You are on page 1of 11

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,

lãng mạn và tài hoa. "Tây Tiến" là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc
phong cách thơ Quang Dũng. Có thể nói, tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong
khổ thơ đầu tiên. Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ của núi
rừng miền Tây, nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động, chiến đấu.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi


Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Bài thơ "Tây Tiến" được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh, khi nhà thơ đã
rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến, chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Tây Tiến là
một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với
bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào, tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền
Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ
Sơn la, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa ( Lào) - là những nơi hiểm trở,
hoang vu, rừng thiêng nước độc. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội,
có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và chiến đấu trong
hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan, anh
dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập
Trung đoàn 52.

Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ, kỉ niệm, hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn
chiến đấu cũ. Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu
thơ truyền tay tìm đọc. Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ " Mây đầu ô"
( xuất bản 1986). Ban đầu bài thơ có tên là " Nhớ Tây Tiến", sau đó tác giả chuyển
lại thành " Tây Tiến". Nhan đề " Tây Tiến" đảm bảo tính hàm súc của thơ, không cần
phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc, thấm thía. Nhan
đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm, đó là hình tượng đoàn quân
Tây Tiến. Việc bỏ đi từ "nhớ" đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến, khiến cho hình
ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam.

"Tây Tiến" là bài thơ in đậm phong cách tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn
thơ Quang Dũng. Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng
lại sống động bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh, những chặng
đường hành quân gian khổ, từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt
hiện ra.

Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi !


Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi "Tây Tiến ơi" bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là : "sông Mã", "Tây Tiến", "rừng núi".
Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ " nhớ". " Nhớ chơi
vơi" là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy
ám ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng
của núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần "ơi" làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với
biên độ của cảm xúc.

Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi
nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.

Hai câu thơ tiếp : gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,


Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn.Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và
miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những
người lính ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời.
Hình ảnh " hoa về trong đêm hơi" là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những
ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình
ảnh đoàn quân từ rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát
hương, mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những
bông hoa rừng. Đoàn quân ấy hành quân trong một " đêm hơi" đầy huyền ảo, mơ hồ,
bảng lảng khói sương chốn rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn
của Quang Dũng.

Những bài Cảm nhận về đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến hay nhất
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời,
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình "khúc khuỷu", " thăm thẳm", " heo
hút", kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc
khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong
tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc,
nguy hiểm của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh " súng ngửi trời" là
một nhân hóa táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên
đỉnh dốc, cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét
tinh nghịch khỏe khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân
vất vả, mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến. Phép đối " ngàn thước lên cao - ngàn
thước xuống" càng nhấn mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở
của thiên nhiên miền Tây. Ba câu thơ giàu chất hội họa, dựng lên bức tranh hoang
vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu
thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng " Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi", vần mở "ơi"
đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của
người lính. Họ đứng trên những đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng
mạn của núi rừng, phóng tầm mắt, thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông
xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa
gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các
chàng trai Tây Tiến.

Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những
mất mát hy sinh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,


Gục lên súng mũ bỏ quên đời.

Cách nói tránh về cái chết "không bước nữa", "bỏ quên đời" gợi tư thế ngạo nghễ
của người lính Tây Tiến. Họ chủ động chấp nhận cái chết, coi nó chỉ đơn giản như
một giấc ngủ mà thôi. Tư thế hi sinh " gục lên súng mũ" đầy xót xa nhưng cũng thật
hào hùng. Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong
"Dáng đứng Việt Nam" : " Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo
lửa đạn cầu vồng". Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung
người lính Tây Tiến.

"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".

Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian" chiều chiều", "đêm đêm"
kết hợp với biện pháp nhân hóa " thác gầm thét", " cọp trêu người" đã nhấn mạnh vẻ
bí hiểm, dữ dội,hoang dã chứa đầy nguy hiểm, cái chết luôn luôn rình rập đe dọa
người lính của núi rừng miền Tây. Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không
gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian.

Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh :

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Núi cao rừng rậm lùi xa, chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ
nồi cơm của các cô gái Thái. Từ cảm thán " Nhớ ôi" đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi
nhớ da diết, ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về
đồng bào miền Tây. Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây
quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói. Đó là những giây phút ấm áp ngắn
ngủi nhưng lại dịu ngọt, tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ. Cách kết hợp
từ " mùa em" rất độc đáo, gợi những liên tưởng đẹp, lãng mạn về những cô gái Thái
vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương. Hai câu thơ kết thúc đoạn
một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu, ấm áp, tạo
tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo.

