You are on page 1of 83

Chuyên đề 1: TÂY TIẾN (1948)

- Quang Dũng

Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!


Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
*
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
*
Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
*
1
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

I. Kiến thức chung:

- Trong nền thơ ca Việt Nam hiện tại, Quang Dũng hiện lên như một tên tuổi
lớn, một nghệ sĩ tác tuyệt có đóng góp quan trọng cho việc hình thành nên thơ thế
kỉ 20. Đến với thế giới nghệ thuật thơ Quang Dũng, ta bắt gặp một hồn thơ phóng
khoáng, lãng mạn, hồn hậu, hào hoa với những vần thơ làm say đắm lòng người
như:

“Thoáng hiện em về trong đáy cốc


Nói cười như chuyện một đêm mơ”

hay

“Đôi mắt người Sơn Tây


U uẩn chiều luân lạc
Buồn viễn xứ khôn khuây”

- “Tây Tiến” là thi phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ Quang Dũng, cũng là
bông hoa đẹp trong vườn thơ thời chống Pháp. Bài thơ được xem là một thứ quả
lạ, trái mùa trong thơ kháng chiến. Từ lúc ra đời đến nay, dù có một số phận đầy
truân chuyên, cay đắng nhưng bài thơ ấy đã tạo nên một sức sống mãnh liệt trong
lòng người đọc nhiều thế hệ tạo nên một sức vang lâu bền, sâu rộng trong lòng thi
ca dân tộc. Cho nên có một nhà thơ đời sau đã viết:

“Tây Tiến, biên cương mờ lửa khói


Quân đi lớp lớp động cây rừng”

Và bài thơ ấy, con người ấy vẫn sống muôn đời với núi sông.

- Tây Tiến là một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông
là những thanh niên Hà Nội lịch lãm, hào hoa, ra đi theo tiếng gọi của non sông với
tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.” Quang Dũng từng chiến đấu trong đoàn
2
quân Tây Tiến, về sau ông chuyển sang đơn vị khác và làm thơ. “Tây Tiến” ra đời
trong nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng.

II. Phân tích bài thơ:

1. Khung cảnh thiên nhiên miền Tây dữ dội, hiểm trở, hoang sơ qua
những bước chân hành quân của người lính:

- Câu thơ đầu tiên “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” là một tiếng gọi tha thiết, chân
thành bật lên từ trong sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. Theo tiếng gọi ấy, nỗi nhớ thương
đang nén chặt trong lòng bỗng trào dâng mãnh liệt, “nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên sâu lắng lạ
thường. Từ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ đặc biệt. Điệp từ
“nhớ” trở đi trở lại tạo cảm giác nỗi nhớ như bồng bềnh, tràn ngập, lan toả khắp bài
thơ.

- Nhớ về Tây Tiến là nhớ về sông Mã, nhớ về rừng núi, nhớ Sài Khao, Mường
Lát. Những địa danh từng in đậm dấu chân của đoàn binh Tây Tiến, nhớ những
ngày hành quân ở Sài Khao, đoàn quân mệt mỏi như chìm lấp giữa biển sương mù
của miền Tây, nhớ những đêm hành quân đêm ở Mường Lát, những ngọn đuốc
soi đường trên tay người chiến sĩ được nhà thơ hình dung một cách lãng mạn, hào
hoa là “hoa về trong đêm hơi.” Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” đã làm cho bao
nhiêu mệt mỏi, nặng nề tan biến, thay vào đó là một vẻ đẹp đầy lãng mạn, trữ tình.

- Thiên nhiên miền Tây được cảm nhận qua những bước chân hành quân
của người lính thật hiểm trở, dữ dội, hoang vu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”

Nhà thơ đã sử dụng độc đáo những từ láy giàu giá trị tạo hình như “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” để đặc tả sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
của núi đèo miền Tây. Núi cao tưởng đến chạm mây. Mây nổi thành cồn heo hút
và những người lính hành quân trên những đỉnh núi cao, mũi súng như chạm đến
đỉnh trời. Hình ảnh “súng ngửi trời” cho thấy bản lĩnh, sự táo bạo, sự chủ động và
tinh nghịch của người lính trước thiên nhiên.

3
Câu thơ “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” như bị bẻ đôi, diễn tả dốc
núi miền Tây vút lên đổ xuống gần như phương thẳng đứng nhìn lên thì cao chót
vót, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm, cảm giác như ta đã chạm đến cái tận cùng của
sự dữ dội, hiểm trở miền Tây. Ý thơ ấy khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ Lý Bạch:

“Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước


Tưởng dải ngân hà lạc khỏi mây”

Hay gợi liên tưởng đến những câu thơ trong “Chinh phụ ngâm”:

“Hình khe thế núi gần xa


Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”

Nếu 3 câu thơ trên sử dụng nhiều thanh trắc tạo nên những hết gân guốc, dữ
dội hiểm trở thì câu thơ “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại toàn thanh bằng tạo
nên một sự êm ả, mềm mại làm dịu cả khổ thơ đem đến một vẻ đẹp lãng mạn, trữ
tình, thơ mộng. Ta hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc
núi lưng đèo dõi mắt ra xa để nhìn thấy giữa không gian mịt mùng sương rừng mưa
núi. Những ngôi nhà ở Pha Luông như đang trôi bồng bềnh giữa biển khơi.

- Trên những chặng đường hành quân đầy gian khổ ấy, giọng thơ bỗng chìm
xuống trong trĩu nặng nao nao trước sự hi sinh của những người chiến binh Tây
Tiến:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Hai câu thơ như một tiếng khóc nghẹn ngào trước sự ra đi của người lính.
Trong gian khổ, dãi dầu, biết bao nhiêu đồng đội thân yêu đã ngã xuống, nằm lại
vĩnh viễn nơi chân đèo, dốc núi. Nhà thơ tránh nói trực diện về cái chết mà dùng
“không bước nữa”, “bỏ quên đời” để làm giảm sắc thái bi thương. Bốn chữ “gục lên
súng mũ” cho thấy một tư thế hi sinh đầy kiêu hãnh oai hùng, từ đó diễn tả vẻ đẹp
bi tráng của người lính một cách sâu sắc. Họ ngã xuống khi súng còn cầm trên tay,
mũ còn đội trên đầu trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

- Cái hùng vĩ, dữ dội đáng sợ của miền Tây đâu chỉ có núi cao, dốc thẳm, vực
sâu mà còn có cái âm mưu bí mật muôn đời của rừng thiêng:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
4
Cái đáng sợ của núi rừng không chỉ được khám phá theo chiều không gian
mà còn được khám phá theo chiều thời gian. Chiều nối chiều, đêm nối đêm, chiến
khu vang động tiếng gầm thét của những thác nước và tiếng cọp trêu người tạo
nên một không khí đầy âm u, đáng sợ làm tăng thêm cảm giác dữ dội, hùng vĩ của
miền Tây.

- Phần cuối của đoạn thơ, nhà thơ đột ngột chuyển hướng khiến cái dữ dội,
hiểm trở, hoang vu, tan biến, thay vào đó là cảnh tượng đầm ấm, lãng mạn, trữ
tình:
“Nhớ ôi Tây Tiên cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Người đọc hình dung sau bao nhiêu ngày gian khổ băng rừng, vượt núi, lội
suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó.
Họ quây quần với nhau bên những nồi cơm bốc khói. Khói cơm nghi ngút quyện
trong hương thơm lúa nếp ngày mùa như xua đi mọi gian khổ, mệt nhọc.

2. Cảnh đêm liên hoan ấm tình quân dân và cảnh chiều sông nước Châu
Mộc:

- Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây, cảnh rừng núi
hoang vu hiểm trở lùi dần rồi khuất hẳn nhường chỗ cho một vẻ đẹp dịu dàng, mỹ
lệ, duyên dáng. Những nét mạnh mẽ, gân guốc ở đoạn đầu được thay bằng những
nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Cảnh đêm liên hoan có đồng bào mọi phương
đến góp vui diễn ra tưng bừng, náo nức. Chữ “bừng” là một nét vẽ có thật vừa diễn
tả âm thanh, vừa diễn tả ánh sáng. “Bừng” là sáng rực lên ngọn đuốc được nhà
thơ hình dung là “hội đuốc hoa”. “Bừng” cũng có thể là cái tưng bừng, rộn rã âm
thanh, điệu nhạc. Cảnh đêm liên hoan diễn ra tưng bừng, náo nức, rực rỡ ánh sáng
và rộn rã âm thanh. “Kìa em” là một từ chỉ ở từ xa gợi một cái nhìn ngạc nhiên, mê
say, đắm đuối khi những người lính nhìn thấy những thiếu nữ miền Tây hiện ra
trong những bộ áo Xiêm lộng lẫy. Những vũ điệu man dại của núi rừng vừa e ấp
vừa tình tứ hoà cùng tiếng khèng, điệu nhạc như hút hồn những người chiến binh
Tây Tiến.

- Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến một cảm giác mê say, ngây ngất, náo
nức, tươi vui thì cảnh chiều sông nước Châu Mộc lại gợi một cảm giác miên man,
mờ ảo.
5
Nhớ Tây Tiến là nhớ về một buổi chiều nơi sông nước Châu Mộc, một buổi
chiều bãng lãng khói sương. Không gian như giăng mắc một màn cổ tích. Sông
nước bên bờ lặng tờ hoang dại như đưa người đọc lạc vào một miền huyền thoại
xa xăm khiến lan lắc hai bên bờ sông dường như cũng có linh hồn hoà vào bức
tranh cảnh vật. Không gian ấy gợi cho ta nhớ đến những câu văn tuyệt bút của
Nguyễn Tuân:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm
cổ tích tuổi xưa.”

- Trên dòng sông đạm màu sắc huyền thoại ấy là hình ảnh mềm mại, uyển
chuyển, duyên dáng của một thiếu nữ miền Tây trên chiếc thuyền độc mộc. Người
hoà vào cảnh khiến cho cảnh trở nên lãng mạn, trữ tình hơn, khiến những bông
hoa rừng như cũng đang đưa làm duyên trên dòng nước lũ. Đoạn thơ khiến người
đọc như lạc vào thế giới của cõi mơ, ngây ngất, say sưa trước một buổi chiều
sương khói.

3. Hình tượng người lính Tây Tiến:

- Trên cái nền hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng, trữ tình của thiên nhiên miền Tây,
nhà thơ dựng nên hình tượng người lính Tây Tiến trong một vẻ đẹp bi hùng, bi
tráng. Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật cái khốc liệt, gian khổ của chiến tranh.
Những người lính không chỉ đối diện với bom đạn, với điều kiện thiếu thốn mà còn
phải đối diện với cảm giác của căn bệnh sốt rét rừng, căn bệnh mà Chính Hữu từng
viết:
“Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”

Ở đây, những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện cho
việc đánh nhau, người thì bị sốt rét rừng đến rụng tóc, trọc đầu. Họ hiện lên trong
một dáng vẻ xanh xao, tiều tuỵ nhưng lại không hề bi thương mà vẫn toát lên được
cái vẻ oai phong, dữ dằn của con hổ ở nơi rừng thiêng. Điều này làm biểu lộ vẻ đẹp
bi hùng của người lính.

- Cái hùng dũng, oai phong, lẫm liệt của người lính còn được thể hiện sâu
đậm qua “ánh mắt trừng gửi mộng qua biên giới.” “Ánh mắt trừng” là ánh mắt giận
dữ, căm hờn còn giấc mộng ở đây là giấc mộng lập chiến công đánh tan đồn giặc.
Ý thơ cho thấy một vẻ đẹp hào hùng, oanh liệt của người lính nhưng những người
6
chiến binh Tây Tiến lại không hiện lên như một người khổng lồ không tim, bên trong
cái hào ấy là chất đa tình, lãng mạn của những trái tim rạo rực, khao khát yêu
đương trở về trong những giấc mơ của người lính là những dáng “kiều thơm” của
Hà Thành. Ý thơ ấy khiến ta nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

- Khổ thơ tiếp theo nói về cái chết, về sự hi sinh của người lính. Trên những
chặng đường hành quân gian khổ, biết bao nhiêu người lính đã ngã xuống, nằm lại
vĩnh viễn khiến dọc một dải biên cương những nấm mồ xa xứ gợi một cảm giác bi
thương, hoang lạnh. Quang Dũng không hề che giấu cái đau thương nhưng ông
cũng không dìm người đọc vào trong bi luỵ. Cái bi thương được nâng đỡ bằng đôi
cánh của lý tưởng tạo nên một vẻ đẹp bi hùng. Chết chóc hi sinh là thế nhưng
những người lính cương quyết không chùn bước, không sờn lòng, họ vẫn cương
quyết ra đi theo lý tưởng “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”

- Trong đoạn thơ, nhà thơ đã sử dụng một hệ thống từ Hán Việt cổ kính, trang
trọng như “biên cương”, “viễn xứ”, “độc hành.” Chính cái không khí trang trọng cổ
kính do những từ Hán Việt tạo nên đã khiến những người lính Tây Tiến hiện lên
như những tráng sĩ ngày xưa xem cái chết nhẹ như lông hồng. Hình ảnh những
người lính gục ngã bên đường không có cả manh chiếu bọc thây qua cái nhìn của
nhà thơ như được bọc trong những tấm áo bào sang trọng vắc thế những người
lính ra đi trong tiếng gầm của dòng sông Mã tựa như một điệu kèn trầm hùng tiễn
đưa hồn tử sĩ.

- Khổ thơ cuối của bài thơ là một lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây, là
lời tự như đinh ninh với lòng mình sẽ cương quyết ra đi vì chí lớn. Người lính một
khi ra đi vì nghĩa cả, ra đi theo tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” thì không
hẹn ngày về. Dẫu có chết đi, dẫu có trở thành linh hồn cũng sẽ theo mãi đoàn binh
không chịu trở về: “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.” Ý thơ ấy một lần nữa tô đậm
vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến./.

7
Chuyên đề 2: VIỆT BẮC (1948)
- Tố Hữu

- Mình về mình có nhớ ta?


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

- Mình đi, có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

- Ta với mình, mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
8
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...

Thương nhau, chia củ sắn lùi


Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Ta về, mình có nhớ ta


Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
9
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm niềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...

Ở đâu u ám quân thù


Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

- Nước trôi nước có về nguồn


Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm cho ai nhớ mình
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.

- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi


10
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui...

- Mình về thành thị xa xôi


Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

- Ðường về, đây đó gần thôi!


Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái trường ngói mới đỏ tươi.
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!

11
- Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...

- Lòng ta ơn Ðảng đời đời


Ngược xuôi đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa nước non Hồng
Còn đây ơn Ðảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Ðời đời ơn Ðảng càng sâu càng nồng.

Cầm tay nhau hát vui chung


Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.

I. Kiến thức chung:

- Tố Hữu là nhà thơ lớn dân tộc, nhà thơ của lí tưởng cuộc sống, là lá cờ đầu
trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Nói đến Tố Hữu là nói đến phong cách thơ trữ
tình chính trị trong cõi thơ của ông, chất chính trị và chất trữ tình quyện vào nhau
trong một vẻ đẹp diệu kì mà nói như Xuân Diệu: “Tố Hữu là người đã nâng thơ
chính trị lên một trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”. Nói đến Tố Hữu còn phải nhắc đến
một hồn thơ đậm đà tính dân tộc. Thơ ông nói nhiều về cách mạng, về kháng chiến,
về thời đại nhưng trong hồn thơ ấy ta vẫn bắt gặp các điệu dân tộc phảng phất tinh
thần của ca dao dân ca.

- Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ
của Tố Hữu, tiêu biểu cho một chặn đường thơ của ông. Bài thơ được xem là một
bông hoa đẹp trong vườn thơ thời chống Pháp, một bản tổng kết sinh động của
kháng chiến thần thánh suốt 9 năm, bài thơ cũng được xem là một bản tình ca đông
thời là một bản hùng ca về cách mạng và kháng chiến.

- Bài thơ “Việt Bắc” được nhà thơ Tố Hữu sáng tác trong một thời điểm lịch
sử đáng nhớ của dân tộc. Đó là vào tháng 10/1954. Ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống Pháp thắng lợi. Bác Hồ, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc về thủ
12
đô Hà Nội được viết trong dòng cảm xúc trào dâng của buổi chia tay lưu luyến ấy.
Bài thơ đã làm vang vọng mãi trong lòng ta những tình cảm đẹp, ngọt ngào, tha
thiết của một thời quân dân gắn bó trong sâu nặng nghĩa tình.

II. Phân tích bài thơ:

1. Cuộc chia ly lưu luyến, bùi ngùi giữa đồng bào Việt Bắc và và người
cách mạng về xuôi:

- Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu in đậm tinh thần dân tộc qua việc sử dụng lối
kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao dân ca lối kết ấy mở ra một không gian
đằm thắm nghĩa tình đời một tình cảm gắn bó sâu đậm. Lối kết cấu ấy lại được cái
thể hiện qua cặp đại từ “mình” và “ta” vốn là những từ xưng hô của đôi lứa yêu
nhau trong ca dao, chính vì vậy mà cuộc chia tay của người cán bộ cách mạng và
đồng bào Việt Bắc hiện lên ngọt ngào tha thiết như cuộc chia tay của đôi trai gái
yêu nhau. Chuyện chung như hóa thành chuyện riêng, tình cảm cách mạng và ngọt
ngào sâu lắng như tình yêu đôi lứa. Cảm giác như ta gặp lại những bài ca dao quen
thuộc:

“Mình về ta chẳng cho về


Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”

hay

“Mình với ta tuy hai mà một


Ta với mình tuy một mà hai”
- Bốn câu thơ đầu tiên là lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc dành cho người
cán bộ về xuôi:

“- Mình về mình có nhớ ta?


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”

Những câu thơ mở ra một cảnh chia ly đầy bùi ngùi lưu luyến, mở ra một hoàn
cảnh đặc biệt để bộc lộ tình cảm cảm xúc trong tim nhân vật trữ tình. Lời nhắn nhủ
được bố cục còn sống thành hai câu hỏi thiết tha theo từng cặp câu lục bát. Mỗi
lần hỏi là một sự lặp lại cụm từ “mình về mình có nhớ” như một lời nhắn nhủ tâm

13
tình gọi về bao nhiêu kỷ niệm. Câu thơ “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Tựa
như một lời tổng kết qua thời gian lịch sử suốt mười lăm năm, mười lăm năm kháng
chiến, mười lăm năm cách mạng nhưng đối với ta với mình mười lăm năm ấy cũng
là mười lăm năm tha thiết mặn nồng mười lăm năm ta với mình gắn bó trong một
tình cảm đậm sâu tha thiết.

- Câu thơ “Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” được nhắc thành hai vế
câu khác còn sướng mỗi vế câu chứa đựng một mối quan hệ tự nhiên. “Nhìn cây
nhớ núi” vì núi là cội nguồn sinh dưỡng nên cây. “Nhìn sông nhớ nguồn” vì sông từ
nguồn đổ ra biển lớn ý nghĩa gửi tình cảm cội nguồn thiêng liêng tha thiết như nhắn
nhủ người về xuôi đừng bao giờ quên Việt Bắc vì Việt Bắc là quê hương cách
mạng, nguồn cội kháng chiến.

- Trước lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc, người về xuôi cũng đáp lại bằng
những câu hỏi ân tình:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi một cảm giác lưu luyến, bịn rịn lạ thường, nỗi lòng
người đi ngập tràn thương nhớ. Câu thơ “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước
đi” được các nhịp 44 tạo nên hai vé cầu cân xứng. Một vế diển tả tâm trạng bên
trong, một vế diễn ra hành động bên ngoài. Nhưng hai vế câu lại nhất quán trong
một tình cảm vì vì bâng khuâng trọng dạ nên những bước chân kia cứ lưu luyến,
bồn chồn.

“Áo chàm đưa buổi phân ly


Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

- Hai câu thơ tiếp theo một lần nữa diễn tả sự lưu luyến, bồn chồn, bâng
khuâng trong thời khắc chia tay. Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt
Bắc. Từ hình ảnh ấy, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và đời sống tình cảm của người
Việt Bắc, những con người nghèo khổ đơn sơ, thô mộc nhưng lại sâu nặng đằm
thắm nghĩa tình. Chính vì tình cảm của người Việt Bắc nặng sâu như thế nên trong

14
phút giây chia tay, cầm tay nhau biết nói gì hôm nay có một chút gì bối rối ngập
ngừng, băn khoăn trong sâu thẳm tâm hồn người đi, kẻ ở.

2. Bản tình ca Việt Bắc:


- Cùng với lối kết cấu đối đáp qua cặp đại từ “mình” và “ta”. Mười hai câu thơ
tiếp theo là lời tâm tình, nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc gợi nhớ những tháng
ngày gian khổ, cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi. Mười hai dòng thơ lục bát tạo thành
sáu câu hỏi với sự trở đi trở lại của những cụm từ “Mình đi có nhớ”, “Mình về có
nhớ” khiến nỗi nhớ thương lan tỏa khắp đoạn thơ gửi về bao nhiêu kỷ niệm.

- Nhớ về Việt Bắc là nhớ những ngày “mưa nguồn suối lũ những mây cùng
mù”. Câu thơ gợi sự dữ dội khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Bắc. Thiên nhiên Việt
Bắc đâu phải lúc nào cũng lãng mạn, trữ tình, thơ mộng mà nhiều lúc vô cùng dữ
dội khủng khiếp. Với mưa xối xả từ đầu nguồn, nước lũ dâng lên trên con suối rồi
mây cùng mù. Thế nhưng cuộc sống dù khắc nghiệt đến đâu, ta và mình vẫn đồng
cam cộng khổ, kề vai sát cánh để vượt qua.

- Nếu như ở trên là “Mình đi có nhớ…” thì đến hai câu thơ tiếp theo là “mình
về có nhớ” cũng ân tình, nặng sâu không kém, gợi về những kỷ niệm của những
ngày “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. “Miếng cơm chấm muối” là chi tiết
thực phản ánh cuộc sống kháng chiến thiếu thốn, gian khổ, nhưng dù thiếu thốn
gian khổ mà mối thù vẫn nặng trên vai. Đây là cách nói độc đáo cho thấy mối thù
quân xâm lược vẫn trĩu nặng trong lòng “ta” và “mình”.

- Cảm xúc nhớ thương trong lòng người như trào dâng mãnh liệt trong hai
câu thơ

“Mình về, rừng núi nhớ ai


Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Thủ pháp nhân hóa qua hình ảnh “rừng núi nhớ ai” khiến nỗi nhớ thương như
tràn ngập khắp không gian cả núi rừng cũng mang nặng nỗi nhớ thương da diết.
Hình ảnh “trám bùi để rụng măng mai để già” gợi một nỗi buồn trống trải, mênh
mông, thiếu vắng. Ngày mình còn ở đây, ta và mình cùng nhau đi hái trám, cùng
nhau đi bẻ măng. Nay mình về xuôi rồi, nên trám rụng măng già không ai thu hái.
Nỗi nhớ thương như hằn sâu trong lòng người.

