You are on page 1of 37

Phân tích Tây Tiến – Mẫu 3

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của
những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc
họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh
hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ
lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng
cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài
đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm
gian khổ ấy bất tử cùng thời gian

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!



Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông –
Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ
đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp
với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng
rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội
trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông
chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng
quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên
bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành
“Tây Tiến” vì cả bài thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi
lên nỗi nhớ – cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.

Là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống và
chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong
lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã
làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí
ức của nhà thơ.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người
thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ
trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là 1 con sông – nơi đã từng là địa
bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1
chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn,
được mất. “Tây Tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người
bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.

Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi
nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da
diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào
trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ
trong ca dao:

“Ra về nhớ bạn chơi vơi Nhớ chiếu bạn trải


Nhớ chăn bạn nằm”

Hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ
trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông…- địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến – những cái tên mang âm
hưởng của rừng núi hoang vu và man dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp hùng vĩ mà dữ
dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng thiêng nước
độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc
sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”.
Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước
trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh
“sương” vào đây để khắc họa rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong
những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết
trong “Tiếng hát con tàu”:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ


Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với
vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp.
Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời.
Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. Bởi
nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng
“thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ
láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã
làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc.
Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất
táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên
cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong
lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân
guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo
leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường hiểm trở vừa
vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc
đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng
bị bẻ gập lại:

“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên
thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi
núi rừng:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong
thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét
cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng
mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng
cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi
rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi
rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. Những câu thơ
Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “Chinh phụ
ngâm khúc”

“Hình khe thế núi gần xa


Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”

8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội
Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở
thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính
Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.

Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên ngang,
khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp đẽ. Nhưng thơ
Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh Tây Tiến.
Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng dám nhìn thẳng vào những
tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính
Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu sóng
gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những
phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kháng
chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ của người lính cũng
là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được nữa trên con đường hành
quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang Dũng gục lên súng ngủ.
“Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,biểu thị không còn sức chịu
đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. Câu thơ:
“gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và
hy sinh.

Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy
sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói
về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp
với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết rồi mà vẫn ngang tàng, khí
phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh thần, thái độ của người lính trước
cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường,
đến với núi rừng miền Tây và biết rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay
chinh chiến mấy ai trở về)

Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông qua
không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm đến cả
mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại
được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét


Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng núi Tây
Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ trên cao và cứ
mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê rợn. Quang Dũng
bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét
của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã phát huy tối đa trí tưởng
tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng, miền đất ấy còn chứa nhiều
điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình
rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt
qua.

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói


Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp
thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên
miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau những câu thơ rất dữ
dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. Câu cảm thán gợi nỗi
bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau
một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp
lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói rơm bay lên hòa
quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả,
gian khổ. Chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh
sinh hoạt tươi vui.

Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới,
khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây Tiến cũng say
mê, lãng mạn trong đêm hội:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn toàn với
những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc
nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa
nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian Tây Bắc chơi vơi trong một
miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc
sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ. Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng
khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói.
Ngòi bút tả thực của Quang Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa
đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời
sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang
Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong
tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng
loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng
mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người
con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi
cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc


Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ”Sài Khao
sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên
hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc
tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh
việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét
rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây
(chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ.
Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến
binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của
Quang Dũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra
âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”

Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã
làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh.
Hai chữ “đoàn binh” – âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang,
hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ “Quân xanh
màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính
mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức
mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa.
Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc
giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh
trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài
long xâm lược quân“

Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông
để câu thơ mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền
với sức mạnh truyền thống của Dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân xanh màu lá dữ oai
hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông Á.

Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng
mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. Hình
tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức
tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình
ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà
còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa lệ có một
khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những mộng đẹp,
những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo hẹp khoảng cách.
“Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi
niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào cụ thể nào, cũng không
chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người lính
cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tổ quốc, hướng về Thủ đô. Người
lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà
Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm
thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu
trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người
lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho
vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức
đặc sắc – những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là
con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ
biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao
nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một
dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta bỗng nhớ đến
câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở nước – Nghìn năm
thương nhớ đất Thăng Long”

Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn
binh với những bước chân Tây Tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm
hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc
bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Quang Dũng đã mô tả một
cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì
thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí
phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng mình ghê sợ
trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào,
kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn binh. Những từ Hán Việt
“biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như
những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào
cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì
có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một
cách kiêu hãnh là “áo bào”. Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có
quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã
cho những mảnh chiếu cuốn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên
những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau
lòng nên đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi
và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại
bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Với
hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo con đường
hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người lính Tây Tiến là
một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với con
người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc
tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất
trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi, có dòng sông Mã anh hùng dạo lên
khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.

Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực,
lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc
thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết
bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm
cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước đường của người
chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.

“Tây Tiến người đi không hẹn ước


Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người đọc
hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn kháng chiến
chống Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng diễn đạt tài
tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến, dựng
lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến
đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người lính Tây Tiến
được khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội,
đối với đất nước của mình.
VIỆT BẮC ( TỐ HỮU)

I. Tìm hiểu chung

Tác giả: Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ
của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất
nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình chính trị đậm nét
đồng thời thể hiện được sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của chính nhà
thơ.
2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm cách
mạng tới khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây người dân Việt Bắc
che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên bộ đội, cán bộ để giành và bảo vệ nền độc lập
dân tộc.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc
thắng lợi, tháng 10/1954, các cơ quan trung ương của Đảng và chính phủ từ biệt
căn cứ địa Việt Bắc trở về Hà Nội. Một loạt những vấn đề đặt ra trong đời sống
tình cảm của dân tộc: liệu những người chiến sỹ có giữ được tấm lòng thủy chung
với đồng bào Việt Bắc và quê hương. Có nhớ những tháng ngày gian khổ, hào
hùng và sâu nặng nghĩa tình trong kháng chiến? Việt Bắc sẽ có vị trí như thế nào
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ mới?…

Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác Việt Bắc. Bài thơ gồm có
hai phần: Phần đầu tái hiện hình ảnh của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc,
phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, của
Bác Hồ đối với dân tộc. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện nghĩa tình thắm thiết với Việt
Bắc – quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay
đã trở thành kỷ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình
trong quá khứ và niềm tin ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình của con người
Việt Nam trong kháng chiến mà chiều sâu của nó là truyền thống ân nghĩa, là đạo
lý thủy chung của dân tộc.
b.Cấu tứ chung của bài thơ

Bài thơ được đặt vào trong hoàn cảnh đặc biệt của một cuộc chia tay đầy nhớ
thương lưu luyến giữa những con người từng gắn bó lâu dài, từng chia sẻ mọi ngọt
bùi cay đắng. Nay trong giờ phút chia tay cùng nhau gợi lại những kỷ niệm đẹp đẽ
trong quá khứ, khẳng định nghĩa tình bền chặt, sự thủy chung và hẹn ước về tương
lai.

Nhưng đây lại là một cuộc chia tay rất đặc biệt vì người ra đi thực chất lại là người
trở về, cuối chặng đường của người đi không phải là chân trời góc bể xa xôi mà là
tổ ấm gia đình, là thủ đô hoa lệ, là cuộc sống hòa bình., và vì thế trong lòng người
ở lại, ngoài nỗi nhớ thương còn là niềm trăn trở về sự thủy chung của người đi.

