You are on page 1of 4

TÂY TIẾN

Quang Dũng là một nhà thơ xuất sắc của thơ ca hiện đại Việt Nam, là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Pháp – hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, tinh tế, bằng sự chân thật, chọn lọc ngôn từ tinh tế đã tạo nên những
vần thơ sâu lắng đầy cảm xúc. người ta không thể không nhắc đến bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Bài thơ này
không chỉ vẽ lên thiên nhiên miền tây dữ dội hùng vĩ, mà trên nền cảnh ấy ta còn bắt gặp vẻ đẹp kiêu hùng và bi
trang của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong tác phẩm, đoạn thơ mở đầu gây ấn tượng cho người đọc khi hiện lên là
những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và cảnh trí hoang sơ, hùng vĩ, dữ dội của miền Tây đất
nước.
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947.
Có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào. Đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến
đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội
trưởng ở đơn vị Tây Tiến. Cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu. Tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài
thơ “Nhớ Tây Tiến”. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.
Khi viết về bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng muốn bày tỏ một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt về núi rừng Tây Bắc,
về đoàn quân Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ ngay trong nhan đề “Nhớ Tây Tiến” mà còn
thể hiện ở hai câu thơ mở đầu của tác phẩm:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Với thủ pháp “lắng dần” của điện ảnh, nhà thơ để hình ảnh sông Mã xuất hiện đầu tiên gợi về nỗi nhớ để rồi dòng
sông Mã ấy mờ dần trong dòng cảm xúc của nhà thơ về những kỉ niệm. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ 7 chữ
mà có đến 4 chữ chỉ tên riêng, đó chính là nơi mà nỗi nhớ dội về, là mạch chảy xuyên suốt dòng tâm trạng và nơi mà
khúc dạo đầu của khúc hát mang tên thương nhớ vang lên: sông Mã và Tây Tiến. Sông Mã là con sông chảy dọc
theo biên giới Việt - Lào. Nó là địa bàn hoạt động của người lính Tây Tiến từng sẻ chia, chứng kiến nỗi vui buồn,
mất mát, hi sinh, từ gầm lên khúc độc hành để tiễn đưa người lính Tây Tiến ngã xuống vì dân tộc, chứng kiến các
anh về với đất mẹ thiêng liêng. Đó thực sự là một dòng sôngcảm xúc, chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người
lính. Vì thế, trong ý thơ “sông Mã xa rồi” lại chứa đựng bao nhiêu sự luyến tiếc, lưu luyến, lui về quá khứ đan xen
đến hiện tại, tiếc bởi dòng sông Mã đã lùi ra thành kỉ niệm.
Nếu “sông Mã xa rồi” là nguyên nhân làm thức dậy nỗi nhớ thì “Tây Tiến ơi” lại như tiếng gọi, là sự thổ lộ chân
thành xuất phát từ trái tim chân thật của nhà thơ với đồng đội và đoàn quân. Lời gọi tha thiết tạo nên tiếng ngân
vang, vang vọng vào vách đá như một sinh thể có hồn. Như thể Tây Tiến vẫn gần lắm, vẫn đâu đó quanh đây để nhà
thơ cất lên tiếng gọi da diết. Tây Tiến chỉ xa về không gian, thời gian còn trong tâm khảm của Quang Dũng, Tây
Tiến vẫn hiện lên sống động mãi không bao giờ xa. Âm “ơi” cuối câu thơ hiệp vần với hai chữ “chơi vơi” tạo sự gắn
kết mạnh, tạo nên cấu tứ cho bài thơ và nó là cầu nối bắt sang câu thơ sau: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Sau
tiếng gọi Tây Tiến ơi là cả một nỗi nhớ trong lòng của nhà thơ. Điệp lại 2 lần từ “nhớ” nhằm nhấn mạnh, khắc sâu
nỗi nhớ kết hợp với từ láy “chơi vơi” mang âm hưởng nỗi nhớ càng để nhấn mạnh tô đậm nỗi nhớ da diết, có sức lan
tỏa, khơi gợi nỗi nhớ thường trực trong lòng bật “Thơ ca bắt rễ từ lòng người và nở hoa nơi từ ngữ”. Nhớ về rừng
núi là nhớ về nơi nhà thơ từng gắn bó. Còn “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ vô hình vô lượng, khó nắm bắt chập chờn,
mênh mang, bồng bềnh, mơ hồ, đầy ám ảnh, lơ lửng khôn nguôi.
