You are on page 1of 6

Phân tích

a. Hai câu thơ đầu: Nỗi nhớ được diễn tả khái quát, nỗi nhớ thấm đẫm thời gian và không gian
- Nỗi nhớ bật lên thành tiếng gọi: Có thể nói cả bài thơ là nỗi nhớ trải dài, nỗi nhớ có khi lắng
xuống tầng sâu trong tâm hồn nhưng cũng có khi bật lên thành tiếng gọi tha thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Đối tượng của nỗi nhớ: Sông Mã, Tây Tiến, rừng núi.
+ Sông Mã: là con sông từ thượng Lào chảy vào đất Việt. Dòng sông ấy đã gắn bó với đoàn quân
Tây Tiến, chứng kiến những vui, buồn trong cuộc đời người lính chiến binh. Vì thế, Quang Dũng
nhớ về đoàn quân Tây Tiến nhà thơ còn nhớ về dòng sông Mã thân thuộc, hơn thế nữa có thể đây
còn là dòng sông tâm trạng, dòng sông chở nặng cảm xúc, nỗi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân.
+ Rừng núi: là hình ảnh khái quát về địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến. Đó là nơi rừng
núi hoang vu, rậm rạp, địa hình hiểm trở,...
+ Tây Tiến: là một đơn vị thành lập đầu năm 1947, Quang Dũng có mặt tại đơn vị ngay từ những
ngày đầu mới thành lập nên nhà thơ có sự gắn bó sâu sắc với đồng đội của mình.
- Nỗi nhớ của tác giả được thể hiện sâu sắc:
+ Câu thơ như một tiếng thở dài: Sông Mã xa rồi, lại cũng như một tiếng gọi: Tây Tiến ơi!. Nỗi
nhớ có cái gì đó khắc khoải, thể hiện sự tiếc nuối, trạng thái hụt hẫng cùng với khát vọng trở về
quá khứ thân thương mà hào hùng thuở nào, đó là sông Mã, là Tây Tiến.
+ Điệp từ nhớ: diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, không nguôi cứ tuôn chảy dào dạt trong lòng thi nhân,
nhớ đến thổn thức, bồi hồi. Hai từ nhớ được đặt trong cùng một câu thơ nhưng lại tách ra làm hai
vế khiến cho nỗi nhớ như được tô đậm thêm cảm xúc. Nỗi nhớ dào dạt như những lớp sóng dâng
trào mãnh liệt trong lòng thi nhân: Nhớ về rừng núi/ nhớ chơi vơi.
+ Nỗi nhớ của nhà thơ thật điển hình, đặc sắc: nhớ chơi vơi. Hai từ chơi vơilà hai từ giàu sức gợi,
từng được dùng để diễn tả tâm trạng của con người. Văn học viết về nỗi nhớ rất phong phú:
Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Nỗi nhớ của Quang Dũng thật khó định hình, định lượng, khó diễn tả, như gợi ra được cả sự xa
xôi về thời gian, không gian, nỗi nhớ như có cả tầm cao, bồng bềnh lan tỏa, không sao đong đếm
được.
+ Nỗi nhớ da diết, cháy bỏng, vang vọng: Quang Dũng sử dụng hai chữ chơi vơikết hợp với sự
láy lại ba lần của âm ơi (ơi, chơi vơi), đây là ba âm mở có kết cấu thanh bằng mang âm hưởng
vang vọng lan tỏa khiến cho nỗi nhớ như được ngân lên, nhớ đến thiết tha, thường trực trong tâm
hồn nhà thơ, cả không gian dường như cũng ngập tràn trong nỗi nhớ của tác giả.
b. Sáu câu thơ tiếp: Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, thơ mộng trên chặng
đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến
* Dẫn dắt:
Nỗi nhớ dắt nẻo nhà thơ trở về với những kỉ niệm khó quên gắn với thiên nhiên miền Tây, làm
hiện lên một không gian, cảnh vật miền Tây dữ dội, hiểm trở mà hùng vĩ song cũng thật nên thơ,
thi vị.
* Nỗi nhớ gắn với những địa danh khó quên:
- Trong nỗi nhớ của Quang Dũng có nhiều địa danh xuất hiện như: Sài Khao, Mường Lát, những
địa danh này vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa mang ý nghĩa tượng trưng khái quát.
