You are on page 1of 6

Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh

của những
anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc vĩnh viễn vào
tâm hồn người đọc hình ảnh những người con đất nước đã dùng máu và nước mắt của mình tô
lên hai chữ “độc lập” của dân tộc. “Tây Tiến” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong
giai đoạn lịch sử khốc liệt đó. Qua bài thơ này, đặc biệt là trong đoạn trích trên, Quang Dũng đã
dùng bút lực của mình để vẽ lên thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa
lãng mạn hào hoa, vừa hào hùng bi tráng / cảnh tượng thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ
mà huyền ảo.

Quang Dũng tên khai sinh là Bùi Đình Diệm. Ông là một nghệ sĩ đa tài: nhà thơ, nhà văn,
hoạ sĩ và nhà soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng
khoáng, hồn hậu, làng mạn và tài hoa - đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến của mình.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào,
bảo vệ biên giới Thượng Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có
nhiều học sinh, sinh viên như Quang Dũng chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, thiếu thốn về
vật chất. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và có tâm hồn đậm nét lãng mạn. Cuối năm 1948, Quang
Dũng viết bài thơ “Nhớ Tây Tiến” ở Phù Lưu Chanh khi đã rời xa đơn vị cũ. Sau này, tác giả đổi
tên bài thơ là “Tây Tiến” khi in lại trong tập “Mây đầu ô”. Đây là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ
Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phòng cách nghệ thuật của ông,

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Cảm xúc bao trùm lên toàn bài thơ là nỗi nhớ, và 2 câu thơ đầu có thể được coi là khúc
dạo đầu của nỗi nhớ nhung đó. Sông Mã là 1 dòng sông lớn bắt nguồn từ Điện Biên, uổn khúc
quanh bản làng thôn xóm của người dân địa phương, nó phản chiếu miền đất, núi rừng Tây Bắc.
Vì vậy, sông Mã là hình ảnh biểu tượng cho thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội vùng đất miền Tây, đồng
thời gắn liền với chặng đường hành quân của những người lính Tây Tiến. Nó dường như là nhân
chứng lịch sử chứng kiến, sẻ chia những buồn vui, những mất mát, hi sinh của binh đoàn năm
xưa. Khi hành hương về quá khứ. Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như biểu tượng đầu tiên
của nỗi nhớ, là thứ khơi nguồn cho nỗi nhớ. 3 tiếng “Tây Tiến ơi!” tuy đơn giản nhưng lại khiến
câu thơ trở thành lời gọi tha thiết ẩn chứa niềm bâng khuâng, tiếc nuối. Câu thơ ngắt nhịp 4/3
tách làm 2 vế, tạo cảm giác như có 1 khoảng lặng để nhận ra sự trống trải của thực tại. Sau
tiếng gọi đó là nỗi nhớ được dâng lên bởi biện pháp điệp từ “nhớ” kết hợp với từ láy gợi tâm
trạng “chơi vơi”. Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà
ngay ở trong ca dao Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:

"Ra về nhớ bạn chơi vơi


Nhớ chiếu bạn trải, nhớ nơi bạn nằm”

Cùng sử dụng “chơi vơi”, sẽ không có gì mới mẻ nếu như Quang Dũng không đặt từ láy này sau
câu 1 tạo ra điệp âm “ơi”, khiến câu thơ như tiếng gọi vang lên như đập vào vách đá, dội vào
lòng người. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” không dừng lại ở câu 1 mà tiếp nối ở câu 2.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Sau 2 câu thơ khái quát cảm hứng chủ đạo, thì những câu thơ tiếp theo diễn tả nỗi nhớ
nhung gắn liền với những địa danh cụ thể. Quang Dũng từng tâm sự: “Tôi cũng say Thơ mới
như bất cứ một học sinh nào thời đó. Nhưng tôi thích thơ Thế Lữ hơn cả, đặc biệt bài "Nhớ
rừng", bởi tâm trạng sơn dã của nó.” Và ở đây cũng là nỗi nhớ rừng, nhưng nỗi nhớ rừng của
Quang Dũng mang sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Đầu tiền, nỗi nhớ đó gắn liền với địa danh rất
Tây Bắc là Sài Khao và Mường Lát. “sương” và “đêm hơi” gợi ra khung cảnh huyền ảo rất đẹp,
nhưng đồng thời kết hợp với động từ “lấp” gợi ra những khó khăn, gian trở của những người
lính hành quân khi bị che lấp bởi sương mù. Có lẽ hình ảnh hiện lên trong tâm trí Quang Dũng
không chỉ là thiên nhiên, mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ thương. “hoa về
trong đêm hơi” là hương hoa lan toả trong màn sương khi đêm xuống, cũng có thể hiểu là
những ngọn đuốc được binh đoàn đốt khi hành quân trong đêm nhìn như những đoá hoa chập
chờn, huyền hoặc. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên trở nên thi vị chính là nhờ tâm hồn lãng mạn
của những người lính như Quang Dũng.

