You are on page 1of 6

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình

ảnh của những anh hùng vô


danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn
người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ
quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang
Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng
chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở
Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến
nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác
cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ
ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây
Tiến” vì cả bài thơ đã xuyên suốt những nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ
– cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm.
Bài thơ bắt đầu bằng nỗi nhớ, nỗi nhớ chất đầy trong lòng nhà thơ, cất lên thành lời:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh
hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. Hai câu thơ đầu nói
lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu.
Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt – Lào thuộc tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa,
Mai Châu, Quan Hóa… Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng
giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sỹ Tây Tiến. Vì thế, Sông Mã vừa là
một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây. Sông Mã còn là một dòng
sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn
vui, những mất mát hy sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa tử sỹ. Quang Dũng đã nhắc đến
Sông Mã như một biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ nhung. Nhịp 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm
giác như có một phút ngừng lặng để cảm nhận sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi “SôngMã
xa rồi”, để rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ: “Tây
Tiến ơi!”
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi
vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần
với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào
thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy
thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người
chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây
Tiến từng nếm trải:“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc
đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút,
hoang dã, thâm sơn cùng cốc,…
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Bút pháp hiện thực trong câu trên đã mô tả một đoàn quân dãi
dầu, mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ
“lấp” ở cuối vế đầu. Với việc này, nhà thơ đã cho thấy màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày
đặc, che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi, khiến con đường hành quân của các
chiến sỹ thêm vất vả, gian nan. Với câu sau, “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” hiện thực khắc
nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: Đêm sương thành “đêm hơi” bồng bềnh, những
ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc theo hàng quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung
linh, huyền hoặc. Những thanh bằng nhẹ bẫng trong câu thơ càng làm đậm thêm sắc hư ảo của màu
sương rừng. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn
lãng mạn, hào hoa “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống/ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, gợi ra
những nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác lại
đợi sẵn. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm
vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường.
Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ
lực hết sức mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp với
nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa
gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình, dốc núi miền Tây
đã được miêu tả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở
lẫn vẻ đẹp ký thú, thông qua bức tranh thiên nhiên có thể thấy những vẻ đẹp trong tâm hồn người
lính Tây Tiến: Họ lạc quan, mạnh mẽ, coi thường mọi gian truân, những khó khăn thử thách của
thiên nhiên chỉ làm rõ hơn ý chí, sức mạnh tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sỹ của họ.
Sau những câu thơ hun hút nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng
với rất nhiều âm thanh mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông, dàn trải, nhạt nhòa trong
mưa:“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ”. Hình ảnh “mưa xa khơi” có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả
thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng như mênh mông, xa vời hơn. Sau
những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó đưa mắt nhìn cảnh
núi rừng chìm trong mưa, những người lính xa nhà hướng tới những ngôi nhà bồng bênh thấp thoáng
trong màn mưa hư ả. Cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng “nhà” mang thanh huyền như một thoáng trầm
lắng suy tư để rồi sau đó tất cả là những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang Dũng tiến về sự hi sinh của một người
lính Tây Tiến.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Các gọi “anh bạn” thể hiện tình cảm thân thiết trìu mến, cụm từ “không bước nữa” và “bỏ quên đời”
đều là cách nói tránh về cái chết, điều đó là giảm đi sự đau thương mất mát, đồng thời nhấn mạnh sự
hy sinh cao cả của người lính chiến. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính
chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế
ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót
xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy.
Lời thơ cũng cho thấy cái nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh, nhưng
không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử thách khó khăn
hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng Tây Bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là
để thử thách bước chân của người lính :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ
nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi
ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên
hành quân qua những mảnh đất rừng thiêng nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác
nước gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần.
“Mường Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn
người, cọp ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của