Trong những đoạn thơ còn lại, nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh
những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân, những buổi chiều trên sông
nước miền Tây thơ mộng, hư ảo, hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính
Tây Tiến anh dũng, hào hoa. Cuối bài thơ, Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi
gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.

Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng
khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu
nhạc điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về
cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ
thơ mộng miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết
của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến
- một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.

Bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng có thể nói là một trong những bài thơ
thành công nhất về đề tài người lính. Toàn bài đã in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn,
phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài năng và tâm hồn ấy, nhà thơ đã
khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến mang một vẻ đẹp lãng mạn,
đậm chất bi tráng trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, tráng lệ. Bài
thơ này giống như miền kí ức của tác giả về binh đoàn Tây Tiến. Không chỉ có
những ngày tháng gian khó với đèo cao, thác dữ, mưa rừng, thú dữ, sương mù, mà
trong miền ký ức của nhà thơ còn có cả ánh sáng của những đêm liên hoan tưng
bừng và cảnh sắc buổi chiều êm ả, mông lung nơi núi rừng Tây Bắc. Tất cả những
điều đó đã được Quang Dũng tái hiện thành công qua khổ thơ thứ hai của bài.

Bốn câu thơ đầu tiên như một ra thế giới khác biệt nơi miền Tây:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu, nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Hình ảnh “đuốc hoa” được hiểu là cây nến thắp lên trong phòng tối đêm tân hôn,
nhưng ở trong câu thơ đầu, “đuốc hoa” ấy lại mang nghĩa là ánh sáng của đêm liên
hoan. Dù hiểu theo nét nghĩa nào, nó vẫn tạo ra không khí ấm cúng, gợi lên niềm
vui, niềm hạnh phúc của những chiến sĩ. Từ “bừng” ở đây vừa là ánh sáng của đuốc
hoa, ánh sáng của lửa trại, vừa là màn cất giọng của những tiếng khen, tiếng hát,
tiếng cười nói rộn rã của mọi người. Từ “bừng” ấy ta đã từng bắt gặp trong thơ của
Tố Hữu, khi người thanh niên trẻ đã giác ngộ lí tưởng Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Điểm chung của sự “bừng” của Quang Dũng và Tố Hữu là trước nó mang một màu u
tối, và sau nó là ánh sáng ngập tràn. Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng
đang kể lại trong bốn câu thơ này giống như một đám cưới tập thể. Từ “kìa em” ở
câu thơ thứ hai thể hiện được sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của những chàng lính Tây
Tiến trước vẻ đẹp của những cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy,
kiêu sa cùng dáng vẻ “e ấp” đậm chất thiếu nữ. Nhà thơ đã phát hiện ra vẻ đẹp tỏa
sáng của cô gái bằng cả niềm yêu, sự say đắm đến cảm phục từ vóc dáng cho đến
trang phục. Chính trang phục truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, bản sắc văn
hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Vẻ đẹp ấy đã khiến
nhà thơ phải thán phục đến ngạc nhiên. Hình ảnh “em” trở thành hạt nhân của cả
bức tranh đêm hội với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Có thể nói, bốn câu thơ đầu của khổ
hai đã xua tan đi cảm giác mỏi mệt, đẩy lùi những vất vả, gian khó của những người
chiến sĩ. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên
con đường hướng về Viên Chăn xây hồn thơ. Từ đó, người đọc cảm nhận được
rằng dù trong những phút giây vui vẻ, những người chiến sĩ vẫn hướng về lí tưởng
cách mạng cao cả.

Nếu ở bốn câu thơ trước là khung cảnh đêm đuốc hoa, thì ở bốn câu thơ sau là
khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc trong buổi chiều sương:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy


Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc được hiện ra theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội,
khốc liệt của thác dữ bị đẩy lùi đi, thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ
mộng. Hình ảnh “chiều sương” đã cho người đọc thấy được nét đặc trưng vốn có ở
nơi đây.“Chiều sương ấy” dường như là một điều gì đó mơ hồ, không thực, nhưng
nó lại gợi lên màu sắc bảng lảng, mờ ảo mà mang đậm nỗi buồn man mác. Đại từ
“ấy” làm rõ nghĩa cho hình ảnh “chiều sương”, nó thật đặc biệt đến nỗi trở thành kỉ
niệm khiến lòng người bâng khuâng.