- Hai câu thơ khắc họa tuyệt hay vẻ đẹp của tấm lòng người Việt Bắc:
15
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Hình ảnh thiêu lâu xám gợi một vé nghèo khó, cơ cực, vất vả in hằn trên
những mái tranh làm bằng lau xám. Thế nhưng trong nghèo khó, cơ cực, người
Việt Bắc vẫn hiện lên với một tấm lòng sắc son chung thủy, sẵn sàng cưu mang
che chở cho kháng chiến.

- Bốn câu thơ cuối của đoạn thơ tiếp tục nhắn nhủ người đi hãy nhớ về Việt
Bắc, nhớ Việt Bắc là nhớ về chiến khu cách mạng từ những ngày còn gian khổ, cơ
cực. Nhớ núi non, nhớ những nơi ta đã từng đi qua từng gắn bó, nhớ đến những
địa danh lịch sử gắn liền với những chiến thắng hào hùng oanh liệt của Việt Bắc
như mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Câu thơ “Mình đi mình có nhớ mình”
xuất hiện ba từ mình liên tiếp tạo cảm giác về một sự hòa quyện, quấn quýt giữa
mình và ta đến mức không thể phân biệt, không thể tách rời.

- Dường như đón nhận hết nghĩa tình của người Việt Bắc, người về xuôi cũng
đáp lại bằng những câu thơ tha thiết:

“- Ta với mình, mình với ta


Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Trong lời nói của người về xuôi, cặp đại từ ta mình cứ quyện hòa, quấn quýt
tưởng như không thể tách rời như ca dao thường nói:

“Mình với ta tuy hai mà một


Ta với mình tuy một mà hai”

Để rồi từ đó nhân vật trữ tình khẳng định một tấm lòng thuỷ chung son sắt,
trước sau như một: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Nhà thơ đã sử dụng cái
vô cùng vô tận của tự nhiên để đo cái vô cùng vô tận của tình cảm con người.
“Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. Nguồn nước dạt dào, bao la vô tận
cũng như tình nghĩa giữa người đi, kẻ ở sâu sắc nồng nàn không bao giờ thay đổi.

16
- Đoạn cuối trong đoạn thơ tiếp theo điệp từ nhớ trở đi trở lại gợi về bao nhiêu
kỷ niệm, ân tình tha thiết. Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như là nhớ người yêu.
Trên đời này có cô cao phải làm sao, tha thiết như là nỗi nhớ của những đôi lứa
yêu nhau. Dường như nỗi nhớ của người về xuôi dành cho việc bác cũng không
kém phần mãnh liệt, thiết tha như thế này.

- Hiện về trong nỗi nhớ của người về xuôi là một bức thơ mộng, trữ tình, êm
ả của cảnh vật hiện lên đa dạng, phong phú trong thời gian, không gian khác nhau.
Lúc trăng khuya, thiên nhiên hiện lên đậm đà thi vị qua những hình ảnh uyển
chuyển, trữ tình. Đó là ánh trăng lên nơi đầu núi, ánh nắng chiều chạy vàng trên
lưng nương, là những bản làng mờ trong sương sớm hay bếp lửa bập bùng trong
đêm khuya hay hình bóng người thương đi về, tất cả để hòa quyện nhau làm hiện
ra trước mắt người đọc một bức tranh cảnh vật thơ mộng, trữ tình, yên ả.

- Cái thanh bình yên ả của Việt Bắc hiện lên đầy độc đáo qua những không
gian gần gũi, gắn bó đong đầy kỷ niệm.

“Nhớ từng rừng nứa bờ tre


Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Thủ pháp liệt kê được sử dụng độc đáo khiến cho kỷ niệm được khơi ra tầng
tầng lớp lớp. Nhớ về Việt Bắc hào hùng, nhớ đến những không gian gần gũi thân
thương, nhớ từng gốc nứa, bờ tre hùng hậu nơi ta đã từng đi qua, từng gắn bó về
gặp sau thành những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt.

- Từ những nỗi nhớ của nhân vật trữ tình người đọc còn cảm nhận được bao
nhiêu ân tình sau này, bao nhiêu sẻ chia gắn bó. Người đi về ker ở, giữa đồng bào
Việt Bắc và người cách mạng về xuôi. Nhớ Bức tranh con nó có tính gian khổ, yêu
đời. Việt Bắc là nhớ đến những con người tuy nghèo khó, cơ cực, lam lũ lại sâu
nặng tình nghĩa, là nhớ đến những tháng ngày ta và mình cùng nhau gắn bó chia
sẻ đắng cay ngọt bùi. Trong những ngày tháng ấy, ta về bạn lúc nào cũng đồng
cam cộng khổ, kề vai sát cánh bên nhau, chia sớt cho nhau từng bát cơm sẻ nửa,
từng củ sắn, củ lùi hay từng mảnh chăn xuôi đắp cùng.

- Trong tất cả những hình ảnh làm nên vẻ đẹp nghĩa tình của người Việt Bắc,
nhà thơ dừng lại để ngợi ca bà mẹ Việt Bắc.

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng


17
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”

Hai chữ “cháy lưng” cho thấy tình thương vô hạn của nhà thơ dành cho bà
mẹ Việt Bắc, bà mẹ Việt Nam, hình ảnh người mẹ tần tảo chịu thương, chịu khó
cõng con và cõng cả nắng trời trên lưng lên rẫy bẻ từng bắp ngô nuôi kháng chiến
là một biểu tượng đẹp của nhân dân. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến hình ảnh
bà mẹ Việt Bắc trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:

“Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc


Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn mãi cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mế ơn nuôi”

- Bức tranh Việt Bắc còn hiện về trong nỗi nhớ của người đi với một vẻ đẹp tuy khó
khăn, thiếu thốn, gian khổ nhưng lại tràn ngập niềm vui lạc quan, yêu đời, thanh
bình, yên ả. Tinh thần lạc quan, phơi phới hiện lên từ những lớp học với tiếng trẻ
bi bô học bài, từ những đêm liên hoan nơi đồng khuya đuổi sáng, tuy gian khó mà
tiếng ca vẫn vọng cả núi đèo. Còn vẻ đẹp thanh bình, yên cả của Việt Bắc lại hiện
lên qua tiếng mỏ giục trâu bò về xa xôi trong rừng chiều, qua “tiếng chày giã gạo
đều đều suối xa”. Tất cả làm nên một bản tình ca trong trẻo, tươi vui không khó
khăn gian khổ nào có thể dập tắt được.

- Mười câu thơ tiếp theo khắc sâu nỗi nhớ trong tâm hồn nhân vật trữ tình để
nỗi nhớ gọi về biết bao nhiêu kỷ niệm. Trong hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ,
nếu câu trên mang một câu hỏi đầy tha thiết “Ta về mình có nhớ ta” thì câu dưới lại
mà một lời bày tỏ, giãi bày cõi lòng mình “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”.
“Nhớ hoa” tức là nhớ thiên nhiên Việt Bắc. Còn “nhớ người” là nhớ con người Việt
Bắc. Cảnh vật và con người hòa quyện với nhau trong nỗi nhớ của nhân vật trữ
tình. Tám dòng thơ lục bát còn lại là một bức tranh tứ bình xuân - hạ - thu - đông
của Việt Bắc. Ở từng cặp câu thơ, nếu câu trên tả cảnh thì câu dưới tả người.
Cảnh và người Quyền hòa vào nhau đem đến một vẻ đẹp đầy thi vị cho Việt Bắc.

- Mùa đông Việt Bắc hiện lên không lạnh lẽo, u ám, thê lương mà vô cùng
tươi vui ấm áp. Giữa một không gian bạt ngàn một mãi xanh mênh mông bất tận,
mãi đỏ của bông hoa chuối rừng điểm vào như một bó đuốc thắp lên những tia
sáng đầy ấm áp. Cách phối mãi độc đáo ấy khiến người đọc không còn phân biệt
đâu là thơ, đâu là hoạ nữa. Giữa mùa đông lạnh giá nhưng núi rừng vẫn vượt lên
sức sống khiến lòng người ấm lại. Giữa không gian mùa đông Việt Bắc xuất hiện
18
một bóng người nhỏ bé, bình dị, đơn sơ đang vượt đèo. Ánh nắng chiếu vào lưỡi
dao đang gài ở thắt lưng làm ánh lên một vẻ đẹp thơ mộng, nét đẹp của lao động.

- Mùa xuân Việt Bắc tràn ngập trong một màu trắng tinh khiết hoa mơ.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng”

Thiên nhiên hiện lên trữ tình, lãng mạn như một không gian cổ tích. Mới vừa
rồi là mãi xanh bạt ngàn thì giờ đây hoa mơ đã nhuộm trắng cả núi rừng Việt Bắc.
Cái mãi trắng dịu dàng, tinh khiết ấy phủ lên cả không gian tạo nên một bức tranh
cảnh vật đầy trữ tình và thơ mộng. Hơn một lần trong thơ Tố Hữu ta bắt gặp cái
mãi trắng tinh khiết ấy.

“Ôi sáng xuân nay xuân 41


Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”

Giữa cái không gian cổ tích ấy, bỗng xuất hiện hình ảnh một người lao động
bình dị, đơn sơ đang tỉ mỉ chuốt từng sợi giang đan nón. Sự xuất hiện của con
người khiến cho bức tranh xuân càng trở nên dạt dào nhựa sống.

- Mùa hè Việt Bắc được nhà thơ cảm nhận bằng cả thị giác lẫn thích giác.
Âm thanh của mùa hè là tiếng ve kêu râm ran không dứt. mãi sắc của mùa hè là
rừng phá đổ vàng. Âm thanh quyện vào sắc mãi khiến bức tranh mùa hè hiện lên
trữ tình, thơ mộng. Trong cảm nhận tinh tế của nhà thơ, âm thanh dường như chi
phối sắc mãi. Tiếng ve kêu như xui khiến, mời gọi rừng phách đổ vàng, cả rừng
phách thay áo mới, chiếc áo vàng óng ả dưới ánh mặt trời mùa hạ khiến cho không
gian lãng mạn đến lạ kì. Giữa khung cảnh mùa hạ duyên dáng ấy xuất hiện hình
ảnh cô em gái hái măng một mình. Hình ảnh người lao động trẻ trung, bình dị hoà
vào cảnh vật khiến bức tranh hè trở nên dạt dào sức sống. Hình ảnh ấy gợi nhớ
đến hình ảnh cô hái mơ của thơ Nguyễn Bính:

“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ


Say nhìn ra rặng núi xanh lơ
Khi trời êm ả và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ”

- Mùa thu Việt Bắc hiện lên với không gian rừng thu được nhuộm vàng bởi
ánh trăng huyền ảo:
19
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Ánh trăng nơi núi rừng Việt Bắc gợi một vẻ đẹp lãng mạn, trữ tình, êm ả, đem
đến một cảm giác thanh bình, dịu nhẹ, bình yên. Cảnh trở nên sâu lắng, thiết tha
hơn khi vọng vào tiếng hát của ai mà ân tình, thuỷ chung đến lạ. Tiếng hát hoà
quyện với ánh trăng khiến cho bức tranh thu Việt Bắc càng trở nên thi vị.

3. Bản hùng ca Việt Bắc:


- Nhớ về Việt Bắc đâu chỉ la nhớ cái trữ tình, lãng mạn của thiên nhiên hay
cái ân tình, tha thiết, thuỷ chung của con người. Nhớ Việt Bắc còn là nhớ không khí
hào hùng, hào sảng rực lửa sử thi trong những ngày Việt Bắc đánh giặc.

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng


Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Đó là những ngày gót giày đinh của giặc giẫm nát cả núi rừng Việt Bắc. Chúng
muốn huỷ diệt sự sống, tiêu diệt tinh thần cách mạng trên mảnh đất này. Ý thơ
khiến ta nhớ đến cảnh giặc giày xéo quê hương trong “Bên kia sông Đuống” của
Hoàng Cầm:

“Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn


Ruộng ra khô, nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc mãi”

- Nhưng kẻ thù dẫu bạo tàn, hung hãn đến đâu cũng không thể nào ngăn
được sự quật khởi của dân tộc ta. Trong thời khắc quyết định, đất nước đã đứng
lên, thiên nhiên đất trời như hòa cùng con người trong trận đánh. Chỉ với bốn câu
thơ ngắn ngủi mà chữ “rừng” và “núi” đã được lặp lại đến năm lần. Nó rải kín đoạn
thơ, tạo nên một bức tường thành vững chãi, một lũy thép kiên cố vây bọc lấy quân
thù. Nghệ thuật nhân hoá đã khiến rừng núi thiên nhiên trở thành người đồng chí,
người chiến sĩ kề vai sát cánh với con người trong trận chiến.

20
- Hai câu thơ tiếp theo mở ra một khung cảnh chiến khu đầy hoành tráng,
rộng lớn:

“Mênh mông bốn mặt sương mù


Đất trời ta cả chiến khu một lòng”

Ý thơ mở ra một không gian bao la, rộng lớn, chìm trong sương mù dày đặc
khiến cho khung cảnh chiến đấu trở nên hùng vĩ và không kém phần lãng mạn.
Cũng như rừng, như núi, sương là chiến sĩ kề vai sát cánh với con người vừa chở
che cho kháng chiến, vừa ngăn bước quân thù, cả vũ trụ, đất trời, cả đất nước, dân
tộc chung một nhịp đập con tim hướng về Việt Bắc. Cụm từ “cả chiến khu một lòng”
nhấn mạnh sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Cả nước hướng về Việt Bắc
vì Việt Bắc là trái tim hồng của cách mạng và kháng chiến.

- Đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ sử dụng độc đáo thủ pháp liệt kê, kể ra hàng
loạt những địa danh như Phủ Thông, Đèo Giàng, Sông Lô, Phố Ràng, Cao Lạng,
Nhị Hà. Mỗi địa danh ấy gắn liền với một chiến thắng vẻ vang của Việt Bắc, tạo
cảm giác cuộc kháng chiến nổ ra khắp nơi và câu hỏi tu từ “ai về ai có nhớ không?”
nhấn mạnh, khẳng định nỗi nhớ của nhân vật trữ tình về những chiến công hào
hùng của núi rừng Việt Bắc.

- Từ những chiến công, nỗi nhớ của nhân vật trữ tình trở về với những đêm
hành quân hào hùng rực lửa sử thi:

“Những đường Việt Bắc của ta


Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

Hai câu thơ tạo nên ấn tượng chung về sức mạnh vĩ đại của dân tộc trong
kháng chiến. Những từ láy “rầm rập”, “đêm đêm” đem đến những âm hưởng hết
sức hùng tráng, cả núi rừng vang dậy những bước chân hành quân. Những nẻo
đường Việt Bắc mở ra với bao nhiêu chiến thắng giòn giã, hào hùng mang ý nghĩa
khái quát cho quá trình đi lên đầy hùng mạnh của kháng chiến.

- Hình ảnh một Việt Bắc anh hùng trở nên rực sáng qua hình ảnh những đoàn
quân trùng trùng ra mặt trận:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng


Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
21
Những từ láy “điệp điệp”, “trùng trùng” gợi sự đông đảo, mạnh mẽ. Những
đoàn quân như trải dài ra vô tận, vươn ra khắp núi rừng. Hình ảnh “sao đầu súng”,
“bạn cùng mũ nan” là hình ảnh thực nhưng cũng đầy lãng mạn. Súng, sao, mũ đi
cùng nhau tạo nên vẻ đẹp lãng mạn hào hùng cho người lính. Khẩu súng tượng
trưng cho ý chí đánh giặc, chiếc mũ là cách nói hoán dụ chỉ người lính. Hình ảnh
ngôi sao trên mũ chỉ tầm vóc vươn tới sao trời của người chiến sĩ. Ánh sao là biểu
tượng của Tổ quốc, là ánh sáng soi đường để người lính cầm súng giữ quê hương.
Ý thơ ấy khiến ta liên tưởng đến những vần thơ nổi tiếng của Vũ Cao trong bài thơ
“Núi đôi”:

“Anh đi bộ đội sao trên mũ


Mãi mãi là sao sáng dẫn đường”

- Cùng với hình ảnh những đoàn quân trùng trùng ra trận là hình ảnh những
đoàn dân công mạnh mẽ, kiên cường:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn


Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.”

Nhà thơ không viết là “từng đoàn dân công đỏ đuốc” mà đặt từ “dân công”
lên đầu câu để nhấn mạnh và kết thúc là “từng đoàn” tạo cảm giác về sự liên tiếp,
trải dài đến vô tận. Từng đoàn, từng đoàn dân công nối tiếp nhau ra tiền tuyến trong
một không khí hào hùng. Nhà thơ đã sử dụng độc đáo thủ pháp phóng đại với
những hình tượng thơ kĩ vĩ “bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay” để diễn tả sức
mạnh phi thường sánh ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ của những đoàn dân công.
Một hình ảnh tuyệt đẹp trong kháng chiến chống Pháp.

- Hai câu thơ tiếp theo làm xuất hiện hình ảnh đoàn xe vận tải hiên ngang ra
chiến trường:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày


Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

Trong đêm tối mênh mông, giữa núi rừng Việt Bắc, hình ảnh những đoàn xe
vận tải chiếu đèn pha làm rực sáng cả không gian. Sự tương phản giữa sự tối tăm
của nghìn đêm thăm thẳm sương dày và ánh sáng của ngày mai lên huy hoàng

22
rạng rỡ mở ra một niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt về một tương lai chói ngời ánh
sáng.

- Bốn câu thơ tiếp theo mở ra một âm hưởng chiến thắng giòn giã:

“Tin vui chiến thắng trăm miền


Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng”

Thủ pháp liệt kê kể ra hàng loạt những địa danh trên khắp mọi miền đất nước.
Những địa danh ấy lại đi liền với điệp từ “vui” tạo cảm giác tin vui thắng trận như
lan toả tưng bừng khắp mọi miền với một tốc độ nhanh chóng. Vừa mới đó là Hoà
Bình, Tây Bắc, Điện Biên ngay lập tức đã vào đến Đồng Tháp, An Khê và trở ra với
Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Từ Việt Bắc tin vui chiến thắng lan toả khắp mọi miền
và từ khắp mọi miền hội tụ về Việt Bắc vì Việt Bắc là trái tim hồng của cách mạng
và kháng chiến./.

23
Chuyên đề 3: ĐẤT NƯỚC (1971)
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”)
- Nguyễn Khoa Điềm
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

Đất là nơi anh đến trường


Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
24
Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên


Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
*
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...

Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
25
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

I. Kiến thức chung:

- Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ lớn có vị trí quan trọng trong nền thơ Việt
Nam hiện đại, ông được xem là một gương mặt thơ tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ
trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện sự
nhận thức sâu sắc về đất nước và nhân dân quan những trải nghiệm của chính
bản thân mình. Trong đó nổi bật lên là sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách
nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Người đọc có lẽ sẽ không
bao giờ quên được những vần thơ đầy thấm thía của Nguyễn Khoa Điềm:

“Em ơi em đất nước là máu xương của mình


Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời”

hay
26
“Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ
Vô tư quá để bây giờ thầm tiếc”

- Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được
một phong cách nghệ thuật riêng và đầy độc đáo với một lối thơ giàu chất suy tư,
cảm xúc lắng đọng. Với giọng thơ trữ tình, chính luận thể hiện tâm tư tình cảm
người trí thức khi tham gia vào cuộc chiến đấu với nhân dân làm cho đất nước trở
nên vĩnh hằng, trường cửu.

- Đoạn trích “Đất Nước” trích chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”,
là một đoạn thơ hay và độc đáo thể hiện một cách cảm nhận và một lối suy tư rất
riêng về đất nước trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn với một tư tưởng đất nước
của nhân dân và sự sử dụng phong phú, đa dạng của văn hoá, văn học dân gian.

II. Phân tích đoạn trích:

1. Đất nước có tự bao giờ?

- Trong mặt trữ tình chính luận, để trả lời cho câu hỏi đất nước có tự bao giờ,
ngay từ dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã khẳng định: “Khi ta lớn lên đất nước đã có
rồi.” Câu thơ bình dị, tự nhiên như một lời nói thường nhưng lại là một lời khẳng
định chắc chắn về lịch sử tồn tại từ rất lâu đời của đất nước, về sự trường tồn của
đất nước trong lịch sử suốt mấy nghìn năm. Đúng như Trương Hán Siêu từng
khẳng định trong “Phú sông Bạch Đằng”:

“Từ có vũ trụ, đã có giang san”

- Để nói về lịch sử trường tồn của đất nước, nhà thơ không bắt đầu bằng việc
đưa ra các sử liệu mà lại dẫn ra những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương
trong cuộc sống hằng ngày. Đất nước hiện hình trong câu chuyện ngày xửa ngày
xưa mẹ thường hay kể, trong miếng trầu bây giờ bà ăn, trong cái kèo, cái cột, trong
hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng. Những hình ảnh đã gợi ra
một đất nước nhân hậu, bao dung, bình dị, gần gũi. Mỗi quả cau, miếng trầu, nỗi
cây tre, hạt gạo đều gợi một vẻ đẹp ân tình về đất nước, đều thấm đượm nghĩa
tình dân tộc. Ý thơ ấy gợi cho ta liên tưởng đến đoạn văn nổi tiếng của văn hào
Nga, Erenbua:

27
“Dòng suối đổ vào sông
Sông đổ tràng giang Vôn ga
Con sông Vôn ga đi ra biển
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.”

- Hình ảnh đất nước còn hiện lên sinh động là thường, lắng đọng trong tâm
tư ta qua những nét đẹp về phong tục tập quán, về chiều sâu văn hoá đậm tính
truyền thống của người Việt. Những câu thơ gợi nhớ phong tục như tục bới tóc, tục
ăn trầu, gợi nhớ những câu chuyện cổ vào loại xưa nhất của dân tộc Việt như sự
tích trầu cau hay truyền thuyết Thánh Gióng. Đoạn thơ còn gợi ra những đoạn ca
dao ngọt ngào, tha thiết:

“Tay bưng dĩa muối chén gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau”

hay
“Muối ba năm muối hãy còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau đi chăng nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”

- Từ chất liệu đất nước ấy, nhà thơ đã gợi đến hình ảnh một đất nước giàu
truyền thống văn hóa và có phong tục tập quán lâu dài.
- Đất nước hiện lên trong suy nghĩ của nhà thờ còn là 1 đất nước giàu truyền
thống yêu nước chống ngoại xâm: “Đất nước bắt đầu khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc”. Đất nước còn hiện lên với truyền thống tình nghĩa thủy chung son
sắc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Trong chiều sâu suy tưởng
của nhà thơ, đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động qua bao nhiêu thế
hệ từ cái kèo, cái cột thành tên cho đến hạt gạo phải 1 nắng 2 sương xay giã dần
sàn. Từ đó, nhà thơ khẳng định về truyền thống cần cù chịu thương chịu khó của
dân tộc Việt.

