cảnh khốn cùng của thị. Đôi mắt
bà lão "đăm đăm nhìn người đàn bà" như để nhận mặt người đồng hành khốn trong cuộc đời
khổ nghèo, bà thấy người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã
thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và còn cả sự hàm ơn: người ta mới lấy đến con mình.
Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..."

=> Những câu văn thật cảm động! Ngôn ngữ độc thoại nội tâm mà như hàm chứa sắc thái
đối thoại. Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác
bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui, bà vừa như bênh vực
con dâu mà cũng là an ủi chính mình. Bà đã bỏ qua tất cả những lễ giáo thông thường, bỏ qua
cả gánh nặng chồng chất thêm của sự đói khát, nỗi ám ảnh ghê gớm của chết chóc để đùm bọc
cưu mang lấy một con người khốn khổ “may ra mà qua được cái tao đoạn này”, để vun đắp
hạnh phúc cho con trai “nó yên bề nó”.

=> Những lời độc thoại với nhiều nét tâm trạng cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người
mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung
cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những
trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình.

- Chuyển từ buồn tủi, xót thương, bà lão thấy “mừng lòng”, bà lão cất lời “Ừ thôi… u cũng
mừng lòng”.

+ Bà lão mừng vì vất vả nuôi con khôn lớn, trưởng thành nên bà vui mừng trước việc con
trai có vợ, có gia đình “yên bề nó”

+ Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc địa,
có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1 tấm lòng vị
tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền
lòng cho chính người mình đang thương xót. Nó đã xua tan đi nỗi phấp phỏng, lo âu cho Tràng,
xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, trả lại danh dự cho một người con gái để không
còn cái tội “theo trai”. Chính câu nói “ừ thôi…” đã mở ra một trang đời mới cho cuộc sống gia
đình bà. Tấm lòng của người mẹ thật vĩ đại, nhân từ biết bao nhiêu.
- Sau đó, bằng sự từng trải của người mẹ, bà nói chuyện với nàng dâu, vừa động viên,
khuyên nhủ vừa bộc lộ niềm ao ước thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà
mẹ nghèo:

+ Câu nói dân gian thành triết lý: "Rồi may ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba
đời..." Lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng trải,
nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để
vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ 1 tấm
lòng cao cả, tràn ngập tình thương.

+ Bà dặn dò, bảo ban “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi” => lời khuyên này
của người mẹ là món quà vô giá, gói trọn tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm
lòng của người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào.

+ Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng
như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho
đỡ mỏi chân". Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu? Bà thương xót cho chị, bà nhận
“nó bây giờ đã là dâu con trong nhà” rồi – là con nên thương.

- Nhưng cũng vì thương con mà trong lời động viên con lại dâng lên cảm xúc nghẹn
ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt:

+ Là người từng trải, đứng trước sự diệt vong của nạn đói, bà còn lo lắng cho cuộc sống
phía trước của đôi vợ chồng “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau…”. Càng nghĩ về cuộc đời mình
bà lại càng lo cho con “Vợ chồng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”

+ Bà ao ước "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy
nhau lúc này u thương quá....". "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1
nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập),
câu nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dân Pháp, không khí quê hương
"vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo
xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp
nước", vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử
hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở
hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải,
hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm.

=> những chi tiết miêu tả thái độ, cách nói năng, cư xử của bà cụ Tứ cũng làm đậm thêm
vẻ đẹp trong tấm lòng nhân hậu của bà. từ cách bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói, rồi
lại hạ thấp giọng xuống thân mật… nhất là cách dùng hai chữ “các con” để gọi con và dâu như
một biểu hiện chắc chắn của sự chấp nhận nàng dâu mới; từ câu nói xót xa “chúng mày lấy
nhau lúc này…” cho đến lời giục “ngồi xuống đây…”- đó là những cách cư xử cho thấy sự tinh
tế và nhân hậu trong lòng người mẹ nghèo, bà muồn bằng thái độ, giọng nói và cả cách xưng hô
để làm vợi đi những căng thẳng, lo lắng của con cái, nhất là những tủi hổ bẽ bàng của người đàn
bà gặp cảnh éo le đói khát mà phải theo không con trai mình. Tới ba lần KL miêu tả dòng nước
mắt của bà cụ Tứ- những dòng nước mắt của buồn vui, thương xót, tủi cực, nước mắt của tình
người, lòng nhân hậu, vị tha.
- Điều đáng nói là trong ba nhân vật chính của truyện, bà cụ Tứ là người nhiều tuổi
nhất, nhưng cũng thể hiện rõ nhất sự lạc quan, niềm tin, niềm hi vọng vào tương lai.

+ Khốn khổ vì gánh nặng cuộc sống không nén được tiếng thở dài chua xót trước việc nhặt
vợ của con, thậm chí hơn một lần bà khóc vì tủi cực, lo lắng… vậy mà bà vẫn động viên “ai
giàu ba họ…”, đồng tình với việc làm có vẻ hoang phí, bốc đồng của con trai khi thấy Tràng
mua dầu thắp đèn. Với câu nói “thắp lên một tí cho nó sáng sủa”, bà đã không chỉ thể hiện sự
trân trọng với hạnh phúc của con cái mà có lẽ còn bộc lộ một niềm tin, dẫu vu vơ, mơ hồ về sự
sáng sủa hơn trong cuộc đời.

+ Sáng hôm sau:

~ Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược". Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi
tỉnh khác ngày thường, "cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên". Bà đã chủ
động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu mới: bà dậy
từ rất sớm, "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong
vườn". Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngoặt trong cuộc đời các con
mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các
con. Bà hi vọng, dẫu mong manh nhưng mãnh liệt về một sư thay đổi có cơ khấm khá hơn cho
cuộc đời của mấy mẹ con.

~ Bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, với "bữa cơm ngày đói thật thảm
hại",” với món cháo loãng, rua chuối, muối, nhưng vẫn là một mâm cơm cửa người- bà vẫn cố
tạo ra 1 không khí ấm cúng, vui vẻ. Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo,
đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi
gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con... Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến
ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa
cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của người lao động.

=> cách nói dân dã “ngoảnh đi…” cùng với cách bà dựa vào triết lí dân gian đầy sức thuyết
phục để gieo vào lòng các con niềm tin về về sự đổi đời bởi theo lẽ xoay vần của trời đất thì “ai
giàu ba họ…”. bà đã động viên các con bằng những dự tính mà ai cũng biết là viển vông xa vời
trong lúc đó, nhưng nghe cách nói của bà vẫn thấy náo nức một hi vọng khi nghĩ rằng, nếu may
mắn và cố gắng thì biết đâu họ vẫn có thể sống, có thể hạnh phúc.

~ Xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến phút
cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng nồi cháo
cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc: "cám đấy mày ạ,
hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem". Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng
mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là "chè khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy
để cho các con bớt tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi.

=> Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng một cách dung
cảm khi cái đói hiện lên thê thảm, dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về
nguyên bản, bẽ bàng và chua chát. Bà rất cố gắng xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi
đi thực cảnh thê lương. KL đã miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ trong đoạn văn chua chat này bằng rất
nhiều độngt ừ: bà “lật đật chạy…. cầm cái muôi…”. Tất cả những việc này bà làm bằng thái độ
ân cần, đon đả, với nét mặt tươi cười, với những lời nói cố tỏ ra vui vẻ: chè khoán đây, ngon
đáo để…

~ Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1
bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó. Bà không thể kéo dài
cảnh đầm ấm ở nửa đầu bữa ăn, không thể giữ cho con cảm giác vui vẻ, hạnh phúc trong ngày
đầu tiên của cuộc sống vợ chống, cũng không thể trì hoãn giây phút cay đắng nhất bữa ăn,
không thể che giấu sự thật phũ phàng hiện lên trong bát cháo cám đắng chat, bà lại gắng gượng
an ủi những đữa con đang tủi hổ cắm đầu ăn cho xong lần. Bà động viên mà không giấu nổi một
sự thật “nhiều nhà…” => chính sự dũng cảm và tình yêu thương mênh mông của bà cụ Tứ đã
khiến thức ăn của loài vật thấm đẫm tình nghĩa con người, ngời sáng nhân cách con người, giúp
các con bà vợi đi phần nào nỗi tủi hờn, chua xót khi thấu hiểu tình yêu thương, sự gắng gượng
đầy bản lĩnh của người mẹ, giúp họ có sức mạnh đối mặt với khốn khổ, vượt lên trên cái đói
thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng.

~ "Bà ko dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào
trong. Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây
gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền
trời như những đám mây đen, bà cụ Tứ giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục
thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội
ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nước mắt khóc bởi cái
tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà. Những giọt nước mắt lại rơi. Những giọt nước mắt
ám ảnh ấy....

(NXC)

- Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau.
Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo khổ
kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay đắng, âu
lo, lẫn hy vọng.

- Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ
dành cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng
tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương
con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu
thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.

III. Kết bài:

Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau
bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng
nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều
sâu của 1 truyện ngắn "hiện thực - nhân bản”

4. Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của Kim Lân qua truyện ngắn “Vợ Nhặt”
----------------------------------------------------
RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Hoàn cảnh sáng tác rừng xà nu
– Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng
Nam. Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động
nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó
được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2.Tóm tắt rừng xà nu
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn
tấm ngực lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép
về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít
nay đã trở thành bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể
cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu
dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại
vượt ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân
làng mài giáo mác chuẩn bị chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù
bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa
bọn lính nhưng cũng không cứu được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt
mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu
Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và
Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
II. PHÂN TÍCH
1. Hình tượng cây xà nu
Mở bài
NTT là nhà văn trưởng thành trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Trong cả
hai cuộc kháng chiến này ông đều sống và gắn bó với mảnh đất avf con người Tây Nguyên, ông
viết thành công về đề tài này. Nếu trong kháng chiến chống Pháp ông thành công với tiểu thuyết
Đất nước đứng lên với bút danh Nguyên Ngọc thì trong kháng chiến chống Mĩ ông thành công
với truyện ngắn “Rừng xà nu”. Tác phẩm là một bản anh hùng ca về mảnh đất và con người Tây
Nguyên kiên cường, bất khuất, trong bản anh hùng ca ấy, cây xà nu hiện lên là một hình tượng
nghệ thuật điển hình thể hiện được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.
Thân bài
1. Tác phẩm được viết vào mùa hè 1965, đúng lúc đế quốc Mĩ điên cuồng đẩy mạnh chiến
tranh ở VN. Tuy nhiên tác phẩm lại đưa người đọc về những năm tháng vô cùng khốc liệt khi
người dân Tây Nguyên chống lại kẻ thù Mĩ -Diệm trong những năm 1960.
Rừng xà nu gồm 2 cốt truyện đan xen là chuyện về cuộc đời của nhân vật Tnú và về lịch sử
đấu tranh của buôn làng Xô man. Chuyện của một người hòa quyện với chuyện của 1 buôn làng
được kể trong đêm Tnú về thăm làng, qua giọng kể trầm ấm, thiêng liêng của cụ Mết. Bao trùm
lên cả hai cốt truyện ấy là bóng dáng của cây xà nu và rừng xà nu.
2. Cây xà nu được tác giả khắc họa như một nhân vật với 2 lớp nghĩa là nghĩa tả thực và
nghĩa biểu tượng.
* Nghĩa tả thực
- Mỗi một vùng quê VN đều có một loại cây tiêu biểu. Với con người của mỗi vùng quê
mỗi loài cây đặc trừng của quê hương mình là một ấn tượng sâu đậm trong tiềm thức, tâm hồn.
Với người dân TN, cây xà nu có một vị trí quan trọng, nó sống chủ yếu trên mảnh đất TN hùng
vĩ, mọc thành từng đồi, từng rừng... tạo nên 1 màu xanh bất tận, dựng lên một không gian hùng
vĩ, bát ngát, tươi xanh của mảnh đất TN. Chính vì lẽ đó mà mở đầu và kết thức tác phẩm, NTT
đều dụng công miêu tả hình ảnh rừng, đồi xà nu để tạo thành 1 điệp khúc xanh bất tận, làm nền
cho câu chuyện mang đậm bản sắc TN.
- Với người dân làng Xô man, cây xà nu gần gũi thân thương, gắn bó với đời sống sinh
hoạt thường ngày: lửa xà nu cháy trong bếp mỗi nhà, trẻ con làng Xô man đứa nào mặt mày
cũng lem luốc khói xà nu. Tnú và Mai đã lấy khói xà nu để xông bảng nứa làm bảng học chữ.
Người dân làng Xô man sống dưới tán rợp của cây xà nu và khi chết về với đất lại được chôn
trên những ngọn đồi xà nu.
Cây xà nu hiện lên qua nhiều góc độ, sắc thái, lúc hiện lên trong kỉ niệm, khi hiện ra trước
mắt, lúc là thân, là ngọn, khi là nhựa, là lửa, có khi lại là đồi/ rừng xà nu... tất cả đều agưn bó
máu thịt với người dân nơi đây.
- Không chỉ gắn với đời sống sinh hoạt hàng ngày mà cây xà nu còn luôn có mặt trong
những sự kiện trọng đại của dân làng. rừng xà nu là nơi dân làng nuôi giấu cán bộ cm, là nơi đội
du kích của buôn làng giấu vũ khí đợi thời cơ vùng lên quật khởi. Trong đêm Tnú bị giặc tra tấn
dã man, lửa xà nu cháy trên 10 đầu ngón tay của Tnú giống như 10 ngọn đuốc, rồi lửa xà nu
cũng cháy khắp rừng như một tín hiệu của giờ quật khởi đẻ dân làng vùng lên.
Trong đêm Tnú về thăm làng, bếp lửa xà nu sáng rực ấm áp là nơi để dân làng quây quần
lắng nghe lời kể chuyện của cụ Mết. Quả thật, không có sự kiện trọng đại nào của người dân nơi
đấy lại thiếu bóng dáng của cây xà nu.
- Không chỉ vậy, cây xà nu còn gắn bó với đời sống tình cảm và ăn sâu vào nếp cảm nếp
nghĩ, cách hiểu của người dân nơi đây. Gốc xà nu cổ thụ chính là nơi Mai đã cầm tay Tnú lần
đầu trong nối niềm xúc động thương yêu để khi trở lại nhìn gốc cây ấy đã bật lên, lòng Tnú lại
đau như dao cứa. Cụ Mết lại có thói quen là lấy cây xà nu để đánh giá về sức mạnh. Cụ thường
bảo với con cháu “không gì mạnh bằng cây xà nu đất ta...”. Chính vì ăn sâu vào đời sống tình
cảm và suy nghĩ mà cây xà nu càng trở nên khăng khít, máu thịt với người dân TN.
* Lớp nghĩa biểu tượng:
Nếu chỉ dừng lại ở lớp nghĩa tả thực thì chưua đủ làm nên hình tượng cây xà nu. Ở xà nu,
ta còn bắt gặp lớp ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc để nói về con người TN, giữa cây và người có sự ứng
chiếu, cân xứng hài hòa, trong cây ta thấy cò hồn người, ở người ta bắt gặp có nét tương đồng
với cây.
- Cây xà nu biểu tượng cho nỗi đau thương của người dân TN:
Mở đầu tp là hình ảnh “làng ở...” “nhưng hầu hết...”, cả ngọn đồi xà nu như ưỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chở cho buôn làng. Cả rừng xà nu “hàng vạn cây..., có những cây bị chặt
đứt.. long lanh nắng hè... cục máu lớn” - câu văn không còn đơn thuần là tả cây, nhựa cây đã
hiện hình lên thành máu người. Nghệ thuật nhân hóa giúp người đọc liên hệ giữa cây xà nu với
người dân Xô man. Người dân nơi đây cũng giống với xà nu, cũng mang trong mình nỗi đau,
những vết thương của chiến tranh. Đó là anh Xút, bà Nhan bị giặc treo cổ, chặt đầu, là mẹ con
mai bị giặc quật chết bằng gậy sắt, đứa con chưa đầy tháng tuổi của vợ chống Tnú giống như 1
cây xà nu non bị chặt đưta làm đôi, cây non, chất dầu còn loãng nên không thể nào sống được.
Tnú bị giặc dùng dao chém để tấm lưng anh còn dọc ngang những vết sẹo, đôi bàn tay anh bị
giặc đốt... Qua những hình ảnh ngọn đồi, cánh rừng xà nu bị giặc tàn phá, người đọc như sống
lại những trang sử đau thương của người dân Xô man, chính nỗi đau ấy tạo thành sức mạnh
quật khởi của buôn làng.
- Cây xà nu biểu tượng cho khát vọng tự do, khát vọng sống và lòng trung thành của người
dân TN. Trong rừng ít có loại cây nào khỏe như cây xà nu, mới mọc lên ngọn xà nu đã xanh
rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời để tiếp lấy ánh nắng mặt trời từ trên cao rọi xuống
từng luồng lớn thẳng tắp. Cây xà nu ham tự do, ham sống và luôn hướng đến mặt trời chính là
biểu tượng cho khát vọng sống, khát vọng tự do và lòng trung thành ới cm của người dân làng
Xô man. Ngay từ lúc còn rất nhỏ Tnú đã thấm nhuần lời dạy của cụ Mết “cán bộ là Đảng...”- đó
cùng là mục đích, chân lý sống của dân làng. Trong suốt 5 năm nuôi giấu cán bộ cm chưa từng
có cán bộ nào bị bắt hay bị giết ở rừng xà nu. Điều đó đủ thấy sự tuyệt đối trung thành của
người dân làng Xô man.
- Cây xà nu biểu tượng cho sức quật khởi của dân làng
Mặc dù sống trong tầm đại bác của giặc nhưng những cánh rừng xà nu vẫn trải màu xanh
bát ngát bới vì cây xà nu có sức sinh sôi này nở, có sự kế thừa liên tục bằng một sức mạnh nội
sinh mãnh liệt. Cạnh một gốc cây xà nu mới ngã gục... đã có 4,5 cây con mọc lên để thay thế
những cây đã ngã. Cũng giống như xà nu, người dân làng Xô Man luôn có sự kế thừa từ thế hệ
này áng thế hệ khác, người này ngã xuống có người khác lên thay tạo thành một sức mạnh quật
khởi không gì có thể hủy diệt được. ban đầu thanh niên nhận nhiệm vụ đi nuôi giấu cán bộ cm,
bọn giặc phát hiện được chúng treo cổ anh Xút lên cay vả đầu làng. Đến lượt ông bà già đi thay,
khi giặc chật đầu bà Nhan thì lại đến lượt trẻ con trong làng thay thế trong đó có Tnú và Mai,
Mai bị giặc tra tấn rồi chết cùng đứa con thơ dại thì có Dít lớn lên thay thế, trưởng thành, vững
vàng hơn. Tnú chấm dứt thời niên thiếu với vai trò của một cậu bé liên lạc nhanh nhẹn, mưu trí
thì lại đến bé Heng kế tục. Sức mạnh bạo tàn của kẻ thù không thể hủy diện được sức mạnh
quật khởi của người dân làng Xô man. Kẻ thù càng tàn bạo, thâm độc thì sức quật khởi càng
mạnh. Cứ thế các thế hệ người dân viêt lên truyền thống hào hùng oanh liệt.
- Cây xà nu biểu tượng cho các thế hệ người dân làng Xô man:
Trong rừng xà nu luôn tồn tại 3 lứa cây là cây cổ thụ, cây trưởng thành, cây non. Những
lứa cây ấy luôn có sự kế tục thay thế. Đó cũng là biểu tượng cho thế hệ người dân Xô man.
Hình ảnh cây xà nu cổ thụ là biểu tượng cho lớp người già của làng Xô man, bom đạn không
thể quật ngã nổi những cây xà nu cổ thụ, chúng vẫn ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho
buôn làng và các thế hệ cây xà nu phía dưới. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc liên tưởng đến cụ
Mết- già làng luôn vững chãi bám trụ trên mảnh đất quê hương, đã trải qua nhiều thử thách,
giàu kinh nghiệm là chỗ dựa cho cả buôn làng. Hình ảnh cụ Mết thường được niêu tả, so sánh
với cây xà nu : bàn tay cụ rắn chắc, sần sùi, thô ráp như vỏ cây xà nu, giọng cụ ồ ồ trong lồng
ngực nghe như âm vang lại của rừng xà nu.
Những cây xà nu trưởng thành là biểu tượng cho lớp thanh niên của làng Xô Man như Tnú,
Mai, Dít... ở những cây xà nu này đạn giặc làm cho chúng bị thương nhưng vết thương mau
lành như trên mộtt hân thể cường tráng. Ở Tnú và Mai ta cũng bắt gặp sự trưởng thành và sức
mạnh. Họ mang trong mình một sức mạnh của cả buôn làng, được tôi luyện, trưởng thành trong
chiến đấu. Họ như cánh chim đã đủ lông mao, lông vũ cứ vút thẳng lên bầu trời với sức mạnh
mãnh liệt.
Những cây xà nu non là biểu tượng cho thế hệ trẻ của làng Xô man. Cây xà nu mới mọc
lên ngọn đã hình nhọn mũi tên..., trẻ con nới đây cũng sớm chảy trong mình dòng máu gan góc,
quả cảm. Những người như Dít, Heng, Tnú ngay từ khi còn nhỏ đã sớm hun đúc tinh thần đấu
tranh cách mạng, đã tác mình theo tính cách, theo dáng hình của cha anh.
- Cây xà nu biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết toàn dân
Cây xà nu còn là biểu tượng cho sự đoàn kết và sức mạnh toàn dân của người Tây nguyên.
Mở đầu tp là hình ảnh đồi xà nu- kết thức tác phẩm là hình ảnh những cánh rừng xà nu tít tắp
chạy mãi tới chân trời. Đó cũng chính là sự lớn mạnh, sự trưởng thành không ngừng của người
dân Xô man. Các thế hệ người cứ quây quần đùm bọc, vững trãi, kiên cường để tạo sức mạnh
toàn dân mang màu sắc sử thi.
* Nghệ thuật khắc họa hình tượng cây xà nu:
