You are on page 1of 11

Quang Dũng ( 1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,

lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc
phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong khổ
thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi rừng
miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây,súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã rời
khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến là một
đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc
Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn la,
Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là những nơi hiểm trở, hoang vu,
rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, có nhiều học
sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian
khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh dũng. Hoạt động
được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52.
Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn chiến
đấu cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền
tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô" ( xuất bản
1986). Ban đầu bài thơ có tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển lại thành " Tây
Tiến". Nhan đề " Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần phải trực tiếp bộc
lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan đề còn làm nổi rõ hình
tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Việc bỏ đi từ
"nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở
thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.
"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ
Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến
mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động
bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng đường hành quân
gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiên ra.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi". Nỗi
nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". " Nhớ chơi vơi" là
nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám ảnh,
vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo
rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm
xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ
ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu
tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính ấy,
dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh " hoa về
trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung
linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi
ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể là hình
ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân
trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai
câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo hút",
kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc khiến
câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng
người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm của
núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi trời" là một nhân hóa táo
bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm tưởng
như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn,
vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của các
anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước lên cao - ngàn thước xuống" càng nhấn mạnh
độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây. Ba câu
thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con
đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng "
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi" đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi
ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi,
thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa
rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang
vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng
đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những
mất mát hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.
Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ của
người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như một giấc
ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng.
Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong "Dáng đứng
Việt Nam" : " Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu
vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây
Tiến. Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm đêm" kết
hợp với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ bí
hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người
lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà
còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian. Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột
chuyển cảnh:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi
cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán "Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da
diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào
miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh
nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại
dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp từ "mùa em" rất
độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn
vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây
Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo tâm thế cho người
đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.
Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những
đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông nước
miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến
anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với
miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.
Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng
của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc điệu,
gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành quân
của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây.
Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang
Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến - một thời mãi mãi để
nhớ và tự hào.
Nếu đoạn thơ đầu tiên của Tây Tiến mở ra trước mắt người đọc không gian hùng vĩ,
hiển trở của núi rừng Tây Bắc thì với 8 câu thơ tiếp theo của khổ thơ thứ hai, bạn đọc
sẽ được hoà mình vào không gian từng bừng của buổi liên hoan doanh trại và sự lãng
mạn, nên thơ của chiều sương Châu Mộc
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ"
Chữ "bừng" như một nét vẽ có thần, nó làm cho không gian như sáng bừng lên trong
âm thanh, trong ánh lửa bập bùng và trong hơi ấm của tỉnh quân dân cá nước. Trong
không gian ấy, người lính Tây Tiến phải ngạc nhiên đầy tình tứ, mà thốt lên hai tiếng
"kìa em". Giây phút này đây họ nhưng rũ bỏ tất cả mọi gian truân, mệt mỏi được cùng
hòa mình theo giai điệu của những bản nhạc nơi rừng núi, để sống trọn vẹn, trẻ trung,
tận hưởng niềm vui với một tâm hồn lãng mạn
"Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Ban đầu là "em" tiếp đến là "nàng" rồi sau lại là "em". Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận
được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê
say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho
tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Là một
người nghệ sĩ đa tài, không chỉ làm thơ mà Quang Dũng còn viết nhạc, vẽ tranh,...
chính điều đó đã khiến cho ngòi bút của Quang Dũng trở nên tài hoa, sống động hơn
bao giờ hết. Trong thi có nhạc, có hoạ, từng nét vẽ, từng âm thanh, từng ánh lửa bập
bùng cùng tiếng nhạc dân tộc dập dìu vui tươi tưởng như hiện lên thật hữu hình trước
mắt, vang lên thật hữu thanh bên tai, để chính lòng ta cũng phải rạo rực mà hoà theo
không khí rộn ràng ấy. Bốn câu thơ không chỉ khắc hoạ chân thực và lãng mạn buổi
liên hoan doanh trại nơi vùng cao mà còn làm hiện lên tâm hồn trẻ trung, hào hoa của
những người lính Tây Tiến, họ anh dũng, họ phi thường nhưng cũng có những giờ
phút, những cảm xúc hết sức đời thường. Không chỉ thế, đoạn thơ còn làm nổi bật tình
quân dân cá nước ấm nồng, dõi theo, tiếp thêm sức mạnh cho những chiến sĩ trên
chiến trường gian lao, khói lửa.
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Thì ra không chỉ có những "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", hay "ngàn thước lên
cao, ngàn thước xuống" mà thiên nhiên miền cao Tây Bắc cũng có những nét đẹp
hoang sơ, thơ mộng như vậy. 4 câu thơ với những nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều
như vẽ nên một bức tranh thiên nhiên quá đôi nên thơ, quyến rũ. Chiều sương gợi mở
một không gian huyền bí, cái thực cái mộng của một cõi trời nước Tây Bắc bảng lảng
sương nhuốm một màu cổ tích Đại từ phiếm chỉ "ấy" càng làm cho khoảng thời gian trở
nên mơ hồ không xác thực, thế nhưng nó lại rất rõ ràng, rất gợi, rất đáng nhớ trong ký
ức của nhà thơ. Hình ảnh "lau" hiện lên không phải là một bông, một nhành, một bờ,
mà là "hồn lau", dường như chẳng có một hình dung cụ thể nào, mà ta chỉ có thể cảm
nhận ở đâu đây một chuyển động nhẹ nhàng, gợi cảm. Giữa không gian ấy, hình ảnh
con thuyền độc mộc hiện lên làm cho bức tranh thiên nhiên cũng mang một vẻ trầm tĩnh
như một bức tranh thủy mặc với những nét chấm phá tế vi, mờ ảo như hư vô, hư thực
mà lại thơ mộng đến lạ lùng. Một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong bài thơ. Tính
từ "đong đưa" gơi nên một chuyển động nhẹ nhàng, tinh tế của bông hoa, như đang
làm dáng làm duyên giữa dòng nước lũ đang dữ dội cuộn trào. Thật là một vẻ đẹp
nguyên sơ, thanh khiết và gợi cảm đến nao lòng.
Bằng ngòi bút tài hoa hữu nhạc, hữu hoạ, kết hợp với những bút pháp miêu tả độc đáo,
Quang Dũng đã khắc hoạ thành công bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng của
Tây Bắc và những dấu ấn vui tươi của một thời chiến đấu bên đồng đội. Cũng chính
đoạn thơ đã thể hiện rõ nét nhất cảm hứng lãng mạn, tâm hồn hào hoa và chất lãng tử
của nhà thơ "xứ Đoài mây trắng". 8 câu thơ đã góp một phần không nhỏ vào thành
công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng nói chung, để Tây Tiến trở thành
một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.

