Professional Documents
Culture Documents
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên…, Tây
Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành
lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Địa bàn hoạt
động của lính Tây Tiến rất rộng, từ tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa, Sầm Nứa
(Lào), trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, nhưng họ
sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Chiến đấu được một thời gian thì đoàn binh Tây Tiến trở về
Hòa Bình tại trung đoàn 52, khi ấy Quang Dũng là đại đội trưởng sau đó ông chuyển sang đơn vị khác.
Trong nỗi nhớ đồng chí đồng đội đến cồn cào và da diết, tại làng Phù Lưu Chanh ông đã viết bài thơ Tây
Tiến (1948).
Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về
cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến. Nổi bật trong tác
phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị
bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt Lào trong
những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên
mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn
người chiến sĩ:
Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng
miền Tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất
ngờ, bỗng xuất hiện “hoa về trong đêm hơi”. Cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng
liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng
đường dài hành quân đầy thử thách: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính để mở ra trước mắt người đọc một thước phim
về núi rừng hiểm trở mà cheo leo:
Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: “Ngàn
thước lên cao // Ngàn thước xuống”. Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi
trong mù sương, trong màn mưa rừng. Dường như câu thơ có sự chuyển động, càng đẩy ra hai phía là
núi cao chất ngất lưng trời, vực sâu thăm thẳm khôn cùng để lại khoảng trống về một Tây Bắc dữ dội,
huyền bí như một ẩn số đối với con người.
Từ những đỉnh cao “ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn
thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản
dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: “Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi”. Cảnh vật bỗng trở nên nửa thực nửa ảo chập chờn như trong cõi mây, chất
lãng mạn như phủ kín cảnh vật, đó là sản phẩm của một họa sĩ ẩn trong tâm hồn một thi sĩ.
“Súng ngửi trời” là một cách cảm nhận rất ngộ nghĩnh mang đậm chất lính. Một chút tếu táo của người
lính giữa chốn đèo cao càng làm cho họ trở nên đẹp đẽ hơn, như minh chứng cho ý chí, sức mạnh phi
thường và khát khao chinh phục. Thật đúng là:
Sự trắc trở, hiểm nguy của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Sự trầm lắng của câu thơ như một nốt trầm lặng thành kính, thiêng liêng trong một bản nhạc hào hùng
vừa qua. Ở đó, những người lính thật đáng quý biết bao. Họ đã hi sinh cả tuổi trẻ – điều tốt đẹp nhất của
cuộc đời – để gìn giữ cho hòa bình hôm nay. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét
trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp
bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí
nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến
bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già, nhà thơ bỗng nhớ lại một kỉ niệm ấm áp tình quân dân:
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức
tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có
tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỉ niệm trong thơ cho thiên nhiên
Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu.
Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
Tây Bắc mênh mang, huyền ảo hiện lên trong bốn câu thơ tiếp:
Cách sử dụng từ ngữ “ hồn lao, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau, sao lại là
“ hồn lao” mà không phải là bờ lao. Bởi bờ lao thì sẽ rất cụ thể mà ở đây là cảm nhận. Cách đặt câu hỏi
thật đặc sắc “ Có thấy hồn lau nẻo bến bờ, Có nhớ dáng người trên độc mộc”. Hình ảnh khỏe khoắn trẻ
trung và đầy sức sống, “ hoa đong đưa” gợi lên sự đa tình như để làm nũng như là đang hấp dẫn những
người trên đồi độc mộc, vẻ đẹp tinh tế tài hoa trong cách diễn đạt của tác giả. Cảnh vật như thiêng liêng,
tưởng như đang lạc vào thế giới cõi mây. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc, xin hãy một lần
để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta
một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc.
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta
có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người
lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ ba có sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lí tưởng chiến đấu và phẩm chất hi sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là
một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chính tinh thần lãng mạn đã là một điểm tựa giúp nhà thơ nói lên một vấn đề mà nhiều người lúc đó né
tránh. Đã là chiến tranh thì phải có mất mát, hi sinh. Vấn đề là không rơi vào bi quan, là nhìn ra từ sự mất
mát tầm vóc cao đẹp của sự hi sinh. Nhà thơ đã dùng những câu thơ sóng đôi, câu sau cắt nghĩa, lí giải
cho câu trước. Những nấm mồ là có thật, tinh thần tự nguyện xả thân cho Tổ quốc cũng là có thật. Đó là
hào khí của một thời đại “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Cái chết nơi chiến trường thật đơn sơ, giản dị. Anh nằm xuống không có cả màn chiếu bọc thây. Anh về
lại đất mẹ như cái chết của anh đã được dòng sông Mã oai hùng cúi chào vĩnh biệt bằng những tiếng gầm
đau đớn, uất hận. Tiếng gầm của dòng sông Mã ấy sẽ còn mãi mãi đến muôn đời.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng
lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu
biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng
chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của
cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những
người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch sử. Lịch sử
của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử của một con
người, một nhà thơ. Tây Tiến trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần một giống nòi. Nó
đã biến đoàn quân thành bất tử.