Có thể nói NTT đã khắc họa được một hình tượng nghệ thuật tiêu biểu mang tầm khái quát
cao, thể hiện được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Qua đó ông cũng bộc lộ 1 ngòi bút văn xuôi
điêu luyện. Qua hình tượng cây xà nu, ta thấy NTT đã sử dụng bút phát hiện thực kết hợp với
bút pháp lãng mạn, bút pháp gợi kết hợp với bút pháp tả. Cũng chính vì sự kết hợp ấy mà cây xà
nu hiện lên vừa cụ thể, chân thực, có tính khái quát cao, tạo nên màu sắc sử thi đậm đà của thiên
truyện.
Kết bài
Truyện ngắn Rừng xà nu của NTT vừa mang đậm màu sắc sử thi lại vừa đậm chất thơ, lại
vừa đậm chất Tây Nguyên. Nếu coi tp là một bài thơ trữ tình thì cây xà nu là một nhãn tự gợi
cho người đọc nhiều suy nghĩ cảm xúc. nếu coi tp như một bản anh hùng ca thì hình tượng cây
xà nu là một nốt nhạc trầm hùng khỏe khoắn, bi tráng mà không kém phần da diết. Hình tượng
cây xà nu đã giúp người đọc hiểu hơn về mảnh đất và con người TN vừa hùng vĩ vừa kiên
cường, quật khởi.
2. Hình tượng nhận vật Tnú
Mở bài (hs tự luyện)
Thân bài
* Tác phẩm được viết vào mùa hè 1965, đúng lúc đế quốc Mĩ đang đẩy mạnh chiến tranh
xâm lược ở VN. Tuy nhiên tác phẩm lại đưa người đọc về những năm tháng vô cùng khốc liệt
khi người dân TN chống lại kẻ thù Mĩ Diệm trong những năm 1960.
Rừng xà nu gồm hai cốt truyện đan xen là chuyện về cuộc đời Tnú và về lịch sử đấu tranh
cm của người dân làng Xô man. Truyện của một người hòa quyện với chuyện của buôn làng,
được kể trong đêm Tnú về thăm làng qua giọng kể trầm ấm của cụ Mết. Nhận vật chính là Tnú.
TN là mảnh đất đã sinh ra nhiều người anh hùng đi vào huyền thoại như Xinh Nhã, Đăm
Săn. Trong tác phẩm, NTT đã khắc họa 1 người anh hùng của TN trong thời đại chống Mĩ, nhân
vật Tnú hiện lên như một biểu tượng cho con người TN anh hùng, bất khuất, chung thủy, nghĩa
tình, luông trung thành với Đảng với cm.
* Qua lời kể của cụ Mết:
- Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi có cuộc đời cay đắng, nhưng tâm hồn trong sáng. Cụ Mết
đã từng khái quát về cuộc đời của Tnú: đời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta.
Trong vòng tay yêu thương của dân làng Tnú lớn lên, trưởng thành thành một người con tiêu
biểu mang những tính cách, phẩm chất tiêu biểu của người Tây Nguyên kiên cường, yêu nước,
điển hình cho lớp thanh niên cm VN trưởng thành trong đấu tranh cm.
- Tnú sớm được giác ngộ cách mạng. Ngay từ khi còn rất nhỏ, Tnú đã tham gia nuôi giấu
cán bộ cm, trong lòng đã thấm nhuần lời dạy của cụ Mết “Cán bộ là Đảng, Đảng còn thì núi
nước này còn”
- Tnú là một người gan góc, dũng cảm
Trong quá trình nuôi giấu cán bộ cm và làm liên lạc Tnú đã bộc lộ được tính cách trung
thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí. Cái chất TN dường như đã thấm nhuần vào tâm hồn, máu thịt
Tnú. Khi học chữ thua Mai, Tnú đã lấy đã đập vào đầu đến chảy máu để muốn đưa cái chữ vào
đuổi cái ngu trong đầu mình ra. Tnú thật gan góc, có nghị lực phi thường.
Sự gan góc của Tnú càng bộc lộ rõ khi anh đối diện với kẻ thù, khi chúng tra tấn hòng lung
lạc Tnú. Chúng chĩa súng vào người anh hỏi “Cộng sản ở đâu”, anh dõng dạc đặt tay lên bụng
trả lời “Cộng sản ở đây”- sau câu nói ấy lưng Tnú dọc ngang những vết chém. Ở trong tù Tnú
đã tìm mọi cách để vượt ngục, trở lại đấu tranh cm.
Tính cách gan góc quả cảm của anh còn được thể hiện qua hình ảnh đôi bàn tay. Đó là đôi
bàn tay chung thủy, nghĩa tình, đã từng cầm phấn cho anh Quyết dạy chữ, từng lấy đá ghè vào
đầu để tự mình trừng phạt mình khi hay quên cái chữ. Cũng đôi bàn tay ấy đã từng nắm lấy tay
Mai trong nỗi niềm xúc động, yêu thương khi anh vượt ngục trở về. Khi đôi bàn tay ấy bị giặc
tra tấn dã man thì 10 ngón tay đã trở thành 10 ngọn đuốc- 10 ngòn đuốc ấy châm bùng lên ngọn
lửa khởi nghĩa của dân làng. Vì vậy đôi bàn tay ấy còn là đôi bàn tay căm hờn.
- Ở Tnú còn có tình kỉ luật cao và có sự trung thành tuyệt đối với cm. Tham gia lực lượng
vũ trang đánh Mĩ, dù rất nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng Tnú chỉ về khi được phép của cấp
trên. Dù vượt đường rừng xa xôi, hiểm trở về thăm làng nhưng anh ở lại đúng có một đêm như
trong quyết định.
Tính kỉ luật cao đặt trong mối quan hệ với cm chính là biểu hiện của lòng trung thành- sự
trung thành tuyệt đối của Tnú.
Khi đôi bàn tay anh rừng rực trong lửa xà nu, toàn thân anh đau đớn, đau như thiêu như đốt
cả gan ruột, ... răng anh đã cắn nát môi anh... Trong giây phút khủng khiếp ấy lời dạy của anh
Quyết vẫn văng vẳng bên tai “Người cs không thèm kêu van”...
Lòng trung thành của Tnú giống như của cụ Mết đã trở thành niềm tin tưởng vững chắc
vào Đảng. Mang theo lòng trung thành tuyệt đối với cm Tnú lên đường chiến đấu với niềm tin
vững chắc vào ngày mai thắng lợi.
- Tnú còn là một người con TN vừa biết yêu thương vừa biết căm thù:
+ lòng yêu thương: Tnú là một người sống rất nghĩa tình, anh là bạn của Mai từ nhỏ, là
người yêu của Mai khi đã trưởng thành và là một người chồng, người cha đầy trách nhiệm, đày
lòng yêu thương. Khi Mai mới sinh con không đi chợ Kon tum mua vài được, Tnú đã xé đôi
tấm dồ của mình ra để cho Mai địu con. Một cử chỉ tưởng chừng như bình thường, nhỏ nhặt
nhưng lại thể hiện được tình yêu thương của anh với vợ con. Khi giặc đem mẹ con Mai tra tấn
dã man hòng lung lạc tinh thần của Tnú, chứng kiến cảnh ấy 2 mắt anh đã biến thành 2 cục lửa
lớn , đôi tay anh đã bứt đứt hàng chục trái vả lúc nào không hay. Nỗi căm hờn rừng rực đã trở
thành hành động bảo vệ vợ con. Mặc dù tay không anh vẫn xông ra giữa bọn giặc và ôm mẹ con
Mai vào lòng. Chính tình yêu thương vợ con đã trở thành động lực ghê gớm, đã hóa thành nỗi
căm thù. Xét cho cùng căm thù bọn giặc cũng là bởi yêu thương những người thân yêu của
mình.
Tnú cũng còn là con người nghĩa tình với buôn làng. Anh lớn lên trong sự yêu thương,
đùm bọc của người dân làng Xô man. Chính vì vậy anh gắn bó với mảnh đất quê hương, yêu tha
thiết những con người Strá cần cù, dũng cảm, giàu lòng thương người. Cũng xuất phát từ tình
yêu thương ấy mà Tnú luôn phấn đấu để xứng đáng với người dân làng Xô man và thực sự anh
đã trở thành tấm gương để cụ Mết giáo dục con cháu.
+ Mối căm thù
Trong trái tim của Tnú mang 3 mối thù lớn đó là mối thù của bản thân, gia đình, đất nước
Lưng Tnú dọc ngang vết dao chém của kẻ thù, 10 ngón tay của anh bị đốt- là những chứng
tích tội ác của giặc mà Tnú mang theo suốt đời. Vợ con anh chết một cách thảm khốc dưới trận
mưa gậy sắt bạo tàn của giặc- đó là mối thù của gia đình khiến Tnú không thể đội trời chung với
giặc. Những cánh rừng xà nu bị giặc tàn phá, những người dân làng Xô man vô tội bị giặc sát
hại như anh Xút bà Nhan... là mối thù của buôn làng mà Tnú không bao giờ quên.
Mang trong mình 3 mối thù ấy, với đôi bàn tay, dù mỗi ngón chỉ còn 2 đốt, Tnú vẫn cầm
vũ khí, vẫn đi tìm những thằng Dục để trả thù. Với Tnú thằng giặc nào cũng là thằng Dục cả.
Và đôi bàn tay tật nguyền của anh cũng từng bóp cổ tên giặc chỉ huy đến chết. Vì vậy đôi bàn
tay chính là đôi tay trừng phạt, quả báo đối với kẻ thù.
- Cuộc đời, số phậnc ủa Tnú tiêu biểu cho con đường đến với cách mạng, giác ngộ chân lý
đấu tranh cm của người dân làng Xô man, cho chặng đường đi lên của cả dân tộc VN
+ Cuộc đời của Tnú là cuộc đời bi tráng mang ý nghĩa điển hình, bao gia đình, người dân
làng Xô man bị giặc tàn phá, giết hại, cũng chịu nỗi đau thương như gia đình, cuộc đời của Tnú.
Anh Xút bị giặc treo cổ trên cây vả đầu làng, bà Nhan bị giặc chặt đầu cột tóc treo ở đầu súng.
Dít bị đạn giặc cày xới 2 chân nhỏ, trên má cụ Mết còn hằn in một vết sẹo dài...
Sự thất bại của Tnú khi chưa cầm vũ khí đấu tranh là sự thất bại của người dân Strá khi
chưa giác ngộ chân lý đấu tranh cm “Chúng nó cầm súng...”- Tnú có thừa sức mạnh cá nhân,
sức mạnh thể chất cũng như tinh thần, anh cường tráng, lực lưỡng như một cây xà nu lớn. Chứa
trong lồng ngực anh là sức mạnh hoang dại của núi rừng, chảy trong huyết quản anh là dòng
máu anh hùng của mảnh đất đã sản sinh ra Đăm Săn, Xinh Nhã... Tnú cũng gan góc, quả cảm
có thừa như vậy mà với tất cả những điều kiện ấy Tnú vẫn thất bại đau đớn khi anh không cầm
vũ khí đấu tranh. Với 2 bàn tay không trước mũi súng của kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ
được cuộc sống, tình yêu của mình. Mai và con anh vẫn bị giặc giết hại một cách thảm khốc.
Còn bản thân anh bị trói, đốt 2 bàn tay. Đau xót thay, chính cây xà nu thân thương, chính nhựa
xà nu ngào ngạt thơm long lanh dưới nắng hè gay gắt lại trở thành phương tiện, vũ khí giết hại
người dân Xô man, phá hủy đôi bàn tay của người yêu xà nu đến máu thịt. Nỗi đau ấy chính là
nỗi đau khi chưa giác ngộ chân lý.
+ Tnú chỉ được giải phóng khi người dân Xô man đã cầm vũ khí đứng lên. chính ngọn lửa
đốt bàn tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa căm thù, nổi dậy của dân làng XM. Sau bao ngày
vào rừng xà nu chuẩn bị vũ khí, mài dao, dụ, rựa, người dân làng XM mà đứng đầu là cụ Mết đã
xông lên chém gục thằng Dục, giết cả tiểu đội lính ác ôn, giải thoát cho Tnú là minh chứng cho
chân lý: phải dùng bạo lực cm chống lại bạo lực phản cm- hay nói một cách mộc mạc, giải dị
của cụ Mết là “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”. Câu nói ấy được cụ Mết lặp đi lặp lại
nhiều lần như muốn khắc sâu vào tâm khảm các thế hệ con cháu. Đó không chỉ là con đường
của Tnú mà là con đường của người dân XM và của cả dân tộc ta.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
NTT đã khắc họa thành công nhân vật Tnú. Nếu truyện ngắn RXN giàu chất dân tộc, đậm
chất sử thi thì đặc điểm này cũng thể hiện qua nhân vật Tnú. Tnú mang đậm tính cách của
người TN như trung thực, gan góc, dũng cảm, biết yêu thương, biết căm thù. Để khắc họa tính
cách của 1 người con trai miền núi, tg đã chú ý miêu tả ngôn ngữ đối thoại bộc trực, thẳng thắn.
Hành động thì mạnh mẽ, quyết liệt, dứt khoát. Hình ảnh Tnú hiện lên với niềm tin tưởng, với tư
thế hiên ngang, vững chãi như núi rừng TN với những hành động mạnh mẽ, áo ạt như thác lũ
TN.
Cuộc đời nhân vật Tnú được hiện lên qua lời kể trầm ấm, lắng sâu của cụ Mết bên bếp lửa
cùng con cháu của buôn làng. Lời kể ấy gợi không khí trang trọng, thiêng liêng như lời kể khan
của già làng. Chính vì thế, Tnú hiện lên mang đậm màu sắc huyền thoại, sử thi giống như người
anh hùng Đăm Săn, Xinh Nhã thuở xưa.
Kết bài
Quả thật NTT là một nhà văn rất thành công về đề tài TN với những nhân vật đậm chất
TN. Nếu trong kháng chiến chống Pháp ông đã thành công với nhân vật Núp ở Đất nước đứng
lên thì trong kháng chiến chống Mĩ ông lại thành công với nhân vật Tnú trong truyện ngắn
RXN. Từ những nhân vật có thật ngoài đời tg đã nâng lên thành những điển hình nghệ thuật tiêu
biểu cho vẻ đẹp con người cho chủ nghĩa anh hùng CM VN trong cả 2 cuộc kháng chiến. Với
Đất nước đứng lên và RXN cho đến nay trong nhiều kí ức của bạn đọc, Nguyên Ngọc vẫn là
nhà văn viết nhiều, viết hay về TN bất khuất.
-----------------------