Có người từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong ta cuộc sống đã tràn đầy". Thật đúng là
như vậy! Chiến tranh đã đi qua, hòa bình lặp lại vậy mà ở vùng Tây Bắc ấy lại khơi gợi
cho Quang Dũng một nỗi nhớ da diết khôn nguôi, phải chăng nơi đây đã đọng lại trong
tác giả nhiều kỷ niệm? Chính vì nỗi nhớ ấy đã thổi hồn cho ông viết nên bài thơ Tây
Tiến. Người lính Tây Tiến qua ngòi bút của Quang Dũng hiện lên thật nhiều khó khăn,
gian nan, ta có thể thấy được qua khổ thơ cuối:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

"Không mọc tóc" có thể hiểu là thời tiết ảnh hưởng, bị sốt rét làm đau đớn thân xác
người lính. Tác giả nói "không mọc tóc" chứ không phải "không mọc được tóc" chứng
tỏ nó được coi như các người lính cạo trọc đầu để dễ dàng cho việc chiến đấu, chứ
không phải do bệnh tật để giảm đi sự đau thương đối với người đọc. "Quân xanh màu
lá", nếu sự thật trần trụi là do bệnh sốt rét gây nên thì Quang Dũng lại cho rằng đó là
màu xanh của lá cây hóa thân cho người lính để giặc khó nhận ra.Tuy khó khăn chồng
chất, bệnh tật liên miên, nhưng qua lăng kính của tác giả, đoàn binh hiện lên với sự yêu
đời, không quản gian nan.

