You are on page 1of 3

Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu nền thơ ca hiện đại

Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Thơ của Quang
Dũng luôn hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa - phong cách nghệ thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên
đường. Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập Mây đầu ô (1986). Tác phẩm là bức họa về bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà nên thơ. Đó là phông nền để nhà thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa hào
hùng, vừa rất đỗi hào hoa. Bài thơ có 4 khổ, trong đó nổi bật là mười hai câu thơ đầu tiên diễn tả khung cảnh thiên nhiên hoang sơ, trữ
tình cùng hình ảnh người lính Tây Tiến dũng cảm, hào hùng nhưng cũng vô cùng lạc quan, dí dỏm và yêu đời.

Hai dòng thơ đầu của đoạn thơ đã gợi mở dòng chảy của nỗi nhớ xuyên suốt tác phẩm, là những chấm phá ban đầu về nơi núi rừng Tây
Bắc:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! - Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình ảnh sông Mã là biểu tượng của thiên nhiên Tây Bắc, là chứng nhân lịch sử thầm lặng của một thời binh lửa. Vì thế, sông Mã đã trở
thành dòng sông kỉ niệm, dòng sông tâm trạng chở những nỗi niềm đầy vơi trong lòng thi nhân. Cách diễn đạt “sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi” khiến nỗi nhớ trở nên quặn thắt cõi lòng, đong đầy nuối tiếc. Đó là tiếng gọi hướng đến đồng đội mà nhà thơ từng sống, chiến đấu và
gắn bó, tiếng gọi về chính mình, về những vùng đất đã xa. Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" đã diễn tả nỗi nhớ cháy bỏng, không nguôi cứ
tuôn chảy dào dạt trong lòng thi nhân. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám
ảnh. Hai câu đầu đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

Đến với hai câu thơ tiếp theo, tác giả mở ra khung cảnh con đường hành quân của những người chiến sĩ Tây Tiến:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, - Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
"Sài Khao", "Mường Lát" là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiên, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân
gian khổ, mệt nhọc. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp hiện thực để gợi tả màn sương dày đặc bao phủ khắp Sài Khao. Thiên nhiên đặc trưng
của miền Tây Bắc vô cùng khắc nghiệt dữ dội, đó là một miền đất lạnh lẽo, sương giông mù mịt, khuất lấp cả tầm nhìn, phủ lấp dấu chân
người lính. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là
hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn
quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ. Những hình ảnh ấy khiến
cho đoạn thơ bớt đi sự khốc liệt của hiện thực, người đọc có cảm giác như được xoa dịu những nhọc nhằn, vất vả mà người lính Tây Tiến
phải chịu đựng.

Ở những câu thơ tiếp theo, hành trình gian khó của người lính Tây Tiến được thể hiện 1 cách chân thực:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. - Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống - Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Nhà thơ đã sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3, mật độ thanh
trắc dày đặc. Qua đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của núi cao,
vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một nhân hoá táo bạo. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng như
mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khoẻ khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành
quân vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối “ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình
sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản
làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả
nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.

Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có
những người đồng đội hi sinh:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Từ láy dãi dầu gợi sự vất vả nhọc nhằn, cụm từ “không bước nữa” thể hiện sự kiệt sức. Có thể vì quá mệt nên các anh tì súng nằm nghỉ
một chút hay có thể là cách nói giảm nói tránh “bỏ quên đời” nhằm xoa dịu sự mất mát, hy sinh khiến cho câu thơ bi mà không lụy. Cõi
chết đến với người lính nhẹ nhõm, thanh thản, nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ. Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người
lính chiến dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm, trang bị gắn bó với đời lính, đó là một tư thế ngang tàng, gan góc, quả cảm
của người lính. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội đồng thời cũng là tấm lòng cảm
phục với sự hy sinh anh hùng ấy.