người lính thì bóng nổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để
thử thách sự gan dạ, độ bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.
Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này, chúng ta
vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến. Nhưng đọc
tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc
bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá những gian khổ,
kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau nên
Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi
các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương-Mai Châu. Ở đây
các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay quần
ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh đậm đà tình
quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt
vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được
đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng.
Quang Dũng đã dùng từ “mùa em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các
anh bộ đội cụ Hồ nhớ những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp xôi vương vấn để mở
ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhác về Viên chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa trong đêm tràn đầy màu
sắc, nhộn nhịp, rộn ràng âm thanh của tiếng khèn man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây
gợi cái heo hút thâm u của núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm
trong tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui. Để tiếp sức cho người lính,
binh đoàn luôn có những trạm dừng chân để cho các anh giao lưu với người dân. Một không khí lãng
mạn được thổi bùng lên trong đêm văn nghệ hiếm có ấy. Các anh như tạm quên đi súng đạn, hòa
mình vào không khí vui tươi của tiếng khèn, những điệu múa… Ánh sáng rực rỡ, cháy đượm nồng
nàn của những ngọn đuốc mà nhà thơ thấy như “hội đuốc hoa”. Những cô gái xinh xắn khoác lên
mình những bộ váy áo xinh nhất mà các anh ngỡ ngàng tự thốt lên “tự bao giờ”. Các cô gái chính là
trung tâm của đêm hội mang vẻ đẹp e thẹn, tình tứ, mềm mại, duyên dáng đã thu hút hồn vía của các
chàng trai Tây Tiến. Thật đẹp làm sao giữa tình quân dân, của tình yêu nhiệt huyết đầy mộng mơ
tuổi trẻ. Đêm hội lửa chắc chắn rất vui, rất thơ mộng dù ở biên giới Việt Lào. Có lẽ theo tình yêu gửi
trọn đến phương xa vì thế mà nó đã có thể “về Viên Chăn xây hồn thơ”.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
Trong cảm xúc nhớ thương về khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc mà nhà thơ đặc biệt nhớ về Mộc
Châu. Câu hỏi tu từ được nhà thơ sử dụng thật độc đáo “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?” dường như
nhà thơ không phải để hỏi bất cứ ai mà nhằm khẳng định mình không thể quên được nó. Nó ở đây là
những bông lau cũng có “hồn” có tâm tư tình cảm như con người. Người ra đi, mang theo nỗi buồn
mang mác khiến cho cỏ cây cũng thấm đượm nỗi buồn đó. Dáng người khỏe khoắn của con người
Tây Bắc trên chiếc thuyền độc mộc tạo cùng những bông hoa rừng trôi theo dòng nước lũ. Tất cả đã
tạo nên một bức tranh đẹp mang chút lãng đãng, hờ hững của buổi chiều sương giăng lối của miền
sơn cước.
Thật ấn tượng khi những hiện thực khó khăn mà các chiến sĩ phải trải qua qua ngòi bút của nhà thơ
Quang Dũng: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ra sự thật nghiệt ngã của hoàn cảnh sống và chiến đấu của các chiến
sĩ Tây Tiến nhưng mang đậm chất khí chất ngang tàng. Hình ảnh “Quân xanh màu lá” với nghệ thuật
đối lập “Không mọc tóc”, “quân xanh” – "dữ oai hùm” gợi lên dáng vẻ xanh xao tiều tụy vì căn bệnh
sốt rét. Tuy nhiên, hơn hết từ trong sâu thẳm con người họ vẫn toát lên dáng vẻ oai như những con
hổ chốn rừng thiêng, làm nổi bật tính cách dũng cảm của người lính. (Hoành sóc giang san cáp kỷ
thu Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu)
Sự oai phong lẫm liệt còn được thể hiện qua ánh mắt. “Mắt trừng” chính là ánh mắt dữ dội, rực cháy
căm hờn, mang mộng ước giết kẻ thù. Họ rất anh dũng, kiên cường, đứng trước mũi súng quân thù
vẫn hiên ngang nhưng nét đẹp lãng mạn vẫn rất rõ nét, sâu sắc trong tâm tưởng họ: “Đêm mơ Hà Nội
dáng kiều thơm”, Các chiến sĩ vốn xuất thân là chàng trai Hà Thành, tuổi mới đôi mươi vẫn còn tình
yêu mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhưng nghe theo tiếng gọi của tuổi trẻ, các anh ra đi để lại gia đình, bạn
bè và tình yêu của mình ở lại. Để rồi trong giấc mơ của mình các anh lại trở về với tình yêu của mình
Trên con đường hành quân gian khổ, bom đạn của kẻ thù, của những cơn sốt rét rừng, sự nguy hiểm
của thú dữ và muôn vàn khó khăn khác các anh đã nằm xuống:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ/Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nơi các anh nằm xuống là “biên cương” xa xôi, “rải rác” trên chặng đường hành quân. Sự thiếu thốn
của tư trang, thiết bị “đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ (bài thơ Đồng Chí), để khi về với đất mẹ,
các anh chỉ có tấm chiếu mỏng manh. Nhưng dưới con mắt của nhà thơ, chiếc chiếu mỏng manh ấy
chính là “áo bào”. Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hy sinh của
người lính. Các anh chả hề khó khăn, sợ cái chết ở độ tuổi nhiệt huyết, tươi mới nhất “đời xanh”.
Tính chất bi tráng thể hiện rõ trong đoạn thơ này, sự hy sinh của các anh khiến cho “sông Mã gầm
lên khúc độc hành”, thiên nhiên phải gào thét lên. Tất cả đã tôn vinh cho sự ra đi đầy hiên ngang, bất
khuất của những chiến sĩ can trường, chẳng tiếc chi tuổi trẻ, thanh xuân.
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài
niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước/Đường lên thăm thẳm một chia phôi/Ai lên Tây Tiến mùa xuân
ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến
xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết
tâm của cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những
ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về
Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong
binh đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
"Tây Tiến" là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu
biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa,
phong độ hào hùng của nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và
lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính
phục nhà thơ cùng những chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến.

You might also like