- Đây là những địa danh, tên những vùng đất mà người lính Tây Tiến đi qua, từng gắn bó. Dường
như chỉ cần nhắc lại những địa danh ấy thôi là biết bao kỉ niệm của quá khứ lại ào ạt chảy về
trong tâm trí nhà thơ.
- Mặt khác, những địa danh này còn mang ý nghĩa khái quát, nó tượng trưng cho một không gian
rất riêng của Tây Bắc xa xôi, lạ lẫm, hoang dã, bí ẩn.
=> Những địa danh được nhà thơ nhắc đến không phải là những địa danh vô nghĩa trên bản đồ
mà đoàn quân Tây Tiến một thời đã đi qua mà nó đã tái hiện lại một thời kì lịch sử hào hùng của
dân tộc với biết bao khó khăn, gian khổ:
Những tên làng, tên núi, tên sông
Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc.
* Bức tranh thiên nhiên vừa hiện thực, vừa lãng mạn:
- Hiện thực: núi rừng Tây Bắc hiện ra trong mờ ảo khói sương, sương dày như muốn che lấp cả
đoàn quân mỏi. Hai chữ sương lấpcùng chữ mỏi đưa người đọc trở về với cuộc sống hiện thực
khốc liệt của người lính. Sương núi lạnh giá cắt da, cắt thịt như muốn nhấn chìm đoàn quân.
- Lãng mạn: tác giả viết hoa về chứ không phải là hoa nở, đêm hơi chứ không phải là đêm
sương khiến cho câu thơ thêm phần lãng mạn. Sương núi bồng bềnh trong đêm tạo nên sự huyền
ảo, mơ hồ. Đặc biệt hơn nữa là hình ảnh hoa vềđã đem đến cho người đọc nhiều suy ngẫm, có
thể hiểu trong sự cảm nhận lãng mạn của người lính thì sương khói ở Mường Lát lúc tụ vào, lúc
tan ra trông như những bông hoa khói vậy. Cũng có thể, những người lính Tây Tiến trên đường
hành quân trở về Mường Lát họ mang theo những đóa hoa rừng ngát hương thơm, hoa đang cùng
bung nở trên chặng đường hành quân của người lính Tây Tiến, là người bạn đồng hành của
người lính. Đây là những bông hoa thực, hoa hiện ra mờ ảo trong sương khói bồng bềnh. Một
trong những ý nghĩa mà ta không thể phủ nhận được là do hành quân trong đêm, đường lại nhiều
đèo, lắm dốc, khúc khuỷu, gập ghềnh đầy hiểm nguy nên những người lính Tây Tiến đã phải đốt
đuốc trong đêm. Những ngọn đuốc soi sáng bước đường hành quân gian khổ ấy, đẹp lung linh
như bông hoa giữa khói sương mờ ảo?
=> Dù hiểu theo cách nào, người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người
lính Tây Tiến đã phải trải qua để ta hiểu về hiện thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm
phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn của những người lính trẻ mộng mơ. Những hình ảnh ấy khiến
cho đoạn thơ bớt đi sự dữ dằn của hiện thực, người đọc có cảm giác như được xoa dịu, vơi đi
những nhọc nhằn, vất vả mà người lính Tây Tiến phải chịu đựng.
=> Trong hai câu thơ trên, tác giả vừa sử dụng hình ảnh gân guốc, vừa sử dụng hình ảnh thơ
mộng, đẹp đẽ kết hợp với nghệ thuật tiểu đối đã làm nổi bật hai vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc
vừa dữ dội, vừa nên thơ, đồng thời cũng làm nổi bật hai khía cạnh trong cuộc đời chiến đấu của
người lính Tây Tiến vừa gian khổ, vừa lãng mạn, yêu đời.
* Chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Tác giả sử dụng từ láy có giá trị tạo hình cao:
Trong hai câu thơ đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc kkuỷu, thăm thẳm, heo hút) đạt
giá trị biểu cảm cao, chúng lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả sự gian nan trùng điệp.
+ Dốc khúc khuỷu vì đường đi là núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, vừa lên cao đã vội đổ dốc, cứ thế
gấp khúc nối tiếp nhau -> độ cao ngất trời.