Như vậy, hai câu thơ mở đầu của Tây Tiến đã khái quát được cảm hứng trung tâm của bài thơ, đồng thời cho ta thấy
mạch cảm xúc, sợi chỉ để xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ mãnh liệt về một thời Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng. Và
cũng là tiếng gọi ấy làm cho Tây Tiến như một sinh thể có hồn, trong sinh thể ấy, người ta thấy những địa danh gợi
về vẻ đẹp hùng vĩ, xa xôi của núi rừng khiến con người dậy lên niềm khao khát khám phá. Đó là vẻ đẹp mơ màng
của sương, vẻ đẹp mờ ảo của hoa, của mưa Mường Lát, Pha Luông.
Nếu nhắc đến thiên nhiên miền Tây nét đặc sắc đầu tiên kể đến là màn sương rừng mờ ảo:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Người Việt Nam yêu văn chương chắc hẳn rất quen với những địa danh thôn Đoài, thôn Đông gợi nét bình yên của
nông thôn Việt Nam. Còn những cái tên như: Sài Khao, Mường Lát lại gợi ấn tượng về sự xa ngái, hoang vu của
một vùng đất dữ, đất hiểm. Chốn rừng thiêng nước độc ấy xa lạ với chúng ta nhưng lại rất quen thuộc, thân thương
với người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến mải miết hành quân bước qua rừng sâu, đạp trên đá ghềnh sương
khuất chân người, sương lấp đường đi. Khung cảnh núi rừng thật hoang sơ, bước chân mệt mỏi, nặng nề của người
lính dường như được nâng đỡ bởi vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Hình ảnh: “hoa về trong đêm hơi” như được viết
lên từ ấn tượng về những làn hương hoa rừng lan tỏa trong đêm. Vẻ đẹp của thiên nhiên xua đi bao mệt mỏi trên con
đường hành quân đầy nhọc nhằn, thử thách.
Theo bước chân hành quân của những người lính phong cảnh núi rừng hiện ra như một thước phim quay chậm:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây sung ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhớ đến miền Tây không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Đoạn thơ đã miêu tả sắc nét
khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất
kiên cường và tinh thần lạc quan yêu đời của người lính Tây Tiến. Sự phối hợp dày đặc của năm thanh trắc tạo ra âm
hưởng gập ghềnh cho một câu thơ bảy chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân đầy gian
truân, khó nhọc của chiến sĩ Tây Tiến.
Nhịp thơ bốn ba, từ “dốc” lặp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất nối tiếp như tới vô tận của
những con dốc gợi ra sự nhọc nhằn của người lính trên chặng đường hành quân. Con dốc này chưa qua con dốc khác
đã lại đợi sẵn. Núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền
Tây cũng hiện ra qua các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”. Từ “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của
dốc núi ngay dưới chân người chiến sĩ, với “thăm thẳm” lại gợi về độ cao hun hút, độ xa vời vợi khi đưa con mắt
nhìn tiếp chặng đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn hiểm trở. Con đường lên miền Tây quả là khó như lên trời
xanh.
Dốc núi miền Tây tiếp tục được gợi tả gián tiếp trong câu thơ: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”. Từ láy “heo hút”
vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô
tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai đến từ thủ đô hoa lệ. “cồn mây”
ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi bộn bề, chồng chất dựng lên thành cồn, thành dốc từ đó câu thơ gián tiếp cho thấy
dốc núi miền Tây cao đến mức con đường như lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi mờ mịt khiến con đường hành
quân của người chiến sĩ càng thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu, xa vắng vất vả của người lính trên chặng đường
hành quân nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh đầy chất lính. Hình ảnh nhân hóa “súng ngừi trời” Quang Dũng đã
cho thấy cái tâm hồn trẻ trung của những người lính coi thường mọi gian lao, vất vả. Câu thơ chỉ gợi sự hiểm trở của
dốc núi, sự tươi trẻ, lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến. Nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu
dũng.
Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc “ngàn thước lên cao ngàn thước
xuống”. Câu thơ bị bẻ gập làm đôi tạo hình ngọn núi cao chót vót nhìn lên ngút tầm mắt, nhìn xuống sâu thăm thẳm.
Nhịp bốn ba, phép đối thanh, đối ý thể hiện cái hùng vĩ, hiểm trở chứa đựng sức mạnh dữ dội, bí hiểm của thiên
nhiên. Sau những câu thơ miêu tả dốc núi thăm thẳm, heo hút câu thơ tả mưa miên man với rất nhiều âm tiết gợi tả
một không gian mênh mông, nhạt nhòa trong mưa. Câu thơ toàn thanh bằng tạo cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng thư
thái như chưa từng có cuộc vượt dốc đèo nào trải qua. Người lính dường như đã quên hết sự mệt mỏi, gian khổ
phóng tầm mắt ra xa ngắm màn mưa phủ kín đất trời. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới
những ngôi nhà bồng bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo giữa mưa rừng buốt lạnh, núi rừng mênh mông, hoang
vu, heo hút hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến trong lòng người
lính Tây Tiến.