Với hai nhân vật trữ tình là người đi – kẻ ở, bài thơ được kết cấu theo hình thức đối
đáp tựa như những câu hát giao duyên trong ca dao xưa. Thực ra, bên trong lớp đối
thoại của kết cấu là lời độc thoại của tâm trạng: kẻ ở – người đi, câu hỏi lời đáp
cũng chỉ là sự phân thân của chủ thể trữ tình, là thủ pháp để nhà thơ bộc lộ nỗi
niềm tâm trạng, tạo ra sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân. Để thể hiện sự phân thân
ấy, bài thơ đã sử dụng sáng tạo và tinh tế hai đại từ “mình” và “ta”. Trong tiếng
Việt, “mình” có thể là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để chỉ bản thân người nói,
cũng có thể là ngôi thứ hai để chỉ những đối tượng giao tiếp thân yêu, gần gũi,
thường hay xuất hiện trong các quan hệ tình yêu, vợ chồng. Trong bài thơ Việt
Bắc, “mình” lại chủ yếu được dùng ở ngôi thứ hai cho thấy sự gắn bó thân thiết vô
cùng giữa hai nhân vật đối đáp – “mình” có thể là người ra đi trong câu hỏi của
người ở lại: “Mình về có nhớ ta”, có khi là người ở lại trong những xao xuyến của
người đi: “Ta về mình có nhớ ta”; tuy nhiên “mình” cũng có lúc chuyển hóa đa
nghĩa, vừa là người đi, vừa là người ở lại trong sự hòa nhập, gắn kết: “mình đi
mình có nhớ mình?”. Đại từ “ta” cũng được sử dụng rất linh hoạt, độc đáo chủ yếu
ở ngôi thứ nhất – người phát ngôn, nhưng nhiều khi lại dùng để chỉ chung người
đi, kẻ ở với nghĩa “chúng ta” như “rừng cây, núi đá, ta cùng đánh tây ”… Hình ảnh
người ở – người đi và cách đối đáp xưng hô Mình – Ta này thường dùng để diễn tả
những tình cảm riêng tư như tình bạn, tình yêu., nay thể hiện những nghĩa tình
thiêng liêng lớn lao của cách mạng. Cách cấu tứ đặc biệt này khiến chuyện nghĩa
tình cách mạng, kháng chiến được diễn tả bằng ngôn ngữ và giọng điệu ngọt ngào
của tình yêu, đưa người đọc vào khoảnh khắc xúc động của ân tình lưu luyến, của
hồi tưởng và hoài niệm, của tin tưởng và ước vọng. Đây cũng là nét riêng đặc sắc
trong phong cách thơ Tố Hữu.
c. Vị trí – giá trị

Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thành công xuất sắc
của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, cuộc kháng chiến
và con người kháng chiến. Bài thơ đã thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong
phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.

II. Phân tích

Nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người
ra đi và tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thuỷ
chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng (24 câu thơ đầu)
a. Khúc dạo đầu ân tình thủy chung và niềm nhớ thương đầy trăn trở của người ở
lại với người ra đi (bốn câu đầu).

Nội dung chủ yếu trong hai cặp câu lục bát này là hai câu hỏi láy lại da diết:

“Mình về mình có nhớ ta

…Mình về mình có nhớ không?”

“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là lối xưng
hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở
đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn, nhớ nhung của
đôi lứa:

“Mình về mình nhớ ta chăng


Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Hoặc:

“Mình về ta dặn câu này

Dặn dăm câu nhớ, dặn vài câu thương”

Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn học dân tộc để gửi
gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới, những câu ca ngọt ngào
của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể
hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi.

Hai câu thơ lục bát có tới bốn tiếng “mình” và chỉ có một tiếng “ta”. Tương quan
ngôn từ ấy đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian và đầy ắp
trong nỗi nhớ của người ở lại đồng thời cũng gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho
người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu…

Đoạn thơ đã sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao khiến nỗi nhớ trở nên miên
man da diết không thể nguôi ngoai, cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn
trở, thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài: liệu những người chiến
thắng có giữ được tấm lòng thủy chung, có mãi nhớ tất cả những người đã góp
phần tạo nên chiến thắng.

Câu hỏi thứ nhất hướng về thời gian, đó là “mười lăm năm ấy…”. Trong tiếng
Việt, đại từ “ấy” luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về
một quá khứ thật xa xăm, trở thành những thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm
ngùi, tiếc nuối. Câu thơ cũng đồng thời gợi liên tưởng đến câu Kiều đằm thắm về:
“mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”. Còn trong câu thơ của Việt Bắc, “mười
lăm năm ấy’ là những thời gian từ “. khi thắng Nhật, thuở Việt minh” và sau đó là
những năm tháng kháng chiến, là những thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa
của Cách mạng, trở thành thủ đô kháng chiến. Đó cũng là những thời gian “thiết
tha mặn nồng”, là thời gian mà “ta” và “mình” từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với
“biết bao nhiêu tình”, biết bao ân sâu nghĩa nặng.
Nếu câu hỏi thứ nhất “mình về mình có nhớ ta” làm xao xuyến lòng người bởi sự
phảng phất giọng điệu những câu ca về tình yêu, thì câu hỏi thứ hai “mình về mình
có nhớ không’ lại khiến con người phải trăn trở, suy ngẫm vì sự tha thiết và
nghiêm nghị trong giọng điệu câu thơ. Câu hỏi này hướng đến không gian:

“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? ”

+ Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như “cây”, “sông”
và miền núi như “núi”, “nguồn”. Nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít trong lòng người
như đã hiện hữu ngay trong sự đan xen ngôn từ. “Nhìn cây… nhìn sông” là thực tế
chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê
hương, với đồng bằng còn “nhớ núi”, “nhớ nguồn” là để tâm hồn trở về với quá
khứ, với Việt Bắc, điều này có xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung
của người ra đi. Câu thơ tiềm ẩn mối tương quan giữa thực tế và mong đợi, như
tiềm ẩn một chữ “có” đầy trăn trở: “nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn?”

+ Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung và niềm trăn trở, ý thơ còn đem
đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình đạo lý, về cội nguồn chung thủy, về nét
đẹp trong đời sống tư tưởng của một dân tộc luôn nhắc nhau “uống nước nhớ
nguồn”. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện
trong thơ Tố Hữu:

“Ngọt bùi nhớ lúc đắng ca

Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”

Với những câu hỏi tu từ da diết, những hình thức điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc,
những cách vận dụng tinh tế và sáng tạo ca dao tục ngữ dân gian., đoạn thơ đầu đã
thể hiện ân tình sâu nặng của đồng bào miền Bắc với bộ đội, cán bộ kháng chiến
trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến.

b, Nỗi bâng khuâng, lưu luyến, nhớ nhung của người đi kẻ ở (4 câu tiếp)
Câu thơ đầu nhắc tới “tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao
xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại gửi gắm trong bốn câu thơ
trên đã được người ra đi thấu hiểu cảm nhận. “Ai” chính là người ở lại nhưng tính
chất phiếm chỉ trong cụm từ tiếng ai đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha thiết
trong bốn câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh
vọng từ cỏ cây núi rừng, suối sông Việt Bắc, là tiếng lòng của người ở lại, tuy
nhiên sự tri âm tri kỷ đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại “thiết tha”,
người ra đi “tha thiết”, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng.