Cho dù chịu nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nó không làm cho người lính Tây Tiến
người đi tình cảm lãng mạn của mình. Hai câu thơ tiếp theo miêu tả nét đẹp cũng như
sự mạnh mẽ của con người:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Dù ngày đêm đánh giặc nhưng tâm hồn của những người lính luôn trong trạng thái
mộng mơ. Cái mộng họ gửi qua biên giới, nơi vẫn còn đầy bóng giặc thù, đó là cái
mộng giết giặc để lập công danh. "Mắt trừng" gợi sự mạnh mẽ, đầy nội lực, quyết tâm
vì dân tộc, ở đâu đó trong họ vẫn luôn tồn tại một nỗi căm thù giặc sâu sắc. Đoàn binh
Tây Tiến chủ yếu là học sinh, sinh viên người Hà Nội- là thủ đô văn hiến, là cả trái tim
của Tổ quốc chính vì thế họ lấy đó làm động lực chiến đấu. "Dáng kiều thơm" chính là
nét đẹp thanh lịch, thướt tha của con gái Hà Nội, cũng là nét đẹp của người phụ nữ Việt
Nam. Nét đẹp của quê hương đã thúc giục người lính phải chiến đấu, đánh đuổi giặc
ngoại xâm để bảo vệ từng nét đẹp nơi họ sống. Đó là động lực lớn để tinh thần chiến
đấu thêm mạnh mẽ. Hình ảnh dáng kiều thơm là vầng sáng lung linh trong kí ức nhưng
cũng là thứ giúp cho họ tìm được sự cần bằng, tìm được sự thư thái trong tâm hồn sau
mỗi chặng đường hành quân vất vả.

Ra biên cương là chấp nhận đối mặt với hi sinh, biết đi là sẽ chết, vậy mà các anh vẫn
xung phong ra trận với hi vọng sẽ đem chiến thắng trở về:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Biết bao nhiêu anh hùng đã ngã xuống ở nơi biên cương. Chiến tranh nó luôn tồn tại
song song với chết chóc, tuy vậy tinh thần xung phong ra trận vẫn luôn sôi nổi. Tuổi
xuân là độ tuổi đẹp nhất, là thời gian đẹp nhất của cuộc đời mỗi người nhưng các anh
cũng đành gác lại để đặt nhiệm vụ Tổ quốc lên trên hết "Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh". Những tình cảm đôi lứa, những cái tôi vị kỉ đều gạt sang một bên, những người
chiến sĩ vẫn nối tiếp nhau tầng tầng lớp lớp lên đường, đi để bảo vệ từng đồng lúa,
mùa ngô, bảo vệ nhịp đập con tim của toàn dân tộc.

Tiếp nối âm hưởng bi tráng, hai câu thơ cuối đã tô đậm thêm sự mất mát hi sinh, thể
hiện cái chết cao đẹp, cái chết bất tử của người lính:

Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Quang Dũng dường như đã khóc khi viết đến dòng thơ này. Đây chính là cái chết
nhưng tác giả đã nói giảm nói tránh để giảm bớt sự đau thương mất mát cho người ở
lại. Thời gian chiến tranh là khoảng thời gian thiếu thốn, nghèo khổ của toàn dân tộc ta.
"Áo bào" thay "chiếu" vì người hi sinh quá nhiều, họ chỉ được quấn chiếc áo bào trên
vai để về với đất mẹ. Anh về với đất, nghĩa là anh đã thực hiện xong nghĩa vụ quang
vinh của mình và giờ đây anh hóa thân cho dáng hình xứ sở. Câu thơ cuối miêu tả
tiếng gầm của sông Mã như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của
giống nòi.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi “
Hai câu thơ đầu trong khổ thơ bốn, đã tái hiện bức chân dung người chiến sĩ
cụ Hồ ra đi mang trong mình quyết tâm sắt đá với ý chí lớn lao, rằng sẽ quyết
lập được chiến công tựa người anh hùng trong bài thơ “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm:
"Li khách! Li Khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
 Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Những người lính Tây tiến đều là những người tri thức Hà Nội không hề
quen biết nhau trước khi gia nhập đoàn binh Tây Tiến. Họ đều là những
người xa lạ, không hẹn nhau cùng đi tòng quân đi giết giặc, cũng chẳng hẹn
nhau rằng ra chiến trường rồi sẽ có ngày trở về. Binh đoàn Tây Tiến chính là
nơi đã gắn kết họ lại, khiến họ trở thành một gia đình, thành những anh
khăng khít cũng vào sinh ra tử. Trở lại thực tại, Quang Dũng đang phải một
mình đối mặt với nỗi nhớ đồng đội cũ, phải đối mặt với sự hi sinh của đồng
đội anh em thân thiết bỏ mạng nơi biên cương. Càng thấy nhớ bao nhiêu, ông
lại càng thêm yêu quý đơn vị cũ bấy nhiêu. Xuyên suốt bài thơ, là nỗi nhớ về
binh đoàn Tây Tiến cồn cào da diết. Nỗi nhớ ấy từ ban đầu được gửi vào núi
sông, từ nhớ “ chơi vơi “ chuyển sang có hình thù, trở thành “ đa chiều nỗi
nhớ".
“Không hẹn ước” sau lại tới “thăm thẳm một chia phôi”, nhà thơ khẳng định
rõ ý niệm “Nhất khứ bất phục hoàn” đối với binh đoàn Tây Tiến cũng chính
là ý niệm của chung duy nhất của cả một thời kì, một thế hệ đã qua. Ta
thường nói nhiều về Tây Tiến, cũng đã nhắc lại những  kỉ niệm đẹp. Vậy
nhưng cuối cùng, đọng lại sâu sắc nhất vững bền nhất về binh đoàn Tây Tiến
vẫn luôn là cái tinh thần ấy - tinh thần sẵn sàng hi sinh cho bình an của Tổ
quốc. Giọng thơ trầm lại,  chậm hơn, lời thơ buồn man mác nhưng ý thơ vẫn
mãi hào hùng. Sẵn sàng ra đi, dù biết rõ rằng “ người đi không hẹn ước”.
Vững bước hành quân ra trận, dù biết rằng lần này đi không biết bao giờ mới
có thể trở về, ngày anh đi cũng là ngày định sẵn sẽ ly biệt “ thăm thẳm một
chia phôi”. Anh bỏ gửi lại tuổi trẻ nơi quê nhà, gửi lại thanh xuân rồi hóa
thân mình cùng dáng hình đất nước. Tinh thần ấy thật bất khuất vĩ đại làm
sao!
“ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. “
“ Mùa xuân” ở đây tiếp tục là một từ có thể h điêu với nhiều lớp nghĩa. Ta có
thể hiểu rằng mùa Xuân chính là nhắc tới thời điểm binh đoàn Tây Tiến chính
thức được thành lập, dưới sự chỉ huy của đại đội trưởng Quang Dũng đem lại
chiến công vẻ vang; cũng có thể hiểu mùa xuân là ước mong về tin báo chiến
thắng thắng lợi, là mùa xuân của đất nước, mùa xuân của cuộc đời. Vào cái
thời điểm tuổi xuân đẹp nhất đời của người chiến sĩ đã trở thành thời điểm
một đi không trở lại với lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ ta còn trông thấy
cái thuở thiếu thốn đến nhường ấy mà con người ta vẫn lạc quan bất khuất, 
lãng mạn mà lại hào hùng đến nhường ấy.
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
“Hồn về Sầm Nứa” chính là nói tới nguyện vọng của người chiến sĩ được
sang nước bạn giúp sức kháng chiến với quân dân Lào chống thực dân Pháp.
Người lính Tây Tiến quyết tâm sống vì lí tưởng ấy đến cuối cùng. Cho nên,
dù “ Chẳng về xuôi” - bỏ mình trên chiến trường, ngã xuống trên bước 
đường hành quân, nhưng hương hồn của người lính vẫn luôn cùng đồng đội
sát cánh, sống mãi cùng lịch sử nước nhà. Bốn câu thơ này, đã mang linh hồn
đậm chất sử thi của Tây Tiến.