2. Đất nước là gì?


- Trong mạch trữ tình chính luận để trả lời cho câu hỏi đất nước là gì, tác giả
có lúc thì tách ý niệm đất nước thành 2 yếu tố: đất và nước để cảm nhận, suy tư
trở ra 1 cái nhìn sâu sắc về đất nước, lúc lại hòa nhập 2 yếu tố ấy lại để tạo nên sự
cộng hưởng. Với cách cảm nhận đầy độc đáo này, đất nước hiện lên vừa cụ thể lại

28
vừa khái quát, vừa bình dị lại vừa lớn lao. Đất nước gắn với những gì gần gũi riêng
tư trong cuộc sống mỗi ngày, lại vừa là sự hòa quyện không thể tách rời giữa cá
nhân và cộng đồng dân tộc.

- Trong suy tưởng của tác giả, đất nước được cảm nhận 1 cách độc đáo, sâu
sắc trên các phương diện thời gian, không gian địa lý và văn hóa phong tục. Đó là
1 đất nước tồn tại trong 1 thời gian đằng đẵng, 1 không gian mênh mông với những
lớp trầm tích muôn đời của văn hóa phong tục.

- Chiều dài của thời gian lịch sử được gợi ra từ huyền thoại Lạc Long Quân
và Âu Cơ đẻ ra đồng bà ta trong bọc trứng. Từ truyền thuyết Hùng Vương và ngày
giỗ tổ cùng biết bao nhiêu huyền tích, huyền thoai xa xăm khác. Những câu chuyện
ấy gợi cảm nhận về 1 đất nước tồn tại từ rất lâu đời. Một đất nước có chiều dài lịch
sử từ xa xưa.

- Trên phương diện không gian địa lý, đất nước không chỉ là không gian tự
nhiên của núi sông rừng bể, nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc / nơi
con cá ngư ông móng nước biển khơi mà đất nước còn hiện lên trong không gian
sinh hoạt gần gũi, gắn bó với cuộc sống mỗi người, là nơi anh đến trường, nơi em
tắm , đất nước còn hiện hữu trong không gian lãng mạn, trữ tình, gắn với bao nhiêu
kỉ niệm ngọt ngào của đôi lứa. Đất nước là nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc
khăn đầu tiên trong nỗi nhớ thầm và cao cả, thiêng liêng. Hơn hết, đất nước còn la
không gian sum họp, đoàn tụ của cả cộng đồng qua bão giông, năm tháng.

- Đất nước còn được nhà thơ cảm nhận sâu sắc từ chiều sâu của VH phong
tục, được gợi ra từ những hình ảnh , thể hiện trong VHDG. Hình ảnh con chim
phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi được lấy
từ dân ca miền Trung. Câu thơ: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm” in đậm dấu ấn của bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” nổi tiếng. Đất nước
còn hiện ra trong huyền thoại, truyền thuyết dân gian nghìn đời của dân tộc Việt đó
là huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, là truyền thuyết về các vua Hùng và ngày
dỗ Tổ. Tất cả những dấu ấn về văn hóa, văn học ấy đã góp đã góp phần tạo dựng
có nền văn hóa phong phú, đa dạng, lâu đời.

- Trong quan niệm của nhà thơ, đất nước không chỉ thuộc về hiện đại mà còn
là của bao nhiêu thế hệ đi qua cũng như bao nhiêu thế hệ tương lai sắp đến. Đất
nước tồn tại trong một 1 sợi dây kết nối giữa QK, HT và TL, giữa những ai đã khuất,
những ai bây giờ và con cháu mai sau để rồi từ đó nhắn nhủ mọi người phải có ý
29
thức trách nhiệm đối với đất nước, không chỉ là trách nhiệm với hiện tại mà còn là
trách nhiệm với quá khứ và tương lai, trách nhiệm ấy là gánh vác những gì người
xưa để lại, gìn giữ và lưu truyền cho con cháu mai sau để đất nước mãi mãi vĩnh
hằng trường cửu.

- Trong lời nhắn như ấy có 1 lời dặn dò ấm tình tha thiết:


“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

- 2 câu thơ là sự vận dụng độc đáo, sáng tạo bài ca dao nổi tiếng:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
- Hai chữ “cúi đầu” thể hiện 1 niềm thành kính thiêng liêng nhà thơ muốn nhắn
nhủ mọi người, đừng bao giờ quên nguồn gốc. Lúc nào cũng phải cung kính nhớ
về tổ tiên, nguồn cội. Sau cảm nhận mới mẻ, sâu sắc về đất nước trên những
phương diện như thời gian LS, không gian địa lý và văn học phong tục, nhà thơ đã
đi đến khẳng định:

“ Trong anh và em hôm nay


Đều có một phần Đất Nước”

- Lời xưng hô “anh em” khiến cho lời thơ trở nên trữ tình, đằm thắm như 1
lời nhắn nhủ tha thiết. Tình cảm chung hóa thành tình cảm riêng vô cùng ngọt
ngào, tha thiết. Đất nước gắn liền với mỗi cá nhân, hóa thân trong mỗi con người,
trong anh, trong em, trong tất cả mọi người đều có những giá trị thuộc về đất
nước, đều in đậm trong tâm hồn cái dáng hình xứ sở.

- Bằng chiều sâu suy tưởng của mình, Nguyễn Khoa Điềm nhận ra đất
nước tồn tại trong 1 su thống nhất, hài hòa giữa tình cảm cá nhân, tình yêu đôi
lứa với tình cảm cộng đồng, tình yêu đất nước. Ý thơ có 1 sự dịch chuyển từ 2
đứa cầm tay mọi người. Theo đó, đất nước không những phát triển từ hài hòa,
nồng thắm sang vẹn tròn to lớn. Ở đây tình yêu lứa đôi gắn chặt với tình yêu đất
nước. Tình cảm cá nhân hòa quyện trong tình yêu đất nước. Điều này làm nổi bật
vẻ đẹp của 1 thời mà nói như nhà thơ Nguyễn Mỹ:
“Khi tổ quốc cần không biết sống xa nhau”

- Ý thơ ấy gợi cho ta nhớ đến 2 câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi:
“Anh yêu em như yêu đất nước
30
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”

- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa đất nước và con người,
giữa tình cảm cá nhân và tình cảm cộng đồng, nhà thơ còn thể hiện 1 niềm tin, 1
khát khao hi vọng mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mộng mơ”

- Cụm từ “ những tháng năm mộng mơ” đã phác họa 1 viễn cảnh tươi đẹp,
1 tương lai tươi sáng của đất nước thể hiện niềm tin, kỳ vọng của nhà thơ vào thế
hệ mai sau có đủ bản lĩnh trí tuệ để đưa đất nước bay cao, bay xa đến những
chân trời mơ ước mới.

- Chính những con người nhỏ bé đơn sơ vô danh bình dị ấy là những con
người đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu của mình để tạo nên đất nước. Chính
họ là những con người đã sáng tạo, gìn giữ và lưu truyền những giá trị VH văn
mình, tinh thần và vật chất cho bao nhiêu thế hệ mai sau. Họ truyền cho ta từ hạt
lúa ta trồng, ngọn lửa mỗi nhà, tiếng nói DT cho đến những tiêu xả, tên làng trong
những chuyến di dân. Cũng chính những con người vô danh bình dị ấy là những
người đã bảo vệ, gìn giữ đất nước qua bao nhiêu dời đổi thăng trầm. Họ là những
con người có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng lên đánh bại.

- Mạch suy tưởng của nhà thơ dẫn đến 1 tư tưởng trung tâm của toàn đoạn
trích. Để trả lời cho câu hỏi “Đất nước là của ai?” Sau những suy tưởng, những
lập luận sắc bén, độc đáo và đầy sức thuyết phục. Nhà thơ đi đến khẳng định “Để
đất nước này là đất nước ND / Đất nước của ND, đất nước của ca dao thần
thoại” Nghĩ đến ND, nhà thơ nghĩ đến ca dao thần thoại bởi đó là sản phẩm tinh
thần của ND, do ND sáng tạo ra. Ở đó ta nghe được tiếng lòng, điện hồn của ND
qua bao nhiêu bão giông năm tháng.

- Từ kho tàng ca dao thần thoại ấy của dân tộc Việt nhà thơ đã chọn ra 3 ý
thơ để nói về vẻ đẹp của ND. ND mình là những con người say đắm trong tình
yêu.
“Yêu em từ thưở trong nôi”
- Là những con người biết quý trọng tình nghĩa, biết quý công cầm vàng
những ngày lặn lội. Nhưng cũng đồng thời rát quyết liệt, mạnh mẽ với kẻ thù.
“Biết trồng tre đợi tới ngày thành gậy / Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
31
- Đoạn trích đất nước khép lại bằng khúc hát ngọt ngào, thiết tha, trìu mến
trên sông nước gợi 1 tình yêu 1 niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp mộng
trữ tình của đất nước. Khúc hát ấy là khúc ca lao động của ND, của con người
đơn sơ bình dị, cất lên khi kéo đổ, chèo thuyền vượt thác gợi 1 niềm hăng say
LD. Chính những con người ấy là những con người đang từng ngày từng giờ góp
sức mình để điểm tô cho đất nước “gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”./.

32
Chuyên đề 4: SÓNG (1967)
- Xuân Quỳnh

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa


Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Trước muôn trùng sóng bể


Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Dẫu xuôi về phương bắc


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Ở ngoài kia đại dương


Trăm nghìn con sóng đó
33
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

I. Kiến thức chung:

- Xuân Quỳnh là một nhà thơ lớn, một ngôi sao sáng trong thi đàn. Đây là một
gương mặt thơ nữ xuất sắc hiếm hoi thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ, trưởng thành
trong khách chiến chống Mỹ. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, dẫu chưa đi hết
cuộc hành trình nhưng Xuân Quỳnh đã để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với
những vần thơ vang vọng mãi trong lòng người đọc như:

“Cuối trời mây trắng bay


Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá”

hay

“Em trở về đúng nghĩa trái tim


Biết làm sống những hồng cầu đã chết
Biết lấy lại những gì đã mất
Biết yêu anh và biết được anh yêu”

- Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Với một
giọng thơ đầy nữ tính thả hồn trong thế giới nghệ thuật Xuân Quỳnh, ta sẽ bắt gặp
một tiếng thơ yêu vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm, lại vừa mãnh
liệt, nồng nàn giữa muôn ngàn tiếng thơ yêu. Thơ Xuân Quỳnh vẫn để lại một dấu

34
ấn không thể phai nhạt trong lòng người đọc bởi những vần thơ hình ảnh thiết chân
thành như:

“Chỉ có thuyền mới hiểu


Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu”

hay

“Lời yêu mỏng mảnh như màu khói


Ai biết tình anh có đổi thay”

- Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong một chuyến đi thực tế ở biển
Diêm Điền. Đây là một thi phẩm đặc sắc trong cõi thơ Xuân Quỳnh, cũng là đại diện
xuất sắc nhất cho thơ tình yêu của nữ sĩ. Với bài thơ “Sóng”, thơ Việt Nam có được
một lời thổ lộ, giãi bày trực tiếp của một trái tim người phụ nữ đang yêu.

II. Phân tích bài thơ:

- Viết về tình yêu, nếu Xuân Diệu - ông hoàng trong thơ tình yêu mượn hình
tượng biển để thổ lộ lòng mình rằng:

“Anh không xứng là biển xanh


Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê”

thì trong bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh lại mượn hình tượng sóng để giãi bày
nỗi lòng của người phụ nữ đang yêu. Sóng không đơn thuần là sóng mà sóng còn
là em, là hình ảnh ẩn dụ chỉ cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng và em tuy hai mà
một, có lúc nó phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, có lúc nó lại hòa quyện thiết tha
để tạo nên sự cộng hưởng diễn tả nỗi lòng của nhân vật trữ tình.

35
1. Khổ 1:

- Trong hai câu thơ đầu tiên:

“Dữ dội và dịu êm


Ồn ào và lặng lẽ”

Nhà thơ sử dụng thủ pháp đối lập một cách độc đáo để diễn tả những trạng
thái đối cực nhau của sóng. Những ngày trời yên biển lặng, sóng dạt dào êm ái vỗ
vào bờ. Còn những ngày biển động, sóng ồn ào và dữ dội làm sao. Từ hình tượng
sóng, Xuân Quỳnh muốn nói đến sự phức tạp, rối rắm trong trái tim yêu của một
người phụ nữ, trái tim ấy tồn tại đan xen nhiều cảm xúc khác nhau, thậm chí đối
lập nhau, lúc nhớ nhung, khi giận hờn, lúc thiết tha đằm thắm, khi lại lồng lộn hờn
ghen. Tình yêu là vậy, chẳng khi nào yêu trong tĩnh lặng, lúc nào trái tim cũng đập
trong muôn vàn cảm xúc. Nói như chính Xuân Quỳnh trong một bài thơ khác:

“Vì tình yêu muôn thuở


Có bao giờ đứng yên”

- Hai câu thơ

“Sông không hiểu nổi mình


Sóng tìm ra tận bể”

chứa đựng một khát vọng yêu đang nồng cháy và mạnh mẽ. “Hiểu” là một từ
đắt được sử dụng một cách độc đáo, đem đến giá trị nghệ thuật lớn lao như một
nhu cầu tâm lí tự nhiên. Trong tình yêu, người ta luôn khát khao khám phá, tìm
hiểu. Ở đây con sông băn khoăn tìm cách giải đáp cõi lòng mình nhưng sóng lại
tồn tại trong sông. Mà biên giới của sông thì quá ư chật chội, chính sông cũng
không hiểu nổi mình thì làm sao sóng có thể ở trong sông mà thỏa nỗi khát khao.
Vì thế, nó mạnh mẽ bứt phá chủ động từ bỏ không gian chật hẹp của sông để vươn
về biển lớn, hướng đến một không gian rộng lớn, bao dung cho thỏa nỗi lòng mình.
Khát vọng ấy của sóng cũng là khát vọng yêu đang mạnh mẽ dâng trào trong trái
tim nhân vật trữ tình.

36
2. Khổ 2:
- Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã tạo nên một sự diễn tiến thời gian từ ngày
xưa đến ngày sau. Từ quá khứ đến hiện tại đến tương lai và trải dài ra vĩnh viễn để
từ đó nêu lên quy luật vĩnh hằng bất biến của tự nhiên. Từ ngàn xưa, con sóng đã
vỗ vào bờ, hôm nay vẫn thế và ngàn sau vẫn thế. Từ quy luật của sóng, nhà thơ
khái quát lên thành quy luật trường tồn của tình yêu. Tình yêu là niềm tha thiết, là
khát vọng cháy bỏng muôn đời của con người. Nó mãi mãi bồi hồi trong ngực trẻ
cũng như những con sóng ngoài đại dương kia mãi mãi vĩnh hằng.

3. Khổ 3, khổ 4:
- Cái tôi trữ tình trong bài thơ “Sóng” còn mang một khát vọng cháy bỏng
muốn khám phá bản chất, nguồn cội của tình yêu. Khi yêu nhau, những đôi lứa
trong tình yêu luôn khát khao lí giải, giải mã, trả lời những câu hỏi muôn đời về tình
yêu như “Tình yêu là gì?”, “Tình yêu bắt đầu từ lúc nào?”, hay “Nơi khởi nguồn của
tình yêu?”. Vì vậy mà một nhà thơ từng viết:

“Tình yêu có từ nơi đâu


Êm êm một khúc sông cầu”

Còn Ta-go thì viết:

“Đôi mắt băn khoăn của em buồn


Đôi mắt em muốn nhìn sâu vào tâm tưởng của anh
Như trăng kia muốn vào sâu biển cả”

- Ở đây, sức mạnh của tình yêu và khát vọng đã làm dậy lên những câu hỏi
trăn trở về tình yêu như “từ nơi nào sóng lên”, “gió bắt đầu từ đâu”, “khi nào ta yêu
nhau”. Đó là những câu hỏi muôn đời mà những tâm hồn đang yêu khát khao khám
phá và lí giải.

- Thế nhưng tình yêu lại là một hiện tượng tâm lí khác thường đầy bí ẩn,
không thể nào lí giải được bằng logic thông thường. Nó là một khối bí ẩn khổng lồ
mà con người muôn đời nay khát khao khám phá, lí giải nhưng cuối cùng đều rơi
vào bế tắc. Xuân Diệu - ông hoàng trong thơ tình yêu đã phải thốt lên:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”

37
Còn nhà thơ tình vĩ đại Ta-go thì nói:

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy. Chính vì thế mà em có
biết gì về biên giới của nó đâu”

- Còn nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng” thì nhẹ nhàng thổ lộ nỗi bế tắc
của mình trước những câu hỏi tình yêu:

“Em cũng không biết nữa


Khi nào ta yêu nhau”

4. Khổ 5:
- Khổ thơ thứ năm của bài thơ diễn tả sâu sắc một nỗi nhớ cồn cào, thiết tha,
rạo rực trong sâu thẳm tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Nỗi nước là một biểu hiện
lớn nhất của tình yêu. Một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu. Một tâm hồn
ngừng nhớ là một trái tim ngừng yêu. Vì vậy mà thơ tình yêu thường viết về nỗi
nhớ. Ta đã gặp một nỗi nhớ tha thiết sâu nặng trong ca dao:

“Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi


Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Ta cũng từng gặp một nỗi nhớ tha thiết trong thơ Xuân Diệu:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh


Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”

Và ở đây trong bài thơ “Sóng”, ta lại bắt gặp một nỗi nhớ cồn cào, da diết đến
tan chảy cả cõi lòng người phụ nữ đang yêu.

- Để diễn tả nỗi nhớ thiết tha, sâu nặng cứ dâng lên tầng tầng lớp lớp trong
tim nhân vật trữ tình, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng:

“Con sóng dưới lòng sâu


Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

38
Đó là một nỗi nhớ lan tỏa, tràn ngập trong mọi chiều kích không gian, thời
gian. Dù ở dưới “lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, dù ban ngày hay ban đêm, con
sóng vẫn nhớ thương bờ đến nồng nhiệt, thiết tha cũng như nỗi nhớ em về anh dai
dửng, thường trực mọi lúc, mọi nơi. Nỗi nhớ sâu nặng cồn cào khiến nhân vật trữ
tình trằn trọc băn khoăn không thể nào chợp mắt. Ý thơ ấy khiến ta liên tưởng đến
những câu ca dao nổi tiếng:

“Đèn thương nhớ ai mà đèn chẳng tắt


Mắt thương nhớ ai mắt ngủ không yên”

- Mặc dù nỗi nhớ qua hình tượng sóng đã được diễn tả vô cùng độc đáo, thế
nhưng sóng dẫu sao vẫn là thứ ở bên ngoài con người. Nó không thể nào chuyển
tải hết mọi cung bậc của nỗi nhớ nhung. Chính vì vậy mà khi con sóng bất lực
không thể nào diễn tả hết cảm xúc của nhân vật trữ tình thì cái tôi trữ tình của nhà
thơ đã lên tiếng trực tiếp thổ lộ lòng mình:

“Lòng em nhớ đến anh


Cả trong mơ còn thức”

- Con sóng thức vì nhớ bờ còn em vì nhớ đến anh mà thức trong cả giấc mơ.
Nỗi nhớ trở nên đầy ám ảnh. Nó thường trực khi thức, khi ngủ lẫn khi mơ. Đó không
chỉ là một nỗi nhớ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi vào tiềm thức và chi phối cả
con người.

5. Khổ 6:
- Không chỉ nhớ nhau bằng một nỗi nhớ cồn cào, da diết, nhân vật trữ tình
trong bài thơ còn thường trực một tình cảm thủy chung, son sắt luôn hướng về
nhau, luôn nghĩ đến nhau và tin tưởng một cách mãnh liệt rằng tình yêu sẽ vượt
qua mọi trắc trở, xa cách để về được với bên bờ hạnh phúc. Sự đối lập giữa “xuôi”
và “ngược”, “phương Bắc” và “phương Nam” diễn tả một sự xa xôi, cách trở trong
tình yêu. Đâu phải ai yêu nhau cũng được gần gũi, quấn quít đôi khi mỗi người phải
ở một phương trời cách biệt. Nhưng dù ở bất cứ nơi đâu, dù ở phương trời nào,
lòng em cũng chỉ hướng về một phương duy nhất là phương có anh ở đó. Điệp từ
“dẫu” khẳng định một tấm lòng son sắt, thủy chung, không bao giờ thay đổi.

39
6. Khổ 7, khổ 8:
- Cái tôi trữ tình trong bài thơ “Sóng” ngoài một khát khao yêu mãnh liệt chân
thành đằm thắm còn ẩn tàng trong tâm trạng một nỗi âu lo day dứt trong tình yêu.
Với trái tim đầy tinh tế nhạy cảm của người phụ nữ. Câu thơ “ở ngoài kia đại dương”
tựa như một cánh tay chỉ về phía chân trời xa nơi trăm nghìn con sóng nhỏ, phải
vượt qua muôn trùng trắc trở mới vào được đến bờ mà vỗ nhịp yêu thương. Tình
yêu cũng như sóng, đôi khi phải vượt qua rất nhiều gian khó mới có thể đơm hoa
kết trái. Ý thơ thể hiện nỗi âu lo day dứt về những chông gai, trắc trở của tình yêu.
Tuy nhiên dẫu lo lắng, nhưng nhân vật trữ tình vẫn khẳng định một niềm tin mãnh
liệt rằng tình yêu chắc chắn sẽ vào được bến bờ của nó:

“Như trăm nghìn sóng nhỏ


Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vàn trắc trở”

- Nỗi lo âu, trăn trở của nhân vật trữ tình còn được thể hiện trên chiều thời
gian. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đa cảm, nhật vật trữ tình nhận ra rằng
đời người quá ư ngắn ngủi, chóng vánh so với cái vô thủy, vô chung của thời gian.
Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải già, phải chết và tan biến vào hư vô. Cuộc đời tuy bảo
là dài thế nhưng năm tháng trôi qua nhanh lắm, chẳng mấy chốc mà xong một kiếp
người. Nỗi âu lo trăn trở của nhà thơ xuất phát từ chỗ khát vọng tình yêu thì vô
cùng mà kiếp người thì nhỏ bé. Nỗi âu lo hoảng hốt trước thời gian ấy đã từng
được Xuân Diệu thể hiện rất hay trong bài “Vội vàng”:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua


Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”

Với Xuân Quỳnh, tình yêu tuy đẹp, tuy nồng nàn nhưng chất chứa bao nhiêu
trăn trở, âu lo. Hơn một lần trong thơ Xuân Quỳnh ta bắt gặp nỗi âu lo ấy.