Những âm thanhh ấy cứ quấn quýt vương vấn theo từng bước chân khiến người đi:

“Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”

+ Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối, đồng điệu
trong cảm xúc của con người.

+ “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự
đan xen buồn vui, luyến tiếc nhớ nhung., khiến con người như ngơ ngẩn. “Bồn
chồn” miêu tả tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên. Tuy cũng
là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng “bồn chồn” không dừng lại ở những nỗi
niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ hay hành
động. Vì thế câu thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn nhớ nhung trong lòng mà còn
gợi tả cả những bước chân ngập ngừng lưu luyến của người đi.

Sự ngập ngừng được thể hiện rõ nét trong cử chỉ “cầm tay nhau” chứa chan ân tình
xúc động; trong sự lặng im vì “biết nói gì hôm nay.”, khi mọi lời nói đều bất lực,
đều không thể diễn tả những nỗi niềm đang trào dâng mãnh liệt; sự ngập ngừng
đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3-3- hai bồn chồn, day dứt thay thế cho nhịp chẵn
êm đềm thông thường của thể thơ lục bát:

“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Trong giờ phút chia ly, nếu “tiếng ai” là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là
tiếng lòng của người ở lại, là tiếng vọng từ trong tâm tưởng, trong cảm nhận của
người ra đi thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại cụ thể đến nao lòng:
“Áo chàm đưa buổi phân ly”

Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ,
nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh
viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo
chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người dân Việt Bắc, vừa khắc họa tính
cách mộc mạc và tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ
đã đồng thời cho thấy cả sự xót xa và niềm cảm phục đầy thương mến của những
người ra đi với đồng bào Việt Bắc.

Đoạn thơ đã miêu tả giờ phút chia tay giữa những người dân Việt Bắc với bộ đội,
cán bộ kháng chiến, từ nỗi bâng khuâng trong tâm trạng, sụ ngập ngừng mỗi bước
chân đi, cử chỉ “cầm tay nhau” thân thương trìu mến, cho đến cả sự im lặng không
lời xiết bao xúc động. Bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng nhớ nhung của người về
xuôi với người ở lại, vừa tái hiện sinh động cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến, sâu
nặng nghĩa tình trong ngày chiến thắng.

c. Nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của người ở lại (Mười hai câu tiếp theo)

Đoạn thơ đã tái hiện những kỷ niệm thật cụ thể, xúc động với sáu câu hỏi của
người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng
khi giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong các điệp ngữ của
câu 6 “mình đi có nhớ… mình về có nhớ… ”, sự đắp đổi trong hai vế của các câu
8, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt, ngọt ngào cho đoạn thơ.
Nhạc điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương, xao xuyến, giăng
mắc trong lòng kẻ ở người đi, để qua đó, quá khứ đầy ắp kỷ niệm đã ào ạt trở về.

Trong những lời nhắc nhở tha thiết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc đã
hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với “mưa nguồn, suối
lũ, lau xám, mây mù.” tới cuộc sống kháng chiến gian khổ thiếu thốn với “miếng
cơm chấm muối”, từ những trang sử hào hùng “khi kháng Nhật, thuở Việt minh”
tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi “Tân Trào, Hồng
Thái.”
Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu
nặng giữa “mình” và “ta”, giữa đồng bào Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ đã
cùng nhau chia sẻ từ những kham khổ thiếu thốn khi nhương nhau “miếng cơm
chấm muối” đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau “mối thù nặng vai”; họ đã
sát cánh bên nhau cùng vào sinh ra tử trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ
thời mặt trận Việt Minh tới thời kháng chiến chống Pháp. Những chia sẻ trong quá
khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian
truân vất vả chỉ làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc
nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng
chiến.

Những gắn bó ân tình trong suốt “mười lăm năm ấy” đã làm tăng thêm nỗi nhớ
nhung và cảm giác trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:

“Mình về rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già”

+ Câu ó vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi
mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. “Rừng núi” là hoán dụ cho người dân Việt
Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ, “ai” chính là “mình” – người ra đi. Nỗi nhớ và một
chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh trong cấu trúc
câu nghi vấn lại càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ của đại từ “ai” khiến
hình ảnh người đi trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người
dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành.

+ Câu 8 gồm hai vế đối xứng nhắc đến “trám bùi” và “măng mai” là những sản vật
quen thuộc và quý giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc “Trám bùi để rụng,
măng mai để già’” gợi nên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ sau lưng người đi
cùng cảm giác buồn bã, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như sau khi người
ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để
già hoang phí giữa rừng sâu.

Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau – đó là sự thẩu hiểu, cảm thông đầy tâm trạng.
Câu hỏi:
“Mình đi có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son’”

là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: đừng bao giờ quên những con người
nghèo khổ mà son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.
Phép tương phản trong hai tiểu đối trong câu 8 đã trở thành những nét phác họa
đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám ” vừa là
hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa là
ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân Việt Bắc. “Nhà” là hoán dụ cho con
người, “đậm đà lòng son” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi những tấm lòng trung hậu,
nghĩa tình của người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu
của rừng núi lại càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt thủy chung

Câu thơ “mình đi mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét
nghĩa khác nhau của từ “mình” thứ ba ở cuối câu thơ. Có thể hiểu “mình” là “ta” –
người ở lại, khi ấy câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn
trở: mình đi, mình có còn nhớ đến ta không – đây cũng là nỗi niềm da diết trong
suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập, gắn kết thật đằm thắm giữa “ta”
và “mình”, người đi và kẻ ở, tuy hai mà một, không thể chia xa, tách rời. Đồng thời
có thể hiểu “mình” là người ra đi, Và khi ấy, câu hỏi sẽ trở thành lời nhắc nhở tha
thiết, sâu xa và nghiêm nghị: “mình” đi, “mình” có nhớ và giữ được mãi là con
người mình của “mười lăm năm ấy” – con người “ta” yêu mến, trân trọng, nhớ
thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình đã sát cánh bên “ta” trong
kháng chiến, đã cùng “ta” chia ngọt sẻ bùi trong quá khứ? Đây cũng có thể coi là
lời nhắc: đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội,
đừng bao giờ quên “mảnh trăng giữa rừng”, đừng bao giờ quên những năm tháng
kháng chiến gian khổ hào hùng, khi trở về với cuộc sống hòa bình! (Liên hệ ánh
trăng của Nguyễn Duy)

Câu thơ “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” đã thể hiện được những tầng ý
nghĩa sâu sắc. Mái đình Hồng Thái và Cây đa Tân Trào đã được tách ra trong hai
vế của câu thơ: Tân Trào, Hồng Thái là những địa danh lịch sử, trong đó đình
Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội tháng 8 năm 1945, thành lập Ủy ban dân
tộc giải phòng và phát động lệnh tổng khởi nghĩa; bên gốc cây đa Tân Trào, đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi
nghĩa; vế thứ hai của câu thơ là “mái đình, cây đa” – những hình ảnh bình dị, quen
thuộc và xưa cũ vô cùng của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp hẹn hò, là không
gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai tiểu đối trong câu thơ đã
thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: Khi Việt
Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách
mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm thiêng
liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh lịch sử cũng
trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò. tình cảm của nhân dân với người
kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu đôi lứa.