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)


I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989):
- Là người “mở đường” xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975, được
mệnh danh là “vị khai quốc công thần” của “triều đại văn học mới”, thuộc trong số những nhà
văn “mở đường tinh anh và tài năng nhất của VH ta hiện nay” (Nguyên Ngọc)
- Ở giai đoạn trước, ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi
bút của ông chuyển sang đề tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường
với những vấn đề về đạo đức, về triết lí nhân sinh.
- Ông quan niệm rằng “thiên chức của nhà văn là suốt đời đi tìm hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu
tâm hồn con người”.
2. Văn bản đoạn trích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 – 1983), rút từ tập truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa (1-987). Những năm 1983 là thời kì hậu chiến của đất nước ta, khi ấy
con người phải chịu nhiều áp lực ghê gớm cả về vật chất và tinh thần, đó cũng là lúc văn học
vẫn theo quán tính tụng ca, tô hồng cuộc sống, xa rời con người trong đời sống hiện thực.
Bố cục: Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng.
Câu chuyện của người đàn bà vùng biển.
Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy

II. PHÂN TÍCH. Phân tích tình huống truyện của CTNX để thấy được quá trình
nhận thức của Phùng, quan niệm của nhà văn về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời
a. Nhận thức của Phùng qua hai phát hiện
* Phát hiện thứ nhất: Bức tranh thiên cảnh biển và chiếc thuyền ngoài xa trong một buổi
sáng mờ sương. Đoạn văn : Lúc bấy giờ… mang lại.
- Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền
Trung (Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ
cho chủ đề thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc
sống đời thường, người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài.
- Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa
đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: “mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương
mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”:
+ Câu đầu là cảm nhận chung về “bức tranh mực tàu”, có cận cảnh là “những mắt lưới”,
viễn cảnh là “chiếc thuyền ngoài xa”
+ Tiếp theo là hình ảnh cụ thể với mùi thuyền trôi trong bầu sương mù, có bóng người lớn,
trẻ con, có những tấm lưới… cảnh huyển ảo bởi “bầu sương mù trắng như sữa”, tinh khiết với
“màu hồng hồng” của ánh mặt trời, vừa tĩnh tại với “bòng người im phăng phắc” => tô đậm
chất tạo hình của bức tranh
=> Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu, “cảnh đắt trời cho” trong đời cầm máy của
mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất
cả đều hài hòa tuyệt đẹp, đơn giản mà toàn bích, hoàn hảo, tận thiện tận mĩ, một vẻ đẹp nên thơ,
trữ tình. Trong con mắt Phùng, đó thực sự là một kiệt tác của tạo hóa, cảnh tượng đó giống như
một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ mà trong đời nghệ sĩ không phải lúc nào
cũng bắt gặp được. Với con mắt nhà nghề nhạy cảm, cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt
Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để thưởng cho người nghệ sĩ kiên trì dày công
mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm trước đã hơn hai tuần phục cảnh mặt trời lên trên
biển Cô Tô).
=> Ngòi bút đặc tả của NMC đã gợi vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước
trong tưởng tượng của nghệ sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà.
- Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo:
+ Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hóa công, nghệ sĩ trở nên bối rối,
trong tim như có cái gì bóp thắt vào. Bức ảnh khiến cho tâm hồn Phùng rung động thật sự và
một cảm xúc thẩm mĩ đang dấy lên trong lòng anh.
+ Cái đẹp kia đâu chỉ làm cho Phùng hạnh phúc mà còn giúp Phùng nhận thức và chiêm
nghiệm chân lý: cái đẹp là đạo đức- anh ngỡ mình vừa tìm thấy nghệ thuật đích thực, nới có
Chân – Thiện – Mĩ thống nhất
+ Trong giây phút ấy, đặc biệt, anh cảm nhận được niềm vui của sự khám phá chân lí toàn
thiện, thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa trở nên thật trong trẻo tinh khôi. Cảnh
đẹp đã tác động sâu sắc đến tâm hồn nghệ sĩ Phùng.
- Và anh đã vội, đã không bỏ lỡ cơ hội mà tạo hóa ban tặng, đã không tiếc phim, bấm máy
liên tục để vĩnh cửu hoá ngoại cảnh tuyệt vời cùng với sự thăng hoa trong cảm xúc sáng tạo.
- Ý nghĩa của phát hiện (ý nghĩa chi tiết):
+ việc phát hiện ra vẻ đẹp toàn bích trên vùng biển vào buổi bình minh chứng tỏ đây là
một người nghệ sĩ tài hoa, chân chính, có tâm hồn nhạy cảm, hết mình với cái đẹp, với nghệ
thuật đích thực
+ với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ đẹp bất ngờ của
thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm hoi ấy, phải kiển trì, phải
vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ
sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người đơn
giản và hoàn mĩ.
b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà hàng chài. Đoạn từ: Ngay lúc
ấy… thuyền lưới vó đã biến mất.
Phát hiện thứ nhất thật bất ngờ, lý thú khiến tâm hồn nghệ sĩ tràn ngập những cảm xúc
thẩm mĩ. Anh yên tâm ngày mai có thể lên tàu trở về. Nhưng nếu đúng như dự tính của Phùng
thì câu chuyện chưa có gì đột biến, chưa thực sự bất ngờ. Trớ trêu thay, ngay trong lúc còn chưa
hết ngỡ ngàng, xúc động bởi vẻ đẹp trời cho, thì ngay sau đó Phùng lại có phát hiện thứ 2. Phát
hiện thứ 2 còn bất ngờ hơn phát hiện thứ nhất, nó khó hiểu, đầy nghịch lý, như một trò đùa quái
ác của số phận, Phùng bàng hoàng, buồn đau, căm giận…
- Từ trong con thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai người đàn ông và đàn bà xấu xí, nghèo
khổ, lam lũ. Nhất là cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô tình trước sự chứng
kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ – người lính chiến năm xưa. Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo,
vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái, hắn trút sự căm giận điên cuồng vào
việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt lưng to bản như đánh kẻ thù, hàm răng nghiên
ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ, đau đớn
=> Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ
sĩ Phùng, khi “anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân của
sự bạo hành man rợ”. Trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến
gã đàn ông nọ trở nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay
vì một cái gì đó mà chính gã cũng không hiểu.
- Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu
hơn, khi mụ nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái
thắt lưng trong tay bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.
Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết?
Người me quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả đều
mới chỉ là ước đoán, chưa có căn cứ làm sáng tỏ nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc một chú
bé vùng biển gan góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.
=> Đó là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng mới
là một phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp chứng kiến
và tham gia vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất của sự thật đau
buồn mà dữ dội ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác.
Phùng cay đắng nhận ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ
thuốc rửa quái đản lộn trái những thước phim anh đã dày công mới chụp được.
 Như vậy là cùng một thời điểm, cùng một người quan sát nhưng với hai cự li và góc độ
khác nhau, người nghệ sĩ phát hiện hai bức tranh hoàn toàn tương phản: phía sau là cái đẹp
thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người.
Nghịch lý đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu sắc, mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách
nhìn với hiện thực cuộc đời. Với trái tim nghệ sĩ, khi trước mắt Phùng chiếc thuyền ngư phủ
đẹp như mơ đã biến mất như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản, hiện thực như thứ thuốc
rửa, Phùng đã thức tỉnh: chiếc thuyền đẹp khi ở ngoài xa, nó tạo nên một tác phẩm đẹp khi có
đủ một khoảng cách để gợi nên vẻ mơ màng, huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần.
Qua 2 phát hiện, Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển
tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện
cái đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có
thêm hạnh phúc và tình thương. Và đôi khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại
ở đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng
sáng tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên
ngoài và bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ
thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ
thuật.
=> đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, đừng mượn danh nghệ thuật mà vô trách nhiệm
với cuộc đời. Bởi lẽ nghệ thuật chân chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ
biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, buồn vui trước mọi lẽ đời
thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với một con người.
b. Câu chuyện ở toà án huyện.
- Chứng kiến cảnh người đàn bà bị đánh đập một cách vô lý, Phùng đã đánh nhau với lão
chồng để bảo vệ chị ta, nhưng anh đã bị thương phải vào trạm xá của tòa án huyện, Đẩu đã cho
gọi người đàn bà lên tòa án với ý định giúp đỡ người đàn bà li dị gã chồng vũ phu.
=> với tấm lòng nhân hậu và bất bình trước cái ác của bạo lực gia đình, cả Phùng và Đẩu
đều hi vọng góp phần giải thoát người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu tàn nhẫn. Cả
Phùng và Đẩu đều tin rằng việc khuyên người đàn bà khốn khổ li hôn là giải pháp đúng đắn và
nhân đạo nhất, họ cũng hoàn toàn tin vào thiện chí của mình chắc chắn sẽ được người đàn bà
chấp nhận, thậm chí biết ơn.
- Nhưng họ đã phải kinh ngạc khi phát hiện một nghịch lý trớ trêu: người đàn bà khốn khổ
kia nhất quyết không chịu bỏ chồng, con người bị cầm tù vì đói nghèo, tăm tối và bạo lực ấy lại
tuyệt đối không muốn được giải thoát, thậm chí khi nghe vị chánh án thuyết phục li hôn chồng,
chị chắp tay vái lia lịa, khẩn thiết van xin “bắt tội…. bỏ nó”. Trước lời cầu xin khẩn thiết ấy,
Phùng cảm thấy bức bối đến ngạt thở “gian phòng lồng lộng… ngột ngạt quá”.
=> Phùng và Đẩu đều cho rằng họ đúng vì đã bảo vệ người phụ nữ kia bằng cả thiện chí và
pháp luật. Họ đinh ninh chồng chị là kẻ xấu và ly hôn hắn là giải pháp tốt nhất. Họ cũng tin
chắc người phụ nữ này là người tối tăm ngu muội đến mức không nhận biết được lòng tốt của
họ. Vì thế Đẩu và Phùng không thể giấu sự bực bội và thất vọng. Phùng cảm giác căn phòng
ngủ vốn lồng lộng gió biển của Đẩu như bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Chỉ đến
khi người đàn bà lam lũ quyết định bày tỏ những nỗi niềm thì họ mới thấy những sai lầm
của mình trong nhận thức giải quyết vấn đề
- Người đàn bà trước thái độ của P và Đ đột nhiên thay đổi “mất hết vẻ…khác”, chị xưng
“chị” và gọi P và Đ là “các chú”, chị tâm sự với họ như với những người thân cận, bằng những
lời lẽ chân tình được chiêm nghiệm suốt cả cuộc đời đầy lo toan vất vả của chị “các chú đâu có
phải là người làm ăn….”, chị nhấn mạnh “là bởi vì các chú…không có đàn ông”
=> chị cảm ơn lòng tốt của P và Đ nhưng cũng thẳng thắn phê bình cách nhìn nhận một
chiều của “các chú”.
- Chị kể lại câu chuyện cuộc đời mình như một lời giải thích vì sao chị nhất quyết không
bỏ gã chồng vũ phu:
+ cuộc đời người đàn bà qua lời kể của chị: (hs lược thuật)
+ Lý do chị không bỏ chồng:
~ Thứ nhất: vì thiên chức của người làm mẹ không cho phép - “ông trời sinh ra người đàn
bà…ở trên đất được” – người mẹ phải sống vì con chứ không thể sống chỉ cho mình.
Cuộc sống gia đình chị với nghề chài lưới đầy khó khăn, nếu chị bỏ chồng đàn con của chị
sẽ chịu cảnh bơ vơ, đói khát vì không có bố cùng làm ăn để nuôi con không lớn. Cuộc sống
mưu sinh bằng nghề chài lưới đầy những bất trắc, có khi biển động, có những vụ bắc… gia đình
hàng chài rất cần có cánh tay của người đàn ông để chèo chống mỗi khi biển động, làm chỗ dựa
cho mình và cho cả đàn con.
Nếu bỏ người đàn ông chị sẽ phải đối mặt với bi kịch khủng khiếp đó là những đứa con
của chị phải chịu cảnh đói khát. Bỏ chồng, có thể chị được giải thoát khỏi những trận đồn vô lý
– nhưng như bất kì một cuộc hôn nhân nào tan vỡ thì người buồn đau nhất chính là những đứa
con, đứa có bố thì mất mẹ, đứa có mẹ thì mất bố… một gia đình hạnh phúc trước hết phải là
một gia đình đầy đủ các thành viên dù đâu đó còn có những khiếm khuyết.
~ Thứ hai: chị muốn thấy đàn con của mình khôn lớn và vợ chồng không phải lúc nào
cũng chỉ có đòn roi. Chị hạnh phúc khi nhìn thấy đàn con được ăn no, vợ chồng cũng có lúc vui
vể, hoàn thuận.
Trong đau khổ triền miền, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc những niềm vui nhỏ nhoi, hiếm
hoi như châu ngọc. Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu xí của chị chợt ửng sáng lên như một nụ
