Professional Documents
Culture Documents
Phân
a) Hai câu đầu
- Mở đầu bài thơ là sự bộc bạch nỗi nhớ: “Sông Mã... chơi vơi.” Đây là một
tiếng gọi tha thiết, dòng chảy cảm xúc bắt đầu từ tiếng gọi ấy. Lời thơ vang lên
bằng âm điệu trìu mến, da diết, cháy bỏng, tưởng chừng như không thể kìm nén
nổi như tiếng gọi đối với người tình nhân trong xa cách: Em buồn em nhớ chao
em nhớ/ Em gọi thầm anh suốt cả ngày.
+ Cách sử dụng từ địa danh cho thấy nỗi nhớ bắt đầu từ Sông Mã - dòng sông
gắn bó và chứng kiên những vui buồn của người lính trong suốt chặng đường
hành quân. Sông Mã là một chứng nhân lịch sử, là nơi ghi dấu chân của đoàn
quân Tây Tiến. Mượn hình ảnh sông Mã, QD cũng muốn thể hiện một nỗi nhớ
trải dài và thắm sâu như dòng sông.
+ Cảm thán từ “ơi”: nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng mãnh liệt trong lòng không kìm
nén nồi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi thân thiết “Tây Tiến ơi”.
+ Nỗi nhớ được hình tượng hoá “nhớ chơi vơi”:
+ Điệp từ “nhớ”: Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là sông Mã, là
Tây Tiến, là rừng núi. Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại
hai lần từ “nhớ”. Về nỗi nhớ, trong ca dao là “Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi...” trong
thơ Xuân Diệu “Tương tư nâng lòng lên chơi với”. Quang Dũng nâng tầm nỗi
nhớ, tình yêu đôi lứa thành tình yêu cách mạng.
+ Hiệp vần “ơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, khiến nỗi nhớ được
cộng hưởng trở nên da diết, dai dẳng hơn.
--> Những câu thơ ngân vang, đã thể hiện được cảm xúc chung bao trùm lên bài
thơ, đó chính là nỗi nhớ. Nhớ lơ lửng, mông lung, nhớ ngập tràn lan toả. Nỗi
nhớ như chiếm lấy không gian, thời gian, tâm hồn con người.
b) 10 câu tiếp
Từ nỗi nhớ chơi vơi, mạch cảm xúc của bài thơ như tuôn chảy dưới ngòi bút
Quang Dũng, tái hiện sinh động khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở, dữ dội
hoang sơ mà giàu chất thơ và đan xen vào là hình ảnh người lính trên con đường
hành quân gian khổ:
“Sài Khao... cọp trêu người.”
+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch là những
vùng đất lạ lẫm nơi biên giới Việt Lào mà đoàn quân đã đi qua --> gợi sự xa xôi
bí hiểm đầy hoang sơ nhưng cũng thu hút đối với những chàng trai trẻ hào hoa
đất Hà Thành, đó là những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước - Nghìn
năm. thương nhớ đất Thăng Long”.
+ Trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt “sương lắp đoàn quân” nhưng
những chàng trai hào hoa, đa tình vẫn thả hồn mình bay bổng theo hương thơm
của hoa rừng, sương núi trong đêm hơi. Sương vùng cao như trùm lắp và nuốt
chửng đoàn binh. QD đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực chiến
tranh vẫn bị khuất lắp trong thơ ca kháng chiến. Đằng sau hình ảnh những
đoàn quân hùng dũng, hăm hở ra trận là những đoàn quân mỏi mệt. Đằng sau
vinh quang chiến thắng còn có cả những gian khổ, hi sinh.
+ Điệp từ “dốc”, từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đầy giá trị tạo
hình, gợi cảm giác dốc nối dốc, đèo nối đèo, dốc cứ ngược lên mãi gây nên sự
hiểm trở trùng điệp. Nhịp thơ 4/3 + dầu phẩy giữa dòng ngắt đôi câu thơ “Heo
hút cồn mây, súng ngửi trời”, làm câu thơ như gấp khúc lại, mây dày đặc nổi
thành “cồn mây”, núi cao tưởng chừng chạm mây => Hai câu thơ diễn tả thật
đắt sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo Tây Bắc.
+ Mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn.
+ Tiểu đối “ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh độ gập
ghềnh, hình sông thế núi trập trùng của thiên nhiên Tây Bắc.
+ Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian “chiều chiều”, “đêm
đêm” cùng biện pháp nhân hoá “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, đặc biệt kết
hợp thanh điệu “hịch - cọp” đã nhấn mạnh sự nặng nề, vẻ bí hiểm, cái chết luôn
rình rập đe doạ người lính. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không
gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.
Tuy thiên nhiên khắc nghiệt như thế, nó cũng hiện lên rất thơ mộng qua
lăng kính Quang Dũng.
+ Nếu những câu thơ toàn vần trắc nghe thật khó khăn vất vả thì đến câu thơ
toàn bộ là thanh bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” đặt cuối
câu tạo cảm giác nhẹ nhàng, là tiếng thở phào nhẹ nhõm của người lính. Đó là
giây phút họ được thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng,
phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi.
+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” lúc này đây như một nét nghệ thuật độc đáo
trữ tình. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về
bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo
những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn
quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Còn gì thơ hơn khi đoàn quân ấy trở về
trong đêm hơi đầy huyền ảo, mơ hồ. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn
của chàng trai Hà Thành Quang Dũng. .
+ Hình ảnh “súng ngửi trời” là một nhân hoá độc đáo. Hình ảnh ấy được sử
dụng hồn nhiên nhưng cũng rất táo bạo, vừa đặc tả độ cao của những đỉnh đèo,
vừa thể hiện chất lính hồn nhiên, bốc tếu, tinh nghịch. Những chàng trai Tây
Tiến trèo lên những ngọn núi cao như đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời.
+ Cách dùng từ “trêu” trong “cọp trêu người” cũng thật độc đáo, nó làm giảm
bớt đi những nguy hiểm, thiên nhiên dữ tợn bỗng trở nên gần gũi, trở thành
niềm vui, sự trêu đùa qua góc nhìn lạc quan nghịch ngợm của người lính
Đối với sự khắc nghiệt của núi rừng, người lính Tây Tiến không chùn
bước, ngược lại họ hiên ngang sẵn sàng mà bước, sẵn sàng chấp nhận:
“Anh bạn dãi dầu... bỏ quên đời.”
+ Từ láy “dãi dầu” gợi lên sự mỏi mệt bởi những gian khổ khó khăn trong
chặng đường hành quân. Đó là hiện thực khốc liệt của chiến trường mà Quang
Dũng không che giấu.
+ Từ “gục” vừa chỉ tư thế không còn đứng thẳng, vừa gợi trạng thái mỏi mệt,
khiến con người gục xuống. Khi đặt cạnh “bỏ quên đời”, người đọc ấn tượng về
những con người đang quật khởi đứng dậy vươn lên tiếp tục tiến về phía trước.
+ Cách nói tránh về cái chết “không bước nữa”, “bỏ quên đời” gợi tư thể ngạo
nghễ của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn
giản như là giấc ngủ mà thôi. Tư thể hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào
hùng.