d. Lời khẳng định nỗi nhớ, sự thuỷ chung son sắt của người ra đi khi từ biệt quê
hương cách mạng để về xuôi (bốn câu cuối)

Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó sử dụng phép lặp đan xen giữa “ta” –
“mình” cùng từ “với” kết nối:

“Ta với mình, mình với ta”

Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quýt, giao hòa, gắn kết giữa người
đi, kẻ ở, khăng khít không thể tách rời

Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa “mình” và “ta” là một lời khẳng định
sắt son:

“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Nghĩa tiếng Hán của cụm từ “sau trước” chính là “chung thủy” – sống có trước có
sau, thủy chung như nhất là đạo lý truyền thống của người Việt Nam từ bao đời
nay. Sau trước còn gợi một khoảng thời gian dài từ quá khứ qua hiện tại đến tương
lai, “thức lâu mới biết đêm dài.”, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau.
Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, những khó khăn gian khổ cùng
nhau chung vai gánh vác, những tâm tình cùng nhau chia sẻ đã khiến tình cảm giữa
họ thêm “mặn mà”, sâu nặng; “đinh ninh” là chắc chắc, là không đổi, không quên
– tình cảm đã “mặn mà” trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian không bao
giờ nhạt phai, thay đổi.
Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:

“Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu’

Nếu người ở lại đã băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu
xa: “Mình đi mình có nhớ mình’ thì người ra đi cũng trả lời trong một sụ hô ứng,
đồng cảm, đồng vọng: “Mình đi mình lại nhớ mình”. vẫn là cách sử dụng đại từ
“mình” ở cuối câu thơ với những tầng ý nghĩa sâu sắc: nếu hiểu “mình” là người ở
lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người
có sự gắn bó hòa nhập sâu sắc; còn nếu hiểu “mình” là người ra đi, câu trả lời sẽ là
lời khẳng định: ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể
khiến người trở về quên “vầng trăng tình nghĩa’’”, quên “mảnh trăng giữa rừng’”,
quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không
bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc. Hình ảnh so sánh phảng phất phong vị
ca dao “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” trong câu 8 đã nhấn mạnh
mức độ của nỗi nhớ và nghĩa tình thủy chung. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu
tượng nay được cụ thể hóa và hiện hữu như nước trong nguồn đầy ắp, lặng thẩm và
vô tận; sau nữa, hình ảnh “nước trong nguồn’ còn gợi những suy ngẫm sâu xa về
nguồn cội, về đạo lý thủy chung “uống nước nhớ nguồn”. Hình ảnh so sánh trong
câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc:

“Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn’

Đoạn thơ lục bát mang âm hưởng ngọt ngào của ca dao đã ghi lại những lời giao
đối, những câu hỏi da diết, những tiếng vọng thủy chung của người đi kẻ ở trong
một cuộc chia tay đầy lưu luyến. Đoạn thơ đã thể hiện đậm nét phong cách nghệ
thuật thơ Tố Hữu trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật: từ lẽ sống và tình cảm
lớn lao đến giọng điệu tâm tình ngọt ngào, từ những bút pháp nghệ thuật đậm đà
tính dân tộc cho đến những thi liệu, thi tứ phảng phất âm hưởng của ca dao dân ca.
Qua đó, nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với cách
mạng cũng như tình cảm thủy chung của người kháng chiến với mảnh đất và con
người Việt Bắc, với những năm tháng kháng chiến hào hùng, oanh liệt và sâu nặng
nghĩa tình.

2. Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc, với cuộc
sống sinh hoạt thời kháng chiến (từ câu 25 – đến câu 42)

a. Nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên
Việt Bắc (câu 25-30):

Trong phần đầu của bài thơ, nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi
với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc. Cả ba cặp câu lục bát đều bắt
đầu bằng chữ “nhớ” thật tha thiết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả
qua những so sánh ngọt ngào, thấm thía:“Nhớ gì như nhớ người yêu”. “Nhớ người
yêu” là nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể vơi cạn, nguôi ngoai, một nỗi nhớ
nhiều khi mãnh liệt đến phi lý như cách nói của Xuân Diệu:

Uống xong lại khát, là tình

Gặp rồi lại nhớ, là mình với ta”

Đó là nỗi nhớ khiến chính Tố Hữu phải ngạc nhiên:

“Lạ chưa, vẫn ở bên em

Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em”

Có thể coi đây là một sánh thể hiện sắc thái đặc biệt nhất và mức độ cao nhất cho
nỗi nhớ của con người. Qua so sánh ấy, T ố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và
nỗi nhớ thiết tha với mành đất và con người Tây Bắc.

Chính sự liên tưởng ngọt ngào tới tình yêu đã khiến những hình ảnh sau đó của
thiên nhiên Việt Bắc cũng thấm đẫm hương vị tình yêu. Từng cảnh vật của Việt
Bắc trong mọi thời gian và không gian đã liên tiếp, dồn dập hiện ra trong nỗi nhớ
của người ra đi. Việt Bắc khi thư mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu
núi, khi ấm áp nhạt nhòa trong ánh “nắng chiều lưng nương”, lúc lại mơ hồ huyền
ảo giữa những “bản khói cùng sương”, và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự
quấn quýt với hình ảnh con người khi “sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”.
Nếu trong câu thơ đầu, người Việt Bắc mới chỉ hiện lên trong so sánh với nỗi “nhớ
người yêu” thì tới câu thơ này, họ đã thực sự trở thành “người thương” trong lòng
người về xuôi. Những cảnh vật ở Việt Bắc dù có tên như “Ngòi Thia, sông Đáy,
suối Lể” hay không tên như “bờ tre rừng nứa”… tất cả đều in đậm trong nỗi nhớ
người ra đi, đó là nỗi nhớ không thể nguôi ngoai, vơi cạn dù nước suối dâng có lúc
“vơi đầy”. Từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho
thấy nỗi nhớ da diết của người đi với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc

b. Hình ảnh con người Việt Bắc trong những hoài niệm xúc động về kháng chiến
(câu 31 – 42)

Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, ở đoạn thơ sau, người
Việt Bắc đã trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc động về cuộc sống sinh
hoạt thời kháng chiến.

Như để trả lời câu hỏi tha thiết của người dân Việt Bắc:“Mình đi có nhớ những
ngày”, người ra đi đã khẳng định:“Ta đi ta nhớ những ngày”, và ngay sau đó là sự
lý giải thấm thía, chân tình cho cội nguồn của nỗi nhớ: Họ đã từng bên nhau trong
suốt “mười lăm năm ấy”, từ “khi kháng Nhật thuở Việt minh’” cho đến những năm
tháng kháng chiến chống Pháp, đã từng chung vai sát cánh, đồng cam cộng khổ, đã
từng chia sẻ với nhau bao đắng cay ngọt bùi, những ngày tháng ấy đã làm nên sự
gắn bó, thấu hiểu và nghĩa tình. Xét cho cùng đó chính là nguyên nhân làm nên nỗi
nhớ sâu đậm của người ra đi với người ở lại.