7. Khổ cuối:
- Trong nỗi lo âu trăn trở trước sự chóng vánh, ngắn ngủi của kiếp người,
nhân vật trữ tình đã hóa giải nghịch lý và nỗi âu lo ấy bằng khát vọng được hóa
thân vào sóng, hòa mình giữa biển lớn tình yêu:

“Làm sao được tan ra

40
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

- Hai chữ “làm sao” cho thấy một sự băn khoăn, trăn trở lớn. Nhân vật trữ
tình muốn xé toang mình ra, hóa thân thành sóng, hòa vào biển lớn tình yêu để tồn
tại muôn đời mà hát khúc yêu thương. Đó cũng là cái tôi trữ tình của nhà thơ muốn
bứt mình ra khỏi những nhọc nhằn lo toan để đắm mình trong tình yêu làm cho tình
yêu trường tồn vĩnh cửu, bất chấp giới hạn chóng vánh, ngắn ngủi của kiếp người./.

41
Chuyên đề 5: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (1960)
- Nguyễn Tuân

I. Kiến thức chung:


- Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn, có đóng góp đặc biệt quan trọng cho
việc hình thành nên diện mạo của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói
đến một nhà văn tài hoa, uyên bác, một nghệ sĩ suốt đời mải mê đi tìm cái đẹp mà mỗi trang văn
ông viết ra là một công trình nghệ thuật hoàn mỹ được chắt lọc từ vốn ngôn ngữ ngàn xưa của
dân tộc.

- Tùy bút “Người lái đò sông Đà” in trong tập tùy bút “Sông Đà” là văn phẩm xuất sắc làm
nên tên tuổi Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng 8. Lúc này nhà văn đã từ bỏ một cái tôi bi phẫn
bơ vơ mà tìm về với dòng suối mát của nhân dân. Áng văn ca ngợi con sông Đà và người lái đò
trên sông Đà thể hiện tình yêu quê hương đất nước và niềm tin dạt dào vào cuộc sống mới, con
người mới.

- “Người lái đò sông Đà” là thành quả nghệ thuật mà Nguyễn Tuân thu nhập được trong
một chuyến đi gian khổ mà hào hứng tới vùng Tây Bắc xa xôi của Tổ Quốc. Xấp xỉ ngũ tuần
nhưng con người ấy vẫn chưa nguội tắt lòng đam mê đi đến những chân trời mới lạ, vẫn khao
khát đem gửi cả hạnh phúc của mình vào một cánh buồm căng phồng gió sớm. Thế nhưng lúc
này Nguyễn Tuân đi không phải như một người du tử lang thang tìm đến những cơ hội giang hồ
để quên đi cảm giác thiếu quê hương, lúc này ông đi là để tìm vẻ đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên
đất nước và đặc biệt là trong đời sống tâm hồn người lao động. Với người lái đò sông Đà, Nguyễn
Tuân tự nhận rằng mình đã tìm được “chất vàng” trong cảnh sắc mây trời Tây Bắc, đặc biệt là
“chất vàng 10” trong đời sống tâm hồn những con người lao động nơi đây.

II. Phân tích tác phẩm:

1. Ý nghĩa những lời thơ đề từ:


- Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã chọn hai lời thơ đề từ.
Thứ nhất là hai câu thơ bằng chữ Hán của Nguyễn Quang Bích:

“Chúng thủy giai đông tẩu


Đà giang độc bắc lưu”

Thứ hai là một câu thơ của một nhà thơ Ba Lan:

“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”

Hai lời thơ đề từ ấy tựa như nốt nhạc chủ âm của tác phẩm, tựa như chiếc chìa khóa mở
ra cánh cửa đưa ta vào thế giới nghệ thuật của “Người lái đò sông Đà” với những ý nghĩa khái
quát và cơ bản nhất.

42
- Hai câu thơ “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu” tức là mọi dòng sông đều
chảy về Đông. Riêng con sông Đà thì chảy về phương Bắc đã gợi hình ảnh của một dòng chảy
nghịch ngược mạnh mẽ đầy cá tính, con sông Đà không chỉ đi theo những lối mòn định sẵn như
những dòng sông khác mà mạnh mẽ, bứt phá tìm cho mình một lối đi riêng. Điều này làm hé lộ
một vẻ đẹp mãnh liệt, cá tính dữ dội của dòng sông.

- Câu thơ “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” với cấu trúc cảm thán và hình tượng
tiếng hát trên dòng sông ngọt ngào, êm đềm tha thiết đã gợi cảm nhận về một vẻ đẹp thơ mộng,
lãng mạn, trữ tình để rồi từ câu hát thiết tha trên sông nước ấy, dòng sông Đà được hé lộ với
một vẻ đẹp khác là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Có thể nói qua hai lời thơ đề từ trên, Nguyễn Tuân
như vẽ ra trước mắt người đọc hình tượng một dòng sông với hai vẻ đẹp đối cực nhau: vừa dữ
dội hung bạo lại vừa lãng mạn, trữ tình.

2. Hình tượng con sông Đà:


- Trong tập tùy bút “Sông Đà”, tác phẩm lớn nhất của nhà văn Nguyễn Tuân sau cách
mạng tháng 8, nhà văn đã khắc họa được nhiều bức tranh thiên nhiên sinh động, hấp dẫn và
tuyệt đẹp của núi rừng Tây Bắc. Đó là những núi xa, núi gần miên man như “trùng vi thạch trận”.
Đó là những thung lũng vàng một màu hoa chín với bao nhiêu thứ hoa tỏa hương đua sắc nhưng
đẹp hơn tất cả, độc đáo hơn tất cả vẫn là hình ảnh con sông Đà trong tùy bút “Người lái đò sông
Đà” với hai vẻ đẹp đối cực nhau lúc dữ dội lúc hung bạo như một loài thủy quái lúc lại thơ mộng
trữ tình như một nàng tiên giữa núi rừng Tây Bắc.

a. Con sông Đà hung bạo:


- Con sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân trước hết hiện lên với vẻ đẹp hung bạo,
hùng vĩ, dữ dội như một vị ác thần, cái hùng vĩ hiểm trở của dòng sông được nhà văn khắc họa
theo trình tự không gian qua nhiều góc nhìn khác nhau, với những chi tiết đặc sắc, trước hết là
cảnh đá bờ sông dựng vách thành, lòng sông thì hẹp, vách đá thì cao trông như một bức tường
thành vĩ đại, có chỗ vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu, hẹp đến mức đứng bên này bờ
nhẹ tay ném một hòn đá đã qua bên kia vách; con nai, con hổ có lần từ bờ bên này vọt sang bờ
bên kia. Nhà văn quan sát một cách tỉ mỉ vì dòng sông hẹp, vách đá cao nên mặt sông chỗ ấy
phải đúng ngọ mới có mặt trời. Cái sâu thẳm , huyền bí được miêu tả qua những liên tưởng,
tưởng tượng độc đáo đem đến cảm giác đáng sợ: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy như mình đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên
một khung cửa sổ từ tầng nhà thứ mười mấy vừa tắt phụt đèn điện”.

- Cái dữ dội, hiểm trở của dòng sông còn hiện ra ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với một
thế giới mênh mông hàng cây số: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió
guồng ghè suốt năm như lúc nào cũng chực đòi nợ bắt cóc người lái đò nào qua đây”. Trong
đoạn văn độc đáo này nhà văn sử dụng cấu trúc tăng tiến với nhịp điệu khẩn trương, dồn dập
cùng với thủ pháp so sánh độc đáo khiến người đọc có cảm giác như đang chứng kiến sự chuyển
mình, hợp lực của sóng to, gió lớn, của nước và của đá tạo nên một sức mạnh khủng khiếp uy
hiếp con người.

43
- Sự hùng vĩ, dữ dội của sông Đà còn hiện lên ở những cái hút nước xoáy tít trên sông ở
Tà Mường Vát. Đó là những xoáy nước khổng lồ mà nhà văn so sánh giống như những giếng
bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì thả quá nhanh nên áp lực nước khiến
nước ở đây thở và kêu như cái cống bị sặc. Nhà văn đã sử dụng những liên tưởng tưởng tượng
đặc sắc để nói về sự nguy hiểm của những xoáy nước này. Đây là nơi tử địa dành cho bất cứ
con thuyền nào dám mon men đến gần thuyền sẽ trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
mươi phút sau đã thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Nguyễn Tuân tưởng tượng rằng nếu có nhà
quay phim táo tợn nào đó ngồi trên chiếc thuyền húng rồi xuống đây cái hút sông Đà lấy hình thì
sẽ có những thước phim gây sợ hãi cho người xem.

- Thế nhưng cái dữ tợn hung bạo của dòng sông Đà chỉ thực sự hiện lên một cách sâu
sắc, độc đáo nhất qua hình ảnh của những thác nước sông Đà, thác sông Đà là một thế giới của
những chân trời đá, mỗi hòn một dáng vẻ một kích thước khác nhau nhưng trong mặt hòn nào
cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó hỗn hào. Hình như dòng sông Đà đã giao nhiệm vụ cho
mỗi hòn đá nơi đây là phải hợp lực với nhau bày trùng vi thạch trận để nhấn chìm bất cứ người
lái đò nào qua đây.

- Thác sông Đà còn hiện lên với một thứ âm thanh ghê gớm, dữ dội, nhiều chiều kích tạo
một cảm giác đáng sợ cho người đọc. Âm thanh ấy được nhà văn miêu tả bằng những hình ảnh
nhân hóa, so sánh vô cùng độc đáo: “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã nghe tiếng thác
nước réo gần mãi lại, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, van xin gì, khiêu
khích gì, giọng gằn mà chế nhạo rồi đột ngột nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang bị
vây giữa đám cháy rừng”. Âm thanh ghê gớm dữ dội ấy của thác nước sông Đà khiến ta liên
tưởng đến những câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”

Có thể nói với một công phu quan sát tỉ mỉ, với một lối miêu tả tinh tế độc đáo và lạ lẫm
qua những liên tưởng, tưởng tượng, những hình ảnh so sánh nhân hóa tài hoa nhà văn Nguyễn
Tuân đã tái hiện trước mặt người đọc hình ảnh một dòng sông dữ dội hùng vĩ hung bạo tựa như
một ác thần, một thứ kẻ thù số một của con người.

b. Con sông Đà trữ tình:


- Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ dụng công miêu
tả con sông Đà như một hung thần dữ tợn mà còn nhìn thấy ở dòng sông một vẻ đẹp khác duyên
dáng, trữ tình, đầy lãng mạn. Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà cũng được nhà văn khám phá,
miêu tả qua nhiều góc nhìn khác nhau với những liên tưởng, tưởng tượng đầy độc đáo: “Khi nhìn
từ trên cao xuống, con sông Đà lững lờ, uốn lượn như cái mái tóc bồng bềnh của một người thiếu
nữ”, nhà văn đã viết những dòng văn đầy chất thơ: “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc
trữ tình; đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đất nương xuân”. Sự so sánh độc đáo tài hoa này khiến dòng sông

44
hiện lên đầy trữ tình, lãng mạn, duyên dáng khiến ta liên tưởng đến hình ảnh dòng sông Hương
trong những câu thơ tuyệt bút:

“Con sông đám cưới Huyền Trân


Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn”

Hay khiến ta liên tưởng đến dòng sông Đáy trong những vần thơ độc đáo:

“Dòng sông Đáy quê em


Sông trăng hay sông lụa”

- Bằng công phu quan sát và miêu tả tinh tế nhà văn đã khám phá ra được sự thay đổi
độc đáo của màu nước sông Đà. Nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa một vẻ đẹp riêng,
một sắc màu riêng: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người bầm đi vì rượu nữa”. Với sự miêu tả của nhà văn, người đọc có thể hình dung
một cách đầy thú vị, giữa khung ảnh mùa xuân đầy thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, sông Đà
hiện lên “như một mỹ nhân tràn đầy xuân sắc, như một người thiếu nữ đương độ xuân thì”.

- Trong cảm nhận, suy tưởng của nhà văn, con sông Đà hiện lên gợi cảm trữ tình như một
cố nhân lâu ngày gặp lại, nhìn mặt nước sông Đà, nhà văn nhìn thấy cái màu nắng tháng ba
Đường thi trong thơ Lí Bạch: “Thấy mặt sông loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào
mắt mình rồi bỏ chạy. Bờ bãi sông Đà đầy chuồn chuồn, bươm bướm tạo nên một cảnh sắc hấp
dẫn nên thơ”, nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn thấy dòng sông sau một chuyến đi rừng dài
ngày bằng những hình ảnh so sánh rất đỗi tài hoa: “Chao ôi trông con sông vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.

- Thế nhưng cái độc đáo nhất, huyền dịu nhất làm nên vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của sông
Đà đó là nhà văn bằng sự tài hoa tinh tế trong ngòi bút đã tạo dựng nên một không gian lãng
mạn, trữ tình như đưa người đọc lạc vào miền cổ tích, một thế giới huyền thoại xa xăm: “Thuyền
tôi trôi trên sông Đà, nước sông ở đây lặng như tờ. Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê nước
sông ở đây cũng chỉ lặng tờ đến thế mà thôi”. Những câu văn giàu chất thơ ấy đã vẽ ra một bức
tranh sông nước lặng tờ, êm ả trong trẻo khiến ta liên tưởng đến không gian của buổi chiều sông
nước Châu Mộc trong thơ Quang Dũng:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

- Trong cảm nhận tinh tế của nhà văn, cảnh vật hai bên bờ sông vừa hoang sơ, vừa trù
phú và tràn trề nhựa sống với những hình ảnh vô cùng tinh tế: “Đó là những nương ngô mới nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa, là cỏ tranh đồi núi đang ra những nõn búp, là con hươu thơ ngô
ngẩng cao đầu…” Đặc biệt cảnh bờ sông hiện lên hoang dại tiêu sơ: “Bờ sông hoang dại như
một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Đó là một không gian
45
huyền thoại, một vẻ đẹp hài hòa trong trẻo nguyên sơ khiến người lữ khách như say trong cõi
mộng.

Có thể nói với một vốn kiến thức uyên bác trên nhiều lĩnh vực nhau, với một sự quan sát
tỉ mỉ tinh tế, với một lối miêu tả lịch lãm tài hoa qua những liên tưởng, tưởng tượng, so sánh và
nhân hóa độc đáo, Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công hình tượng con sông Đà với 2 vẻ đẹp
đối cực vừa thơ mộng tinh tế lại vừa dữ dội hung bạo. Đó là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên
nhiên Tây Bắc, là chất vàng quý giá mà nhà văn tìm được cho trang viết của mình.

3. Hình tượng người lái đò sông Đà:


- Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, nếu như tìm đến với hình tượng con sông Đà nhà
văn tìm được chất vàng trong cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc thì tìm về với hình tượng người lái
đò, ông lại tìm được chất vàng “mười” quý giá trong một hình tượng độc đáo. Với Nguyễn Tuân
lúc này, khi đã hòa mình vào với nhân dân thì có người đẹp hơn hết tất cả, quý gia hơn tất cả.
Thế nhưng nếu trước cách mạng tháng tám ông thường tìm đến những nhân vật đặc tuyển của
một thời vang bóng kiểu như ông Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” thì giờ đây, nhà văn lại tập
trung sự chú ý của mình vào những người lao động hiền lành chân chất thơ mộc nhưng lại là
anh hùng, là nghệ sĩ trong công việc của mình, kiểu như người lái đò trong tùy bút “ Người lái đò
sông Đà”.

- Ông lão lái đò là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm mà qua nhân vật này
Nguyễn Tuân gửi gắm thông điệp cũng như say sưa ca ngợi con người mới. Đó là một người lao
động nghèo khổ già yếu, đơn độc với tài sản duy nhất là một chiếc thuyền con ngày ngày qua lại
trên sông Đà giang. Nguyễn Tuân không đặt tên cho nhân vật mà chỉ gọi theo đặc điểm lứa tuổi
hay nghề nghiệp là “người lái đò” hay “ông lão lái đò”, đây là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, ông
muốn nhắn nhủ người đọc rằng nhân vật của ông chỉ là một người lao động bình dị, chân chất
vô danh như bao nhiêu người lao động khác mà ta bắt gặp trên đất nước này. Nhưng chính
những con người vô danh bình dị ấy lại là những người đang từng ngày từng giờ lặng thầm góp
sức mình để dựng xây Tổ quốc, nói như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:

“Họ đã sống và đã chết


Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước.”

- Để diễn tả độc đáo hình ảnh người lái đò sông Đà như một anh hùng, một nghệ sĩ trên
Đà giang sông nước, Nguyễn Tuân đã đặt con người nhỏ bé ấy trong cuộc chiến giữa thiên nhiên
và con người dường như không cân sức: con sông Đà thì lớn lao dữ dội hiểm độc với sức mạnh
được nâng lên hàng thần thánh, nào là “sông nước hò reo muốn lật ngửa thuyền” ,nào là “đá
sông Đà hỗn hào, ngỗ ngược như bầy trùng vi thạch trận”, nào là “những hút nước xoáy tít trên
sông” hay “những thác nước sông Đà như hùm bao lồng lộn”; trong khi đó con người lại nhỏ bé
đơn độc với vũ khí chỉ là bốn chiếc cán chèo trên một chiếc thuyền con. Những tưởng con người

46
sẽ bị thiên nhiên đè bẹp, nuốt chửng nhưng bằng ý chí nghị lực, bằng sự thông minh mưu trí,
con người đã vượt lên trên thiên nhiên, chiến thắng thiên nhiên và Nguyễn Tuân đã say sưa ca
ngợi con người, con người mà nói như Hemingway là “có thể bị tiêu diệt nhưng không bao giờ bị
khuất phục”.

- Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trước hết thể hiện ở sự từng trải, sự hiểu biết sâu sắc
và kinh nghiệm đò giang sông nước. Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng
lạch, những con nước hiểm trở. Sông Đà đối với ông lái ấy tựa như một trường thiên anh hùng
ca mà ông đã thuộc đến những dấu chấm than và những đoạn xuống dòng. Vì vậy mà đến sông
Đà bày trùng vi thạch trận lập lờ cạm bẫy thì ông lão lái đò lại tựa mình một viên tướng cầm quân
đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá; thuộc lòng quy luật của tự nhiên từ đó cưỡi lên
thác ghềnh mà xé toang trùng vi thạch trận. Thế nhưng trong cuộc chiến đấu khốc liệt với dòng
sông thì kinh nghiệm sông nước thôi chưa đủ. Ở người lái đò ấy còn hội tụ tất cả những phẩm
chất quan trọng của một người anh hùng trên sông nước như sự thông minh, mưu trí; những bản
lĩnh mạnh mẽ, tinh thần dũng cảm và ý chí nghị lực phi thường với một quyết tâm không bao giờ
lay chuyển. Chính vì vậy mà những lúc đối mặt với dòng sông dữ tợn, dù bị thương đến mức
“mặt méo bệt đi vì đau đớn, ông lão vẫn cương quyết không chịu lùi bước mà vượt qua tất cả để
lèo lái con thuyền về đến đích”.

- Ông lão lái đò nghèo khổ ấy không chỉ hiện lên như một anh hùng mà còn hiện lên như
một nghệ sĩ giữa sông nước Đà giang. Cuộc chiến đấu với dòng sông là một cuộc chiến đầy cam
go nguy hiểm mà chỉ cần tính sai một chút, quá đà một chút sẽ có thể đánh đổi bằng cả tính mạng
của mình. Vậy mà không một chút căng thẳng, sợ sệt âu lo, ông lão vượt sông với một phong
thái nhẹ nhàng thanh thoát như chẳng có chuyện gì xảy ra, cứ như thế thuần thục điêu luyện và
tinh tế điều khiển con thuyền vượt sông về đến đích.

- Đối với người lái đò sông Đà thì những hiểm nguy trên sông nước là một phần trong
cuộc sống vậy mà sau khi vượt qua nguy hiểm khuất phục dòng sông, ông lão lại hiện lên với
một phong thái ung dung, nhàn tản, một cốt cách nghệ sĩ đậm nét cho nên sau khi vượt sông thì
“sóng nước xèo xèo tan trong trí nhớ, sông nước trở lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong
hang đá nướng ống cơm lam và bàn toàn về cá anh vũ, cá dòng xanh mà chẳng ai nói một lời
nào về chiến thắng vừa qua”. Đó là cái nhàn tàn, ung dung, nhẹ nhàng của một con người vừa
dành được sự sống từ tay con sông Đà hung bạo. Cái phi thường đã trở thành cái bình thường,
phẩm chất anh hùng quyện trong chất tài hoa nghệ sĩ./.

47
Chuyên đề 6: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (1981)

- Hoàng Phủ Ngọc Tường

I. Kiến thức chung:

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn có nhiều đóng góp
cho nền VHVN TKXX. Nói đến Hoàng Phủ Ngọc Tường là nói đến một nhà văn tài
hoa, uyên bác, tinh tế, lịch lãm với những trang văn làm say đắm lòng người. Thả
hồn trong những tác phẩm của ông, người đọc cảm nhận được tấm lòng của một
người trí thức đau đớn với vận mệnh DT, gắn bó sâu sắc với quê hương, đất nước.

- Trong cuộc đời cầm bút của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể nghiệm nhiều
thể loại khác nhau nhưng ông đặc biệt thành công ở thể loại bút kí. Tài năng NT
của nhà văn thăng hoa rực rỡ ở thể loại này. Bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình giữa nghị luận sắc bén và
tư duy đa chiều được tổng hợp từ một vốn kiến thức phong phú với một hành văn
hướng nội, mê đắm và tài hoa.

- Bút ký “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông” được đánh giá là tác phẩm xuất sắc,
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đây cũng là tác
phẩm hay nhất, độc đáo nhất viết về dòng sông linh hồn của TP Huế. Từ tác phẩm
này ta cảm nhận được một tình yêu, một sự gắn bó sâu nặng của nhà văn dành
cho dòng sông Hương, cho Huế mà cũng là dành cho quê hương đất nước.

II. Phân tích tác phẩm:

- Trong bút ký “Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông”, với một khả năng quan sát tinh
tế, với một lối miêu tả lịch lãm, tài hoa, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đi sâu
khám phá hình tượng dòng sông Hương trên nhiều góc độ, chiều kích khác nhau
để có thể nhìn thấy được vẻ đẹp trong sâu thẳm trong tâm hồn của nó. Trong cảm
nhận của nhà văn, sông Hương không chỉ là một dòng sông của tự nhiên mà còn
là một dòng sông của văn hóa, lịch sử của nhà thơ và thi ca. Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã cất công tìm hiểu, khám phá dòng sông trong cả thủy trình của nó trở
thành rồi rời xa TP trong một nỗi vấn vương.
48
1. Sông Hương - dòng sông của thượng nguồn:

a. Sông Hương ở thượng nguồn:


- Khác với những nhà văn, nhà thơ khác khi tìm hiểu về con sông linh hồn của
TP Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ chú ý đến cái dòng chảy lững
lờ, mơ màng quanh đều dài cổ kính mà ông đã cất công lặn lội đi tìm hiểu dòng
sông ở tận thượng nguồn, Nhà văn quan niệm bằng “nếu chỉ mải mê nhìn ngắm
gương mặt kinh thành mà không chịu tìm hiểu dòng sông từ nguồn cội sẽ khó mà
hiểu được vẻ đẹp trong phần sâu thẳm tâm hồn mà ngay cả dòng sông cũng muốn
giấu đi”.