+ Dốc thăm thẳm: không chỉ đo chiều cao mà còn là ấn tượng về độ sâu, cảm giác như hút tầm
mắt người, không biết đầu là giới hạn cuối cùng -> Độ sâu hun hút.
+ Điệp từ dốc được nhắc đến liên tiếp hai lần trong một câu thơ, tách ra ở hai vế gợi ra một địa
hình hiểm trở chỉ có dốc là dốc cao và sâu. Người đọc có cảm giác người lính vừa vượt qua con
dốc này lại thấy hiện ra những con dốc khác ngay trước mặt mình.
+ Heo hút cồn mây: heo hút gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh, nghệ thuật đảo ngữ càng nhấn mạnh
điều đó. Cồn mây là mây tụ lại, xếp tầng, hình ảnh thơ gợi ra vị trí của người lính Tây Tiến đứng
trong mây, trên đỉnh núi cao vời vợi. Như vậy, dẫu câu thơ không nhắc đến sự khó khăn nhưng
người đọc vẫn hình dung ra chặng đường hành quân leo dốc, vượt đèo mà người lính phải trải
qua.
=> Quang Dũng đã mở ra không gian ba chiều khiến hình ảnh thơ được chạm nổi thành một bức
phù điêu hùng vĩ về núi rừng Tây Bắc khiến người đọc liên tưởng đến chặng đường hành quân
của người chinh phu trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm:
Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
- Nghệ thuật nhân hóa: Súng ngửi trời.
+ Trước hết, đây là một hình ảnh xuất phát từ cảm xúc trước hiện thực, những người lính Tây
Tiến hành quân trong mây mà tưởng như nòng súng chạm tới đỉnh trời.
+ Đây là một hình ảnh đẹp, lạ và táo bạo làm rõ vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của người lính Tây
Tiến.
. Hào hoa, lãng mạn: Tác giả không nói súng chạm trời mà là súng ngửi trời. Hình ảnh thơ mang
nhiều ý nghĩa biểu tượng giúp người đọc phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn của
người lính Tây Tiến. Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa khiến cho những vật vô tri, vô giác
cũng trở nên có linh hồn sống động hơn. Người lính đang tếu táo, đùa vui trêu ghẹo cả tạo hóa.
Câu thơ khiến người đọc liên tưởng đến hình ảnh thơ mộng trong bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu: Đầu súng trăng treo, tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lạc quan của người lính lái xe trong Bài thơ
về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
. Hào hùng: Quang Dũng không nói đến người lính mà ta vẫn thấy người lính, không nói núi cao
mà ta vẫn thấy núi rất cao. Chữ ngửi vẽ ra hình ảnh người lính đang ở tư thế chót vót trên đỉnh
núi, đi giữa ngàn mây, nòng súng đang chạm vào vòm trời. Điều đó cho thấy sự hùng vĩ của
thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Vẻ đẹp của con người trong tư thế sánh
ngang trời đất, làm chủ hoàn cảnh. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được tỏa sáng giữa đất trời
Tây Bắc mang vẻ đẹp sử thi của văn học giai đoạn 1945 - 1975. Đó là vẻ đẹp tiêu biểu của người
lính trong văn học chống Pháp:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.(Lên Tây Bắc - Tố Hữu)
- Nghệ thuật đối lập: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.
Thiên nhiên Tây Bắc dường như luôn luôn có ý định thử thách lòng người. Tác giả sử dụng nghệ
thuật đối lập cùng cách ngắt nhịp 4/3, kết hợp với điệp từ ngàn thước với hai động từ chỉ hướng
lên, xuống khiến cho câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi để miêu tả hai chiều không gian Tây Bắc vừa
có độ cao chót vót, vừa có độ sâu thăm thẳm. Dốc đột ngột vút lên thẳng đứng rồi lại đột ngột
gãy gập đổ xuống một cách bất ngờ, nguy hiểm.
- Tác giả sử dụng tài hoa thanh trắc kết hợp với thanh bằng:
+ Thanh trắc được sử dụng với mật độ dày đặc (liên tiếp ở ba câu thơ: Dốc lên khúc khuỷu...ngàn
thước xuống) đã vẽ nên những đường nét gân guốc, rắn rỏi về địa hình vùng cao Tây Bắc hiểm
trở, đó cũng là chặng đường hành quân vô cùng gian nan mà người lính Tây Tiến phải trải qua.