Sau một chữ “thương” xót lòng, quá khứ đã hiện ra với cả gian truân và tình nghĩa:

“Thươngnhau chia củ sắn lùi”

Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”


“Sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui” là những hình ảnh cụ thể và chân thực cho
thấy cuộc sống kháng chiến gian khổ và thiếu thốn vô cùng. Đối diện với người
kháng chiến không chỉ có kẻ thù mà còn có cả cái đói, cái rét. Người dân Việt Bắc
và bộ đội cán bộ kháng chiến đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách,
những thiếu thốn gian khổ bằng sức mạnh của tình yêu thương. Các động từ “sẻ”,
“đắp cùng” đã đã thể hiện nghĩa tình cảm động giữa người dân Việt Bắc với những
chiến sỹ kháng chiến. Tình thương, sự chia sẻ đã làm cho họ thấy ấm lòng và có
thêm sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng. Đó cũng là cội nguồn sâu xa nhất của
nỗi nhớ và tình nghĩa thủy chung.

Hình ảnh cuộc sống gian khổ đói nghèo và sự vất vả cực nhọc của người dân Việt
Bắc trong những công việc thầm lặng hàng ngày góp phần phục vụ cách mạng và
kháng chiến đã trở thành nỗi nhớ xót xa trong lòng người đi:

“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng

Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Câu thơ miêu tả hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người
dân Việt Bắc: những người mẹ địu con cùng đi làm nương, làm rẫy. Hai thanh trắc
liên tiếp trong cụm từ “nắng cháy” không chỉ gợi ra cả một vạt nương ngập nắng,
gợi ra hình ảnh những tia nắng gay gắt, chói chang làm cháy rát lưng người, mà
còn khiến câu thơ như nhói lên niềm thương xót. Câu thơ sau khắc hoạ công việc
lao động vất vả, cơ cực của người mẹ Việt Bắc bởi ba động từ: “địu… lên… bẻ” ,
nhưng đổi lại kết quả chỉ là “từng bắp ngô” nhỏ nhoi, ít ỏi. Sự tương phản giữa
công việc và kết quả cho thấy sự cực nhọc của con người, làm tăng thêm đồng thời
cả nỗi xót thương và niềm cảm phục trong trái tim người ra đi.

Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay những
gian nan vất vả, cuộc sống thời kháng chiến còn hiện ra trong những kỷ niệm vui
tươi, đẹp đẽ, thân thương. Nỗi nhớ hướng tới những “lớp học i tờ” – hình ảnh cảm
động của phong trào bình dân học vụ xóa nạn mù chữ những ngày đầu kháng
chiến; hình ảnh gợi tới những tiếng đánh vần ngọng ngịu, những nét chữ viết vụng
về, những say mê háo hức của người dân khi được học con chữ của cách mạng, của
Bác Hồ, những lớp học tranh thủ ngoài thời gian lao động chiến đấu: “Nhớ sao lớp
học i tờ”. Nỗi nhớ còn hướng tới những đêm liên hoan đầm ấm giữa người dân
Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, với âm thanh tha thiết của tiếng “ca vang núi
đèo’’”, với những náo nức của “đồng khuya đuốc sáng”:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan

Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”

Những hình tượng bình dị thân thuộc của cuộc sống nơi núi rừng như âm thanh của
“tiếng mõ rừng chiều”, của tiếng “chày đêm nện cối”, của tiếng suối vẳng xa vời
vợi., những âm thanh ấy vừa gợi cảm giác êm đềm, yên ả, vừa cho thấy tình cảm
thắm thiết và nỗi nhớ nhung sâu đậm của người ra đi với cuộc sống và con người
nơi chiến khu Việt Bắc.

Đoạn thơ mang giọng điệu trữ tình đằm thắm, vừa như những lời ru êm ái của ca
dao, vừa mang âm hưởng ngọt ngào của những bản tình ca. Cả đoạn thơ là nỗi nhớ
về bức tranh thiên nhiên Việt Bắc đẹp thơ mộng, về những sinh hoạt thương nhật
trong cuộc sống, sự gắn bó thân thiết, tinh thần đồng cam cộng khổ giữa đồng bào
Việt Bắc với bộ đội, cán bộ trong những năm tháng gian khổ thiếu thốn của kháng
chiến. Cuộc sống kháng chiến đã hiện lên trong những kỷ niệm sâu sắc của những
con người đã cùng nhau chia sẻ vui buồn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ chung,
cung nhau vượt qua những thử thách, vì vậy mà khi chia xa, tình nghĩa ngày càng
sâu nặng, nỗi nhớ ngày càng tha thiết.

3. Nỗi nhớ tha thiết về thiên nhiên và con người Việt Bắc (Câu 43 – 52)

Đây là đoạn thơ khắc họa bức tranh tứ bình của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh
thiên nhiên phong phú, rực rỡ, tươi thắm tượng trưng cho vẻ đẹp của bốn mùa, gắn
liền với hình ảnh con người lao động bình dị mà cao đẹp. Mở đầu đoạn thơ là lời
ướm hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị tình yêu từ phía người đi:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người


Lời ướm hỏi không có sự băn khoăn trăn trở bởi hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm
xúc bồi hồi, xao xuyến lúc chia xa. Người ở lại có thể hiểu rằng: Sau khi ta về xuôi
rồi, không biết người ở lại có còn nhớ đến ta không, riêng ta sẽ nhớ mãi. Nỗi nhớ
được gói trong ba tiếng “hoa cùng người”. Hoa vừa mang nghĩa cụ thể đó là hoa
chuối đỏ tươi hay hoa mơ trắng rừng, vừa mang nghĩa hoán dụ cho vẻ đẹp của
thiên nhiên nói chung. Từ “cùng” tạo nên một sự liên kết mật thiết, sự kết nối giữa
thiên nhiên và con người Việt Bắc là một sự gắn bó, có hoa là có người, có người
là có thiên nhiên.Với nỗi nhớ trong sự gắn đó ấy, Tố Hữu tạo nên bốn câu thơ cặp
lục bát, vẽ ra bốn bức tranh, bức nào cũng có “hoa cùng người”. Từ “nhớ” trở đi
trở lại, xuyên suốt đoạn thơ.

a. Bức tranh mùa đông tinh tế về hình khối, màu sắc và ánh sáng

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hình ảnh thiên nhiên Mùa đông xuất hiện bằng màu sắc – màu xanh bạt ngàn,
mênh mông trải khắp rừng già tạo cho thiên nhiên Việt Bắc một vẻ thâm u, trầm
mặc. Trên nền xanh ngút ngàn của núi rừng, Tố Hữu đã điểm thêm một gam màu
nóng của “hoa chuối đỏ tươi” khiến cảnh rừng Việt Bắc trở nên ấp áp, tươi sáng
hơn. Những bông hoa chuối vừa như những ngọn đuốc thắp sáng cả khu rừng, vừa
giống như bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyến níu bước người đi. Ánh nắng trên đèo cao
càng làm khu rừng ấm và sáng hơn, bức tranh thiên nhiên vì thế mà cũng có sự mở
rộng phóng khoáng hơn. Cảnh có sự hoà sắc tuyệt đẹp giữa màu xanh thăm thẳm
của rừng sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông.
Giữa khung nền ấy hình ảnh con người hiện lên với một dáng vẻ khỏe khoắn,
mạnh mẽ, tư thế hiên ngang trong lao động “ dao gài thắt lưng’ dẫu đèo cao, vực
sâu. Con người hiện lên bằng nét vẽ đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm
phá

trong hội hoạ nên tầm vóc vì thế mà trở thành người làm chủ thiên nhiên, chế ngự
thiên nhiên. Trong nỗi nhớ nhung của người về xuôi, sự khắc nghiệt của mùa đông
nơi núi rừng Việt Bắc đã hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp thơ mộng đầy sức
níu kéo.
b. Bức tranh mùa xuân với những gam màu dịu mát trẻ trung