cười, chị nói “vả lại ở trên thuyền…. vui vẻ”. Trước câu hỏi của Phùng “cả đời chị…”, chị
khẳng định chắc chắn “Có chứ chú…”. Niềm hạnh phúc thật nhỏ nhoi tội ngiệp nhưng với chị
nó thật thiêng liêng, lớn lao và vì nó chị sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để nâng niu, gìn giữ
~ Thứ ba: đối với người chồng chị có một cái nhìn của một người mang ơn và đầy cảm
thông, thấu hiểu.
Hàm ơn vì trong quá khứ chị vốn là một cô gái xấu xí, thô kệch tưởng ế chồng, anh đã đến
để cứu rỗi đời chị, anh cho chị một mái ấm gia đình và những đứa con. Còn gì hạnh phúc hơn
đối với một người đàn bà là có một mái ấm gia đình, có những đứa con để yêu thương.
Chị cảm thông thấu hiểu chồng ở chỗ: Chồng chị vốn hiền lành, là người tốt, thời chiến vì
trốn lính mà nghèo khổ, túng quẫn. Gia đình đông con, nghèo đói, thuyền chật, cuộc sống mưu
sinh vất vả, có khi biển động cả tháng trời gia đình phải ăn xương rồng luộc chấm muối… tất cả
gánh nặng mưu sinh dồn lên vai người đàn ông, chứng kiến cảnh vợ con đói khổ, anh đau khổ
không tìm được cách giải tỏa “bất cứ lúc nào… Giá mà lão uống rượu…”. Đánh vợ là cách duy
nhất để người chồng khốn khổ giải tỏa những áp lực khó khan, nhọc nhằn, bế tắc trong cuộc
sống đầy cay cực vất vả chứ không phải do anh thù ghét, anh độc ác…
=> qua những lời lẽ của người đàn bà, người chồng vũ phu của chị hiện lên một cách toàn
diện và chân thực. Ông ta vừa đáng giận lại vừa đáng thương, vừa đáng trách nhưng cũng lại
vừa đáng cảm thông, vừa đáng bị trừng phạt nhưng cũng đáng được tha thứ bởi ông vừa có lỗi
nhưng cũng lại có công, có vai trò không thể thiếu trong sự sinh tồn của gia đình. Đó cũng là lý
do vì sao người đàn bà hàng chài cho dù bị đánh triền miên, bị đánh vô tội vạ nhưng nhất quyết
không chấp nhận giải pháp ly hôn chồng. Chồng chị từ một gã con trai hiền lành trở thành một
người vũ phu tất cả cũng chỉ vì gánh nặng cơm áo, gánh nặng của cuộc sống mưu sinh
- Bài học nhận thức về con người và cuộc đời cho Phùng và Đẩu qua câu chuyện của
người đàn bà hàng chái:
+ Những lời giãi bày chân thành của người đàn bà hàng chài đã dần giúp Phùng và Đẩu
hiểu được những điều tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất có lý. Hai anh như “bừng tỉnh
ngộ, một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông
Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ” …. Có lẽ cả Phùng và Đẩu đều đang vỡ lẽ:
~ đằng sau vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch và hành động tưởng chừng như ngu muội của
người đàn bà hàng chài là một tâm hồn nhân hậu, vị tha, là sự sâu sắc, am hiểu, thấu hiểu lé
đời… Chị đã nhìn nhận về chồng mình một cách toàn diện, đa chiều để có được sự đánh giá
chân thực về bản chất con người ấy, từ đó có cách ứng xử thật rộng lượng, bao dung.
~ Đằng sau vẻ thất học, tăm tối là tấm lòng vị tha, thánh thiện của một người làm vợ, làm
mẹ. Chị chấp nhận mọi thua thiệt, cay đắng về mình vì điều đó giúp chị có thể giữ gìn được mái
ấm gia đình, duy trì được cuộc sống cho những đứa con thơ dại và đảm bảo cho con có đầy đủ
cả bố lẫn mẹ khi xã hội chưa có những giải pháp thực sự hiệu quả và kịp thời để giúp những
người vùng biển như gia đình chị ổn định hơn trong nghề chài lưới đầy bất trắc
+ Cũng từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã giúp Phùng và Đẩu nhận thức lại cái
nhìn của chính mình: lòng tốt và luật pháp phải đặt vào cuộc sống thực tế chứ đừng dừng lại ở
lý thuyết
~ Người đàn bà thất học đã giảng giải cho hai vị trí thức về những éo le, ngang trái mà con
người phải chấp nhận khi bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo, cùng cực. Những lý lẽ chất phác
những sắc sảo, “thấu tình đạt lý” của chị đã làm cả hai bối rối (phải sống cho con, ở trên đất đâu
có làm nghề chài lưới được, …)
~ Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rọt, công bằng của luật pháp; Phùng thì nhìn
nhận với con mắt của người nghệ sĩ giàu lòng trắc ẩn. Họ đều có lòng tốt và thiện chí, nhưng vì
quen tư duy một chiều, giản đơn nên họ không thể nào hiểu được những nghịch lý trong cuộc
đời đầy trớ trêu, đau khổ; họ nông nổi, phiến diện khi đánh giá, nhìn nhận con người và đưa ra
các giải pháp không phù hợp với thực tế đời sống. Hóa ra cuộc sống vốn đầy nghịch lý và pháp
luật công bằng hay lòng tốt vị tha cũng không đủ để hóa giải những điều ngang trái.
=> chiến tranh đã qua đi, nhưng những đau thương đâu đã hết. Chúng ta có thể chiến thắng
kẻ thù hung bạo một cách vẻ vang, nhưng chúng ta đã làm được gì và sẽ làm gì để chấm dứt
những bi kịch của con người sau chiến tranh? Đó là câu hỏi nhức nhối không chỉ với Phùng, với
Đẩu mà đối với tất cả chúng ta!
c. Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy
- Tấm ảnh Phùng đã chụp đã chụp được là cảnh chiếc thuyền lưới vó đang tiến vào bờ. “Mũi
thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng
hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. “Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
=> Cảnh thật huyền ảo, tinh khôi, tinh khiết như “một bức tranh mực tàu của một danh họa
đời cổ”. Tất cả khung cảnh ấy được nhìn qua một cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai gọng
vó hiện ra dưới một hình thù y hệt một cánh dơi.
Tấm ảnh được bổ sung vào bộ lịch năm ấy và góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm
ảnh: “trưởng phòng rất bằng lòng”; Tấm ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” có giá trị nghệ thuật cao,
được mọi người yêu thích, “được treo rất nhiều nơi nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật” ,
không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi về
sau” Có thể nói cách khác, tấm ảnh ấy cũng đựơc treo trong những phòng khách sang trọng của
những người sành điệu.
=> Sự đánh giá cao ấy xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra để “phục kích” nhiều ngày
mới chộp đựơc nó. Đó là vẻ đẹp mà có khi cả đời Phùng chỉ nắm bắt được một lần. Những
người yêu nghệ thuật trân trọng tấm ảnh ấy cũng là điều dễ hiểu.
Song, có lẽ họ là những người yêu nghệ thuật thuần túy, đã cảm nhận cái đẹp trên bình diện
của một tấm ảnh toàn bích, đáng thưởng thức, đáng treo ở những nơi sang trọng nhất. Và ai đã
sưu tầm được nó, chắc hẳn đã tự hào rất nhiều.
- Nhưng đối với Phùng (hay nói cách khác, đối với Nguyễn Minh Châu) chưa hẳn là như vậy.
Tuy chụp được tấm ảnh toàn mĩ nhưng dường như tâm trạng của Phùng vẫn còn nhiều băn
khoăn, ray rứt. Bởi vì Phùng còn nhìn thấy từ tấm ảnh, đằng sau tấm ảnh, những hình ảnh khác.
Đó là hình ảnh của những con người khốn khổ. Phùng là tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm
nghệ thuật nhưng Phùng lại không nhìn lướt, nhìn hời hợt như một số người thưởng thức. Có
thể nhiều người chỉ nhìn bề ngoài thấy nó đẹp, thích, trầm trồ khen ngợi một đôi câu . . . rồi
quên lãng! Còn Phùng “mỗi lần ngắm kĩ”, nghĩa là anh đã hơn một lần ngắm kĩ, rồi lại “nhìn
lâu hơn”. Điều đó nói lên, đằng sau tấm ảnh, vẫn còn có điều gì khiến anh trăn trở.
Với Phùng khi ngắm ảnh “tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, tôi vẫn thấy hiện lên
cái màu hồng hồng của ánh sương mai”. Đó là ấn tượng đặc biệt về hiệu ứng màu sắc của
Phùng lúc chụp ảnh, là niềm hân hoan khi anh phát hiện ra vẻ đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh.
Cũng là màu sắc thể hiện niềm tin vào tương lai của gia đình hàng chài nghèo khổ, đầy nghịch
lí sống trên chiếc thuyền ấy.
=> Phải chăng tác giả muốn nói sau khi tước bỏ mọi lớp sơn hào nhoáng bên ngoài, cái chất
thật của cuộc đời khi hiện ra chỉ là hai màu đen trắng. Nhưng nó không hoàn toàn xám xịt, hay
đen tối làm cho người ta cảm thấy buồn rầu, mà khi để hết tâm trí nhìn ngắm, người ta vẫn có
thể phát hiện ra những điểm hồng nào đó. Chẳng qua là màu hồng kia bị che lấp bởi vô vàn cái
bùng nhùng, rối rắm của cuộc đời – cũng như cuộc đời thầm lặng, vô danh của người phụ nữ
hàng chài kia tưởng như không có gì đáng nói mà thật ra, một cách tình cờ, Phùng đã phát hiện
ở chị những phẩm chất đáng quý khiến anh phải suy ngẫm rất nhiều và thay đổi quanh niệm về
con người và cuộc sống. Đó là vẻ đẹp nghệ thuật của tấm ảnh.
- Hình ảnh người đàn bà hàng chài “cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc
phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”
cứ hiện lên trong sự gợi nhớ của Phùng sau khi ngắm nhìn vẻ đẹp của bức ảnh. Điều đó cho
thấy Phùng luôn bị ám ảnh bởi cuộc sống của gia đình hàng chài, đặc biệt là số phận đáng
thương của những người phu nữ ở vùng biển này. Đó là người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu
lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết
hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Người phụ nữ hàng chài nghèo khổ vừa phải lo cái ăn,
cái mặc cho một lũ con, vừa bị chồng đánh liên miên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Cái khổ, cái nghèo của chị hiện ra trong hình dáng “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới,
nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ mệt mỏi, đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm”. Hình ảnh
nhẫn nhục, cam chịu của chị khi bị chồng đánh, không hề kêu lên một tiếng, không chống trả,
cũng không tìm cách chạy trốn. Ngoài ra, còn thằng Phác, chị nó, và cả lão đàn ông cục mịch,
vũ phu. Đó là những mảnh đời khốn khổ, mà để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong tâm trí Phùng
vẫn là hình ảnh người phụ nữ hàng chài.
=> Chị là đại biểu cho những kiếp người lao động vất vả trăm chiều. Hạnh phúc trong cuộc
đời họ là những điều rất đơn sơ, giản dị nhưng không phải bao giờ cũng có được. Hạnh phúc
của chị là những lúc được ngắm nhìn “đàn con chúng nó được ăn no”, vợ chồng con cái “hòa
thuận vui vẻ”, dẫu đó là những niềm vui hiếm hoi trong cuộc đời nhiều cay đắng, nghiệt ngã
của chị. Đó là vẻ đẹp của cuộc sống đời thường sau tấm ảnh.
- Ý nghĩa của bức ảnh:
+ Thể hiện nghịch lí của đời sống. Cuộc đời họ bình thường, thầm lặng, vô danh không ai
biết đến nhưng họ là số đông, là thành phần đại đa số của cư dân trên mặt đất nầy “bàn chân chị
giậm lên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Họ chính là đám đông đã bám gốc rễ trên
trên hành tinh nầy từ thuở có loài người. Nhưng khổ nỗi, đám đông ấy dường như xa lạ với
những bức ảnh tuyệt mĩ thể hiện cuộc sống của họ, nói cách khác, tấm ảnh nghệ thuật “chiếc
thuyền ngoài xa” đẹp như mơ đó chỉ là cái vỏ bề ngoài, đằng sau nó còn có những cuộc sống
rách rưới, đói nghèo. Tấm ảnh ấy vẫn cứ nằm bất động ở một nơi sang trọng trong những gia
đình sành nghệ thuật!
Và đằng sau bóng dáng thấp thoáng ẩn hiện của người phụ nữ này là trái tim nhân đạo của
người nghệ sĩ. Bởi lẽ thật cảm phục làm sao khi một người ít học, quanh năm bị chồng đày đọa
mà vẫn nhìn nhận hành động độc ác của chồng với tấm lòng bao dung, độ lượng, vẫn suy xét
mọi vấn đề có lí, có tình.
- Thể hiện niềm tin vào con người: Phùng thấy người đàn bà ấy bước ra khỏi tấm ảnh “bước
những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất, hòa lẫn trong đám đông …”. Những bước đi
chắc chắn và hòa lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài thể hiện niềm tin của Phùng về
sự hòa nhập của họ trong hành trình đi lên của cuộc sống.
- Thể hiện mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật xuất phát từ cuộc sống.
Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng có vẻ đẹp lí tưởng như nghệ thuật. Điều nầy không
mới.
- thể hiện quan niệm về nghệ thuật của nhà văn: Những ấn tượng của Phùng đã thể hiện quan
điểm nghệ thuật của tác giả: nghệ thuật không thể xa cách với hiện thực nhọc nhằn, cay cực của
con người. Nghệ thuật phải dành ưu tiên trước hết cho con người, phải góp phần giải phóng con
người khỏi sự cầm tù của đói nghèo, tăm tối và bạo lực. Người nghệ sĩ phải có tấm lòng biết
trăn trở về số phận; phải nhìn cuộc đời sâu sắc, đa chiều, không giản đơn, dễ dãi và và phải
dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực. Không những vậy, một tác phẩm nghệ thuật chân chính
phải là tác phẩm thể hiện được chiều sâu, bản chất của hiện thực đằng sau cái vẻ ngoài đẹp đẽ,
lãng mạn. Để làm được điều đó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn
diện về hiện thực, phải có sự trải nghiệm và quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, gian khổ.
+ Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn: mở đầu là đi tìm ảnh, kết thúc là ngắm
nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm nhằm nhấn mạnh tính triết lí của truyện. Giọng văn trầm
lắng, suy tư, nhiều dư vị, nhiều liên tưởng bất ngờ. Đoạn kết không chỉ khép lại câu chuyện mà
còn mở ra một hướng mới cho số phận của con người. Đoạn kết đã tổng hợp lại toàn bộ ý đồ
của tác giả cho những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. Đó là cái nhìn đa chiều, ở
các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải
chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm
tin vào cuộc sống, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao
dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào nhoáng mà là những hạt ngọc
khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