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

Trong số những tác phẩm của Bác có những kiệt tác sánh ngang với các thiên cổ hùng
văn của dân tộc thì Tuyên ngôn Độc lập là tác phẩm tiêu biểu nhất. Tác phẩm có giọng
văn hùng hồn thống thiết, có lí luận chặt chẽ sắc bén, có sức thuyết phục cao đối với
người đọc và người nghe- Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của bao nhiêu máu đã
đổ, bao nhiêu tính mệnh đã hi sinh của những con người anh hùng Việt Nam trong nhà
tù, trong trại tập trung trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường.
“Bản tuyên ngôn Độc lập” là kết quả của bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng của
hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam (Trần Dân Tiên).
Tuyên ngôn Độc lập mở đầu là nêu thẳng vấn đề. Người nêu những căn cứ pháp lí,
“những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là những câu tuyên bố nổi tiếng được Bác
rút ra từ hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mĩ. Bản Tuyên ngôn Độc lập năm
1776 của nước Mĩ: “Tất cả mọi người đều sinh ra… mưu cầu hạnh phúc”. Để làm nổi
bật tính phổ biến của những lẽ phải, Người còn nêu những lời trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra… về quyền lợi).
Cách nêu dẫn chứng như thế vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra tôn trọng
chân lí chung dù chân lí ấy của các nước đang là kẻ thù gây ra. Cách nêu dẫn chứng
ấy cũng hàm chứa một sự phê phán. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ- những kẻ xâm
lược đã chà đạp lên chân lí, chà đạp lên lương tâm và lý tưởng của cha ông chúng. Đó
là cách dùng lí lẽ của kẻ thù để chống lại kẻ thù, dùng gậy ông đập lưng ông. Hai bản
tuyên ngôn của Pháp và Mĩ đều nhấn mạnh quyền con người, Bác nói thêm về quyền
dân tộc. Câu nói của Người mở đầu cho trào lưu giải phóng dân tộc trên khắp thế giới.
Đồng thời, đặt Bản tuyên ngôn của nước ta ngang hàng với hai bản tuyên ngôn đã nêu.
Bác lập luận như vậy là để kết tội thực dân Pháp. Những lời bất hủ trong hai bản tuyên
ngôn của Pháp và Mĩ đã trở thành cơ sở pháp lý để Bác kết tội thực dân Pháp. “Thế mà
đã hơn 80 năm nay… nhân đạo và chính nghĩa” Sau khi kết thúc một cách khai quát tôị
ác của thực dân Pháp, bản tuyên ngôn nêu lên những dẫn chứng cụ thể để lật mật nạ
“bảo hộ” của thực dân Pháp trước toàn thể nhân loại: “Về chính trị, chúng tuyệt đối
không cho… dân chủ nào”. Lời kể tội của tác giả hùng hồn và đanh thép. Cách lập luận
trùng điệp như: “Chúng thi hành…”, “Chúng lập ra…”. “Chúng thẳng tay chém giết…”
thể hiện được tội ác chồng chất của thực dân Pháp đối với nhân dân ta. Cách dùng
hình ảnh của tác giả làm nổi bật sự tàn bạo của thực dân Pháp: “Chúng thẳng tay chém
giết những người yêu nước… chúng tắm các cuộc… bể máu”.
Về kinh tế, Bác cũng kết tội thực dân Pháp từ khái quát đến cụ thể “Chúng bóc lột dân
ta đến… tiêu điều”. Bác quan tâm đến những hạng người như: “dân cày và dân buôn
trở nên bần cùng”, “chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”. Lập luận như
vậy là Bác muốn tranh thủ sự ủng hộ của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc
bảo vệ nền Độc lập. Cả đoạn văn tác giả chỉ dùng một chủ ngữ “chúng” để chỉ thực dân
Pháp, nhưng vị ngữ thì luôn thay đổi: “thi hành”, “lập ra”, “thẳng tay chém giết”, “tắm”…
chỉ một ke thù là thực dân Pháp nhưng tội ác của chúng gây ra trên đất nước ta vô