Đoạn thơ này mang đậm màu sắc của hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, kết
hợp với cái mờ ảo của sương khói đã tạo nên một miền cổ tích riêng biệt. Có lẽ, chất
họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này.Chỉ với một vài nét chấm phá,
nhà thơ đã làm cho cái hồn của cảnh vật và con người được hiện lên một cách sinh
động và cuốn hút. Hình ảnh cây lau trong câu thơ thứ ba dường như không còn chỉ
là cây lau vô tri vô giác nữa, mà nó có linh hồn của riêng mình – “hồn lau”. “Hồn lau”
gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng, vừa có chút gì đó ma mị
của bức tranh thiên nhiên.

Giữa không gian thiên nhiên nên thơ của vùng núi rừng Tây Bắc, hình ảnh con
người hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường:

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ
da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Dáng người ấy có thể là hình ảnh uyển chuyển, mềm
mại của những cô gái bản địa đưa các chiến sĩ vượt sông, cũng có thể là hình ảnh
của những người lính Tây Tiến chèo chống con thuyền để vượt sông, vượt thác dữ
tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy để lại cho nhà thơ những ấn tượng khó
phai nhòa.

Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm ở câu thơ cuối:

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

Cánh hoa rừng như đang quyến luyến con người, nó như bàn tay vẫy chào người
lính, tiễn họ vượt sông đi đánh giặc.Đoạn thơ đã để lại dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca
kháng chiến mà thành công nhất là sự kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và
cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các yếu tố nghệ thuật.

Có thể nói, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà đậm chất lãng mạn, hào hoa, Quang
Dũng đã tái hiện lại khung cảnh, con người trong đêm liên hoan nơi doanh trại và cả
khung cảnh chiều sương nơi rừng núi Tây Bắc. Với từng nét vẽ mềm mại, uyển
chuyển, nhà thơ đã vẽ nên một thế giới của cái đẹp. Đây cũng là đoạn thơ bộc lộ rõ
nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong cả bài thơ.
Quang Dũng (1921 - 1988) là nghệ sĩ đa tài, có hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu,
lãng mạn và tài hoa, đặc biệt khi ông viết về những người lính Tây Tiến và xứ Đoài
quê mình. Trong các sáng tác của ông thì Tây Tiến là bài thơ xuất sắc nhất, tiêu biểu
cho đời thơ, phong cách sáng tác của ông. Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng
mạn, sự sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu đã bộc lộ một nỗi nhớ sâu sắc
da diết của tác giả về những người lính Tây Tiến anh dũng hào hoa và núi rừng miền
Tây hùng vĩ, mĩ lệ. Có thể nói, nỗi nhớ da diết những người đồng đội Tây Tiến của
Quang Dũng được lắng đọng trong tám câu thơ khắc họa bức chân dung người lính
Tây Tiến:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bài thơ Tây Tiến được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (xuất bản năm 1986) nhưng
trước đó đã được bao thế hệ người yêu thơ truyền tay tìm đọc. Tác giả sáng tác bài
thơ này từ năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh khi ông đã rời khỏi đoàn quân Tây
Tiến chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác. Đơn vị quân đội Tây Tiến được
thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào,
đánh tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng; chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh
niên Hà Nội, có nhiều học sinh, sinh viên, trong đó có Quang Dũng. Họ sống và
chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn, bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn
lạc quan và chiến đấu anh dũng. Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến
trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Lúc đầu, nhà thơ đặt tên tác phẩm là Nhớ
Tây Tiến, nhưng sau đó lại đổi lại là Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác dựa trên nỗi
nhớ, hồi ức, kỉ niệm của Quang Dũng về đơn vị cũ. Thế nên toàn bài thơ là một nỗi
nhớ cồn cào, tha thiết.
Bài thơ được tác giả chia thành 4 đoạn. Đoạn 1 bộc lộ nỗi nhớ những cuộc hành
quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ,
dữ dội, hoang sơ. Đoạn 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong những đêm
liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng. Đoạn 3 tái hiện lại chân dung
người lính Tây Tiến. Đoạn 4 là lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây. Toàn bài thơ
in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn, phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng. Với tài
năng và tâm hồn ấy, Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình tượng người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng trên cái nền cảnh thiên nhiên núi
rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, mĩ lệ.

Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng
đội cùng trèo đèo lội suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã
hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng
đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức
tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân.

Người lính ấy phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu thiếu thốn nên:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà
người lính thường mắc phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài Đồng chí cũng đề cập
đến căn bệnh này: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh-Sốt run người vầng trán ướt
mồ hôi”. Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian khổ, khó khăn,
căn bệnh quái ác đó và sự hi sinh lớn lao của người lính tây tiến, nhưng hiện thực
nghiệt ngã ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để
thuận lợi cho việc đánh giáp lá cà, những cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì đói
khát, vì sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại trở nên oai
phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.

Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực tình yêu thương:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức “trừng” lên quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành,
những người em, những người bạn gái thân thương quê nhà. Quang Dũng với cái
nhìn nhiều chiều, đã khắc hoạ chân dung người lính không chỉ ở dáng vẻ bên ngoài
mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của
họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện
thực này không che giấu theo cách riêng của ông:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ”, “chiến trường”
kết hợp với từ láy “rải rác” đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương
vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình,
xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói “chẳng tiếc đời xanh”
vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành
quân chiến đấu không có đến cả manh chiếu bó thân, qua cái nhìn của Quang Dũng
lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ
oai hùng thuở xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Cách nói giảm “anh về đất” làm
vợi đi cái bi thương, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của sông
Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng
Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng
vừa dữ dội, vừa hào hùng khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà
thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ có nhịp điệu chậm,
giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Quang Dũng
và cả đoàn quân Tây Tiến nguyện thề “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” thể hiện
quyết tâm gắn bó máu thịt với những ngày những nơi mà đoàn quân đã đi qua. Tây
Tiến mùa xuân ấy đã trở thành một thời điểm một đi không trở lại của lịch sử. Lịch
sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến
nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.

Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương
vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hy sinh của đồng đội. Đoạn
thơ với, cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt
ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây tiến đậm chất bi tráng.
Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình
ảnh về đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền tây.

Bài thơ “Tây Tiến” là một trong số những bài thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Quang
Dũng mà người đọc ấn tượng nhất. Bài thơ được viết năm 1948. Cảm xúc bao trùm
toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ bất tận. Qua nỗi nhớ ấy, những hình ảnh núi rừng Tây
Bắc hùng vĩ hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh khổng lồ hoành tráng. Và
trong bài thơ này , ông cũng không quên lột tả tất cả những gian khổ hi sinh của
người lính Tây Tiến. Chỉ có điều nó thể hiện bằng một ngòi bút cực kì lãng mạn. Qua
cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng nhiên trở thành cái hùng tráng. Khổ cuối của bài
thơ cũng rất thật đặc sắc, gói gọn tình cảm chân thật của nhà thơ vào những câu
chữ sau:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Đúng vậy, đoàn binh Tây Tiến mang trên mình sứ mệnh bảo vệ quê hương đất
nước. Họ luôn dốc toàn bộ sức lực của mình có được. Hàng ngày họ vẫn phải chiến
đấu ác liệt với kẻ thù nguy hiểm, họ còn phải quật cường trước thiên nhiên hiểm trở
với những căn bệnh thời tiết, đói nhưng họ vẫn luôn oai nghiêm hùng dũng vượt lên
bên trên tất cả. Họ là bức tượng của tinh thần yêu nước vĩ đại, quyết chiến quyết
thắng. Trước khi bước chân lên đường tham gia chiến đấu, họ chỉ là những cô cậu
sinh viên Hà thành với tuổi đời còn rất trẻ với nhiều hoài bão ước mơ. Khi tổ quốc
cần, họ sẵn sàng bỏ lại sau lưng tất cả lên đường cầm súng chiến đấu với tinh thần
chiến đấu quả cảm. Họ biết ranh giới giữa sự sống và cái chết mong manh như sợi
chỉ có thể đứt bất cứ lúc nào. Họ lên đường chiến đấu, ra đi không một lời hẹn ngày
trở về. Họ trao cả mạng sống của mình cho Tổ quốc – nơi đã sinh ra họ.