Hai câu thơ tiếp theo tập trung làm nổi bật lên sự bí ẩn linh thiêng của rừng núi Tây Bắc:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét - Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” khơi gợi những âm thanh ghê rợn, đặc trưng của rừng già, đem lại cảm
giác hãi hùng, khắc nghiệt mà người lính phải đối mặt. Biện pháp nghệ thuật tương phản, đối lập kết hợp với điệp từ “chiều chiều”, “đêm
đêm” làm nổi bật lên sự nguy hiểm, chết chóc luôn rình rập người lính ở mọi thời điểm. Oai linh, bí hiểm là thế nhưng Quang Dũng đã vô
cùng tinh tế “thả” một chữ “trêu” vào câu thơ, làm lộ ra sự vui tươi, lạc quan, khẩu khí chiến đấu của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đã toát
lên khí phách anh hùng, sự quả cảm của những người lính Tây Tiến.

Sau chặng đường hành quân gian khổ, vất vả, người lính có dịp dừng chân tại một bản làng, được đồng bào dân tộc đón tiếp nồng nhiệt:
Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết, ám ảnh của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào
miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những
giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế. Cách kết hợp từ “mùa em” rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về
những cô gái Thái vừa khoẻ khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Qua đó, Quang Dũng cho ta thấy người lính Tây Tiến đâu chỉ
biết đến khói thuốc, nòng súng, chiến địa nóng bỏng mà tâm hồn họ còn rất tươi mới.

Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn, Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người
lính chiến về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh cao cả, nét lãng mạn
trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng. Bài thơ “Tây Tiến” là viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng thi ca Việt,
đã vượt qua sự băng hoại của thời gian để tồn tại mãi trong trái tim bạn đọc.
Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu nền thơ ca hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Thơ của Quang
Dũng luôn hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa - phong cách nghệ thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên
đường. Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập Mây đầu ô (1986). Tác phẩm là bức họa về bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà nên thơ. Đó là phông nền để nhà thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa hào
hùng, vừa rất đỗi hào hoa. Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây
Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc sẽ được hòa mình vào không gian tưng bừng của buổi liên hoan doanh trại và
sự lãng mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc.

Mở đầu của đoạn thơ là bức tranh lãng mạn của đêm văn nghệ thấm đậm tình quân dân, được thể hiện thông qua bốn câu đầu tiên:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Trước hết, hai chữ “doanh trại” gợi ta liên tưởng đến môi trường quân đội, là nơi mà dân tộc thiểu số về hòa chung niềm vui, sưởi ấm tâm
hồn của những chàng lính trẻ xứ Hà Thành. Chữ “bừng” gợi ra một luồng ánh sáng bất ngờ, có cường độ mạnh khiến không gian như
sáng bừng lên trong âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tình quân dân. Có lẽ giữa nơi núi rừng âm u và xa lạ ấy, một
đốm lửa được đốt lên dưới cái nhìn lãng mạn của người lính bỗng trở thành “hội đuốc hoa” - thứ ánh sáng lung linh, mờ ảo, hay cũng
chính là sự tưng bừng, rộn rã của niềm vui ngây ngất, say mê. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê
say, vui sướng. Nhân vật trung tâm và cũng là linh hồn của đêm văn nghệ là những “bóng hồng” nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra
với nét ngại ngùng, duyên dáng, nổi bật trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, thu hút những chàng trai Tây Tiến. Câu thơ toát lên một niềm
vui rất thực của người lính, ở đó vẻ đẹp hào hoa lãng mạn rất riêng chảy tràn trong tâm hồn họ.

Trong đêm liên hoan văn nghệ này, người lính còn được đắm mình trong tiếng khèn man điệu. Khèn là một nhạc cụ dân tộc ở núi rừng
Tây Bắc, thường được sử dụng trong các dịp lễ hội. “Man điệu” ở đây chỉ có điệu nhạc hay điệu múa mang đậm đà bản sắc dân tộc xứ sở
này. Tính từ “e ấp” thể hiện lên sự thẹn thùng, ngại ngùng của những cô thiếu nữ dân tộc đồng thời làm toát lên vẻ đẹp tinh tế, trong sáng,
tinh tế của các cô gái. Tiếng nhạc hòa cùng các điệu múa nhẹ nhàng và uyển chuyển của các cô gái làm lay động, say mê những chàng
thanh niên tri thức Hà Nội. Không khí ấy đã xua tan mọi muộn phiền, mỏi mệt của đoàn quân Tây Tiến, như tiếp thêm sức mạnh tinh thần
cho họ để tiếp tục trên chặng đường đầy khó khăn cùng với ý chí “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của người chiến sĩ. Trong không khí
vui vẻ ấy, tâm hồn của người chiến sĩ đã hướng “về Viên Chăn xây hồn thơ”. Quang Dũng đã tái hiện bức tranh đêm liên hoan thắm tình
quân dân có đủ ánh sáng, màu sắc, âm thanh, đường nét, sự chuyển động,... Tất cả làm nên “bữa tiệc giác quan” khiến người thưởng thức
như ngập tràn trong men say.