- Nhận thức về nghệ thuật và cuộc đời của Phùng từ bức ảnh được chọn trong “bộ
lịch năm ấy”:
~ Giữa bức ảnh và hiện thực đời sống có một khoảng cách rất xa giữa cái đẹp đầy chất thơ
của nghệ thuật với hiện thực đầy nghiệt ngã của cuộc đời nếu chúng ta chỉ ngắm nhìn nó một
cách mù quáng. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, làm nên vẻ đẹp thơ mộng huyền ảo.
Nhưng sự thật cuộc đời thì lại ở rất gần – nếu chúng ta đặt mình vào đó, nhìn nó một cách
sâu sắc hơn, chậm rãi hơn - nó không toàn thiện toàn mỹ như tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa,
mà là cái đẹp của con người “đa đoan” trong cuộc đời “đa sự”.
~ Với truyện ngắn này, nhà văn NMC muốn nêu ra một điều chiêm nghiệm sâu sắc:
. cần phải gắn nghệ thuật với cuộc đời – bởi nghệ thuật chân chính luôn được khơi dậy từ
cuộc đời và quay trở lại cuộc đời.
. người nghệ sĩ không được phép nhìn sự vật một cách đơn giản dễ dãi, phái có tấm lòng
biết trăn trở về con người, phải đào xới vào những tầng sâu của đời sống để làm hé lộ những
“hạt ngọc trong tâm hồn” có thể còn mang những lấm láp của cát bụi đời thường.
=> đó là lời nhắc nhở và cũng là niềm tin của tác giả vào thiên chức cao quý của người
nghệ sĩ

4. Nghệ thuật
(Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ và hấp
dẫn: bất ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —> bất ngờ hiểu
cái lí buồn của nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ, ngôn ngữ và hành
động phù hợp tính cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người đàn bà, thằng Phác)
Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh tính
triết lí của truyện.
-------------------------------------------

4. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài


+ Về tên gọi: Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt (truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân),
người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên.
Nhân vật được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ: Người đàn bà, chị ta, mụ, … Đây là nhân vật
tiêu biểu cho những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số
phận đau thương.
+ Ngoại hình: xấu xí, thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn
mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt
sũng …
- Hoàn cảnh gia đình, số phận
+ Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái
thuyền chật hẹp.
+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt
+ Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống
mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả
+ Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận
nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con
thú, với lời lẽ cay độc” Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Khi bị
đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đólà một lẽ
đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì
những đứa con.
– Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn,
không hề khóc lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị
đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề
nghị giúp đỡ thì: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ
nó” Chị cam chịu đến tội nghiệp.
Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một
góc tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé
giữa chốn công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu,
Phùng chia sẻ và cảm thông.
Nguyên nhân nỗi cam chịu: Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của
cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+ Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị
đứa con trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa
vô cùng xấu hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt
đau khổ của người đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không
muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa
con trai mà chị quý nhất. Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy
không hề để ý, không hề bận tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng
tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết (“phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”)
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần
thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi
dạy các con ” Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như
trên đấtđược”.
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,
….Chị không muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của
chị là nhìn những đứa con chúng được ăn no, …
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy
xót xa.
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan:
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chi niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong
cuộc đời bình dị (“…nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận”).
Chị tự động viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường
xuyên bị chồng đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc
cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự
việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm
thông, tha thứ cho lão. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo,
đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền
lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là
nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn
sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
+ Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ (“Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và
nuôi con cho đến khi khôn lớn”). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí
giải vì sao mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu
đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới
vỡ lẽ, và rút ra bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người.
Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc
nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện
với con người và cuộc sống.
---------------------------------

HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT


– Lưu Quang Vũ-
1. Trong làng kịch nói Việt Nam có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện tượng
đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX. Tuy có tài ở nhiều lĩnh
vực như viết truyện ngắn soạn kịch làm thơ vẽ tranh... nhưng ông được xem là một trong những
nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại.
- Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ đáng chú ý nhất là vở "Hồn Trương Ba da hàng
thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo cảnh VII đoạn cuối vở kịch đem đến cho
người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương Ba trong thân xác anh hàng thịt.
2. Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981 công diễn
lần đầu tiên năm 1984 sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài nước.
Từ cốt truyện dân gian Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và
lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người.
+ Điểm khác biệt:
~ trong truyện dân gian, nhân vật TB tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi được nhập
hồn vào thân xác anh hang thịt => truyện dân gian mang một tư tưởng triết học có phần cơ bản
đúng nhưng đề cao tuyệt đối vai trò của linh hồn, không để ý đến mối quan hệ giữa thể xác và
linh hồn.
~ Vở kịch của LQV tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của TB từ khi
“bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”- từ đó dẫn đến những tư tưởng mới: sự tồn tại độc lập
của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về một cách sống.
+ Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi thích trồng vườn yêu cái đẹp
tâm hồn thanh nhã giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba
chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích Nam Tào Bắc Đẩu "sửa sai" bằng cách cho
hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng
điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác.
Do phải sống tạm bợ lệ thuộc Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch
ngay thẳng của mình, nhiễm một số những thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính
bản thân ông.
Ý thức được điều đó, trước nguy cơ tha hóa về nhân cách sự phiền toái do mượn thân xác
của kẻ khác, Trương Ba dằn vặt đau khổ và quyết định trả lại xác cho hang thịt và chấp nhận cái
chết.
* Thông điệp của vở kịch:
- Phê phán biểu hiện của lối sống tiêu cực (đề cao vật chất, hưởng thụ…; quá để cao tinh
thần không phấn đấu vì một hạnh phúc trọn vẹn)
- Được sống làm người thật là quý giá, nhưng được sống là chính mình, sống trọn vẹn với
những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn
- Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm
hồn và thể xác