Đoạn thơ đầu khắc họa một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ, mộng mơ, huyền ảo. Thiên nhiên ấy làm nền cho sự xuất hiện
của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng, phong trần lại vừa hồn nhiên, tươi trẻ. Họ không hề nhụt chí, chùn
chân trước khó khăn, gian khổ. Bài thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng. Bút pháp hiện thực kết hợp
với lãng mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nghệ thuật
sử dụng tên địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngôn ngữ thơ. Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn
của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm
áp. Chất lãng mạn còn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí
tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc. Từ đó, làm nổi bật hình tượng người lính vừa dũng cảm, can trường
vừa lãng mạn, hào hoa.
Chiến tranh đã trôi qua rất lâu, mỗi khi nhìn lại đó là những khoảng lặng, nốt trầm trong ta, để ta thêm biết ơn, thêm
tự hào cho những người lính qua đoạn một bài thơ Tây Tiến nói riêng và và các chiến sĩ đã hy sinh vì dân tộc nói
chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người đã ngã xuống vì tình yêu đất nước thì đó lại là những
quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí tuyệt vời về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy anh hùng của đời mình.
Bài thơ được chia làm bốn đoạn, trong đó đoạn thơ thứ nhất và thứ hai chính là cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp của
hình tượng người lính Tây Tiến ở đoạn thơ này. Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thơ là cảm hứng bi tráng. Bi có nghĩa
là buồn, cái bi cái buồn trong đoạn thơ được thể hiện khi nói nhiều đến những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi sinh.
Tuy nhiên ở đây cái bi cái buồn không gợi nên cảm giác đau thương, tang tóc trái lại còn gợi sự hào hùng, hùng
tráng. Bởi vậynên đọc đoạn thơ, mỗi khi người đọc cảm thấy sắp bị rơi vào, chìm xuống trong sự bi thương thì lại
được nâng lên bởi đôi cánh của lí tưởng và cảm xúc lãng mạn. Có thể nói cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu
của bức tượng đài về những người lính Tây Tiến, chúng hoà quyện, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi tráng.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “
Hình tượng người lính Tây Tiến xuất hiện với một ngoại hình vô cùng độc đáo “không mọc tóc”– “quân xanh màu
lá”. Làn da xanh mái tóc không mọc đều do bệnh sốt rét rừng, nhấn mạnh hiện thực khốc liệt của chiến tranh người
lính chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn vất vả. Quang Dũng không che giấu đi gian khổ mà còn làm sống lại hình
ảnh đoàn vệ quốc quân buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Người lính Tây Tiến ốm đau, tiều tụy, đầu trọc “không
mọc tóc”, da dẻ xanh xao, héo úa “quân xanh màu lá”. Nhưng điều đáng chú ý là đầu trọc, da xanh dù trông có xấu
xí, tiều tụy nhưng những người lính Tây Tiến vẫn không thấy mình xấu, tiều tụy mà trái lại họ thấy mình oai phong,
dữ dằn như chúa sơn lâm ở chốn nơi rừng thiêng. Người lính Tây Tiến “dữ oai hùm” là mạnh mẽ làm chủ núi rừng,
chế ngự mọi khắc nghiệt, đạp bằng mọi gian khổ để chiến đấu. Ngoài ra, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải
“không mọc được tóc” cũng thể hiện khẩu khí kiêu hùng, ngang tàng, sự chủ động của người lính trước mọi hoàn
cảnh.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm vẻ đẹp phi thường của những người lính. Hai chữ
“Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở to, dữ dội, ngùn ngụt ý chí nhìn thẳng về phía kẻ thù với
chí khí mạnh mẽ, dám thề sống chết. Đôi mắt mở to, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác để bảo vệ đất nước. Đôi mắt
ấy “gửi mộng qua biên giới” – mộng giết giặc lập công, mộng hòa bình, độc lập, không chỉ vì độc lập tự do của đất
nước mình mà còn vì độc lập tự do của nước bạn Lào.
Tưởng chừng trong gian khổ hy sinh, người lính Tây Tiến không còn thời gian để mà mơ mộng, ấy vậy vẫn mơ
mộng, vẫn không hề mất đi sự hào hoa của những chàng trai Hà Nội. Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
trước đây bị phê phán là “buồn rớt”, “mộng rớt” tiểu tư sản. Nhưng người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ học sinh,
sinh viên Hà Nội, họ ra đi từ những mái trường, giảng đường nên tâm hồn đầy mơ mộng. Họ vẫn dành những giờ
phút thảnh thơi, thư thái để nhớ về một Hà Nội ngàn năm văn hiến với những cô gái xinh đẹp, yêu kiều. Lãng mạn
như vậy giữa một hoàn cảnh khắc nghiệt không phải là buồn rớt, mộng rớt mà chính là biểu hiện của một bản lĩnh
phi thường. Chính cảm xúc lãng mạn ấy đã cân bằng tâm hồn họ giữa những nghiệt ngã chiến tranh, đã tiếp thêm
sức mạnh để họ thực hiện lí tưởng cao đẹp của mình.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" đã thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Thời gian và
độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm
chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.