Sau những vần thơ rực rỡ sắc màu, lung linh ánh sáng và chan chứa niềm vui về đêm liên hoan lửa trại thắm tình quân dân, Quang Dũng
tiếp tục đưa người đọc về với cảnh sông nước miền Tây mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Hình ảnh “người đi” trong chiều sương Châu Mộc thật giàu sức gợi, ta có thể hiểu đó là nhà thơ, cũng có thể là đồng đội của Quang
Dũng trên bước đường trường chinh. Ở đây cái dữ dội, khốc liệt đã được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng, thơ
mộng. Hình ảnh đầu tiên là những hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn đã có của núi rừng nơi đây. Sương giăng mắc khắp
không gian, làm nhòe đi đường rừng, nét núi. Cả Châu Mộc được bao phủ bởi một chiều sương huyền thoại tạo nên một phông nền nhẹ
nhàng, lãng mạn, càng làm cho cảnh chiều nơi đây thêm hoang vắng. Hai bên bờ sông là những dãy lau ngút ngàn gợi lên một không gian
hoang sơ tĩnh lặng. Sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa, mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi đã khiến
rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết.

Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe
khoắn, bất khuất, kiên cường: "Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người
một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái
Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con
thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó
phai nhoà.

Câu thơ “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” đã được tác giả dùng rất tinh tế, Quang Dũng đã dùng từ láy “đong đưa” chứ không phải
“đung đưa”. Hoa “đung đưa” là gợi sự chuyển động về cơ học, còn hoa “đong đưa” thể hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông
hoa bỗng trở thành những sinh thể có hồn đang làm duyên, làm dáng trên sông nước chòng chành, sóng sánh. Cánh hoa rừng như đang
quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn họ vượt sông đi đánh giặc. Cảnh vật như có hồn, có sự thiêng liêng của
núi rừng, đậm màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư ảo trên, ta như thấy trước mắt mình một bức tranh sơn thủy hữu tình,
mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến, gắn bó với mảnh đất miền tây - tâm hồn Quang
Dũng.

Tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng và trữ tình. Đoạn thơ giàu
chất nhạc, lời thơ ngân nga như tiếng hát, nhạc điệu được cất lên từ tâm hồn ngây ngất, say mê, lãng mạng của cái “tôi” giàu cảm xúc
Quang Dũng. Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua
bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn của người con xứ Đoài mây trắng. Bài thơ “Tây Tiến” là viên ngọc sáng trong tâm hồn, tấm lòng thi
ca Việt, đã vượt qua sự băng hoại của thời gian để tồn tại mãi trong trái tim bạn đọc.
Quang Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng, tiêu biểu nền thơ ca hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám. Thơ của Quang
Dũng luôn hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa - phong cách nghệ thuật rất riêng của một chàng trai Hà Nội khoác áo lính lên
đường. Trong đó tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến” được in trong tập Mây đầu ô (1986). Tác phẩm là bức họa về bức tranh thiên nhiên, cuộc
sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà nên thơ. Đó là phông nền để nhà thơ khắc họa đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa về vẻ đẹp vừa hào
hùng, vừa rất đỗi hào hoa. Đặc biệt, khổ thơ thứ ba của thi phẩm người đọc có thể thấy một cách chân thực nhất, rõ nét nhất chân dung và
vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến hiện lên trên bức nền của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, của con đường Tây Tiến gian nan,
hiểm trở và khắc nghiệt.
Đọc những dòng thơ đầu tiên, hiện lên trước mắt người đọc là vẻ đẹp ngoại hình của người lính Tây Tiến, được khắc hoạ bằng một nét vẽ
rất gân guốc, lạ hoá nhưng lại được bắt nguồn từ hiện thực:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
“Không mọc tóc”, không phải người lính không có tóc mà ở đây tác giả muốn nói đến mái tóc xanh của những người lính trẻ đã bị rụng.
Không chỉ mái tóc, mà làn da của những người lính trẻ cũng chẳng thể thoát khỏi sự tàn phá của hoàn cảnh sống gian khổ, thiếu thốn.
“Quân xanh màu lá” vẽ nên cho ta một bức chân dung về những người thanh niên với sắc da xanh xao. Đó chính là hệ quả của những trận
sốt rét rừng hoành hành, là nỗi ám ảnh của đời lính chiến chinh. Quang Dũng không hề tô hồng hiện thực, xa rời thực tế mà đã dùng
những chất liệu chân thực nhất về một thời binh lửa để miêu tả con đường Tây Tiến gian lao và khắc nghiệt. “Không mọc tóc” chứ không
phải tóc không mọc, cách nói nâng con người lên thế chủ động, họ làm chủ hoàn cảnh, vượt lên cả những khó khăn, gian khó. Tương
phản hoàn toàn với sự xanh xao, bệnh tật, người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ “dữ oai hùm”. Cái bi bỗng trở thành cái hùng, đoàn
quân Tây Tiến với nét đẹp của những tràn nam nhi, hổ tướng ngày xưa tỏa sáng đẹp đẽ hơn bao giờ hết!

Bước sang những câu thơ tiếp theo, những chiến sĩ ấy hiện lên với một vẻ đẹp tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
“Mắt trừng” là ánh mắt mở to, nhìn thẳng, tràn đầy sự tập trung và nghiêm túc của người lính khi thực hiện nhiệm vụ. Ánh mắt ấy còn
bộc lộ một nội lực, diễn tả ý chí quyết tâm, hết mình chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhiệm vụ cao cả. “Giấc mộng qua biên giới” chính là giấc
mộng đẹp mà bất kỳ người lính nào cũng ao ước: giấc mộng thanh bình cho quê hương, đất nước và giấc mộng lập nên những chiến công
oanh liệt. Bên cạnh đó, thấp thoáng đi về trong những giấc mơ ấy còn là những hình ảnh của Hà Nội, hai tiếng vang lên đầy từ hào bởi
quê hương, hậu phương của người lính trẻ, nơi họ sinh ra, học tập và lớn lên chính là mảnh đất thủ đô với lịch sử ngàn năm văn hiến, một
Hà Nội vàng son, thanh lịch. Nhưng có lẽ, dáng vẻ đẹp nhất, lãng mạn nhất ẩn hiện trong giấc mơ của người lính, chính là hình ảnh
những “dáng Kiều thơm”. Một bút pháp ước lệ đầy tinh tế chỉ những cô gái Hà Thành yêu kiều, đài các. Tác giả đã mở ra một chân trời
hoàn toàn mới, một khía cạnh độc đáo về người lính Tây Tiến. Họ không chỉ gian khổ, hào hùng mà còn lãng mạn, hào hoa.