+ Thanh bằng được sử dụng nguyên văn trong một câu thơ: Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi đã
tạo cho câu thơ những nét vẽ dịu mát. Không gian được cảm nhận qua điểm nhìn của người lính
Tây Tiến khi người lính hành quân lên đến đỉnh núi phóng tầm mắt ra xa, dưới kia là những ngôi
nhà bồng bềnh trong biển mưa. Người đọc không còn thấy dấu vết của sự mệt mỏi bởi phải vượt
rừng, leo núi nữa, bây giờ là tâm trạng bâng khuâng, thư thái của con người khi vượt lên đến
đỉnh dốc, vượt qua biết bao gian lao, vất vả, thử thách để có được cảm giác Thu vào tầm mắt
muôn trùng nước non (Hồ Chí Minh).
=> Nhận xét: Bốn câu thơ có sự kết hợp hài hòa giữa các thanh điệu, quả đúng Quang Dũng là
một nghệ sĩ đa tài, ông có tài không chỉ về thơ ca mà còn cả âm nhạc và hội họa nữa. Những câu
thơ này thật xứng đáng là lời thơ Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc. Phải chăng vì thế mà
Xuân Diệu cho rằng: Đọc thơ của Quang Dũng như ngậm nhạc ở trong miệng. Trong những câu
thơ này, Quang Dũng còn sử dụng nghệ thuật của thơ Đường vẽ mây nảy trăng khi nhà thơ tả
cảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội để làm nổi bật lên hình ảnh người lính Tây Tiến
trên bước đường hành quân và chiến đấu đầy gian khổ, vất vả, hi sinh nhưng vẫn lạc quan hồn
nhiên yêu đời, lãng mạn.
c. Sáu câu thơ cuối: Nỗi nhớ về người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ
mang vẻ đẹp bi tráng (vẻ đẹp hào hùng, lãng mạn)
- Hiện thực trên bước đường hành quân của người lính Tây Tiến:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời!
+ Hai chữ anh bạn chứa đựng những tình cảm gắn bó giữa những người bạn thân thiết, giữa
những đồng chí, đây là cách nói thân thuộc, gần gũi.
+ Hiện thực bi tráng được diễn tả qua những từ ngữ: Dãi dầu, gục. Đó là những vất vả, gian lao
mà người lính Tây Tiến phải trải qua trên chặng đường hành quân gian khổ và quá trình chiến
đấu với quân thù. Đặc biệt là chữ gục có nhiều cách hiểu: Có thể đó là sự mệt mỏi khiến người
lính ngủ gục trên súng mũ như muốn quên đi tất cả, có thể đây là cách nói giảm, nói tránh diễn tả
sự hi sinh của người lính vì Tổ quốc.
- Vẻ đẹp bi tráng của người lính: Quang Dũng vẫn tiếp tục sử dụng cách nói giảm, nói tránh khi
viết về vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến qua các cụm từ: không bước nữa, bỏ quên đời.
Chiến đấu và hi sinh đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Nhà thơ Quang Dũng đã không
ngần ngại nói đến cái chết mặc dù câu thơ không có từ nào nói đến cái chết. Hiệu quả của nghệ
thuật nói giảm nói tránh vừa gợi được tình thương, vừa gợi đựơc sự bình thản chứ không bi
lụy..Tác giả không viết là ngủ quên đời mà là bỏ quên đời thì mới thật ngang tàng, bất cần.Với
cách nói này câu thơ có bi mà không có lụy, ngược lại hết sức hùng tráng gợi ra chất phong trần,
ngang tàng của người lính mang vẻ đẹp của những tráng sĩ thuở xưa. Người tráng sĩ xưa mang lí
tưởng anh hùng, quyết ra đi lập nên sự nghiệp lớn. Chí lớn chưa thành thì không bao giờ nói trở
lại. Họ sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, quê hương, coi cái chết thật nhẹ nhàng.
- Thiên nhiên Tây Bắc bí hiểm, hoang dại luôn rình rập người lính:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
+ Thiên nhiên hoang dã, dữ dội được miêu tả trong tiếng gầm thét của thác, bóng dáng của cọp
trêu người.