Khép lại những trang thơ về chân dung người lính trong chiến tranh, tác giả lại viết tiếp về những hiện thực khốc liệt
nhất của chiến tranh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Nhà thơ Quang Dũng đã nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, không né tránh hiên thực miêu tả về cái chết.
Viết về cái chết của người lính trên dọc đường hành quân và chiến đấu, tác giả đã sử dụng những từ ngữ được sắp
xếp theo chiều tăng tiến của sự bi thảm: đã “rải rác”, lại rải rác tận nơi biên cương, tận vùng rừng núi xa xôi hẻo
lánh, rải rác tận nơi viễn xứ, thậm chí tận nơi nước người. Những người lính Tây Tiến nằm lại nơi chiến trường rất
nhiều, những nấm mồ sơ sài, vội vã nằm rải rác khắp biên thùy.
Những người lính khi ra đi đều biết rằng rất có thể họ cũng sẽ phải nằm lại nơi núi rừng như bao nhiêu đồng đội đã
ngã xuống. Nhưng vì lí tưởng cao đẹp họ sẵn sàng hi sinh cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Hơn
nữa, nói về sự hi sinh của những người lính Tây Tiến nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt như biên
cương, chiến trường, viễn xứ. Đó là cách nhà thơ trang trọng hóa sự hi sinh của những người lính Tây Tiến, là sự
kính cẩn nghiêng mình của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội, biến những nấm mồ nơi rừng sâu hoang lạnh
thành những mộ chí thiêng liêng.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Với câu thơ "Áo bào thay chiếu anh về đất", Quang Dũng khắc tả tinh thần của những người lính giống như người
phu tráng sĩ thời xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ
hóa sự hi sinh của người lính. Áo bào là từ Hán Việt chỉ áo của vua hoặc của khanh tướng nhưng ở đây nó chỉ chiếc
áo lính. Những người lính khi ngã xuống không cần có cả manh chiếu bọc thân chỉ cần chiếc áo đơn sơ vẫn mặc
hàng ngày, các anh đã có thể thanh thản trở về với đất mẹ. “Anh về đất” là cách nói giảm, nói tránh đi cái chết làm
câu thơ bi mà không lụy.
Đối với những người lính cái chết đơn giản chỉ là "ngủ quên đời", "anh về đất" nhưng có cái chết nào, có sự hi sinh
nào lại không gây nên sự bi thương. Con sông Mã, chứng nhân của lịch sử, đã chứng kiến sự hi sinh của những
người lính Tây Tiến. Nó gầm lên giống như một con chiến mã trung thành, đau thương khi chứng kiến cái chết của
người bạn đồng hành. Dòng sông như cất lên một khúc tráng ca đưa người lính về với đất với bao tiếc thương, ngậm
ngùi. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền dược vào câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót
trong lòng người chiến sĩ khi phải vĩnh biệt đồng đội. Trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết
của người lính không bi luỵ mà thấm đẫm chất anh hùng của thời đại.
Bốn câu thơ cũng là lời kết luận cho cả bài thơ, khẳng định chất lí tưởng sâu sắc của những người lính Tây Tiến.
Nhịp thơ chậm giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn là sự hào hùng. Với bút pháp nghệ thuật vừa hiện
thực vừa lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện ra với
nhiều vẻ đẹp khác nhau, mà vẻ đẹp nổi bật là hào hùng và hào hoa. Đoạn thơ vừa có thứ ngôn ngữ trang trọng, có
màu sắc cổ kính nhất là ở đoạn miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ.
Tây Tiến mùa xuân ấy đã thành một đi không trở lại, lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại thơ mộng lãng mạn,
hào hùng đến nhường ấy. Nhưng "TâyTiến" của Quang Dũng đã góp phần tái hiện lại một giai đoạn lịch sử oai hùng
của dân tộc, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhà thơ với một thời Tây Tiến, rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước.
Quang Dũng hẳn đã xúc động hồn thơ và đập vào trái tim để tạo nên những vần thơ kiệt tác. Để trải qua bao nhiêu
thăng trầm và thờigian, bài thơ vẫn có vị trí trong lòng bạn đọc và càng ngày càng sáng giá.

You might also like