You are on page 1of 6

“Cái đẹp mà văn học đem lại không phải là cái gì khác hơn là cái đẹp của sự thật

đời sống được khám phá một cách nghệ thuật.” Trong vũ trụ văn chương của các nhà
văn, tiếp cận cái đẹp luôn là hạt nhân quan trọng nhất, bởi bản chất của sáng tạo nghệ
thuật vốn cũng là sáng tạo cái đẹp. Cái đẹp trong nghệ thuật cong thể hiện ở hình
thức, được biểu đạt qua hình tượng nghệ thuật riêng biệt độc đáo, không lặp lại, sự
sáng tạo các yếu tố nghệ thuật phong phú… Với cảm hứng và ngòi bút tài hoa, Quang
Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên
nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng và mang nét tài hoa nghệ thuật của nhà thơ.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của
Hồng Nguyên…, Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây
Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân
đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt động của lính Tây Tiến rất
rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa (Lào),
trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ
dội, nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian
thì đoàn binh Tây Tiến trở về Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại
đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác. Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến
cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây Tiến (1948).

Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm
những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ
của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng
của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như
nén chặt, bỗng trào dâng. Sông Mã không chỉ là một địa danh mà nó còn là một
“chứng nhân lịch sử” trong suốt chặng đường hành quân. Tây Tiến cũng không chỉ là
tên một đoàn quân mà nó đã trở thành một người bạn, một người tri kỉ bấy lâu. “Sông
Mã xa rồi Tây Tiến ơi” như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng
khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Âm “ơi” như ngân vang ra từ vách đá của núi rừng Tây
Bắc, ngân vang trải dài đến đâu mang theo tâm tư tình cảm của Quang Dũng lan ngấm
thấm tràn đến đó. Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở
nên mênh mang, chơi vơi. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong
ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
Có lẽ nếu diễn tả “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ như những đợt sóng cồn cào, có vẻ không
đúng. Hai chữ “chơi vơi” không để diễn tả sự dồn dập, thắm thiết, diết da. Vốn dĩ nó
diễn tả những thứ như không có điểm tựa, chênh vênh, mênh mang. Và có lẽ nỗi nhớ
ở đây cũng vậy, ấy là thứ cảm xúc như lan tràn, mênh mang, không điểm tựa. Nó như
sự hẫng hụt, lại mang đến sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ
mới quay quắt, mới khiến người ta nhói lòng.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh
Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa,
Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ
niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng
xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn
người chiến sĩ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà lính Tây Tiến
đã hành quân qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm
sương nhiều khói, sương che lấp đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm
áo choàng bảng lảng chùm lên con sông, ngọn suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa
núi rừng hiểm trở cheo leo có những hơi thở mệt mỏi của những chàng trai đất Hà
thành nhọc nhằn trên từng chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm,
tình yêu tha thiết với mảnh đất và con người Tây Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp
đập thậm chí là cái khe khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn
đêm buông xuống.

Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển
sương mù của núi rừng miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu
xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong
đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả
cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng
đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người
đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các từ láy: “thăm thẳm”, “khúc khuỷu”, “heo hút” được lựa chọn và sử dụng như
những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn
mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân
không đi lùng giặc đánh” (Hồng Nguyên). Cả câu thì có 5 chữ mang thanh trắc “Dốc
lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” nhằm nhấn mạnh cuộc hành quân của đoàn quân Tây
Tiến đi qua địa bàn đèo dốc quanh co, lên cao mãi, vô vùng khó khăn, khốc liệt.
Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được
đo bằng: “Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên
cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như
câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu
thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội, huyền bí như một
ẩn số đối với con người.

Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản
mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả
cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc
quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng
mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút
tếu táo của người lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như
minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên tới đỉnh ta cao hơn đèo”
Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ: ngước mắt nhìn lên là núi cao lưng
trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta có
cảm giác những ngôi nhà trên đất Pha Luông đang bồng bềnh trôi giữa chốn xa khơi.
Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất lãng mạn
như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình… Với những từ “oai linh”,
“gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và
những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng
làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. “Chiều chiều” rồi “đêm đêm” thiên
nhiên dữ dội “gầm thét” và những hiểm nguy luôn rình rập như thể “trêu người”.
Thiên nhiên hùng vĩ mà kì tráng, qua nét bút của Quang Dũng đã trở nên khắc nghiệt,
khó khăn và đầy những những hiểm ngụy. Và vì chiến tranh, vì rừng thiêng nước độc
cho nên rất nhiều chiến sỹ, rất nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, bỏ lại tuổi trẻ
và những ước mơ dở dang:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời

“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính
lìa trần. Nhưng hình ảnh sử dụng rất đắt là hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ
đến dáng đứng của anh giải phóng quân về sau trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.

Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến
chống Mĩ thì dáng ngã xuống gục xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ
trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham
gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và cũng là cách nói của
những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại
tiếp bước.

Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một
bản nhạc hào hùng vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi
sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay.
Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu
hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn
giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn
sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng
không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa
bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.

Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm
áp tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu, càng quý trọng nghĩa tình. Hình
ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu
tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế.
Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay
bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn
độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng
mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.

Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn
thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương
đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật.
Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính
Tây Tiến.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới,
khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say
mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đây là kỉ niệm đẹp về tình dân quân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây
thơ mộng. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thần. “Bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên
từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. “Hội đuốc hoa” là cảnh thực. Đêm
liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay
ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng
này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế
vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền
không gian ấy “em” xuất hiện.

Kìa em xiêm áo tự bao giờ


“Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón
mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực
rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền
thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của
họ. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba
xuất hiện, lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.

Khèn lên man điệu nàng e ấp.


Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Người đọc như được
chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu
của Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã
chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và
cảnh.

Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực
của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một
miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc
hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá
vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đông đưa” có sự cộng hưởng hô ứng
với nhau, sao lại là “ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà
ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bề, Có
nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ trung và đầy sức sống, “ hoa
đông đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũn như là đang hấp dẫn những người trên
đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như
thiêng liêng, tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng
thiêng nước độc, xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc
ngấm vào hồn.

Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn
nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây
Bắc và yêu Tây Bắc.

Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của
bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung
người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn,
lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng
đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Làn da xanh mái tóc không mọc do bệnh sốt rét rừng. Số người chết vì sốt rét nhiều
hơn chết vì chiến trận, do điều kiện thiếu thốn khó khăn thiếu nước. Chiến tranh đi
liền với nước mắt và đau thương, cũng như bao nhiêu người chiến sĩ khác người lính
Tây Tiến phải chịu bao nhiêu khó khăn Tuy vậy họ vẫn hiên ngang ngang tàn bi
nhưng không lụy, họ luôn ở tư thế chủ động sẵn sàng là “ không mọc tóc” chứ không
phải là rụng tóc. Khẩu khí coi thường gian khổ, họ ốm nhưng không yếu. “Mắt trừng
gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Đây là đặc trưng riêng là
mộng và mơ” của những chàng lính Hà Nội. Ý chí quyết tâm “Mắt trừng” giết giặc
lập công, mơ giấc mơ thắng trận trở về gặp những dáng kiều thơm, những bóng dáng
duyên xinh. Hẳn họ không phải là những người lính khô khan cứng rắn và còn rất
lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật.
Đó là hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà
nhiều người lúc đó né tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là
không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà
thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải cho câu trước. Những
nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là hào
khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả manh
chiếu bọc thây. Anh về lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai
hùng cúi chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng
sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ như lời thề gắn bó với Tây Tiến. Tinh thần thắm
đượm tư tưởng và tình cảm cảm của người lính Tây Tiến, tinh thần sẵn sàng hi sinh
cống hiến. Tình cảm gắn bó máu thịt của tác giả đối với binh đoàn Tây Tiến, đại từ
phiếm chỉ “ai” có thể là Quang Dũng có thể là thành viên của binh đoàn Tây Tiến,
hoặc là bất cứ ai đã từng gắn bó với Tây Tiến với mảnh đất Tây Bắc. Sự chiến đấu vì
lý tưởng cao cả tinh thần Tây Tiến thì bất diệt.

Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn,
Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng
vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong
thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ
chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang
Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.

Mỗi nhà văn là một vị sứ giả của cái đẹp. Hành trình sáng tác của họ là hành trình
tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp, hướng con người và xã hội đến với cái đẹp. Nhưng mỗi
nhà văn lại có một hướng đi riêng, một cách thể hiện riêng. Quang Dũng cũng vậy!
“Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào
một hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng…” (Vũ Thu
Hương). Với cảm hứng và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình
tượng người lính Tây Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền tây hùng vĩ, dữ
dội và mĩ lệ. Tây Tiến sẽ mãi là bài thơ lưu trữ những kí ức đẹp đẽ của dân tộc, của
một thời chiến đấu để đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày hôm nay.

You might also like