- Để miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương lúc ở thượng nguồn, nhà văn đã sử
dụng liên tưởng, so sánh những hình ảnh nhân hóa đầy tinh tế, độc đáo. Sông
Hương nhìn từ đầu nguồn của dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường
Sơn hùng vĩ. “Nó mang dư vang của dãy núi này trên cũng ánh lên vẻ oai hùng,
hoa dã. Sông Hương lúc ấy tựa như một bản tình ca của rừng già với nhiều tiết tấu.
Khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn
xoắn như cơn lốc ở dưới đáy vực sâu và cũng có lúc nó say đắm giữa những dặm
dài màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Những hình ảnh so sánh, độc đáo ấy đã góp
phần miêu tả vẻ đẹp đầy phong phú, đa dạng của dòng sông.

- Đặc biệt vẻ đẹp dòng sông Hương lúc ở thượng nguồn được nhà văn so sánh
tựa một cô gái bi gan phóng khoáng, man dại với bản lĩnh gan dạ và tâm hồn yêu
tự do đã băng rừng vượt núi đi tìm người yêu. Người Di ban là một tộc người thiểu
số sống lang thang du mục khắp nơi. Họ nổi tiếng với lối sống tự do, phóng khoáng,
mạnh mẽ và đầy cá tính. Ở đây, khi so sánh dòng sông Hương với cô gái Di Gan,
nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp mãnh liệt của dòng sông trước khi nó chảy về TP
Huế.

b. Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố:

- Trong cảm nhận của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên
như một người con gái đẹp và toàn bộ thủy trình của nó từ thượng nguồn chảy về
TP Huế được hình dung như một cuộc tìm kiếm có ý thức, người tình nhân đích
49
thực của một cô gái trong truyện cổ tích. Sông Hương ở thượng nguồn tựa như
một cô gái bi gan mạnh mẽ băng rừng vượt núi đi tìm người yêu. Và khi đã gặp
người yêu là TP Huế rồi thì lại trở nên e thẹn, duyên bằng hữu trữ tình như một
người thiếu nữ cố đô.

- Đoạn văn miêu tả sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi TP là
một đoạn văn tinh tế đầy chất thơ cho thấy được nét lịch lãm, tài hoa trong ngòi bút
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương ở quãng này hiện lên trong nhiều vẻ khác
nhau, đa dạng và phong phú. Giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại, sông Hương
là người con gái đẹp ngủ mơ màng hưng khi ra khỏi vùng núi thì như nàng tiên
được đánh thức, bừng lên sức trẻ và niềm khao khát thanh xuân ôm lấy chân đồi
Thiên .. đi giữa âm vang.

- Nhà văn tiếp tục miêu tả Sông Hương trong một vẻ đẹp vừa dịu dàng, vừa trí
tuệ qua những liên tưởng, tưởng tượng, qua những hình ảnh so sánh, nhân hóa
đầy độc đáo. Sông Hương lúc ấy ở từng quãng mang từng vẻ đẹp khác nhau nhưng
vẻ nào cũng tinh tế và sâu sắc. Có lúc nó mềm như tấm lụa, như qua vọng cảnh
Tam Thai Lựu Bảo, có khi nó ánh lên phản quang nhiều màu sắc, sớm xanh, trưa
vàng, chiều tím. Có lúc nó mang vẻ trầm mặc khi qua lăng tẩm, đều dài và mang
niềm kiêu hãnh âm u khi được phong kín trong những rừng phong u tịch xứ Huế..
Rồi nó trở nên bừng sáng, tươi tắn, trẻ trung khi nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ
bát ngát tiếng gà.

c. Sông Hương khi chảy vào TP Huế:

- Hình tượng Sông Hương khi chảy vào TP Huế trở thành người tình mong đợi
của cố đô được nhà văn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả một cách vô cùng
độc đáo, như một cô gái sắp được gặp người yêu của mình sau một hành trình tìm
kiếm gian khổ. Sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những Biền bãi xanh biếc của
vùng ngoại ô Kim Long. Đặc biệt là khi nhìn thấy bóng chiếc cầu trắng in trên nền
trời nhỏ nhắn như một vành trăng non đó chính là cầu Tràng Tiền nối đôi bờ sông
thơ mộng, một biểu tượng của TP Huế.

- Đặc biệt hình ảnh dòng sông ở quãng này được nhà văn miêu tả một cách tinh
tế qua một hình ảnh so sánh độc đáo “Giáp thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương
uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm dòng sông như
mềm hẳn đi như một tiếng “Vâng” không nói ra của tình yêu”. Với hình ảnh này nhà
50
văn như thổi linh hồn vào cảnh vật kiến dòng sông hiện lên với một vẻ đẹp ngại
ngùng, e thẹn đầy nữ tính đôi khi trong tình yêu tiếng “vâng” không thể nói ra vì
ngại ngùng, e thẹn, chỉ cần một nụ cười, ánh mắt đủ để hiểu một tiếng vâng rồi.
Chính hình ảnh so sánh này đã khiến dòng sông hiện lên dịu dàng, e lệ.

- Sông Hương khi chảy vào TP Huế trở thành một dòng chảy lững lờ, mơ màng
quanh khi thành cổ kính. Nó trở thành vẻ đẹp thuộc về phần hồn của cố đô, một vẻ
đẹp đầy đa tình và lãng mạn. Nhà văn đã ví con sông Hương với TP Huế với những
dòng sông danh tiếng trên thế giới như dòng sông Pen với Tp Paris, sông Danuyp
với TP Bu-đa-bét. Đó là một sự so sánh độc đáo, đề cao, ca ngợi dòng sông, đặc
biệt nhà văn còn nhìn ra vẻ đẹp riêng không trộn lẫn của sông Hương với những
dòng sông khác. Đó là nó vẫn giữ nguyên được những vẻ đẹp cổ kính, đơn sơ từ
muôn đời xưa.

- Trong ánh biểu đạt tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, con sông Hương được
cảm nhận qua nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng cặp mắt của hội họa, sông
Hương hiện lên như những đường nét tinh tế nhất làm nên vẻ đẹp của bức tranh
TP Huế, qua góc nhìn âm nhạc, sông Hương hiện lên như một điệu slow chậm rãi,
sâu lắng, trữ tình, như một tiếng đàn Kiều

“Trong như tiếng hạc bay qua


Đục như nước suối mới sa nửa vời”

- Và với cái nhìn say đắm của tình yêu, Sông Hương tựa như một người tình dịu
dàng, chung thủy của cố đô. Với tất cả những góc nhìn ấy, con sông hiện lên với
tất cả những vẻ đẹp lãng mạn, đa tình nhất, khiến ta nhớ đến những vần thơ độc
đáo viết về sông Hương:

“Sông Hương hóa rượu ta đến uống


Ta tỉnh đều dài ngủ ngả nghiêng say”

“Con sông dùng dằng


Con sông không chảy
Sông chảy vào lòng
Nên Huế rất sâu”

hay

51
“Sông là một dải lụa bạch
Hay là một đường trắng trải chiếu vàng”

d. Sông Hương khi rời khỏi TP Huế:

- Sông Hương khi rời khỏi TP Huế cũng được nhà văn miêu tả một cách tinh tế,
độc đáo và tài hoa. Nó được ví như là một người con gái lưu luyến, bịn rịn, bùi ngùi
chia tay người yêu của mình. Sông Hương chếch về hướng chính Bắc ôm lấy đảo
Cồn Hến quanh năm mơ màng sương khói rồi xa dần TP để lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và vườn cau vùng ngoại ô vĩ dạ rồi như sực nhớ lại một
điều gì chưa kịp nói, thị trấn Bao Vinh cổ xưa rồi mới chịu ra đi và một chút lẳng lơ
kín đáo. Những hình ảnh so sánh, nhân hóa độc đáo này đã góp phần diễn tả vẻ
đẹp lãng mạn, trữ tình, thi vị của dòng sông.

2. Sông Hương - dòng sông của văn học và lịch sử:

- Sông Hương trong cách nhìn, cách khám phá vô cùng lịch lãm, tinh tế của
Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ hiện lên như một dòng chảy của thiên nhiên mà
nó còn được khám phá dưới góc nhìn văn học, lịch sử. Dường như toàn bộ những
vẻ đẹp tinh túy nhất của nền văn hóa Huế, những lớp trầm tích của văn hóa cố đô
đều gắn liền với dòng nước Sông Hương. Nhà văn gắn dòng sông với nền âm nhạc
cổ điển Huế, khiến nó hiện lên như một người tài nữ đánh đàn giữa đêm khuya.
Trong quan niệm của nhà văn, toàn bộ nền âm nhạc Huế được hình thành trên mặt
nước sông này. Ông liên tưởng tới việc có một người nghệ nhân già nửa thế kỷ
chơi đàn nửa đêm nghe cô gái đọc “Kiều” đã ngay lập tức nhận ra đó là “Tứ đại
cảnh”, nhà văn lại nhớ đến Nguyễn Du. Nguyễn Du bao nhiêu năm lênh đênh trên
quãng sông này với một phiếu trăng sầu để những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều,
có thể nói trong cách nhìn, cách cảm nhận của nhà văn, Sông Hương là một dòng
chảy văn hóa, là một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.

- Bằng một vốn kiến thức uyên bác, một sự hiểu biết sâu rộng về LSDT, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã khám phá dòng sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử và
lúc ấy nó được xem là một chứng nhận của lịch sử, một thiên anh hùng của của
dân tộc qua bao nhiêu dời đổi, thăng trầm. Nhà văn nhận ra rằng, Sông Hương
từng là con sông Biên Thùy xa xôi của đất nước, các vua Hùng, cuộc sống Linh
Giang trong “sách dư địa chí”. “Nó là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt
52
để bảo vệ biên giới phía Nam của nước Việt qua những thế kỉ trung đại, nó vẻ vang,
soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch
sử bi tráng của THẾ KỈ XIX và đặc biệt nó in dấu những cuộc chiến công rung
chuyển của thời đại CMT8 với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Từ cái nhìn
tài hoa, tinh tế của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một khúc hùng ca, một thiên
sử thi viết giữa màn cỏ lá xanh biếc.

3. Sông Hương bằng dòng sông của nghệ thuật và thi ca:

- Sông Hương không chỉ được nhà văn khám phá từ góc nhìn địa lý hay văn học,
lịch sử mà nó còn được khám phá từ góc nhìn nghệ thuật và thi ca, Cũng bằng một
vốn kiến thức uyên bác, một tầm hiểu biết sâu rộng về văn chương VT. Nhà văn
đã nhận ra rằng với vẻ đẹp đa tình, lãng mạn của mình, Sông Hương đã từng làm
say lòng biết bao nhiêu văn nhân, nghệ sĩ để rồi biến nó trở thành một dòng chảy
riêng về nghệ thuật, thi ca. Rất nhiều nghệ sĩ say đắm với vẻ đẹp của dòng sông
và mỗi người khám phá dòng sông ở một vẻ đẹp khác nhau.

- Với Tản Đà thì đó là dòng sông trắng, lá cây xanh, với Cao Bá Quát con sông
mang một vẻ đẹp hào hùng tựa như thanh kiếm dựng giữa trời xanh. Trong thờ Bà
Huyện Thanh Quan, Sông Hương mang một nỗi u hoài vạn cổ “xanh om cổ thụ tròn
xoe tán / Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ”. Đến Tố Hữu thì dòng sông mang
vẻ đẹp của sự phục sinh nhưng đặc biệt hơn cả trong cái nhìn tinh tế của nhà văn,
Sông Hương chính là Kiều, nó đẹp long lanh như một tiếng đàn Kiều:

“Trong như một tiếng hạc bay qua


Đục như nước suối mới sa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”./.

53
Chuyên đề 7: VỢ CHỒNG A PHỦ (1952)
- Tô Hoài

I. Kiến thức chung:


- Tô Hoài là một nhà văn lớn , một cây đại thụ có nhiều đóng góp cho nền văn
xuôi Việt Nam thế kỉ XX. Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Tô Hoài đã để lại
một sự nghiệp sáng tác đồ sộ với khoảng 200 đầu sách ở nhiều thể loại nhưng điều
quan trọng là nhà văn đã có những tác phẩm có giá trị nghệ thuật độc đáo tạo được
sức sống lâu bền theo thời gian như “Dế Mèn phiêu lưu ký”, “Truyện Tây Bắc”, “Cát
bụi chân ai”,...

- Tô Hoài là một nhà văn mà trong suốt đời văn của mình ông đã tạo dựng
được một phong cách nghệ thuật rất riêng và đầy độc đáo. Tô Hoài được xem là
nhà văn của phong tục tập quán, ông có một vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc
cũng như một kiệt tài trong miêu tả về phong tập quán của nhiều vùng khác nhau
trên đất nước. Tô Hoài cũng được xem là nhà văn của sự thật, đời thường, ông
quan niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật, đã là sự thật thì
không tầm thường cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc” .
Tô Hoài còn là một nhà văn có biệt tài trong phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật với
một lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, với một cách miêu tả lôi cuốn, hấp dẫn.

- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm xuất sắc nhất trong tập truyện
“Tây Bắc” gồm 3 truyện “Cứu đất cứu mường”, “Mường Giơn” và “Vợ chồng A
Phủ”. Đây là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn giai
đoạn sáng tác sau Cách mạng Tháng 8. Với truyện ngắn này, Tô Hoài đã mở rộng
địa dư văn chương sang một vùng đất mới là vùng núi cao Tây Bắc với một vẻ đẹp
phóng khoáng, man dại và vô cùng độc đáo.

II. Phân tích tác phẩm:

1. Hình tượng nhân vật Mị:

a. Số phận nhân vật Mị:

- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trước hết là tiếng khóc thương cho một số
phận đầy cay đắng, tủi nhục của con người. Tiếng khóc ấy thể hiện chủ yếu qua số
phận nhân vật Mị trong cảnh đời làm con dâu nhà nợ. Ngay từ những dòng văn
54
đầu tiên của truyện, người đọc đã cảm nhận được ở nhân vật một số kiếp buồn tủi,
đau thương. Tô Hoài đã mở đầu thiên truyện của mình bằng những câu văn đẹp
như ru, mà cũng buồn rười rượi: “Ai ở xa về có việc nhà thông lí Pá Tra đều trông
thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, canh tàu ngựa. Điều đặc
biệt là lúc nào cô ấy cũng cúi mặt và mặt buồn rười rượi”. Cách mở đầu này tạo
một sức cuốn hút mãnh liệt cho người đọc, đồng thời hé mở một số phận đầy cay
đắng chua chát. Nhà văn đã tạo nên sự đối lập giữa khung cảnh đông đúc, tấp nập,
giàu có nhà thông lí và hình ảnh một cô gái lẻ loi âm thầm như lẫn vào những vật
vô tri. Từ đó hé lộ cho người đọc về một chân dung phụ nữ thật buồn.

- Từ những dòng văn đầu tiên ấy, mạch truyện chợt hướng về quá khứ lúc
Mị còn là một cô gái trẻ đẹp giàu khát vọng thanh xuân, Mị có tài thổi sáo, có tài
uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng âm nhạc ấy cho thấy
sức sống tràn đầy trong tâm hồn mị, trái tim Mị đã bao lần hồi hộp trước những âm
thanh hò hẹn, bao đêm tình mùa xuân lòng Mị rập rờn tiếng sáo những đêm tình
mùa xuân lãng mạn tươi trẻ khi mà trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng
Mị. Một cô gái giàu sức trẻ và khát vọng như thế những tưởng sẽ được sống hạnh
phúc vậy mà chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị đã bị biến thành con dâu gạt
nợ cho nhà giàu.Con dâu gạt nợ, tuy bảo là con dâu nhưng thực chất là con nợ, là
tôi tớ, là nô lệ, chẳng thà một con nợ bình thường thì người ta vẫn có quyền hi vọng
một ngày nào đó sẽ trả xong nợ, sẽ được tự do. Còn con dâu gạt nợ đồng nghĩa
với con nợ chung thân, con nợ suốt đời.

- Khi mới bị bắt về làm con dâu gạt nợ có đến mấy tháng liền đêm nào Mị
cũng khóc, khóc là một sự ý thức về thân phận, về nỗi đau của mình, nhưng đồng
thời cũng là một sự phản kháng không muốn chấp nhận một cuộc sống không đáng
sống, sự phản kháng ấy trở nên mạnh mẽ hơn khi Mị có ý định ăn lá ngón tự tử,
muốn chết nghĩa là không muốn chấp nhận một cuộc sống không đáng sống. Chính
là lòng ham sống, khát vọng tự do đã khiến Mị tìm đến cái chết như một cách để
giải thoát. Người con gái hiếu thảo ấy đã về lạy cha để van cha cho mình đi chết
nhưng rồi “Mị không thể chết vì bố Mị còn đó, món nợ còn đó”, Mị mà chết bố Mị sẽ
khổ gấp trăm, gấp vạn lần.

- Buông nắm lá ngón trên tay, trở lại nhà thống lý Pá Tra nghĩa là Mị không
chống đối, không phản kháng nữa, cô buông xuôi, cam chịu, chấp nhận tất cả. Nhà
văn Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc nỗi khổ đến cùng cực về thân xác của nhân vật
Mị trong cảnh đời làm con dâu gạt nợ bằng những câu văn đầy ám ảnh: "Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa";
55
“Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai
cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày”. Khi người ta khổ
đến mức xem nỗi khổ như một thói quen thì số phận ấy đã trở nên bi đát cùng cực.
Mị bị biến thành một cái máy, một thứ công cụ làm việc. Bây giờ lúc nào Mị cũng
lầm lũi, câm nín; lúc nào Mị cũng cúi mặt và mặt buồn rười rượi.

- Bị biến thành nô lệ, thành một thứ công cụ lao động quần quật từ sáng đến
tối đã là một nỗi cực nhục ghê gớm, thế nhưng nỗi khổ ấy chẳng thấm vào đâu so
với sự đày đọa ghê gớm về mặt tinh thần: “Cô gái trẻ đẹp giàu khát vọng ngày xưa
đã chết, thay vào đó là hình ảnh một người đàn bà lặng lẽ, câm nín, tâm hồn Mị giờ
đây đã chai sạn trơ lì về cảm xúc, Mị sống nhút nhát, rụt rè và an phận trông lùi lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa”. Đây là một sự so sánh độc đáo cho thấy một kiếp
sống nhỏ bé, đầy tội nghiệp của Mị trong cảnh đời làm con dâu gạt nợ nhà thông lí
Pá Tra.

- Tâm hồn Mị, khát vọng thanh xuân của Mị bị cầm cố, chà đạp trong bóng
đêm nhà thông lí, nhà văn đã sáng tác một chi tiết vô cùng độc đáo để nói lên sự
đày đọa ghê gớm về tinh thần của Mị. Đó là hình ảnh căn phòng Mị nằm: “tối tăm,
kín mít, có một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay trông ra chỉ thấy mờ mờ mờ
trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, hình ảnh căn buồng Mị nằm gợi liên
tưởng đến một nhà ngục không phải nhà ngục bình thường mà là ngục thất tinh
thần chôn vùi biết bao nhiêu khát vọng của Mị, cầm cố tuổi thanh xuân của Mị. Mị
cứ thế sống như một chiếc bóng vật vờ, sống mà như đã chết, giờ đây Mị không
còn nghĩ đến cái chết nữa, lòng tha thiết sống cũng không còn, cô không còn ý thức
về thời gian, tất cả đối với Mị chỉ là cái mờ mờ, trăng trắng của những buổi hoàng
hôn lặng lẽ và tê tái.

b. Khát vọng sống tiềm tàng và mãnh liệt của nhân vật Mị:

- “Những tưởng Mị sẽ câm nín, lặng lẽ như thế đến mãn kiếp tàn đời, những
tưởng khát vọng sống, khát vọng tự do trong cô đã hoàn toàn nguội lạnh thế nhưng
không, khát vọng ấy vẫn âm ỉ cháy dưới đáy sâu tâm hồn. Mị chờ một ngọn gió mát
lành thổi bay lớp tro tàn sẽ bùng lên mãnh liệt”. Ngòi bút của nhà văn Tô Hoài không
chỉ phơi bày cái đen tối, ảm đạm mà còn thiết tha hướng về ánh sáng và sự sống,
truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” không chỉ là tiếng nói của nỗi đau thân phận mà còn
là tiếng nói của khát vọng sống, tình yêu cuộc sống trong sâu thẳm tâm hồn người.

56
- Người đọc có lẽ sẽ tự hỏi vì duyên cớ gì mà cô Mị của ngày xưa tràn đầy
xuân tình xuân sắc đã sống dậy mãnh liệt bên trong người đàn bà âm thầm, mòn
mỏi. Trước hết có lẽ là do sự tác động của khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài,
nhà văn đã tập trung bút lực để viết nên những câu văn đầy chất thơ, miêu tả cảnh
mùa xuân lãng mạn, tình tứ: “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào, có
tranh vàng ửng, gió và rét dữ dội nhưng trong làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa
vẫn được đưa ra phơi trên những mỏm đá và người Mộng, dù nghèo khổ đến đâu
vẫn ăn Tết bằng niềm vui sống man dại của mình”. Khung cảnh mùa xuân trữ tình,
thơ mộng ấy đã len lỏi vào tâm hồn Mị góp phần đánh thức cảm xúc rung động
khiến người đàn bà câm nín, lặng lẽ kia dậy lên trong lòng bao nhiêu khao khát.

- Bên cạnh khung cảnh mùa xuân làm say đắm lòng người thì men rượu cũng
là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến tâm hồn Mị, đánh thức những khát khao
trong sâu thẳm tâm hồn Mị “Năm ấy Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát rồi
say đến lịm người. Men rượu vừa gây ra sự lãng quên lại vừa gọi về nỗi nhớ. Mị
lãng quên thực tại nhục nhã ê chề, cay đắng nhìn mọi người nhảy đồng, hát múa,
Mị không hề nghe, không hề thấy. Cuộc rượu tan từ lúc nào Mị cũng chẳng biết
nhưng Mị lại nhớ về ngày trước, nhớ về quá khứ, lúc Mị còn là một cô gái thanh
xuân tâm hồn dạt dào bao nhiêu khát vọng cứ như thể theo chiều kí ức bao nhiêu
khát vọng, tình yêu cuộc sống cứ thế trỗi dậy mãnh liệt trong sâu thẳm tâm hồn Mị.