Hai câu thơ tiếp theo đã thể hiện lý tưởng và khát vọng cao cả của người lính Tây Tiến:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”
Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên nơi chiến trường miền Tây. Các anh đã gửi lại cuộc đời mình nơi đất khách
quê người, vĩnh viễn nằm lại ở nơi biên cương xa xôi với những nấm mồ vô chủ, vô danh không khói hương, lạnh lẽo vô cùng. Quang
Dũng đã sử dụng dày đặc từ hán Việt "biên cương", "viễn xứ" mang sắc thái trang trọng, cổ kính giúp câu thơ bi mà vẫn tráng, đã làm cho
những nấm mồ chiến sĩ được vùi lấp vội vàng nơi rừng hoang biên giới cũng trở thành những nấm mồ chí tôn nghiêm. Đó chính là nghi
lễ bằng ngôn từ mà Quang Dũng dành để tưởng nhớ đồng đội đã hy sinh. Tuy vậy, các anh không nản chí sờn lòng, mà trái lại càng nung
nấu quyết tâm. “Đời xanh” là tuổi trẻ, là tuổi thanh xuân, cái tuổi 18, đôi mươi tràn đầy tình yêu và sự sống, là những năm tháng đẹp nhất
của đời người. Cái bi của câu trên được câu dưới nâng lên thành bi tráng bởi nhân cách của người đã chết. Ba chữ "Đi chẳng tiếc" tạo cho
giọng thơ sự mạnh mẽ, khỏe khoắn, dứt khoát, khẳng định tâm thế lên đường tự nguyện hy sinh cho tổ quốc, quê hương. Qua đó, ta càng
trân trọng hơn lý tưởng sống của người lính Tây Tiến, dẫu biết ngày mai lên đường có thể sẽ phải hy sinh nhưng tinh thần xả thân vì đất
nước luôn rực sáng trong trái tim của những người lính trẻ.

Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể hiện cái chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu để bọc thân. Thế nhưng cảm hứng lãng mạn trong bút pháp mĩ lệ
hóa đã biến tấm áo quân phục bạc màu sờn rách thành tấm áo bào đẹp đẽ, thiêng liêng. Vậy là, “áo bào” (áo mặc ngoài của các vị tướng
thời xưa) đã biến họ trở thành những chiến tướng sang trọng. Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi còn nhờ cách nói giảm khi coi cái
chết của những người lính chỉ là “về đất”. Hai chữ ấy còn gợi lên những tầng nghĩa sâu sắc: “đất” gợi sự bền vững muôn đời của non
sông, “đất” còn là nguồn cội; “về” gợi bao nhiêu tình cảm ấm áp. Các anh đã ra đi, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh anh dũng vì đất
Mẹ; nay đất Mẹ lại trìu mến yêu thương đón những người con thân yêu trở về thanh thản, yên nghỉ.“Anh về đất” đồng nghĩa với sự hoá
thân vào non sông đất nước, vào hồn thiêng sông núi để trở thành bất tử.

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành” vừa dữ dội vừa hào hùng, khiến cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm
đẫm tinh thần bi tráng. Sông Mã từng gắn bó với người lính Tây Tiến trên các chặng đường hành quân gian khổ, nay sông Mã lại thay
cho lời thiên nhiên, trời đất, núi sông gầm vang “khúc độc hành” tiễn đưa người con yêu quý về yên nghỉ trong lòng đất Mẹ. Không phải
là “vang lên” hay “cất lên”, cụm từ “gầm lên” đã thể hiện trọn vẹn tính chất dữ dội trong những cung bậc tình cảm mạnh mẽ và sâu sắc
nhất như bi phẫn, đau xót, tiếc thương, cảm phục… “Khúc độc hành” - ấy là khúc ca vừa mạnh mẽ, hùng tráng vừa phảng phất âm hưởng
cô đơn, ngậm ngùi. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền được vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong
lòng người ở lại – đau thương ghê gớm nhưng không bi lụy mà mãnh liệt, đầy sức mạnh.

Như vậy, khổ thơ có thể được coi là đặc sắc nhất của thi phẩm “Tây Tiến” đã thể hiện rõ vẻ đẹp phong cách thơ Quang Dũng, đó là hồn
hậu, lãng mạn, phóng khoáng và tài hoa. Với giọng thơ trang trọng, cảm xúc dạt dào, đôi lúc lắng đọng, khắc khoải, bút pháp tả thực kết
hợp với những hình ảnh bay bổng, lãng mạn, nhà thơ Quang Dũng đã xây dựng thành công bức tượng đài người lính Tây Tiến mang vẻ
đẹp hào hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng. Bức tượng đài ấy sẽ còn sống mãi trong văn chương nghệ thuật, trong tấm lòng người yêu
thơ và trong trái tim của lớp lớp thế hệ thanh niên sau này.

You might also like