3. Phân tích
3.1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt:
* Có thể nói, Trương Ba đã chết một cách vô lí do sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào.
Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế Thích nhằm trả lại công
bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú
nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác anh hàng thịt hồn Trương Ba đành
phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính
ngay thẳng của Trương Ba xưa kia nay vì phải sống chắp vá, vay mượn tạm bợ và lệ thuộc nên
chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái
xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm
thường của xác thịt anh đồ tể.
*Lời độc thoại: “…tôi không muốn sống như thế này mãi…”
Phải để linh hồn trong sạch, cao khiết của mình sống nhờ trong thân xác thô lỗ, phàm tục
của anh hàng thịt, ý thức sâu sắc mình đang bị tha hóa, Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng
vô cùng bức bối đau khổ (Những câu cảm thán ngắn dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải).
Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi
mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về thô lỗ phũ phàng lắm. Hồn Trương
Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ tuyệt vọng.
* Sau lời độc thoại của HTB, xác hàng thịt lên tiếng bắt đầu cuộc đối thoại:
- Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích đã lên tiếng bằng một giọng khiêu khích
“vô ích…. dù chỉ là thân xác” => trong lời nói của XHT là sự giễu cợt, mỉa mai, thách thức đầy
ngạo mạn của một kẻ thắng thế trước một đối thủ yếu thế.
- Nghe tiếng nói của XHT, HTB hết sức ngạc nhiên “mày cũng biết nói…mày chỉ là xác
thịt âm u đui mù…” => lời nói của HTB cũng không giấu nổi sự khinh bỉ coi thường và phủ
nhận vai trò của xác thịt, ông cho rằng xác thịt mà có tiếng nói thì cũng chỉ là những thứ thấp
kém mà bất cứ con thú nào cũng có được.
=> thái độ khinh bỉ thể hiện qua cặp từ “ta- mày”
- Trước sự phủ nhận phũ phàng của HTB thì xác thịt vẫn ung dung, bình tĩnh khẳng định
sức mạnh ghê gớm của xác thịt. Hắn đưa ra dẫn chứng khá thuyết phục: từ việc HBT chân tay
run rẩy, hơi thở nóng rực khi đứng cạnh vợ hàng thịt, đến việc tát con trai tóe máu…bằng sức
mạnh của tên đồ tể. Hắn còn đặt ra hàng loạt câu hỏi: chẳng lẽ ông không…? => bày tỏ sự nghi
ngờ về cảm giác của HTB trước cám dỗ vật chất đời thường.
Lời lẽ và thái độ của XHT rất trâng tráo, nhưng lý lẽ lại thuyết phục.
- XHT càng nói HTB càng không muốn nghe, bịt tai lại và nói với HT “ta …bảo mày im
đi…” => lời nói đứt đoạn thể hiện sự phẫn nộ, đồng thời cũng là sự yếu thế vì không đưa ra
được những dẫn chứng, lý lẽ phản bác XHT
- XHT càng tấn công bằng lý lẽ sắc bén, thủ đoạn nham hiểm, ranh mãnh, giọng điệu mỉa
mai giễu cợt khi HTB khẳng định mình trong sạch, vẫn là mình “nguyên vẹn…”. XHT còn lên
tiếng dứt khoát “không có gì là sai…”, “chẳng thể nào chối bỏ được xác thịt…”
- XHT dụ dỗ, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp vì theo lí lẽ của xác thịt là "chẳng còn cách
nào khác đâu" vì cả hai "đã hoà vào nhau làm một rồi", “làm xong điều gì xấu cứ…” => lối
sống giả dối
- Trước những "lí lẽ ti tiện" của xác thịt Trương Ba đã nổi giận đã khinh bỉ đã mắng mỏ
xác thịt hèn hạ nhưng đồng thời kêu “trời”, ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đã lâm
vào đành nhập trở lại vào xác thịt trong tuyệt vọng.
=> Nếu ở đầu cuộc nói chuyện, HTB gọi XHT là mày thì đến đây đại từ “anh” đã thay thế.
Đó là thể hiện sự thua cuộc, sự thất thế được thể hiện rõ nét khi HTB nhập lại xác hàng thịt.
Chính sự thất bại này lại càng khiến HTB đau khổ hơn, bi kịch cũng được đẩy lên cao hơn.
NX Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một bên
đại điện cho sự trong sạch nhân hậu và khát vọng sống thanh cao xứng đáng với danh nghĩa con
người và một bên là sự tầm thường dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề
giàu tính triết lí: khi con người ta cố gắng sống với bất cứ giá nào, họ có tìm thấy hạnh phúc hay
không? Con người sẽ ra sao nếu không được sống là chính mình, không được sống trọn vẹn với
những phẩm chất và giá trị vốn có và theo đuổi? Liệu con người có thể giữ cho mình những giá
trị tinh thần cao quý khi phải chấp nhận sống chung với sự dung tục, có tránh được sự tha hóa
khi thường xuyên phải thỏa mãn những ham muốn vật chất tầm thường?
=> cuộc đối thoại thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con
người.
=> Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự ý
thức tự chiến thắng bản thân màn đối thoại này cho thấy:
• Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống
chung với sự dung tục và bị sự dung tục đồng hoá.
• Không chỉ đừng lại ở đó tác giả cảnh báo: khi con người phải sống trong dung tục thì
tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị sẽ thắng thế sẽ lấn át và sẽ tàn phá những gì trong sạch đẹp đẽ
cao quý trong con người.
=> phải sống nhờ vào những yếu tố vật chất bên ngoài, không được sống với con người
thực của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị nó chi phối, sai khiến- đó
là một trong những bi kịch đau đớn nhất của con người
3.2. Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân. Không phải ngẫu nhiên tác giả
không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại này. Các cuộc đối thoại với
vợ, con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn, ông hiểu những gì mình đã,
đang và sẽ gây ra cho người thân là rất tệ hại mặc dù ông không hề muốn điều đó.
Thái độ của vợ trương Ba, con đâu và cháu gái trước sự biến đổi và tha hoá của Trương
Ba:
– Vợ TB buồn bã, đau khổ vì nhận ra: ông đâu còn là ông, đâu còn là ông TB làm vườn
ngày xưa” và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”…
Người vợ hiểu rõ, TB bây giờ hoàn toàn bị sự sai khiến mạnh mẽ của cái bên ngoài ông, TB
khó có thể cưỡng lại ý muốn của thân xác ông đang phải sống nhờ, vì thế TB không còn khả
năng sống với những ý muốn tốt đẹp của người làm vườn chăm chỉ, đôn hậu ngày xưa nữa “ông
bảo không được … như vậy”. Người vợ với trái tim vị tha nhân hậu của người vợ, bà thấu hiểu
nỗi bất hạnh, đau khổ của TB trong cuộc sống không phải là mình, bà càng đau khổ hơn, vì
không thể giúp TB thay đổi hoàn cảnh bế tắc của ông. Tuy nhiên, dù thấu hiểu và xót thương,
vợ TB vẫn khó có thể đối diện với người chồng đang ngày càng hòa nhập với thân xác đồ tể nên
muốn bỏ đi.
=> Chính TB cũng ý thức được nỗi đau khổ của người vợ nhân hậu, vị tha khiến TB càng
nhận rõ bi kịch không lối thoát của mình, ông nói với người con dâu “thầy đã làm u khổ… bây
giờ”
=> Nỗi đau khổ của người vợ nhân hậu, vị tha khiến TB càng nhận rõ bi kịch không lối
thoát của mình.
– Cái Gái, cháu ông quyết liệt và dữ dội, giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực
khước từ tình thân: tôi không phải là cháu ông… Ông nội tôi chết rồi. Cái Gái yêu quý ông nó
bao nhiêu thì giờ đây nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to
bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong
mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu
Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “Ông nội đời nào thô lỗ, phũ
phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm,
ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.
=> Tâm hồn trong sáng thơ ngây của cháu gái tuyệt đối không thể chấp nhận những dàn
xếp trái tự nhiên của thế giới thần tiên xa vời, của người lớn phức tạp, đặc biệt không chấp nhận
sự giả dối, quái gở của cái gọi là “hồn TB - da hàng thịt”. Càng yêu quý, càng nhớ thương ông
nội, cái gái càng trân trọng nâng niu những kỉ niệm về ông, nó nhớ ông nội khéo léo, hiện
hậu…Nó cũng càng kiên quyết phủ nhận hồn TB trong thân xác hàng thịt . Cách gọi “lão đồ tể”
– thái độ dứt khoát, rành mạch đến nghiệt ngã
– Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông bây giờ trong thân xác hàng thịt, “khổ hơn xưa
nhiều lắm”. Chị thương cho tình cảnh sống nhờ, vay mượn trái với tự nhiên của TB, càng
thương cho sự thay đổi không tránh khỏi của bố chồng.
Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không
thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là
không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi,
đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…” => nỗi lòng chân thành của người
con dâu hiếu thảo đã phản ánh chính xác bi kịch của TB: trong cảm nhận của người thân yêu,
TB ngày xưa tốt lành, hiền hậu đã bị cuốn xa dần, nhòa mờ dẫn phía sau những biểu hiện thô lỗ,
phàm tục của thân xác đồ tể- nơi chứa đựng linh hồn ông. Người con dâu ước mong một cách
vô vọng “làm sao giữ được thầy của con…”
=> Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu.
Những nỗi niềm buồn bã, đau khổ, hoặc thương xót, bất lực, hoặc căm ghét, chối bỏ của người
thân đã khẳng định sự tha hóa đáng buồn, đáng thương, cũng đáng sợ đáng ghét của TB khi
phải sống nhờ thân xác của hàng thịt. Mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của
mình đã làm đậm thêm nỗi đau khổ tuyệt vọng của một người ý thức sâu sắc bi kịch đánh mất
mình, khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân
mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.
– Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ,
tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát, cay đắng thừa
nhận thất bại của mình: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…”; nhưng
HTB cùng bướng bỉnh phán kháng: Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự
đánh mất mình?”, thách thức xác thịt “Nhưng có thật là không còn cách nào khác?” Cuối cùng
là lời khẳng định kiên cường, quyết liệt: Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không
cần!”.
=> Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế
Thích một cách dứt khoát. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy
muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh
sáng.
3. Màn đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích, Tb lại phải tiếp tục đấu tranh với những
lời thuyết phục, nhưng giải pháp xuất phát từ thiện ý của ĐT:
- Gặp lại Đế Thích Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ không chấp nhận cái
cảnh phải sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo nữa và muốn được là mình một cách
toàn vẹn "Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn".
=> lời thoại này chứng tỏ HTB đã thoát ra khỏi sức cám dỗ của những lý lẽ đã từng giúp
ông yên lòng bấu víu vào cuộc sống không phải của mình (“cái bên ngoài không đáng kể, chỉ có
cái bên trong…” – lời chị con dâu).
=> Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba. Lưu Quang Vũ muốn gửi
gắm vào đó thông điệp:
+ Con người là một thể thống nhất hồn và xác phải hài hoà. Không thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi.
+ Khi con người bị chi phối bở những nhu cầu bản năng của thân xác thì
đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của
tâm hồn.
- Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì
thế giới vốn không toàn vẹn dưới đất trên trời đều thế cả, không phải tất cả mọi người “đều
được là mình toàn vẹn”, không phải bao giờ con người cũng “được sống theo những điều mình
nghĩ bên trong”, nhiều khi người ta phải “ép mình cho xứng với danh vị bên ngoài”
=> Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. TB không tìm thấy sự an ủi hay bào chữa
cho mình theo thực tế cách sống của số đông ấy. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế
Thích: "Sống nhờ vào đồ đạc của cải người khác đã là chuyện không nên này đến cái thân tôi
cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống thế nào
thì ông chẳng cần biết".
=> bài học: sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng đơn giản. Khi sống nhờ
sống gửi sống chấp vá khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt
thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà sự vô tâm còn tệ hại hơn nó đẩy người
khác vào nghịch cảnh vào bi kịch!
- Đế Thích định tiếp tục sửa sai của mình và của Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác
tệ hại ít hơn là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối
không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, sửa cái sai này bằng một cái sai khác, mà theo ông là
chỉ có lợi cho đám chức sắc tức lão lí trưởng và đám trương tuần không chấp nhận cái cuộc
sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. TB hình dung ra bao phiền toái, rắc rối khi một
người từng trải như TB phải sống trong thân xác cảu một đứa trẻ lên 10- “làm trẻ con không
phải dễ”, nhất là lại tiếp tục một cuộc sống giả tạo không phải của chính mình, để rồi lại cô đơn,
lạc lõng khi nhưng người cùng trang lứa lần lượt nằm xuống. TB, lúc ấy, tựa như “ông khác
ngồi dai ở nhà người ta”…=> những hình dung ấy cùng với tình thương mẹ con cu Tị đã giúp
TB đủ dũng cảm kiên quyết chối từ những cuộc sống không phải của mình, dù trong bất cứ giải
pháp nào.
Khi nghe ĐT nói về sự hư vô đáng sợ của cái chết “ra khỏi thân xác …không có được
nữa” – TB vẫn kiên cường đối diện với sự thật khốc liệt bao giờ cũng đáng sợ với con người,
đó là cái chết. Giồng như tất cả con người ở cuộc đời này, TB cũng ham sống, ông cũng khao
khát được sống bên những người ông yêu thương và cũng rất yêu thương ông, nhất là khi cái
chết của ông lại do sự “nhầm lẫn của quan thiên đình”, cuộc sống ngang trái của ông là do sự
sửa sai của họ, nhưng theo ông “có những cái sai không thể sửa được…”. TB, khi đã trải qua bi
kịch thấm thía “sống thế này khổ hơn là cái chết”. Với một người nhân hậu nhưu TB, ông còn
day dứt vì sự sống vay mượn, giả tạo của mình đã đem đến bao đau khổ cho những người thân,
khiến ông không còn đủ tư cách để khuyên con trai mình “đi vào con đường ngay thẳng”, đã
khiến gia đình ông như tan hoang ra cả => đó chính là những cái giá quá đắt cho cả TB và gia
đình ông, cái giá mà ông không thể trả dù là cho sự sống quý giá của mình.
Trương Ba kêu gọi Đế Thích hay sửa sai bằng một việc làm đúng đó là trả lại linh hồn cho
cu Tị, ông xin được chết hẳn để xóa bỏ sự tồn tại cảu “cái vật quái gở mang tên Hồn TB, da
hàng thịt”. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét:
"Con người hạ giới các ông thật kì lạ".
=> Đó là quyết định khiến ông cảm thấy mình lại là “TB thật”, thấy tâm hồn mình trở lại
“thanh thản trong sáng như xưa”. Quyết định dũng cảm, trung thực đã giúp ông có thể dạy con
lời tha thiết cuối cùng “Không thể sống bằng mọi giá đâu con ơi. Sống đảo điên, hèn hạ, không
được là chính mình còn tệ hơn cái chết”.
=> Quyết định của TB cho thấy ông là người nhân hậu, trung thực, giàu lòng tự trọng, là
con người yêu cuộc sống nhưng cũng ý thức được sâu sắc ý nghĩa của cuộc sống đích thực.
Qua đây, tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp vừa mạnh mẽ quyết
liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Nhà văn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của
những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục giả tạo để bảo vệ quyền được
sống toàn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Người đọc người xem cũng
nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía:
Thứ nhất con người là một thể thống nhất hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm
hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu
bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác không thể tự an ủi vỗ về mình bằng vẻ
đẹp siêu hình của tâm hồn.
Thứ hai sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng đơn giản. Khi sống nhờ sống
gửi sống chắp vá khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
4. Màn kết:
“Tác phẩm chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng”, ngược lại, một tác phẩm
chân chính sẽ còn lưu đọng mãi những ý nghĩa sâu xa trong lòng độc giả. Hồn Trương Ba, da
Hàng thịt của nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Vũ đã để lại cho người xem những suy nghĩ
và niềm tin rất tích cực về cuộc sống qua đoạn kết rất có hậu.
- Sau cuộc đối thoại tranh luận với xác anh hàng thịt và Đế Thích, cuối cùng Trương Ba
cũng đã được toại nguyện. Cảnh kết thúc có hậu cũng đã làm thỏa lòng người xem. Trương Ba
không cần phải mượn thân xác của bất kỳ ai để được ở bên vợ con, người thân nữa. Ngay trong
những thứ bình dị của cuộc sống hằng ngày vẫn luôn có sự hiện hữu của ông. Vườn cây rung
rinh ánh sáng. Tôi ở đây bà ạ. Tôi vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giẫy
cỏ… Không phải mượn thân xác ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những
điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu.