- Nhưng đặc biệt nhất có lẽ là âm thanh tiếng sáo, tiếng sáo của đêm tình
mùa xuân bồng bềnh, dìu dặt như đưa tâm hồn Mị trở về thời xuân sắc ngày xưa.
Tiếng sáo trở đi trở lại trong truyện được nan miêu tả qua nhiều cấp độ. Thoạt tiên,
đó là âm thanh vọng xa ngoài đầu núi, Mị còn đủ tỉnh táo để nhẩm theo người đang
thổi, ít sau tiếng sáo ấy gần hơn trở thành tiếng gọi bạn đầu làng và thiết tha hơn
nữa nó trở thành tiếng gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường. Tiếng sáo là âm thanh
của những mùa xuân trước, âm thanh của khát vọng và tự do đã len lỏi vào tâm
hồn Mị để thổi bùng lên ngọn lửa của khát vọng sống, của tình yêu cuộc sống trong
tâm hồn một cô gái vốn có tài thổi sáo.

- Trong thời khắc thức tỉnh của tâm hồn, ta thấy Mị đầy mâu thuẫn, lòng phơi
phới trở lại mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng ngồi giường trông ra cái lỗ
vương mờ mờ trăng trắng và phản ứng đầu tiên của Mị là một suy nghĩ lạ lùng:
“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn
nhớ lại nữa”. Trước kia khi tâm hồn đã nguội lạnh đối với Mi, sống hay chết chẳng
có ý nghĩa gì nhưng giờ đây khi khát vọng sống đã hồi sinh, tình yêu cuộc sống đã
trỗi dậy, ngay lập tức nó trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với tình trạng
57
đen tối của thực tại, Mị muốn chết nghĩa là không thể chấp nhận một cuộc sống
như thế, chính khát vọng sống đã xui khiến Mị tìm đến cái chết như một sự giải
thoát.

- Từ những khát khao sôi sục trong tâm tư, Mị đã chuyển nó thành hành động:
“Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng, bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đó là
hành động của sự thức tỉnh, Mị thắp sáng ngọn đèn trong căn phòng âm u, mù mịt
cũng tức là thắp lửa trong tâm hồn, thắp lên ánh sáng trong một cuộc đời tăm tối
triền miên. Trước kia khi tâm hồn đã chai sạn, nguội lạnh, khi đã buông xuôi, cam
chịu tất cả, đối với Mị sáng hay tối chẳng có ý nghĩa gì nhưng giờ đây khi tình yêu
cuộc sống đã trỗi dậy trong lòng, Mị không thể sống tăm tối như trước kia được
nữa. Mị thắp lên ngọn đèn tức là thắp lên khát vọng hướng về tự do và ánh sáng.

- Hành động nối tiếp hành động, càng lúc Mị càng mạnh mẽ, quyết liệt hơn,
cô dường như chẳng đếm xỉa gì đến những ràng buộc vô hình nhà thông lí Pá Tra.
Mị đi theo tiếng gọi của con tim và khát vọng, Mị hành động như một con người tự
do: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo, Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Giờ đây cô gái tràn
đầy xuân tình, xuân sắc ngày xưa đã thực sự sống dậy một cách mãnh liệt trong
cõi sâu tâm hồn Mị.

- Thế nhưng khi lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt thì ngay lập tức nó bị vùi
dập phũ phàng. A Sử vào lạnh lùng, lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà và suốt cái đêm
bị trói ấy, Mị sống trong sự giằng xé giữa khát vọng sống, khát vọng tự do và thực
tại nghiệt ngã, ê chề. Ban đầu khi men rượu vẫn còn ngà ngà say, Mị dường như
quên đi những vòng dây trói oan nghiệt mà để tâm hồn mình đi theo tiếng sáo, tiếng
sáo dìu hồn Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi nghĩa là sợi sợi dây trói có
thể trói được thân xác Mị nhưng không thể trói được tâm hồn Mị. Mị vẫn để tâm
hồn mình dập dìu theo tiếng sáo, âm thanh của khát vọng, của tự do thế nhưng khi
Mị vùng bước đi theo tiếng sáo, sợi dây trói thít chặt, nỗi đau đớn toàn thân đã kéo
Mị về lai thực tại. Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe thấy tiếng
chân ngựa đạp vào vách. Đó là âm thanh của thực tại tàn nhẫn phũ phàng đã chà
đạp, bóp chết những khát khao trong tâm hồn Mị để cô trở về lầm lũi, câm nín như
xưa thậm chí hơn xưa.

- Sau đêm bị A Sử trói đứng vào cột nhà, bao nhiêu khát vọng thanh xuân,
bao nhiêu tình yêu cuộc sống vừa mới trỗi dậy ngay lập tức đã bị dập tắt hoàn toàn,
tâm hồn Mị chai sạn, nguội lạnh và vô cảm đến mức mà trong đêm mùa đông giá
58
rét ở Hồng Ngài nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột nhà trong một cảnh ngộ
thương tâm, Mị hoàn toàn không có một chút rung động, không có một chút cảm
xúc nào, cô vẫn thản nhiên ngồi thổi lửa hơ tay như chẳng có chuyện gì xảy ra. A
Phủ đứng đó chứ cái xác chết đứng đó cũng thế thôi bởi tâm hồn Mị đã hoàn toàn
câm nín và lãnh cảm.
- Tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi nguội lạnh câm nín như thế đến mãn kiếp tàn
đời nếu như không có tình huống xảy ra đó là khi Mị lé mắt trông sang nhìn thấy
những dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ -
những giọt nước mắt khốn khổ của người đàn ông vốn mạnh mẽ và cường tráng
đã có sức lay động lớn lao trong tâm hồn Mị khiến cô thức tỉnh. Mị nhớ về quá khứ,
nhớ đến cái đêm bị trói đứng vào cột nhà, nhớ đến một người đàn bà trong nhà
này cũng bị trói đứng cho đến chết, thương mình dẫn đến thương người cùng cảnh
ngộ. Mị đã cắt đứt dây trói cứu A Phủ.

- Nếu như hành động cắt đứt dây trói cứu A Phủ là hành động xuất phát từ
tình thương, tình người thì hành động vùng chạy theo A Phủ là một hành động
mạnh mẽ, quyết liệt của một con người tự do. Đó là hành động tự giải thoát, rũ bỏ
cuộc đời nô lệ. Hành động ấy bắt nguồn từ một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy
trong tâm hồn nhân vật Mị. Nó cho thấy khi sức sống, tình yêu cuộc sống được hồi
sinh thì tất yếu nó sẽ chuyển thành hành động phản kháng để con người tự đi tìm
tự do cho mình.

2. Nhân vật A Phủ:


- Bên cạnh nhân vật Mị, nhân vật A Phủ cũng là một hình tượng nhân vật
quan trọng góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện. Nhân vật này hiện lên
trước hết với một số phận đặc biệt đầy cay đắng và khốn khổ. Ngay từ thuở nhỏ,
A Phủ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Lớn lên không người thân thích bởi vì cả làng A
Phủ không mấy ai vượt qua được trận dịch khủng khiếp năm ấy. A Phủ sống sót
được vượt qua được sự sàng lọc khắc nghiệt của tự nhiên để tồn tại và mạnh mẽ
vươn lên.

- A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng “chạy nhanh như ngựa
biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc lại cày giỏi và đi săn bò tót rất tháo”. Con gái trong làng
nhiều người mê nói “Đứa nào lấy được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong
nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Ấy vậy mà A Phủ ai triền miên trong nghèo khó,
làm việc quần quật cả đời vẫn không có nổi một chiếc vòng bạc để đi chơi Tết, vẫn
không có đủ tiền để lấy vợ theo tập tục cưới xin đầy khắc nghiệt của người Mông.

59
- Số phận của A Phủ trở nên đau khổ đến cùng cực khi anh dám đánh lại con
trai quan làng để bị biến thành nô lệ trừ nợ cho nhà thông lí Pá Tra. Phải làm việc
quần quật cả ngày như trâu, như ngựa để trừ nợ, chỉ vì một lần để hổ ăn mất nửa
con bò mà A Phủ bị đánh đập, hành hạ rồi bị trói đứng vào cột nhà. Đỉnh điểm của
nỗi đau thể hiện trong những dòng nước mắt lấp lánh bo xuống hai hõm má đã xém
đen lại của A Phủ, những giọt nước mắt đàn ông, một người đàn ông vốn mạnh
mẽ và chưa bao giờ biết khóc vậy mà hôm nay phải khóc, chứng tỏ người ấy đau
khổ đến độ nào.

- A Phủ còn hiện lên trong truyện ngắn này với một cá tính mạnh mẽ, một tâm
hồn phóng khoáng yêu tự do tha thiết, chính vì thế mà ngay từ lúc nhỏ khi bị bắt
đem đổi lấy thóc cho người Thái ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã tỏ ra gan bướng,
không thích ở dưới thấp để rồi trốn lên núi cao lưu lạc tới Hồng Ngài. Cuộc sống
phóng khoáng, man dại của núi rừng đã rèn luyện để A Phủ trở thành một chàng
trai người Mông mạnh mẽ, cường tráng và cá tính.

- Sự mạnh mẽ, phóng khoáng và tâm hồn yêu tự do của A Phủ được thể hiện
rõ nhất trong chi tiết đánh con trai quan làng. Ở vùng núi cao, con trai thống lí là
con trời, không ai dám đụng đến. Chúng tha hồ kiêu ngạo, làm mưa làm gió thế
nhưng A Phủ đã không sợ. Với cá tính mạnh mẽ của mình, anh đã không thể nào
chịu nổi trước hành động ngỗ nghịch của A Sử cho nên đã ra tay đánh con trai
quan làng dù phải chịu một hậu quả vô cùng khủng khiếp.

- Ngay cả khi phải sống trong thân phận của kẻ làm công trừ nợ ngay cả khi
đã trở thành nô lệ, A Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, quanh năm rong ruổi
ngoài rừng làm phăng phăng mọi việc chẳng khác gì trước kia, A Phủ điềm nhiên
vác nửa con bò hổ ăn dở để trở về, nói chuyện đi lấy con hổ cũng rất tự nhiên,
thậm chí còn dám cãi lại lời thông lí. Dường như con người này không hề biết sợ,
không hề biết cúi đầu trước quyền uy. Đây là một phẩm chất cao quý để sau này A
Phủ đến với cách mạng và trở thành một chiến sĩ cách mạng kiên cường./.

60
Chuyên đề 8: VỢ NHẶT (1955)
- Kim Lân

I. Kiến thức chung:

- Kim Lân được xem là một trong những nhà văn tài năng, một trong những cây
bút viết truyện ngắn xuất sắc trong văn đàn Việt Nam thế kỉ XX. Cuộc đời cầm bút
của Kim Lân là minh chứng tiêu biểu cho nghịch lí sáng tác “Quý hồ tinh bất quý hồ
đa”. Tuy số lượng tác phẩm để lại không nhiều những gì mà Kim Lân viết đã có
một sức sống mãnh liệt, lâu bền trong lòng người đọc. Đọc truyện ngắn vợ nhặt,
người đọc ám ảnh về số phận bị thảm của người nông dân trong nạn đói đồng thời
cảm động trước vẻ đẹp tình người của khát vọng sống ngay bên bờ vực của cái
chết. Đọc truyện ngắn “Làng” người đọc cảm động chân thành trước tình cảm sâu
năng của nhân vật ông Hai dành cho làng quê và đó cũng là cội nguồn của tình yêu
Tổ quốc.

- Kim Lân là nhà văn có sở trường trong viết truyện ngắn và tài năng NT của ông
thăng hoa rực rỡ nhất ở thể loại này. Thời gian nghệ thuật của Kim Lân tập trung
ở đề tài nông thôn và người nông dân. Nhà văn ám ảnh sâu sắc về cuộc sống nông
thôn và đời sống tâm lý của người nhân dân để rồi thể hiện đầy tinh tế trong trang
viết. Chính vì vậy mà khi nhận xét về Kim Lân, Nguyên Hồng cho rằng: “Kim Lân là
nhà văn 1 lòng đi về với đất, với người, với cái thuần hậu, người thủy của cuộc
sống nông thôn.

- “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim
Lân cũng đồng thời là kiệt tác nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Lấy bối
cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân phản ánh sâu sắc số phận thê
thảm của người nông dân trong nạn đói nhưng điều quan trọng hơn là nhà văn đã
đề cao vẻ đẹp của tình người. Của khát vọng cuộc sống mãnh liệt trong tâm hồn
người nông dân bất chấp cái đói, cái chết đang đe dọa. Sau này nhà văn Kim Lân
tâm sự “khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con
đường sống dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù cận kề cái chết, người ta
vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng”.

61
II. Phân tích tác phẩm:

1. Tình huống truyện:

- Trong truyện ngắn “vợ nhặt”,để xây dựng thành công hình tượng các nhân vật,
qua đó gửi gắm tư tưởng chủ đề và giá trị nhân văn của tác phẩm, Kim Lân đã xây
dựng thành công 1 tình huống truyện độc đáo được thể hiện ngay từ nhan đề tác
phẩm đó là 1 tình huống nhặt vợ, tình huống này vừa kỳ quặc, oái oăm lại vừa vui
mừng, vừa bi thảm bởi vì chuyện vợ là chuyện trọng đại, chuyện thiêng liêng của
cả 1 đời người. Người ta thông thường sẽ dành tất cả tâm sức của mình cho cái
ngày trọng đại, thiêng liêng ấy. Vậy mà 1 anh chàng xấu trai, ế vợ, nghèo xơ nghèo
xác lại là dân ngụ cư lại bỗng nhiên nhặt được 1 cô vợ đem về như nhặt 1 cái rơm,
cái rác ngoài đường chỉ bằng 4 bát bánh đúc và 1 câu hò vu vơ cho đỡ nhọc.

- Việc Tràng nhặt được vợ khiến cho rất nhiều người ngạc nhiên, người dân xóm
ngụ cư ngạc nhiên, bà cụ Tứ ngạc nhiên và ngay cả bản thân Trang cũng không
tránh khỏi ngạc nhiên “Ra là hắn đã có vợ rồi đấy ư”, tình huống nhặt vợ cho thấy
sự thê thảm của thân phận con người. Hạnh phúc của con người trong ngày đôi
trở nên sơ sài, qua quýt đến thảm hại. Mặt khác cũng chính tình huống này đã cho
ta thấy được vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống tỏa sáng trong tâm hồn
người nhân dân ngay bên bờ vực của cái đói, cái chết. Chính điều này đã tạo nên
tinh thần nhân đạo, giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.

2. Bức tranh ngày đói:


- Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đây là 1 trong những trang bi thảm nhất trong lịch sử dân tộc vì chưa
có 1 thiên tai, một cuộc CT nào lại cướp đi của dân tộc ta nhiều sinh mệnh con
người đến thế. Nói như chủ tịch HCM trong “Tuyên Ngôn Độc Lập” là “Từ Quảng
Trị đến Bắc kì, hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói”. Nạn đói trở thành một ám ảnh
khủng khiếp của người Việt, cũng trở thành một đề tài lớn trong văn chương nghệ
thuật. Rất nhiều năm, nghệ sĩ viết về nạn đói, Nam Cao thì có “Đôi mắt”, Văn Cao
thì có “chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” thế nhưng hay nhất, độc đáo và ám ảnh
nhất vẫn là dòng văn của Kim Lân viết về cái đó ở xóm nhỏ ngụ cư trong tác phẩm
ngắn “Vợ nhặt”

- Với một khả năng quan sát và miêu tả độc đáo, nhà văn đã tái hiện một bức
tranh ảm đạm, đen tối khi cái đói tràn về xóm nhỏ ngụ cư, không còn tiếng trẻ con
cười đùa như mọi khi, thay vào đó là hình ảnh lũ trẻ ngồi ủ rũ không hề nhúc nhích,
62
người ta nhìn thấy những người đói ở Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng
bế dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều
chợ, một không khí ảm đạm thê thảm, bao trùm lấy xóm nghèo, người chết như
ngã ra. Không buổi sáng nào những người đi chợ hay đi làm đồng không nhìn thấy
3, 4 cái thây mà nằm còng queo bên vệ đường. Có thể nói với những hình ảnh đầy
ám ảnh như thế, nhà văn đã tái hiện thành công KK điêu tàn, thê thảm của những
ngày đói kém.

- Thêm vào đó từ bức tranh ngày đó, không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi,
mùi đốt đống rấm khét lẹt và đặc biệt là mùi gây của xác người chết, người ta còn
nghe thấy từ khung cảnh ngày đói những âm thanh ai oán não nùng ghê rợn như
tiếng hờ khóc, tiếng quạ gào. Kim Lân cứ từ tốn lặng lẽ miêu tả nhưng những dòng
chữ của ông lại chứa đựng một giá trị hiện thực sâu đậm và một sức tố cáo mãnh
liệt tội ác của PX Nhật và TD Pháp vì chúng đã gây ra thảm cảnh trần gian này cho
dân ta để rồi từ bức tranh ngày đói nơi xóm nhỏ ngụ cư, người đọc hình dung được
nạn đói năm 1945 khủng khiếp đến độ nào.

3. Nhân vật Tràng:


- Trong tác phẩm ngắn “Vợ nhặt: của Kim Lân, nhân vật Tràng là nhân vật chính,
nhân vật trung tâm mà nhà văn dày công xây dựng để qua đó gửi gắm thông điệp
về vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống, khát khao hạnh phúc gia đình. Ngay
bên bờ vực của cái đói, cái chết. Đó là một anh chàng xấu trai, ế vợ, nghèo xơ
nghèo xác lại là dân ngự cu. Vậy mà bỗng nhiên trong một buổi chiều chạng vạng
mặt người lại nhặt được một cô vợ đem về chỉ bằng 4 bát bánh đúc và một câu hò
vu vơ cho đỡ nhọc. Câu chuyện nhặt vợ đem đến bao nhiêu ý nghĩa khiến người
đọc phải không thôi suy ngẫm.

- Ban đầu khi có ý định đưa người đàn bà xa lạ về nhà làm vợ mình, không phải
Trang không có chút phân vân, do dự, hắn chợt nghĩ “Thóc gạo này đến cái thân
mình chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng nhưng sau một thoáng do dự hắn
tặc lưỡi ‘Chậc, kệ!’ rồi đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Dường như sau cái tặc lưỡi
ấy, Tràng đã bỏ lại sau lưng tất cả những lo lắng về hoàn cảnh, những ám ảnh về
cái đói, cái chết đang đe dọa để gắn bó cuộc đời mình với người đàn bà này. Điều
gì đã tạo nên quyết định táo bạn ấy, nếu không phải là khát vọng hạnh phúc, là khát
khao đợi xây dựng với người đàn bà một mái ấm gia đình.

- Nhà văn Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế và sâu sắc niềm khao khát tổ ấm gia
đình của nhân vật Tràng. Qua những thay đổi tâm lí của nhân vật trên con đường
63
đưa người đàn bà xa lạ về nhà. Sự kiện nhặt được vợ đã biến Tràng thành một
con người khác không phải là cái con người vẫn lầm lũi đi về trên con đường chạng
vạng, mặt người của xóm nhóm ngụ cư. Hôm nay mặt hắn có một vẻ gì phớn phở
khác thường. Hắn bắt tủm tỉm cười nụ một mình và 2 mắt thì sáng lên lấp lánh.
Điều gì đã tạo nên sự thay đổi kì diệu ấy nếu không phải là tình yêu, không phải là
khát vọng, hạnh phúc gia đình.

- Trong truyện ngắn “vợ nhặt” hơn một lần Kim Lân diễn tả niềm vui thường trực
trong tâm hồn nhân vật Tràng “Trên con đường đưa vợ về nhà, trước cặp mắt tò
mò của người dân xóm ngụ cư, nếu người đàn bà ngượng nghịu, chân nọ bước
díu vào chân kia thì Tràng lại lấy làm thích chí, cái mặt cứ vênh lên tự đắc”, niềm
khát khao hoài vọng về một mái ấm gia đình đã giúp con người vượt lên trên tất cả,
bất chấp cái đói, cái chết đang đe dọa. Trong một lúc, Tràng dường như quên hết
cái cảnh sống ê chề, tắm tối hằng ngày , quên cả cái đói khát đang đe dọa, quên
cả những tháng ngày trước mặt trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn
và người đàn bà đi bên. “Có một cái gì đó lạ lẫm chưa từng thấy ở người đàn ông
nghèo khổ ấy. Nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt tựa hề như có một bàn tay vuốt
nhẹ trên sống lưng”

- Chỉ sau một đêm nên vợ chồng, cái đêm hợp hôn diễn ra trong tiếng hờ khcs,
tiếng quạ gào, Trang đã thấy cả đời mình từ nay thay đổi hẳn, mở sang một trong
hoàn toàn mới, trái với những gì ảm đạm, ngày buồn như trước kia. Trong buổi
sáng đầu tiên khi có vợ, Trang cảm thấy trong người êm ái, lơ lửng như đi từ trong
giấc mơ ra, chợt nhận ra xung quanh mình có một cái gì thay đổi lạ lắm. Việc hắn
có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngờ hư không phải thế nhưng có một điều chắc chắn
là trong gia đình ấy, sự u ám tan biến nhường chỗ cho niềm tin, niềm hi vọng trào
dâng. Nhìn mẹ và vợ đang chăm lo, dọn dẹp nhà cửa, hắn cũng muốn dự phần
nào việc sửa sang lại căn nhà. Điều này cho thấy ý thức muốn xây dựng một mái
ấm gia đình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng.

- Không chỉ vậy, trong cái cảm giác mà niềm hạnh phúc gia đình trào dâng mãnh
liệt, Tràng bỗng thấy mình không lớn, trưởng thành hơn, bây giờ hắn mới thấy hắn
nên người. Niềm vui sướng, hạnh phúc đã gắn liền với ý thức về bổn phận, trách
nhiệm với gia đình, với vợ con. Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu, gắn bó với
cái nhà của hắn lạ lùng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột dâng lên trong
lòng hắn. Hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Có thể nói,
với chiều sâu tâm trạng của nhân vật Tràng, ta cảm nhận được vẻ đẹp của khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Điều này cũng
64
giúp ta nhìn thấy được thông điệp của Kim Lân: “Trong cái đói, người ta không nghĩ
đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”.