cùng nhiều. Cách lập lụân đanh thép cùng với những dẫn chứng cụ thể khiến kẻ thù hết
đường lẩn tránh tội ác.
Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp gây ra là nạn đói khủng khiếp năm 1945: “Mùa thu
năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căm cứ đánh đồng
minh thì thực dân Pháp quì gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó, nhân dân
ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó, nhân dân ta càng cực khổ, nghèo
nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn 2 triệu
đồng bào ta chết đói”.Tác giả cũng không bỏ xót nhữung tội ác khác của bọn thực dân
Pháp như “trong năm năm chung bán… cho Nhật”, tội thẳng tay khủng bố Việt Minh
hơn nữa, tội “giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.”Người kết tội thực
dân Pháp một cách hùng hồn và đanh thép như vậy nhằm phơi bày bản chất tan bạo,
dã man của thực dân Pháp, lột mặt nạ “khai hoá", “bảo hộ” của chúng trước nhân dân
thế giới, khơi lòng căm thù của nhân dân ta với thực dân Pháp.
Tác giả biếu dương sức mạnh dân tộc tỏngcông cuộc chống thực dân phong kiến và
giành lấy nền Độc lập “Pháp chạy, Nhật hàng…chế độ dân chủ cộng hoà”. Đoạn văn
này diễn tả đầy hào khí. Chỉ có 9 chữ “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”,
Bác dựng lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động và cực kì oanh liệt của dân tộc ta.
Biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, tác giả nhằm kích thích tinh thần tự
hào dân tộc, kích thích ý chí chiến đấu để nhân dân ta quyết tâm chống lại âm mưu của
thực dân Pháp.Tiếp theo, Người nêu cơ sở chính nghĩa của việc thành lập nước Việt
Nam mới. Việt Minh là tổ chức cách mạng của toàn bộ dân tộc Việt Nam. Việt minh đã
đứng về phe đồng minh, đã chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật và đã giành chính
quyền từ tay Nhật. Hai lần Người nhấn mạnh nền Độc lập của đất nước bằng những
câu văn điệp ngữ mạnh mẽ: “Sự thật là…”.
Trên cơ sở ấy, Người tuyên bố thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tuyên bố
thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ trên đất nước Việt Nam…”Cuối cùng
thay mặt cho cả một dân tộc vừa giành được tự do độp lập. Người nêu lời thề “quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cảI để giữ vững quyền tự do Độc
lập ấy”- Tuyên ngôn Độc lập là kiệt tác của Hồ Chí Minh. Bằng tâm huyết và tài hoa,
Người đã thể hiện được khí phách của một dân tộc đang vùng dậy chống đế quốc, thực
dân phong kiến, giành Độc lập tự do cho nước nhà. Với Tuyên ngôn Độc lập, lần đầu
tiên Việt Nam hiện diện trên trường quốc tế với tư cách là một nước tự do và Độc lập
và nhân dân thế giới cũng thấy được tinh thần quyết tâm bảo vệ nền Độc lập của dân
tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là một văn kiện lích sử. Nó là bản văn quan trọng bậc
nhất của nước ta. Để có được Tuyên ngôn Độc lập, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy
sinh trong suốt 80 năm chống Pháp. Tuyên ngôn Độc lập là một cột mốc lịch sử, nó
chấm dứt giai đoạn mất nước, giai đoạn nhân dân ta sống kiếp ngựa trâu, nô lệ của
dân tộc, nó mở đầu một kỉ nguyên mới: kỉ nguyên Độc lập tự do.
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, thống thiết, Tuyên
ngôn Độc lập xứng đáng sánh ngang với các bản tuyên ngôn trên thế giới và các thiên
cổ hùng văn của các dân tộc khác như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô
đại cáo của Nguyễn Trãi.

You might also like