=> Nơi ấy từng là không gian quen thuộc gắn với con người Trương Ba, là nơi ông nâng
niu, chăm sóc cho từng mầm sống, nơi lưu giữ những kỷ niệm đẹp đẽ về một Trương Ba vẹn
nguyện cả linh hồn và thể xác.
- Ở một góc nhà đó, hiện lên cảnh tượng cu Tị đang ôm chầm lấy mẹ, chị Lụa cuống quít
vuốt ve con… Sự ra đi của Trương Ba đã mang lại sự sống mới cho cu Tị. Chị Lụa đã đớn đau
tột độ tưởng chừng như sắp tuột mất đứa con yêu dấu khỏi tay mình, nay nó lại trở về khỏe
mạnh vui cười quấn quít ngay cạnh bên. Niềm hạnh lớn lao vô cùng mà Trương Ba mang lại
cho hai mẹ con mang ý nghĩa rất thiêng liêng và cao cả.
=> Lời thủ thỉ của Trương Ba đã nói lên một chân lý của cuộc đời. Rằng: Sống không chỉ
là sự tồn tại sinh học, sống như thế nào không quan trọng, quan trọng là mọi người nghĩ như
thế nào về mình khi mình đã ra đi. Sự sống của tâm hồn mới là bất diệt, còn thể xác chỉ là
những thứ ta nhìn thấy bên ngoài. Giờ đây Trương Ba tuy không được tận tay chăm sóc cho
vườn cây, không được trực tiếp trò chuyện, vui cười cùng mọi người trong gia đình, nhưng khi
chấp nhận cái chết, ông vẫn hạnh phúc vì tâm hồn mình được vẹn nguyên, vì không phải mượn
nhờ thân xác của ai nữa cả. Ông chỉ là ông, là một Trương Ba trọn vẹn, đạo đức, hiền lành như
ngày nào. Những kỷ niệm tốt đẹp về ông vẫn còn mãi trong lòng mọi người.
- Không những thế, trái tim nhân hậu của Trương Ba đã gieo lên bao mầm non đạo đức cho
con cháu. Cái Gái đã nâng niu, trân trọng từng quả na ông trồng, nó lấy hạt vùi xuống đất và
nói: Chốn mọc thành cây mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi
mãi… Dấu chấm lửng giữa dòng được đặt cuối tác phẩm như rót vào lòng người những nỗi
niềm thương nhớ, và cũng là sự đồng tình, đồng thuận với sự ra đi mãi mãi của Trương Ba. Ông
chấp nhận cái chết nhưng không có nghĩa là tâm hồn ông cũng chết. Ngược lại, những điều tốt
đẹp ông đã làm, nay đang được con cháu ấp ủ, nâng niu. Nó sẽ mọc mầm, sẽ lớn lên, nối tiếp
nhau như trái na mà cái Gái vừa hái và gieo trồng.
Nếu như lúc trước, cái Gái nhất quyết không chịu nhận Trương Ba bên trong cái xác anh
hàng thịt, thậm chí nó còn tỏ rõ thái độ căm ghét, xua đuổi ông. Thì giờ đây khi Trương Ba đã
chấp nhận cái chết, nó lại chấp thuận với những gì mà Trương Ba để lại. Điều ấy một lần nữa
nói lên chân lý của cuộc sống: Chỉ khi được sống làm chính mình, cuộc sống mới có ý nghĩa
trọn vẹn. Không thể nào sống nương nhờ vào kẻ khác, vào những thứ không phải của chính
mình. Gia đình Trương Ba dù trống vắng khi mất đi một người thân yêu, nhưng như vậy còn
bình yên hơn là phải chấp nhận một vật thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.
- Trương Ba đã ra đi, nhưng những kỷ niệm, những dấu ấn tốt đẹp về ông vẫn còn lưu giữ
mãi trong nỗi nhớ của mọi người. Vở kịch đã khép lại và mang đến cho người xem một triết lý
sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng nhân cách cao đẹp của con người: được sống làm
người là điều rất quý giá, thiêng liêng nhưng được sống đúng bản chất của mình, sống trọn
vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi nó còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý
nghĩa khi con người được sống một cách tự nhiên, hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Ở đó,
hạnh phúc của con người là chiến thắng được bản thân, chiến thắng sự dung tục để hoàn
thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao quý về tinh thần. Lưu Quang Vũ đã rất thành
công khi xây dựng nên một vở kịch đầy ý nghĩa sâu xa. Dù đã nhiều lần được công diễn trên
sân khấu, nhưng lần nào cũng khán giả đón xem và hưởng ứng rất đông đảo, nhiệt tình.

=> Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt chấp nhận cái chết để linh hồn
được trong sạch và hoá thân vào các sự vật thân thương tồn tại vĩnh viễn bên
cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật
của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát
cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thăng
của cái Thiện cái Đẹp và của sự sống đích thực.
C. KẾT BÀI
Không chí có ý nghĩa triết lí về nhân sinh về hạnh phúc con người rong vở kịch nói chung
và đoạn kết nói riêng Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong
lối sống lúc bấy giờ: Thứ nhất con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm
thường về vật chất chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu thô thiển. Thứ hai lấy cớ tâm
hồn là quý đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất
không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Cả hai quan niệm cách sống trên đều cực đoan đáng phê
phán. Ngoài ra vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc đó là tình
trạng con người phải sống giả không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là
nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Với tất cả những ý nghĩa đó đoạn
trích rất tiêu biểu cho phong cách viết kịch của Lưu Quang Vũ.
----------------------------

You might also like