4. Nhân vật bà cụ Tứ:


- Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” bên cạnh nhân vật Tràng và nhân vật người vợ
nhặt thì nhân vật bà cụ Tứ cũng là một nhân vật quan trọng góp phần làm nên sự
thành công của truyện. Nhân vật này chỉ xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng
co thể nói nếu thiếu nhân vật chắc chắn “vợ nhặt” sẽ kém hấp dẫn hơn rất nhiều.
Giá trị nhân văn, nhân bản của truyện cũng vì thế mà giảm đi không ít. Chính nhân
vật bà cụ Tứ đã khiến cho tác phẩm có chiều sâu, tô đậm thêm vẻ đẹp của tình
người, của khát vọng khủng khiếp bỗng nhiên nhặt được một người đàn bà xa lạ
đem về. Nhà văn đã diễn tả thật tinh tế đời sống nội tâm nhân vật từ đó gửi gắm
thông điệp của mình.

- Buổi chiều hôm ấy khi trông thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ và vồn vã khác
ngày thường, tâm trạng bà cụ Tứ trở nên ngạc nhiên phấp phỏng. Vào đến giữa
sân trông thấy người đàn xa lạ ở trong nhà mình, bà cụ lại càng ngạc nhiên hơn
nữa, hàng loạt những câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão “Quái sao lại có người đàn và
này trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con trai mình lại chào
mình bằng u?”. Vào đến nhà, bà lão vẫn chưa hết ngạc nhiên, tâm trạng kinh ngạc
ấy còn được thẻ hiện một cách tội nghiêm trong những bước chân lận hận của bà
cụ.

- Đến khi nghe Tràng phân trần, bà Lão hiểu ra mọi chuyện, bà cụ đầu trĩu nặng,
một sự im lặng chất chứa bao nhiêu suy nghĩ, bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo
khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cớ sự vừa ai oán, xót thương cho số kiếp đứa
con mình: “Chao ôi người ta dựng vợ, gả chồng cho con, là lúc trong nhà ăn nên
làm nổi, những mong mở mặt sau này còn mình thì ... ”. Trong kẽ mắt kèm nhèm
của bà cụ rỉ xuống 2 dòng nước mắt. Đó là giọt nước mặt của tình thương con, của
lòng nhân hậu, của nỗi tủi nhục cho số kiếp của mình. Nó khiến hình ảnh người mẹ
quê hiện lên thật đáng thương, tội nghiệp.

- Nếu như người đàn bà vợ nhặt khi nhận ra gia cảnh của Trang còn đủ sức để
nén một tiếng thở dài thì bà cụ Từ khi thấu hiểu cơ sự của con đã không sao giấu
nổi sự ngao ngán của mình, bà lão khẽ thở dài ngửng lên đăm đăm nhìn người đàn
và và từ chỗ xót xa cho con trai, bà chuyển sang thấy hiểu và thương con dâu. Bà
hiểu rằng người ta có gặp bước KK, đói khổ này người ta mới lấy đứa con mình
mà con mình có vợ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu ấy đã rộng mở để đón nhận
65
con dâu “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Vẻ
đẹp của tình thương, tình người, của sự thấu hiểu, cảm thông lấp lánh trong câu
nói cảm động của bà cụ.

- Tuy nhiên, nói là mừng nhưng tâm trạng bà lão ngổn ngang trăm mối, vừa vui
vừa buồn, vừa mừng vừa lo. Vui vì con đã có vợ, mừng cho hạnh phúc của con,
nhưng lòng người mẹ ấy lại không sao thoát ra khỏi nỗi buồn tủi, xót thương cũng
như bao nhiêu ám ảnh về cái đói, cái chết đang đe dọa. Bà lão nghĩ đến ông lão,
nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cái nghèo khổ dằn vặt của mình mà nặng trĩu âu
lo “Cuộc đời chúng liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”. Tấm lòng người mẹ tràn
ngập tình thương “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Nói đến đây bà cụ
nghẹn lời không nói được nữa , nước mắt chảy xuống ròng ròng. “Vợ nhặt” dường
như không chỉ con là những trường văn, nó là những trang đời đầy buồn thương,
xót xa và đầm đìa nước mắt.

- Thế nhưng như chính Kim Lân đã nói, viết truyện ngắn “Vợ nhặt” ông không
muốn dìm người đọc vào đau thương. Trái lại ông muốn gửi đến thông điệp của
tình thương, tình người, của khát vọng sống ngày bên bờ vực của cái đói, cái chết.
Trong cái đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường
sống. Giữa tối tăm ảm đạm vẫn ánh lên vẻ đẹp của khát vọng và niềm tin. Ý đồ
nghệ thuật ấy được thể hiện sâu sắc qua tâm trạng bà cụ Tứ, bà đã cố nén tất cả
nỗi buồn, nỗi nhục vào trong để nhen nhóm niềm tin,hi vọng cho các con “Ai giàu
ba họ, ai khó ba đời”. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, người đọc có lẽ không quên
được cái cách che giấu nỗi buồn khổ đầy tội nghiệp của bà “Có đèn đấy à. Ừ, thắp
lên một tí cho sáng sủa, dầu bây giờ đắt gớm chúng mày ạ”

- Những dòng nước mắt lặng vào trong để vun vén hạnh phục cho con ấy đã hóa
thành niềm vui chân thành, niềm hạnh phúc thực sự trong buổi sáng hôm sau. Sự
xuất hiện của nàng dâu mới đã đem đến cho cái gia đình ấy một không khí đầm
ấm, hòa hợp. Bà cụ Tứ cảm thấy nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, khuôn
mặt u ám, bủn beo của bà rạng rỡ hẳn lên. Cùng với nàng dâu mới, bà xăm xăm
thu dọn, quét nhà cửa với một ý nghĩa rằng “thu xếp nhà cửa cho quang quẻ thì
cuộc đời sẽ khác đi, làm ăn có cơ khấm khá”

- Đặc biệt trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, bà lão gần đất xa trời này lại là người lạc
quan, vui vẻ nhất hay nói đến tương lai nhất. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới
cũng là bữa cơm ngày đói thảm hại, bà lão lệ mệ bê một nồi cháo cám nghi ngút
khói, đon đã tươi cười múa cho các con “Cám đấy mày ạ, ngon đáo để” bên trong
66
cái vẻ ngoài tươi cười ấy lòng người mẹ nặng trĩu xót xa nhưng bà đã cố nén tất
cả vào trong để nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau, nào là ngăn lấy
căn buồng cho đôi trẻ, chẳng mấy chốc mà có cả đàn gà mà nuôi, chẳng mấy chốc
mà có cả đàn gà cho mà xem”. Cõi lòng bà cụ lấp lánh niềm tin hy vọng vào cuộc
sống mai sau, có thể nói những giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt, nụ cười rạng
rỡ trên khuôn mặt bủn beo của bà đã tỏa ra thứ ánh sáng kì diệu trong ngôi nhà u
ám ấy đem đến bao nhiêu niềm tin, niềm hi vọng ở tương lai.

5. Nhân vật người vợ nhặt:


- Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” nhân vật người vợ nhặt cũng là một nhân vật độc
đáo mà qua nhân vật này nhà văn gửi đến biết bao nhiêu thông điệp. Nhân vật ấy
trước hết hiện lên như là một con người có hoàn cảnh. kị cái đói làm cho tiều tụy
xơ xác về hình hài và phải đánh mất cả lòng tự trọng về miếng ăn. Đó là một người
đàn bà không rõ lai lịch, không gia đình, không nhà cửa thậm chí không có cả một
cái tên. Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần tả tơi như tổ đỉa, trên khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt chỉ còn trơ lại 2 con mắt. Đau đớn hơn là hoàn cảnh đã khiến
người đàn bà trở nên đanh đá, trơ trẽn không còn biết e thẹn, xấu hổ là gì. Thị cắm
đầu ăn một chập 4 bát bánh đúc, chẳng chuyện trò gì, ăn xong cầm dọc đôi đũa
quệt ngang miệng “Hà! Ngon”. Chính cái đói đã đẩy con người vào chỗ phải bỏ qua
lòng tự trọng và danh dự vốn có của mình.

- Những buồn tủi, xót xa, cay đắng nhất vẫn là chuyện người đàn bà phải theo
không Tràng, một anh chàng xấu trai ế vợ, con nhà nghèo gặp tầm phơ tầm phào
giữa đường. Chuyện hôn nhân, chuyện lấy chồng là chuyện thiêng liêng, trọng đại,
là sự phó thác cả cuộc đời mình cho một người đàn ông mà tình yêu quý vậy mà ở
đây chỉ 4 bốn bát bánh đúc và một câu hò đã phải theo không người ta. Giá trị cũng
như hạnh phúc của con người trong người đói trở nên qua quýt sơ sài đến thảm
hại. Câu chuyện tỏ tình giờ đây chỉ đơn giản là chuyện sờ vào miếng ăn.

- Thế nhưng bên trong tâm hồn người đàn bà đanh đá trơ trẽn ấy lại ánh lên một
vẻ đẹp đầy nữ tính. Hoàn cảnh bắt chị phải bỏ qua danh dự phải đánh mất lòng tự
trọng của mình chữ bản chất chị. Không phải là người như thế cho nên khi lâm vào
hoàn cảnh phải theo Tràng, người đàn bà trở nên tủi thân, e thẹn, ngượng ngập.
Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàn nghiêng nghiêng che
khuất nửa mặt. Trước cặp mắt tò mò của người dân xóm ngụ cư, thị lại càng
ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Khi đã vào trong nhà trước mẹ
chồng, Thị vẫn còn khép nép, Thị ngồi ở mép giường 2 tay ôm khư khư cái thúng.
Kim Lân đã thấu hiểu sâu sắc cảnh ngô tội nghiệp của người đàn bà cũng như phát
67
hiện thật tinh tế vẻ đẹp khuất lấp trong tâm hồn chị, chị chưa đánh mất sự e thẹn,
tủi hổ khi rơi vào cảnh ngộ trớ trêu.

- Khi theo Tràng về đến nhà, “nhìn thấy căn nhà vắng tep đứng rúm ró trên mảnh
vườn mọc lởm chởm những núi cỏ dại, người đàn bà không tránh khỏi tâm trạng
thất vọng. Thị đảo mắt nhìn xung quanh và cái khuôn ngực gầy lép của Thị nhô lên
cố nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng vừa khoe. Thị nhếch mép
cười nhạt nhẽo đã chấp nhận theo không một người đàn ông là để mong có một
nơi nương tựa, mong tránh khỏi chết đói vậy mà vẫn không sao thoát ra được
nhưng tiếng thở dài chưa kịp buông ra thì đã kịp nén được trở lại”. Người đàn bà
thật tinh tế và sâu sắc khi ý thức được rằng mình không có quyền đòi hỏi. Đối với
thị có được một mái ấm gia đình dẫn đói rách cũng đáng quý lắm rồi. Thị không tìm
được sự no đủ trong căn nhà ấy nhưng lại tìm thấy được hơi ấm tình người. Thị
trân trọng nâng niu điều đó.

- Kim Lân đã miêu tả thật cảm động niềm khát khao hạnh phúc gia đình của
người đàn bà, từ những bước chân ngượng ngập, e thẹn về nhà chồng đến tiếng
“chào u” lúng túng nhưng thiệt nhất vẫn là hình ảnh người đàn bà trong buổi sáng
hôm sau.Cũng như Tràng, sau 1 đêm nên vợ chồng, người đàn bà thay đổi hẳn, rõ
ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực chứ không có vẻ gì là chao chác, xưng
sủa như mọi lần. Khi nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết được xua đi thì bản chất đẹp
vốn có của người đàn bà trở lại, ấy cũng là lúc chị lo toan, thu vén cho gia đình,
chăm nom, quét tưới dọn dọn nhà cửa như 1 nàng dâu, 1 người vợ đúng mực. Từ
nhân vật này nhà văn khẳng định 1 niềm tin mãnh liệt rằng cái đói, cái chết không
thể nào tiêu diệt được tình yêu cuộc sống, khát khao hạnh phúc của con người.

6. Chi tiết đám người đói và là cờ đỏ bay phấp phới:


- Kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã sáng tạo ra 1 chi tiết độc đáo đó là
hình ảnh đám người đói chạy theo là cờ đỏ bay phấp phới hiện ra trong đầu óc
Tràng. Hình ảnh ấy đối lập hoàn toàn với khung cảnh nạn đói, mạnh mẽ và tươi
sáng hơn. Nó mở ra 1 chiều hướng tích cực thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của truyện.
Đám người đói là hình ảnh của người nhân dân trong nạn đói, còn là cờ đỏ bay
phấp phới hình ảnh của CM. Nhà văn muốn nói rằng khi bị đẩy vào đường cùng,
triệt lộ, người nhân dân sẽ hướng về cách mạng để tìm thấy ở đó hạnh phúc, ấm
no. Chính điều này đã chiếu rọi ánh sáng lạc quan cho tác phẩm mở ra 1 niềm tin,
niềm hi vọng cháy bỏng ở tương lai./.

68
Chuyên đề 9: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (1983)
- Nguyễn Minh Châu

I. Kiến thức chung:


- Nguyễn Minh Châu là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn có đóng góp quan
trọng cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, ông là một nhà văn sử
thi với những tác phẩm nổi tiếng như “Bến sông”, “Mảnh trăng cuối rừng”, “Dấu
chân người lính”,.. ông đã tái hiện một cách chân thực và sinh động vẻ đẹp của
một thời đại lãng mạn và hào hùng trong cuộc trường chinh chống Mỹ cứu nước..

- Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn tiên phong
trong hành trình đổi mới văn học, đưa văn học từ cái nhìn sử thi, ngợi ca sang cái
nhìn đời thường, đầy nhân văn, nhân bản. Nói như Nguyên Ngọc: “Ông là người
mở đường tài năng và tinh anh của văn học ta”. Thực ra, ngay từ trong chiến tranh,
Nguyễn Minh Châu đã dự cảm cho cuộc đổi thay vĩ đại ấy, ông viết “ Văn học và
cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Hôm nay chúng ta
chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc nhưng sẽ đến lúc chúng ta chiến đấu cho
quyền sống của con người” và sau chiến tranh ông đã có những điều kiện để hiện
thực hóa những dự cảm ấy bằng những kiệt tác nghệ thuật như bức tranh “Bến
quê”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” và đặc biệt là “Phiên chợ Giót”.

- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là kiệt tác nghệ thuật của nhà văn từ
câu chuyện về một gia đình thuyền chài, nhà văn đã gửi đến chúng ta những triết
lý sâu sắc về cuộc đời và về nghệ thuật.

II. Phân tích tác phẩm:

1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ:


- Để có được những tấm ảnh đẹp dùng cho bộ lịch nghệ thuật về thuyền và
biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đã lặn lội đến vùng biển từng
là chiến trường cũ của anh. Phùng dự tính bố cục suốt mấy buổi sáng liền với khát
khao chụp được những tấm ảnh ưng ý và giây phút ấy đã đến. Khi đôi mắt người
nghệ sĩ trong một khoảnh khắc đã bất ngờ phát hiện ra một cảnh tượng tuyệt đẹp
của thiên nhiên trên bãi biển mờ sương khiến anh phải tốt lên là “Cảnh đất trời
cho”.

69
- Đó là một cảnh tượng tuyệt đẹp mà cả đời cầm máy rong ruổi khắp mọi
miền anh chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần. Trong cảm nhận của Phùng, cảnh
tượng ấy đẹp, huyền ảo tựa như một bức tranh mực Tàu của một danh họa thời
cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ
đẹp đơn giản và đoàn kích. Lúc ấy đối với người nghệ sĩ, con người lưới vó thấp
thoáng ngoài xa kia huyền ảo lung linh như một con thuyền ngư phủ trong mơ.
- Là một người nghệ sĩ vốn nhạy cảm với cái đẹp bây giờ lại tận mắt chứng
kiến cái đẹp tuyệt đỉnh của tạo vật, tâm hồn nghệ sĩ Phùng rung động dữ dội đến
mức bối rối trong tim như có cái gì bóp thắt vào, một niềm hạnh phúc mênh mông
lan tỏa trong tâm hồn anh. Đó là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo, hạnh
phúc khi cảm nhận được cái đẹp diệu kỳ của thiên nhiên. Dường như trong hình
ảnh chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp được cái tận
thiện tận mỹ, cảm thấy tâm hồn như được gột rửa trở nên trong trẻo tinh khôn. Anh
nhớ đến câu nói của một ai đó rằng: “Bản thân cái đẹp là đạo đức”. Trong nhận
thức của Phùng lúc này, cuộc đời toàn cái đẹp, cái lãng mạn nên thơ, cái gì cũng
trong trẻo, sáng ngần tựa như cái cảnh đất trời cho mà anh đang say sưa tận
hưởng.

- Thế nhưng cũng chính trong cái giây phút mà hạnh phúc tràn ngập tâm hồn
do cái đẹp tuyệt đỉnh mang lại, người nghệ sĩ bất ngờ nhận ra rằng đằng sau cái
đẹp toàn kích kia là một cảnh tượng hoàn toàn trái ngược. Khi chiếc thuyền lưới vó
ngoài xa vào gần hơn đến bờ, từ con thuyền ấy bước ra là một người đàn bà xấu
xí, mệt mỏi, cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn độc ác; một đứa bé câm
nín hằn học và đặc biệt là cảnh chồng đánh đập, hành hạ vợ một cách tàn nhẫn
bằng thắt lưng da của lính ngụy ngày xưa.

- Chứng kiến cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ kinh ngạc đến mức trong mấy
phút đầu cứ há hốc mồm ra mà nhìn. Cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài đã
khiến nhân vật có một sự thay đổi lớn về nhận thức. Vừa mới đây thôi với anh cuộc
đời toàn cái đẹp, cái nên thơ lãng mạn trong sáng thì giờ đây anh lại cay đắng nhận
ra bên trong cái đẹp ấy là bao nhiêu cay đắng, xấu xa, đen tối, vừa mới đây thôi
bản thân cái đẹp còn là “đạo đức” thì giờ đây lại chẳng có gì là đạo đức mà toàn là
đen tối bạo lực tàn ác. Phùng nhận ra rằng thì ra con người tuy đã được giải thoát
khỏi chiến tranh vẫn chưa được giải thoát khỏi nghèo đói, lạc hậu và bạo lực.
Những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là thứ thuốc lửa quái đản khiến cho
những thước phim mà anh chụp được hiện hình lên thật khủng khiếp đáng sợ.

70
- Từ hai phát hiện của người nghệ sĩ trên bãi biển mờ sương, nhà văn Nguyễn
Minh Châu gửi đến những thông điệp sâu sắc về cuộc đời và nghệ thuật, nhà văn
muốn nói rằng cuộc sống không đơn giản xuôi chiều mà vô cùng phức tạp rối rắm
đan xen nhiều chiều kích, có ánh sáng cũng có bóng tối, có màu đỏ cũng có màu
đen, có cái cao thượng cũng có cái thấp hèn. Nói như ai đó: “Cuộc sống như một
dòng sông, có cái trong veo tinh khiết đến ngỡ ngàng của nước cũng có cả rác rưởi
đang trôi”.

- Bên cạnh thông điệp về cuộc sống là thông điệp nghệ thuật. Nếu chiếc
thuyền lưới vó ở mãi ngoài xa thì nó mãi mãi là con thuyền của những ngộ nhận,
ảo tưởng rằng cuộc sống chỉ toàn cái đẹp cái nên thơ. Phải đến khi chiếc thuyền
vào gần hơn đến bờ thì người nghệ sĩ mới nhìn thấy được bản chất thực của cuộc
sống với bao nhiêu đắng cay buồn tủi luôn hiện hữu, nhà văn muốn nói rằng nghệ
thuật chỉ có thể khám phá bản chất đúng của cuộc sống khi nó gần gũi, gắn bó với
cuộc sống; còn nếu như nghệ thuật rời xa cuộc sống, người nghệ sĩ nhìn đời bằng
cặp mắt qua loa thì cái anh cảm nhận được chỉ là những ảnh hình giả tạo mà thôi.

2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện:


- Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” nhân vật người đàn bà làng chài
làm nhân vật chính, nhân vật trọng tâm mà nhà văn dựng công xây dựng để qua
nhân vật gửi đến người đọc tư tưởng chủ đề của truyện cũng như những triết lý
sâu thẳm về cuộc đời và nghệ thuật: Đó là một người đàn bà vùng biển trạc ngoài
40, rỗ mặt, thô kệch xấu xí với những bước chân mệt mỏi, nặng nề và lầm lũi dường
như những yếu tố về ngoại hình ấy phần nào đã dựng lên trước mắt người đọc một
cuộc đời nhọc nhằn, nghèo khổ, lam lũ và cam chịu.

- Người đàn bà hàng chài đến tòa án huyện theo lời mời của Phùng và Đẩu
với thiên ý muốn cứu vớt chị khỏi bàn tay của gã đàn ông vũ phu. Trong suy nghĩ
của hai người trí thức này, người đàn bà khốn khổ đáng thương ấy không nên cam
chịu, nhẫn nhịn nữa. Những tưởng người đàn bà sẽ vui mừng khôn xiết và rối rít
cảm ơn thế nhưng thực tế lại diễn ra lại hoàn toàn trái ngược. Người đàn bà đau
khổ ấy đã cương quyết không chịu bỏ chồng thậm chí còn chấp nhận đánh đổi tất
cả chỉ để được gắn bó với hắn: “Con lạy quý tòa, con van quý tòa, quý tòa bắt tôi
con thế nào cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó”.

- Thái độ và cách phản ứng của người đàn bà làm cho cả Phùng lẫn Đẩu kinh
ngạc đến mức không thể nào hiểu nổi. Họ không thể lý giải được vì sao một người
71
đàn bà bị bạo hành đến mức “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” lại
cương quyết không chịu bỏ chồng. Chỉ đến khi nghe lời giãi bày của người đàn bà
ta mới vỡ lẽ ra rằng: thì ra nguồn gốc sâu xa của mọi sự chịu đựng ấy là tình thương
vô bờ bến dành cho những đứa con. Phùng và Đẩu tuy có lòng tốt nhưng các anh
nhìn đời hời hợt quá, người đàn bà thấu hiểu sâu sắc lẽ đời, chị hiểu rằng trong
một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, tan vỡ thì đáng thương nhất là những
đứa con, cho nên, chị cam chịu chấp nhận tất cả để lưu giữ mái ấm gia đình cho
những đứa con.

- Suy nghĩ của người mẹ ấy thật cảm động “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải
sống cho con chứ không phải sống cho mình. Cuộc sống trên thuyền cần phải có
bàn tay đàn ông chèo chống cho dù đó có là một kẻ vũ phu”. Điều này làm hiện lộ
vẻ đẹp của tình thương và đức hi sinh vô bờ bến trong tâm hồn người đàn bà. Chị
đã không hề cam chịu một cách vô lý, không nông nổi một cách ngờ nghệch. Trái
lại, chị là người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời cho nên trong cuộc sống triền miên đau
khổ trên thuyền, người đàn bà vẫn chắt lọc được những phút giây hạnh phúc nhỏ
nhoi. Đó là lúc vợ chồng, con cái hòa thuận vui vẻ, vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con
chúng nó được ăn no, đối với chị như thế là quá đủ để có được những phút giây
như thế, chị cam chịu tất cả.