+ Địa danh Mường Hịch: Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng địa danh Mường Hịch đọc có cảm
giác như tiếng chân cọp đi trong đêm khuya. Hai chữ Hịch, cọp với hai dấu nặng trĩu xuống nghe
rờn rợn. Câu thơ nói đủ sự khốc liệt của chiến trường người lính. Hai dấu chấm nặng như xoáy
vào lòng đất gợi cảm giác ghê sợ, hãi hùng.
+ Sử dụng từ láy và điệp từ: Chiều chiều, đêm đêm gợi cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về thời
gian diễn ra triền miên nơi rừng thiêng thác sâu, cọp dữ, nơi ấy luôn là mối đe dọa khủng khiếp
đối với người lính Tây Tiến. Sự nguy hiểm ấy thường diễn ra vào lúc chiều tối, đêm sâu và
thường xuyên, liên tục không phải là một chiều, một đêm mà chiều nào cũng thế, đêm nào cũng
thế. Như vậy, người lính Tây Tiến không chỉ bị ngã xuống trước họng súng của kẻ thù mà còn có
thể bị ngã xuống bởi rừng thiêng, thác hiểm.
- Tình quân dân thắm thiết:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
+ Một lần nữa nỗi nhớ lại bật lên thành lời, tác giả đã thốt lên Nhớ ôi. Hai từ này mang giọng
điệu cảm thán bộc lộ nỗi nhớ nhung trào dâng mãnh liệt. Câu thơ có ba thanh trắc ngắt quãng
đều đặn tạo nên âm điệu câu thơ vút lên đẩy nỗi nhớ nhung lên cung bậc cao nhất.
+ Tác giả nhớ về: Mai Châu, bữa xôi sốt dẻo ấm áp tình quân dân. Câu thơ có hai cách hiểu.
. Cách thứ nhất là cách định danh thời gian của tác giả: Có thể hiểu người lính Tây Tiến dừng
chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín đón nhận bát xôi hương nếp đầu mùa. Đặc biệt có bàn tay
thơm thảo của em làm nên hương vị nồng ấm ấy làm vấn vương lòng người chiến sĩ Tây Tiến.
Hương nếp thơm hay đó chính là sự thơm thảo của lòng người, của tình em nồng ấm? Điều này
trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên đã từng viết:
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
. Cách hiểu thứ hai đầy lãng mạn: Hai chữ mùa em là một sáng tạo ngôn ngữ tài hoa của tác giả
gợi đầy tình thương và nỗi nhớ, trìu mến và thân thương. Chữ mùa gợi sự đầy đủ, ăm ắp sự sống,
mang hương vị của đồng nội, còn chữ em gợi vẻ đẹp xuân sắc của người thiếu nữ. Hai từ mùa
em đã gợi tả tinh tế cảm giác xao xuyến, say mê của các chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn
trước sản vật và con người Tây Bắc.
=> Có lẽ khi viết những câu thơ này, Quang Dũng còn giữ nguyên ấn tượng hồi hộp, xúc động
khi được đón nhận tình cảm quân dân nồng ấm. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ ấy,
tình quân dân đã làm vơi đi những khó khăn mà người lính phải trải qua. Đây sẽ mãi mãi là
những kỉ niệm đẹp đẽ làm ấm lòng người lính trên chặng đường hành quân gian lao, đầy thử
thách.
- Nghệ thuật: Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Quang Dũng lãng mạn, tài hoa ở cách xây
dựng hình ảnh, bút pháp hiện thực kết hợp với lãng mạn, nghệ thuật tương phản, nhân hóa, cách
sử dụng từ ngữ, thể thơ thất ngôn trường thiên...
IV. Đánh giá chung
- Đoạn thơ chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến song cũng đã ghi
lại những vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp của người lính Tây Tiến.
- Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của những ai từng
đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua những năm tháng chiến đấu đầy gian lao của cuộc kháng
chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm
lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách
mạng Việt Nam.
C. Kết bài
Đoạn thơ đã khắc họa một cách sống động về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, vừa mĩ
lệ; hình ảnh người lính Tây Tiến trên chặng đường hành quân gian khổ mang vẻ đẹp lãng mạn, bi
tráng.
=> Đoạn thơ xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất viết về hình ảnh người lính trong
những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

You might also like