“Ngày xuân mơ nở trăng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Mùa xuân tràn ngập màu trắng của hoa mơ gợi sự dịu dàng, tinh khiết, thanh cao
và đầy chất thơ của tạo vật. Hai tiếng “trắng rừng” như làm cho khắp núi rừng
bừng sáng hẳn lên. Đây là hình ảnh giàu tính hiện thực nhưng thấp thoáng ý nghĩa
tượng trưng : nó như gợi lên nét đẹp trong sáng trong tâm hồn của con người Việt
Bắc. Phải nói rằng đây là một hình ảnh có sức ám ảnh lớn đối với hồn thơ Tố Hữu.
Việt Bắc trong nỗi nhớ của Tố Hữu dường như không thể thiếu được sắc hoa này.
Về sau, trong bài “Theo chân Bác”, Tố Hữu có viết:

Ôi sáng xuân nay, xuân 41 Trắng rừng biên giói nở hoa mơ

Bác về. Im lặng. Con chim hót Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ.

Trên nễn cảnh ấy hiện ra hình ảnh người Việt Bắc trong một công việc thầm lặng:
“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gịang”. Hai chữ “chuốt từng” gợi ra được dáng
điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa. Không biết người đan nón kia gửi vào từng sợi
giang nỗi niềm gì, ước mơ gì nhưng hình ảnh con người trong mùa xuân lại gắn
với bàn tay dịu dàng, cần mẫn của các cô gái “chuốt từng sợi giang” giống như
cảnh phim quay chậm, giúp người đọc thấy rõ đường nét, hình khối, động tác của
người lao động và cả sự thận trọng, tỉ mỉ, khéo léo trong từng động tác làm việc.

c. Bức tranh mùa hè tràn đầy âm thanh và màu sắc

“Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”


Bức tranh mùa hè: “Ve kêu rừng phách đổ vàng” hiện lên trong nỗi nhớ người đi
không chỉ có màu sắc, đường nét, ánh sáng mà còn có cả âm thanh ngân vang của
tiếng ve. Ve kêu gọi hè, hè về là rừng phách chuyển màu. Tiếng ve kêu vàng giữa
“rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng
phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xử sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự
yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Sống ở Việt Bắc, con người
thường hay có cảm xúc bâng khuâng trước những hình ảnh kỳ lạ của rừng phách :
trong những ngày cuối xuân, nụ hoa vẫn náu kín trong những kẽ lá. Khi tiếng ve
cất lên thì chúng nhất loạt trổ hoa vàng. Cách dùng từ “đổ” thật tinh tế, nhấn mạnh
sự mau lẹ đột ngột của quá trình chuyển đổi của cây lá, nó diễn tả sức mạnh của
những trận mưa hoa vàng khi gió thổi, ve kêu gọi mùa. Hình ảnh “Cô em gái hái
măng một mình” trong mùa hạ vừa gợi sự cần cù, chăm chỉ, kiên nhẫn thầm lặng
lại vừa gợi cái không gian bao la, mênh mông của núi rừng Việt Bắc. Bóng dáng
của em gái một mình hái măng gợi nỗi bâng khuâng, lưu luyến trong lòng người ra
đi. Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng – cả
vẻ đẹp và nỗi buồn đều khiến bước chân người ra đi còn dùng dằng, còn bịn rịn
như chưa nỡ chia xa.

d. Bức tranh mùa thu thanh bình

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Đêm thu có ánh trăng rọi qua vòm lá tạo thành khung cảnh huyền ảo. Cảnh tượng
này thích hợp với việc bộc lộ tâm tư thầm kín dành cho thời điểm kết thúc những
cuộc hát giao duyên . Câu thơ gợi không gian thanh bình, yên ả, báo hiệu sự bắt
đầu cuộc sống yên vui. Câu thơ cũng gợi sự hoà hợp giữa thiên nhiên ( rừng thu)
với vũ trụ ( trăng)

với cuộc sống thanh bình yên vui trong sự hoà hợp của những tấm lòng nhân ái
giữa người đi và người ở lại. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc
với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà
trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng
chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu
Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy
chung. Hình ảnh con người Việt Bắc được khắc hoạ bằng sự tri ân của nhà thơ, họ
là những con người miệt mài, chăm chỉ với công việc, lặng lẽ mang trong mình
những rung động, cảm xúc trước đất trời, trước cuộc đời. Có thể nói đây cũng là
bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng
núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân
người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn
người đọc.

Đoạn trích là bốn bức họa bằng thơ rất tài tình của Tố Hữu. Cảnh và người hòa
quyện, đan xen khiến bức tranh nào cũng thật sinh động, ấm áp. Đoạn thơ vừa đậm
chất dân tộc (thể thơ, giọng tâm tình, tha thiết) vừa mang đậm vẻ đẹp, hơi thở của
thời đại (hình ảnh thơ, tình cảm cách mạng trong thơ). Nghệ thuật điệp – láy đi láy
lại từ “nhớ” cùng các câu hỏi tu từ liên tiếp, dồn dập đã diễn tả thành công tình
cảm tha thiết, sâu nặng của người về. Qua đoạn thơ, ta thấy rõ đặc điểm thơ và vẻ
đẹp hồn thơ Tố Hữu, kết tinh trong tình cảm lớn, lẽ sống lớn: tình cảm cách mạng,
lẽ sống thủy chung với cách mạng.

4. Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến oanh liệt, hào hùng (câu 53 – câu
90)

Đoạn thơ nằm ở khoảng giữa bài thơ Việt Bắc khi nỗi nhớ nhung trào dâng mãnh
liệt trong lòng người ra đi. Sau những hoài niêm về thiên nhiên và con người Việt
Bắc, bài thơ dẫn vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng
lớn, những hoạt động sôi nổi, những chiến thắng hào hùng. Đoạn thơ đã chuyển từ
nghịp ru dìu dặt ngọt ngào tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình sang
nhịp điệu sôi nổi dồn dập mạnh mẽ của chất anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi
khi thể hiện nỗi nhớ và những kỷ niệm về cuộc kháng chiến oanh liệt, hào hùng.

a. Những ngày Việt Bắc cùng núi rừng và đất trời đánh giặc (câu 53-62)

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày


Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”

Thể hiện sự đoàn kết gắn bó, vừa làm dày thêm tầm vóc sử thi cho hình tượng
nghệ thuật trong đoạn thơ.

Có thể nhận ra sự trùng điệp của ngôn từ đã tái hiện sinh động sự trùng điệp của
địa hình rừng núi – hình ảnh rừng núi “giăng” kín trong các chủ ngữ của đoạn thơ
từ “rừng cây núi đá” đến “núi giăng, rừng che, rừng vây.” tất cả lại được bao phủ
trong “mênh mông bốn mặt sương mù” của trời đất khiến người đọc cảm nhận
được sự hiểm trở như thiên la địa võng của địa hình chiến khu Việt Bắc.