Ở nơi núi rừng thiêng nước độc, mỗi bước chân hành quân của họ đều rất khó khăn,
nhiều gian truân. Họ vẫn đi, họ vượt qua dốc qua đèo hiểm trở, họ bỏ lại những bản
làng khuất dần sau rặng tre: “Đường lên thăm thẳm một chia phôi”. Do hoàn cảnh
chiến đấu rất khắc nghiệt có bao nhiêu gian khổ thiếu thốn cả về vật chất tinh thần
nên hành trình chiến đấu của họ dai dẳng không hồi kết. Vì vậy một tí hi vọng trở về
là rất mong manh, ngày càng xa xôi khó nắm bắt được trong sự vô vọng. Trong bối
cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Pháp, với sự đơn sơ về vũ khí
của ta, sự nghèo nàn về mọi thứ khác nào lấy trứng chọi với đá. Vì vậy sự hi sinh là
điều không thể tránh khỏi. Họ phải vì tổ quốc quên thân vì dân phục vụ, hi sinh tính
mạng mình để đổi lấy độc lập tự do cho dân tộc. Bao nhiêu thế hệ còn rất trẻ cầm
súng lên đường chiến đấu chỉ với khẩu hiệu giản dị “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.

Họ cống hiến hết mình, họ hi sinh thầm lặng cho Tổ quốc không một lời kêu ca hay
phàn nàn mà đó là bổn phận, là trách nhiệm cao cả nghĩa vụ của người công dân
yêu nước nồng nàn, có ý chí chiến đấu tinh thần thép cao cả. Hai câu thơ trên đã lột
tả ý chí chiến đấu quật cường ấy, làm nổi bật lên tinh thần yêu nước anh hùng của
họ. Đối với nghệ thuật dùng từ “không hẹn ước”, “chia phôi” kết hợp với giọng điệu
chậm rãi nhẹ nhàng, Quang Dũng như lần nữa khắc họa sự hi sinh thầm lặng mà
cao cả của quân đoàn Tây Tiến. Nỗi nhớ dâng trào trong lòng nhà thơ để ông tiếp
tục chắp bút tô vẽ nên:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy


Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Ta có thể thấy “mùa xuân” có nhiều nghĩa. Đó là mùa đẹp nhất trong một năm. Đây
cũng là thời điểm thành lập lên đoàn quân Tây Tiến. Mùa xuân là mùa của đất nước.
Nó cũng ẩn dụ cho tuổi trẻ của những người chiến sĩ đã một đi không trở lại. Họ
mang theo sức trẻ nhiệt huyết cháy bỏng của mình bước lên đường hành quân chiến
đấu. Tuy nhiên, họ đã hi sinh nhưng hồn của họ không về quê hương vội mà vẫn
còn sang nước bạn hợp lực tác chiến với quân dân Lào chống Pháp. Họ quyết tâm
thực hiện lí tưởng đến cuối cùng nên kể cả khi họ đã ngã xuống nhưng hồn của họ
vẫn chiến đấu tới cùng, vẫn đi cùng đồng đội, sống ở trong lòng họ mãi mãi. Đó cũng
là mang tính sử thi cao. Cả tuổi trẻ của họ chỉ với một mục tiêu chiến đấu bảo vệ tổ
quốc. Họ vẫn rong ruổi chiến đấu hết mình trên suốt cuộc hành trình khó khăn ấy
của mình. Phải chăng tình yêu quê hương đất nước của họ sâu đậm thấm nhuần
vào trong máu thịt đến nhường nào mới có thể bất diệt như vậy?

Tóm lại, với giọng điệu đằm thắm da diết, bốn câu thơ cuối được viết như những
dòng chữ tạc trên bia mộ của những người chiến sĩ gan dạ Tây Tiến. Đó là hình ảnh
người chiến sĩ dũng cảm, nhiệt huyết, đến lúc ngã xuống vẫn giữ trọn lời thề cho quê
hương tổ quốc. Họ là những con người đau thương nhưng không bị bi lụy, tràn đầy
niềm tin và tinh thần sôi sục nhiệt huyết căng tràn sức sống tuổi trẻ. Tây Tiến xứng
đáng là bài thơ tuyệt vời của Quang Dũng góp nhặt để lại cho thế hệ sau này.

You might also like