- Mọi hành động của đàn bà làng chài đều xuất phát từ tình thương dành cho
những đứa con, cho nên khi đàn con lớn lên, chị chỉ xin hăn một điều duy nhất đó
là có đánh chị thì đưa chị lên bờ mà đánh. Người mẹ ấy sợ rằng cảnh tượng đau
đớn kia sẽ làm tổn thương tâm hồn thơ bé của những đứa con. Chị khóc lóc lạy lục
van xin con đừng vì thương mình mà đánh lại bố. Chị thà chấp nhận mọi đớn đau,
tủi nhục chứ không muốn con làm việc trái đạo. Điều gì đã tạo nên sự chịu đựng
hy sinh cao cả như thế nếu không phải là lòng nhân hậu, là tình thương vô bờ bến
cho những đứa con (lấy ví dụ hình tượng “con cò”: Con cò mày đi ăn đêm/ Đậu
phải cành mềm lộn cổ xuống ao/ Ông ơi ông vớt tôi nao/ Tôi có lòng nào ông hãy
xáo măng/ Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con)

- Người đàn bà hàng chài còn hiện lên trong tác phẩm với một tấm lòng nhân
hậu bao dung và vị tha, thể hiện qua cái nhìn đầy cảm thông đối với gã đàn ông vũ
phu. Bằng lối viết đa thanh nhà văn đã đặt nhân vật “gã đàn ông” dưới nhiều cách
nhìn khác nhau. Nếu Phùng và Đẩu xem người đàn ông là một kẻ độc ác tàn nhẫn,
bằng mọi cách phải thoát khỏi hắn thì người đàn bà lại nhìn hắn bằng một cái nhìn
đầy nhân hậu. Theo chị, hắn không chỉ đáng trách mà còn đáng thương. Đó là nạn
nhân của hoàn cảnh. Chính cuộc sống nghèo đói, quẩn quanh đã khiến một anh
72
con trai hiền lành vui tính trở thành một gã đàn ông vũ phu đánh vợ như một thói
quen. Cứ khi nào thấy khổ quá là hắn lại lôi vợ ra đánh như để giải tỏa uất ức buồn
phiền. Từ điều này nhà văn gửi đến một thông điệp về một cái nhìn đầy nhân ái
cảm thông dành cho con người. Nói như Nam Cao: “Con người ta chỉ thật sự xấu
xa trước cặp mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ”.

- Từ câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện, người đọc vỡ
ra biết bao nhiêu nghịch lý. Có ai ngờ rằng bên trong một hình hài xấu xí, mệt mỏi
cam chịu lại là một tâm hồn trong sáng, cao thượng, giàu tình thương và giàu đức
hi sinh. Có ai ngờ rằng hai vị trí thức học rộng, biết nhiều tuy có lòng tốt nhưng lại
quá hời hợt về cuộc sống, cũng không ai có thể ngờ rằng một người đàn bà thất
học lại giảng giải lẽ đời cho hai người trí thức. Câu chuyện của người đàn bà làm
cho Phùng thay đổi lớn về nhận thức khi mà những quan niệm dường như đã mặc
định về con người và cuộc đời va chạm một cách gay gắt với sự phức tạp của cuộc
sống, để từ đọc người đọc hiểu rằng cuộc sống không đơn giản như ta tưởng mà
phức tạp, rối rắm và chứa đựng vô vàn nghịch lý.

3. Chi tiết “Tấm ảnh được chọn trọng bộ ảnh Tết năm ấy”:
- Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” kết thúc bằng chi tiết nghệ thuật độc
đáo đó là chi tiết “Tấm ảnh được chọn trong bộ ảnh Tết năm ấy”. Đây là một chi tiết
kì ảo chứa đựng những thông điệp sâu sắc của nhà văn về cuộc đời và nghệ thuật.
Nguyễn Minh Châu viết “Tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ lúc nào cũng
nhìn thấy cái màu hồng hồng của sương mai. Nhìn lâu hơn thì bao giờ cũng trông
thấy hình ảnh người đàn bà cao lớn, nặng nề mệt mỏi bước ra từ tấm ảnh”.

- “Màu hồng hồng của sương mai” tượng trưng cho vẻ đẹp lãng mạn, cho
chất thơ và cuộc sống, còn hình ảnh người đàn bà lại hiện thân cho bao nhiêu lam
lũ khốn khó, bao nhiêu bi kịch mà con người phải chịu đựng trong cuộc đời. Nhà
văn thông qua đó mà gửi gắm những suy nghĩ sâu sắc của mình về cuộc sống:
“Cuộc sống đâu chỉ có cái lãng mạn nên thơ mà còn ẩn tàng bao nhiêu đắng cay,
tủi nhục đen tối. Cuộc sống là một cõi tục hoang sơ và trì động chứa đựng vô vàn
nghịch lý” (thông điệp cuộc đời)

- Nhà văn nói rõ mỗi khi ngắm kĩ, Phùng thấy hiện lên cái màu hồng hồng của
sương mai và phải nhìn lâu hơn anh mới thấy được hình ảnh người đàn bà xấu xí,
mệt mỏi và cam chịu bước ra từ tấm ảnh. Từ điều này, nhà văn muốn nói về một
cái nhìn sâu sắc của nghệ thuật với đời. Người nghệ sĩ chỉ có thể khám phá đúng
73
bản chất cuộc sống khi anh có một cái nhìn sâu thẳm và toàn diện. Phải rút ngắn
khoảng cách giữa nghệ thuật và hiện thực, phải ly khai với thứ nghệ thuật màu
hồng, xa lạ với con người. Nghệ thuật không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng
tránh sự thật mà phải có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, góp tiếng nói tích cực
vào giải phóng con người khỏi tăm tối, bạo lực và nghèo đói. (thông điệp nghệ
thuật)./.

74
Chuyên đề 10: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT (1981-1984)
- Lưu Quang Vũ

I. Kiến thức chung:


- Lưu Quang Vũ là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ lớn trong nền văn chương
nghệ thuật Việt Nam thế kỉ XX. Ông được đánh giá là một tài năng đa dạng, một
nghệ sĩ đa tài thành công trên nhiều lĩnh vực như làm thơ, sáng tác văn xuôi, vẽ
tranh soạn kịch, … Tài năng ấy của Lưu Quang Vũ được bộc lộ từ sớm để rồi ghi
đậm dấu ấn trong lòng người đọc nhiều thế hệ.

- Thế nhưng nói đến Lưu Quang Vũ phải nói đến thể loại kịch, đây là lĩnh vực
tài năng của ông thăng hoa rực rỡ nhất cũng là đóng góp xuất sắc nhất của nhà
văn cho VHDT. Kịch Lưu Quang Vũ mạnh mẽ, sắc sảo giàu triết lý, từng gây chấn
động dư luận trong những năm 80 của thế kỉ XX. Người đọc nhận ra trong những
vở kịch của ông, những tư tưởng lớn, những triết lý sắc sảo, những sự thật mà
đương thời không phải ai cũng cũng dám viết mà không phải ai cũng viết hay được
như ông.

- “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là vở kịch xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác
của Lưu Quang Vũ. Đây cũng là tác phẩm tạo được tiếng vang sâu rộng lâu bền
trong lòng người đọc. Nhà văn sáng tác vở kịch này theo hướng khai thác cốt truyện
dân gian để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, hạnh phúc và lẽ sống. Tuy
nhiên tình huống kịch chỉ bắt đầu từ chỗ kết thúc của truyện dân gian khi hồn
Trương Ba phải sống nhờ trong thân xác người hàng thịt có nguy cơ bị thể xác lấn
át, khống chế ngự trị và phải vượt qua một cuộc đấu tranh gay gắt để được là chính
mình. Đoạn trích thuộc cảnh 7 - đoạn kết của vở kịch.

II. Phân tích đoạn trích:

1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác Hàng Thịt:


- Ông Trương Ba là một người nông dân hiền lành, hướng thiện với một tâm
hồn trong trẻo thuần khiết và những nước cờ khoáng hoạt, thần tình. Vậy mà ông
đã phải chết một cách tức tưởi vô lý do sự tắc trách của Nam Tào, sự sửa sai của
Nam Tào của Bắc Đẩu. Theo lời khuyên của Đế thích, bằng cách cho hồn Trương
Ba nhập vào xác người hàng thịt vừa mới mất. Tuy đã trả lại sự sống cho ông

75
Trương Ba nhưng lại không đem đến cho ông hạnh phúc. Trái lại càng đẩy sâu
Trương Ba hơn vào bi kịch, vào nỗi đau khi linh hồn phải trú nhờ vào trong thân
xác kẻ khác, phải sống một cách tạm bợ, vay mượn, chắp vá, không còn được là
chính mình.

- Kể từ khi sống nhờ trong thân xác người hàng thịt, ông Trương Ba rơi vào
một nghịch cảnh đớn đau. Linh hồn trong sáng, ngay thẳng, nhân hậu giờ phải sống
thân tầm gửi nên chẳng những không sai khiến được xác thịt mà còn bị xác thịt
quyến rũ, khống chế để dần dần bị nhiễm độc trước những thú vui thân xác. Ông
Trương Ba trước kia với những nước cờ khoáng hoạt, với bàn tay nhẹ nhàng chăm
sóc những mầm xanh giờ lại thèm uống rượu, thèm ăn thịt, trở nên dữ dằn, và từng
có lúc xao xuyến trước vợ người hàng thịt. Cứ như thế, ông Trương Ba nhạt nhòa
dần bản sắc của mình để dần dần đánh mất chính mình.

- Nghịch cảnh phải sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá tạm bợ trong thân xác
kẻ khác khiến ông Trương Ba đau đớn khổ sở: “Không, tôi không muốn sống như
thế này mãi, tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi”. Hồn Trương Ba
bức bối, khổ sở tuyệt vọng và không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác bẩn thỉu,
càng lúc ông càng lún sâu hơn vào sự vụng về, thô lỗ, phũ phàng.

- Trong đớn đau, tuyệt vọng ông Trương Ba cố gắng quẩy đạp để tách rời
khỏi thân xác, để được tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào thân xác nữa. Thế
nhưng đúng lúc ấy thì xác hàng thịt hiện lên và diễn ra một cuộc đối thoại gay gắt
giữa linh hồn và thể xác. Trong cuộc đối thoại ấy, hồn Trương Ba bị dồn vào thế
đuối lý trước những lý lẽ xảo quyệt nhưng cũng không kém phần đặc sắc của thân
xác. Xác hàng thịt đã cười nhạo Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh của hắn. Xác
thịt gợi lại tất cả những sự thật khiến hồn Trương Ba cảm thấy xấu hổ khi bị phụ
thuộc quá nhiều vào thân xác. Nào là chuyện xao xuyến trước vợ người hàng thịt,
chuyện tát thằng con đến hộc máu mồm bằng đôi tay giết lợn, chuyện làm gãy
những mầm xanh…

- Trong cuộc đối thoại giữa linh hồn và thể xác, xác hàng thịt thắng thế nên
liên tục tuôn ra những lời châm chọc, nhạo báng Trương Ba, thậm chí còn dụ dỗ,
quyến rũ Trương Ba phải đầu hàng, phải thỏa hiệp trước những thú vui thân xác,
trước những lý lẽ ti tiện ấy, ông Trương Ba giận dữ, quát tháo nhưng vẫn không
thể nào tránh khỏi cảm giác bất lực trước thân xác. Ông đau đớn nhận ra rằng mình
đã bị phụ thuộc quá nhiều vào thân xác, không thể nào tách ra để tồn tại độc lập
được nữa.
76
- Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt chính là cuộc đối thoại
giữa linh hồn và thể xác, giữa cái bên trong và cái bên ngoài. Thông qua cuộc đối
thoại này, nhà văn gửi đến người đọc một thông điệp nhân sinh sâu sắc: cuộc sống
này đẹp biết bao, đáng quý biết bao, được sinh ra làm người , được sống kiếp
người là một đặc ân của tạo hóa nhưng cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con
người được sống là chính mình, sống với sự hài hòa giữa cái bên trong và bên
ngoài, giữa suy nghĩ và lời nói, hành động. Còn một cuộc sống giả tạo, chắp vá
bên trong một đằng bên ngoài một nẻo thì còn thê thảm hơn cái chết.

- Bên cạnh đó, qua màn đối thoại này nhà văn còn muốn nhắn nhủ người đọc
rằng con người không thể nào giữ được cho tâm hồn trong sáng thanh sạch khi
phải trú ngụ trong một thân xác phàm tục bẩn thỉu, khi người ta phải sống chung
với sự dung tục trí trá bỉ ổi thì tất yếu sẽ bị cái dung tục ngự trị, khống chế, tàn phá
những gì trong trẻo nhất. Cho nên để giữ được sự thanh sạch cho tâm hồn mình
thì cần thiết phải rời xa sự dung tục thấp hèn.

2. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân:


- Nếu như màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt ta đã cảm nhận
được nỗi đau đớn, khổ sở của nhân vật hồn Trương Ba khi phải sống nhờ, sống
gửi trong thân xác người khác thì đến màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người
thân, tấn bi kịch tinh thần được đẩy lên đến đỉnh điểm cao trào. Đó là bi kịch bị từ
chối, bị cự tuyệt ngay trong chính gia đình mình, với những người thân yêu nhất
của mình. Vợ ông Trương Ba là một người phụ nữ nhân hậu rất mực yêu thương
chồng nhưng giờ đây lại buồn bã, đau khổ tuyệt vọng vì sự thay đổi của chồng nên
có ý định nhường Trương Ba rồi bỏ đi thật xa “Với bà thì đi đâu cũng được còn hơn
là như thế này, còn hơn là phải nhìn thấy cái nghịch cảnh trái ngang này”. Bà đã
nói ra cái điều mà chính ông Trương Ba cũng đau đớn cảm nhận được: “Ông đâu
còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

- Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt, chị thấu hiểu
cảm thông, ái ngại cho hoàn cảnh bố chồng. Chị thấy thương bố chồng trong tình
cảnh trên, chị biết rằng ông cũng khổ sở, tuyệt vọng đau đớn lắm chứ chẳng sung
sướng gì khi phải trú nhờ trong thân xác kẻ khác. Phải sống một cuộc sống bên
trong một đằng bên ngoài một nẻo thế nhưng trước tình cảnh gia đình nát tan vì
Trương Ba, chị cũng không giấu nổi sự xót xa vì mỗi lúc thầy mỗi khác dần, mất

77
mát dần, tất cả như lệch lạc mờ nhòa đi, ao ước cháy bỏng trong lòng chị là làm
sao để thầy trở lại trong trẻo và thuần khiết như ngày xưa.

- Riêng đứa cháu gái bé bỏng mà thường ngày ông Trương Ba yêu quý, nâng
niu, cưng chiều nhất thì lại phản ứng một cách quyết liệt, dữ dội. Nó một mực khước
từ tình thân, nó lớn tiếng chửi mắng và nhất quyết không chấp nhận người đàn ông
to lớn, sồ sề có đôi bàn tay giết lợn là ông nội nó bởi lẽ tâm hồn của một đứa trẻ
thơ vốn trong sáng thánh thiện hồn nhiên không thể nào chấp nhận được sự tầm
thường, dung tục, giả dối, không thể nào hòa hợp được với lối sống bên trong một
đằng bên ngoài một nẻo.

Vợ Trương Ba, cô con dâu và cái gái - cháu nội Trương Ba mỗi người một
thái độ một cách phản ứng khác nhau nhưng tất cả đều không chấp nhận được
cuộc sống hiện tại của Trương Ba, sự thay đổi của Trương Ba khiến ông trở nên
lạc lõng, xa lạ ngay trong chính ngôi nhà của mình, với những người mình thân yêu
nhất của mình. Càng yêu quý con người trước kia của ông bao nhiêu, họ càng
không thể chấp nhận con người hiện tại của ông bấy nhiêu. Đối với mỗi chúng ta,
gia đình là nơi nương náu, nơi ta tìm về để thấy hơi ấm của tình thương và sự sẻ
chia mỗi khi vấp ngã trên đường đời. Vậy mà ông Trương Ba lại bị từ chối cự tuyệt
ngay trong chính gia đình của mình. Từ nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Trương Ba,
nhà văn muốn gửi đến một thông điệp rằng cái cuộc sống giả dối tạm bợ bên trong
một đằng bên ngoài một nẻo là không thể chấp nhận được, cần phải từ bỏ tránh xa
lối sống ấy.

3. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích:


- Tấn bi kịch tinh thần của nhân vật hồn Trương Ba được đẩy lên đến đỉnh
điểm trong màn đối thoại với người thân và nó đã được giải quyết một cách độc
đáo qua màn đối thoại với Đế Thích. Sau những màn đối thoại với người thân, Lưu
Quang Vũ đã để cho hồn Trương Ba trơ trọi một mình với bao nhiêu khổ đau tuyệt
vọng, nhân vật đã có những lời độc thoại nội tâm đầy chua chát nhưng cũng đầy
quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải của ta ạ! Nhưng lẽ nào ta
lại chịu thua và khuất phục mày, không cần sự sống do mày mang lại. Không cần!”.
Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định đến hoạt động thắp hương gọi Đế Thích
chấp nhận cái chết để được là chính mình. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy
muộn nhưng đầy ý nghĩa, nó cho thấy rằng khi linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng, nhìn
thấy viễn cảnh tự do thì người ta sẽ sẵn sàng chấp nhận tất cả, kể cả cái chết.
78
- Không thể nào chịu nổi nỗi bức bối trước hoàn cảnh thực tại khi học không
được sống là chính mình, khi dần dần bị tha hóa bởi dục vọng thấp hèn, hồn Trương
Ba quyết định đổi hướng gọi Đế Thích để trả lại thân xác cho người hàng thịt mà
chấp nhận cái chết bởi lẽ chỉ có cái chết mới giúp ông tách khỏi thân xác để sống
với chính bản thể của mình. Trong màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích,
Đế Thích đã khuyên Trương Ba nên chấp nhận tình trạng thực tại vì trên trời dưới
đất đều thế cả, thậm chí không thuyết phục được Trương Ba, Đế Thích còn có ý
định cho hồn Trương Ba nhập vào xác của cô Tỵ. Đế Thích là hiện thân cho một
kiểu người quan liêu, dễ dãi, hời hợt trong cách nhìn cuộc sống và con người.
Trương Ba đã chỉ rõ sai lầm của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống
nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”

- Trước những lời đề nghị của Đế Thích, hồn Trương Ba - một con người đã
trải qua biết bao nhiêu khổ sở tuyệt vọng khi phải sống tạm bợ, vay mượn trong
thân xác kẻ khác đã cương quyết chối từ lời đề nghị, chấp nhận trả lại thân xác cho
người hàng thịt để được chết và ông đã thấm thía một điều rằng một cuộc sống
không được là chính mình, chênh lệch giữa linh hồn và thể xác, sống giả dối phụ
thuộc thì còn thê thảm khổ sở hơn cả cái chết. Cho nên ông Trương Ba đã tuyên
bố một cách dứt khoát “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được,
tôi muốn được là tôi trọn vẹn”.

- Cách giải thoát mình khỏi bi kịch của nhân vật Trương Ba tuy đau đớn nhưng
chứa đựng ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Con người là một thể thống nhất toàn vẹn
giữa linh hồn và thể xác, giữa cái bên trong và cái bên ngoài, giữa suy nghĩ và hoạt
động. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Để sống
cho ra con người không phải là điều đơn giản, trước hết phải được là chính mình,
phải sống bằng chính cảm xúc, suy nghĩ của chính mình. Còn lối sống tạm bợ, giả
dối, vay mượn, chắp vá, trở thành con rối của kẻ khác sẽ chẳng đem lại ý nghĩa gì
mà còn đẩy sâu con người vào trong bi kịch.

4. Màn kết:
- Trong vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, nhà văn Lưu Quang Vũ đã xây
dựng được một màn kết đầy chất thơ, giàu ý vị, tạo được dư ba trong lòng người
đọc. Ông Trương Ba đau đớn chấp nhận cái chết để chấm dứt tình trạng bên trong
một đằng bên ngoài một nẻo. Thế nhưng khi đã chết đi rồi thì ông lại tìm được cho
mình hạnh phúc. Trương Ba tuy đã chết nhưng hình ảnh ông mãi tồn tại trong
79
những sự vật thân thương, trong màu xanh của lá cây trong vườn, trong vị thơm
của trái na gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu cao và đặc biệt là trong tâm
trí người thân. Hai đứa trẻ thơ, hai tâm hồn non nớt, cái gái và cô Tỵ dắt tay nhau
đi dạo trong vườn và trong những câu chuyện trẻ thơ của chúng luôn hiện hình
hình bóng của ông nội Trương Ba.

- Thông qua màn kết đầy chất thơ ấy, nhà văn Lưu Quang Vũ đã gửi đến một
thông điệp nhân sinh sâu sắc. Đó là thông điệp về sự sống và cái chết. Trước kia
ông Trương Ba sống một cuộc sống giả dối, tạm bợ, vênh lệch giữa cái bên trong
và cái bên ngoài thì ông bị từ chối, bị cự tuyệt và xem như đã chết trong tâm trí
người thân nhưng giờ đây, khi chấp nhận cái chết để tìm về bản thể thì ông lại sống
mãi trong tâm hồn những người ở lại. Như vậy, một cuộc sống giả dối, vay mượn
thì còn thê thảm hơn cả cái chết. Đó là thông điệp của sự chiến thắng của cái thanh
cao trước cái phàm tục, của cái chân thật trước những điều giả dối. Nó bày tỏ niềm
tin mãnh liệt của nhà văn về cái thiện, cái trong sáng trong phẩm chất con người./.

80
MỤC LỤC
Chuyên đề 1: TÂY TIẾN (1948) ............................................................................. 1
Chuyên đề 2: VIỆT BẮC (1948) ............................................................................ 8
Chuyên đề 3: ĐẤT NƯỚC (1971) ....................................................................... 24
Chuyên đề 4: SÓNG (1967) ................................................................................ 33
Chuyên đề 5: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (1960) ................................................ 42
Chuyên đề 6: AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG (1981) ................................. 48
Chuyên đề 7: VỢ CHỒNG A PHỦ (1952) ........................................................... 54
Chuyên đề 8: VỢ NHẶT (1955)........................................................................... 61
Chuyên đề 9: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (1983) .............................................. 69
Chuyên đề 10: HỒN TRƯƠNG BA DA HÀNG THỊT (1981-1984)....................... 75

81

You might also like