Các vị ngữ “đánh, giăng, che, vây’ đem đến sắc thái nhân hóa cho rừng núi, tạo
cảm giác như núi rừng cũng góp sức vào cuộc kháng chiến, núi rừng cùng con
người tạo nên sức mạnh to lớn, bền vững, ngăn chặn và vây hãm kẻ thù. Những
câu thơ trên gợi nhắc sụ kiện Việt Bắc thu đông 1947 khi quân dân ta dựa vào địa
hình hiểm trở của núi rừng Việt Bắc đã anh dũng chiến đấu đập tan cuộc tấn công
lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Cuộc kháng chiến chính nghĩa của
chúng ta đã có đượcc những yếu tố thuận lợi nhất của thiên thời, địa lợi, nhân hòa
khi con người đồng lòng, thiên nhiên chung sức.

Trong bốn câu thơ sau, sau câu hỏi gợi nhớ “Ai về ai có nhớ không’ là lời khẳng
đinh quen thuộc: “Ta về ta nhớ…”. Nỗi nhớ hướng tới những địa danh lịch sử: Phủ
Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao – Lạng…

“Ai về ai có nhớ không?

Ta về ta nhớ phủ Thông, đèo Giàng

Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng

Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…”


Những từ “nhớ” liên tiếp điệp lại trong câu thơ cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với
niềm phấn khích như trào dâng trong dòng hoài niệm về những chiến thắng, nhịp
thơ dồn dập như mô tả khí thế hào hùng của nhân dân ta trong những trận đánh,
các chiến dịch và các chiến thắng oanh liệt, liên tiếp, vang dội ngày kháng chiến.
Hình thức xưa cũ của ca dao đã thể hiện những chiến thắng hao hùng của chiến
tranh nhân dân thời hiện đại.

b. Dòng hoài niệm về những con đường Việt Bắc ban đêm (câu 63-74)

Khung cảnh sôi động của cuộc kháng chiến còn được nhà thơ tập trung miêu tả qua
hình ảnh những con đường Việt Bắc vào ban đêm. Hình ảnh những con đường
được nhắc đến trong niềm tự hào: “Những đường Việt Bắc của ta”. Nếu hình ảnh
“đất trời ta.” trong đoạn thơ trên là hình ảnh biểu tượng cho thiên nhiên trời đất thì
hình ảnh “những đường Việt Bắc của ta” trong đoạn này lại hướng đến con người.
Câu thơ chan chứa niềm tự hào vì cảm giác được làm chủ những vùng không gian
rộng lớn của Tổ quốc. Cảm hứng này đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca cách
mạng như câu thơ:

“Mây của ta trời thắm của ta

Hoặc câu:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta”

(Nguyễn Đình Thi)

Những con đường ấy là không gian lớn lao cho con người xuất hiện (hình ảnh
đoàn quân):

“Đêm dêm rầm rập như là đất rung


Quân đi điệp điệp trùng trùng”

Câu thơ trên miêu tả âm thanh của tiếng bước chân người. Từ láy “rầm rập” cho
thấy đây là những âm thanh nhanh, mạnh, dồn dập của những đoàn quân trong đêm
tối. Từ láy tiếng “điệp điệp, trùng trùng” trong câu thơ đã miêu tả rõ hơn cảnh
những đoàn quân ra trận vừa đông đảo, vừa mạnh mẽ. Hình ảnh so sánh trong câu
thơ “đêm đêm rầm rập như là đất rung”, những từ láy tượng thanh tượng hình và
những phụ âm rung trong cả hai câu thơ: “rầm rập”, “rung”, “điệp điệp trùng
trùng”. càng làm rõ hơn cảm giác: những đoàn quân ngày đêm ra trận với khí thế
mạnh mẽ như trời rung đất chuyển. Cảm hứng sử thi hào tráng đã khiến sức mạnh
kỹ diệu của con người như được nâng lên với tầm vóc vũ trụ.

Hình ảnh đoàn người trong đêm là một sự thực của chiến trường trong những ngày
kháng chiến. Trong đêm, chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho những trận đánh hay
chiến dịch ngày mai. Sự chuẩn bị ấy không phải chỉ một vài đêm mà là “đêm”,
“nghìn đêm”. – những con số ước lệ chỉ một thời gian lâu dài trong cuộc kháng
chiến trường kỳ gian khổ. Từ đó câu thơ gợi những suy ngâm sâu xa về cuộc
kháng chiến trong tầng nghĩa ẩn dụ: trong đêm tối gian lao, cả dân tộc ta: “Không
đêm nào ngủ được, … đêm nào cũng thức…” (Chính Hữu) để chuẩn bị cho ngày
mai lên, ngày mai tươi sáng.

^- Những chiến sỹ đi giữa hàng quân trên những con đường Việt Bắc không chỉ
hiện ra trong sức mạnh sự đông đảo, họ còn được mô tả trong hình ảnh vừa chân
thực, vừa đẹp lãng mạn:“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Cũng như hình ảnh
“đầu súng trăng treo” của Chính Hữu, “ánh sao đầu súng’ là một hình ảnh thực khi
người lính hành quân trong đêm, những ánh sao lấp lánh như treo trên đầu mũi
súng. Trăng sao luôn là người bạn đồng hành với các chiến sỹ trong những đêm
hành quân gian khổ. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết:

“Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sỹ giữa hàng quân”

Nếu vầng trăng của Chính Hữu là biểu tượng cho hòa bình, hình ảnh “đầu súng
trăng treo” gợi những suy ngẫm sâu sắc về mục đích đẹp đẽ trong cuộc chiến đấu
chính nghĩa, cuộc chiến đấu vì hòa bình; nếu ngôi sao lấp lánh của Nguyễn Đình
Thi gợi những nhớ nhung lãng mạn làm hiện lên một nét đẹp trong tâm hồn người
lính thì “ánh sao đầu súng’ của Tố Hữu lại là biểu tượng cho lý tưởng cao đẹp mà
những người chiến sỹ hướng tới trên đường ra trận. Câu thơ là sự kết hợp hài hòa
giữa hiện thực và cảm hứng lãng mạn khi “ánh sao” lấp lánh trên trời cao, treo bên
“đầu súng” và làm bạn cùng vành “mũ nan”quen thuộc của anh vệ quốc – vành mũ
từng xuất hiện trong một bài thơ khác của Tố Hữu:

“vẫn đôi dép lội chiến trường

vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy ’

Vẻ đẹp của lý tưởng cao cả, của ý chí bất khuất kiên cường đã được thể hiện một
cách thật lãng mạn trong hình ảnh bình dị của người chiến sỹ trên đường hành
quân.

Trong cuộc kháng chiến toàn dân của dân tộc, con đường ra trận không chỉ có
những đoàn quân vệ quốc mà còn:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay ’

Phép đảo ngữ và hai thanh trắc liên tiếp trong các cụm từ “đỏ đuốc”, “nát đá” đã
đem đến những ấn tượng kỳ diệu về sức mạnh, niềm vui và ánh sáng. Những đoàn
dân công tiếp vận chuyển lương phục vụ chiến trường cùng bước chân đi trong
đêm, những ánh đuốc soi đường đỏ rực nối tiếp nhau, dân công ào ạt tiến về phía
trước, gió thổi những tàn lửa bay tạt lại phía sau như nối dài thêm đoàn người –
dòng ánh sáng, tạo ra một cảnh tượng hùng tráng, tưng bừng, náo nức gợi không
khí vui tươi của ngày hội. Cách mạng đã thực sự trở thành ngày hội của quần
chúng nhân dân!

Nếu từ láy “rầm rập” miêu tả những đoàn quân vệ quốc bước đều mạnh mẽ thì
nghệ thuật thậm xưng (cường điệu, nói quá, phóng đại) trong hình ảnh “bước chân
nát đá” lại ca ngợi sức mạnh phi thường của những đoàn dân công đông đảo nối
tiếp nhau ngày đêm tải lương tải đạn ra chiến trường. Cách nói này gợi liên tưởng
tới thành ngữ “chân cứng đá mềm” trong dân gian, qua đó nhà thơ đã khắc họa
sinh động sức mạnh và ý chí kiên cường của những con người có thể vượt lên trên
những khó khăn, có thể chiến thắng mọi gian khổ, thử thách. Nếu ở đoạn thơ trên,
nhà thơ đã đưa đến một cảm nhận lớn lao khi cả trời đất, thiên nhiên, núi rừng
cùng con người đánh giặc, khi “đất trời ta cả chiến khu một lòng’ thì tới đoạn này,
Tố Hữu lại ca ngợi sức mạnh kỳ diệu của con người khi những bước chân “rầm
rập” của đoàn quân, bước chân “nát đá” của dân công đã khiến cho mặt đất như
rung chuyển. Nhà thơ còn ca ngợi khí thế hào tráng của quân dân Việt Bắc qua
những từ ngữ chỉ số lượng đông đảo: điệp điệp trùng trùng, muôn.

Cảnh tượng còn hùng vĩ tráng lệ hơn bởi những con người luôn bước đi trong một
không gian chan hòa ánh sáng: ánh sáng lung linh của sao trên “đầu súng”, ánh
sáng rực rỡ của những ngọn đuốc soi đường, ánh sáng lấp lánh huyền ảo của
“muôn tàn lửa bay”, và đặc biệt là ánh sáng từ những ngọn đèn pha của đoàn xe ra
trận giữa “thăm thẳm đêm dày: “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”. Câu thơ có
hai thanh trắc liền nhau giữa sáu thanh bằng đem lại ấn tượng về ánh sáng chói lòa,
đột ngột trong đêm. Hình ảnh so sánh ở vế sau của câu thơ gợi liên tưởng đến ánh
bình minh ngày mới tràn đầy niềm tin và hy vọng – sự gắn kết khuynh hướng sử
thi với cảm hứng lãng mạn đã làm tăng thêm sức mạnh cho những con người đang
chiến đấu trong gian khổ, nguy nan.

Kết quả của những đêm dài gian truân vất vả ấy là:

“Tin vui chiến thắng trăm miền

Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về

Vui từ Đồng Tháp, An Khê

Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng’

Những dòng thơ là diễn ca lịch sử, ghi lại những địa danh, những trận đánh, những
chiến dịch lớn trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp như Hòa
Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Nhịp thơ nhanh, dồn dập, sảng khoái, những từ “vui”
điệp đi điệp lại trong cả bốn dòng thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: “vui về”, “vui
từ”, “vui lên”., những địa danh liên tiếp hiện ra theo bước đi dồn dập của chiến
thắng. Đó là những yếu tố ngôn từ đặc sắc thể hiện sinh động không khí náo nức
say mê của quân dân Việt Bắc trong ngày chiến thắng.

Toàn bộ đoạn thơ là hình ảnh những con đường Việt Bắc và những bước chân
mạnh mẽ của dân quân ta trên đường ra trận. Những bức tranh rộng lớn, hùng
tráng, kỳ vỹ đậm chất sử thi ấy vừa là hình ảnh thực trong kháng chiến, vừa là biểu
tượng cho con đường cách mạng đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu. Đó là
hình ảnh con đường gian truân và oanh liệt chúng ta đi trong “nghìn đêm thăm
thẳm sương dày” những ngày kháng chiến, đó cũng là những con đường “ta đi giữa
ban ngày, trên đường cái ung dung ta bước.” trong ngày chiến thắng. Hình ảnh
“bước chân” được coi là hoán dụ cho con người cách mạng, những con người kiên
cường dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, bước đi từ “than bụi lầy bùn” để hướng
tới với cách mạng, để chiến đầu và chiến thắng.

c. Những hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của chính phủ trong hang
núi (câu 75- 90)

“Ai về ai có nhớ không?

Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang

Nắng trưa rực rỡ sao vàng

Trung ương chính phủ họp bàn việc công”

Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp nhưng vẫn lồng lộng gió núi, vẫn
rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng… Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng
khoáng trong ngọn gió của thời đại mới – con đường của cách mạng Việt Nam đã
thực sự chuyển từ đêm tối gian lao sang ngày mai tươi sáng. Tính chất diễn ca lịch
sử lại xuất hiện trong đoạn thơ sau đó nhằm thể hiện những nhiệm vụ vừa lớn lao
thiêng liêng, vừa thiết thực, cụ thể của cách mạng, từ “điều quân chiến dịch” cho
tới “giữ đê, phòng hạn…”
Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc – quê hương cách mạng, thủ đô kháng
chiến, cơ quan đầu não của chính phủ, nơi quy tụ niềm tin và hy vọng của người
Việt Nam từ mọi miền đất nước, nhất là những nơi còn “u ám quân thù” Nỗi nhớ
Việt Bắc đã được lý giải thấm

thía hơn không chỉ vì sự gần gũi thân yêu của mái đình cây đa, của nhừng kỷ niệm
sâu nặng ân tình giữa “mình” và “ta”- giữa đồng bào Việt Bắc và chiến sỹ kháng
chiến mà còn vì Việt Bắc là căn cứ địa của cách mạng và kháng chiến, là nơi Bác
Hồ đã từng sống và làm việc để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua những đêm tối gian
lao đến với ngày mai tươi sáng…

Đoạn thơ đã thể hiện sinh động phong cách nhà thơ Tố Hữu cũng như điểm chung
của văn học 45-75, đó là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét
trong cấu tứ, giọng điệu, ngôn từ, bút pháp và hình tượng thơ: từ chất diễn ca lịch
sử đến giọng điệu trang trọng ngợi ca, từ bút pháp ước lệ thậm xưng đến sự trùng
điệp của ngôn từ, sự tạo dựng đầy ấn tượng những hình ảnh hào hùng, tráng
lệ.. .Qua đó, cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, hào hùng của quân dân ta ở
chiến khu Việt Bắc đã được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ như một bức tranh
sử thi hoành tráng ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa yêu nước, ca
ngợi sức mạnh chiến đấu và chiến thắng vĩ đại của quân dân ta, lý giải nỗi nhớ sâu
đậm của những người ra đi với mảnh đất và con người Việt Bắc.

5. Đặc sắc nghệ thuật

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ
trữ tình- chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.

Nội dung
– Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người
Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.

– Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến,
với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình
cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy
chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.
Hình thức
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ
dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.

+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích
hợp, tài tình

+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn
dụ, tượng trưng, ước lệ)

+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao
khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng
với người dân Việt Bắc.

You might also like