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm


Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Sự hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc được viết bằng những nét bút gân guốc, bạo
khoẻ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 với điệp từ “dốc” đứng đầu mỗi vế gợi sự chồng chất, nối tiếp như
tới vô tận của những con dốc, qua đó thể hiện sự nhọc nhằn của những người lính khi hành
quân. Dốc này chưa qua dốc khác đã đợi sẵn, núi rừng Tây Bắc như muốn thử ý chí, nghị lực của
các anh. Đoạn thơ sử dụng nhiều từ láy giàu sức tạo hình, biểu cảm như “khúc khuỷu” gợi sự
gập ghềnh, gồ ghề của những con dốc, hay “thăm thẳm” gợi độ sâu hun hút, độ xa vời vợi như
không cùng không tận. Từ “heo hút” vừa gợi độ cao, xa vừa gợi độ vắng được đảo lên đầu câu,
càng gợi sự hoang vu. Mây núi miền Tây Bắc chồng chất thành “cồn”, khiến người lính như
đang bước đi trong mây với súng mang trên vai như chạm tới đỉnh trời. Hình ảnh “súng ngửi
trời” khiến ta nhớ đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu đều lạc quan, tinh nghịch,
đậm chất lính. Cách nói tếu táo, hóm hỉnh phần nào làm vơi nỗi vất vả, gian truân của người
lính. Quang Dũng không né tránh hiện thực khắc nghiệt đó mà nói ra một cách rất thơ bằng một
con mắt lãng mạn, từ đó câu thơ không chỉ cho ta thấy nghị lực, ý chí mà còn tâm hồn trẻ trung
của những người lính phong trần coi thường mọi gian lao, vất vả. Điệp ngữ “ngàn thước” là ước
lệ nghệ thuật mang tính định lượng khắc hoạ vẻ chênh vênh của núi rừng, đi cùng với thủ pháp
đối lập giữa “lên” và “xuống” khiến câu thơ ngắt làm đôi, tạo một nét gấp khúc đột ngột càng
gợi tả độ cao của những con dốc, độ sâu của những vực thẳm. Hình ảnh ẩn dụ “mưa xa khơi”
tạo cảm giác thung lũng ở Pha Luông mờ mịt trong mưa. khiến không gian trở nên mênh mông,
huyền ảo. Thấp thoáng ẩn hiện trong đó là những ngôi nhà, kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai”
khiến chúng trở nên mơ hồ, xa xăm. Giữa núi rừng mướt lạnh, hình ảnh những ngôi nhà ấm áp
gợi trong lòng người lính nỗi nhớ nhà.

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"

Nhà thơ gọi đồng chí là “Anh bạn” - một tiếng gọi thân thương những người cùng chiến
đấu. Những người đồng đội của Quang Dũng sau một chặng đường hành quân vất vả dừng
chân nghỉ ngơi, “gục lên súng mũ” thiếp đi. Câu thơ còn có thể được hiểu là trong quá trình
hành quân gian khổ đã có những người lính, người đồng đội bỏ mình lại ở nơi rừng núi. Ngòi
bút của Quang Dũng không né tránh mất mát, đau thương, không lẩn trốn hiện thực. Nhà thơ
đã sử dụng cách nói ngang tàng, chủ động về cái chết vừa xót xa, vừa ngạo nghễ như một sự
bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết. “không bước nữa” gợi tư thế chết trong chiến đấu,
trong sự hiên ngang, bất khuất. Qua đây, tác giả muốn làm bật lên hình ảnh những người lính
phong trần, dũng cảm luôn sẵn sàng đương đầu với thử thách.

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”

Không chỉ khó khăn trên chiến trường chiến đấu, những câu chuyện về bệnh tật ở nơi
khí hậu khắc nghiệt cũng được đưa vào trong thơ của Quang Dũng. Không một chút giấu diếm,
nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ hiện thực đời sống người lính: do bị sốt rét mà tóc rụng.
Hình ảnh gợi lên sự gian khổ và khắc nghiệt của chiến tranh, nhưng cái nhìn lãng mạn của tác
giả đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều tụy của họ chứa đựng
một sức mạnh phi thường. Ngòi bút của ông đã khiến bức chân dung của họ hiện lên thật lẫm
liệt, oai hùng.

"Anh bạn dãi dầu không bước nữa


Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"

Những câu thơ này dường như có sự tương đồng: nhà thơ chuyển hành động từ trạng thái bị
động sang chủ động với cụm “không bước nữa” và “không mọc tóc”. Điều này khiến câu thơ
phảng phất âm hưởng khí vị trong thơ cổ của những trang nam nhi mang chí làm trai.

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Chân dung những người lính Tây Tiến còn được tiếp tục phác hoạ trong nét vẽ ngoại hình đặc
sắc mang dáng dấp oai phong, kiêu hùng. Đó là hình ảnh cả một binh đoàn khoác lên mình
những cành lá nguỵ trang, khiến cả đoàn quân trở nên “xanh màu lá”. Nhưng trong sự kết nối
với những câu thơ ở phía trên, có lẽ câu thơ này đang miêu tả da mặt xanh xao của những
người lính vì sốt rét, vì cuộc sống gian khổ. Quang Dũng đã diễn đạt hiện thực đó một cách tinh
tế: “xanh màu lá” chứ không phải xanh xao. Hình ảnh những người lính Tây Tiến như hoà vào
với thiên nhiên, với cây lá, họ ốm nhưng không yếu mà vẫn toát lên sự trẻ trung, tràn đầy sức
sống. Có thể thấy, “không mọc tóc” và “xanh màu lá” đều là cách diễn tả vẻ đẹp những người
lính Tây Tiến bằng cảm hứng lãng mạn kết hợp với bút pháp bi tráng. “dữ oai hùm” gợi ra hình
ảnh người lính Tây Tiến tuy gầy ốm nhưng vãn toát lên nét dữ dội, kiêu hùng, vẻ uy nghi, lẫm
liệt tựa như những vị chúa tể rừng xanh.

“Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Hình ảnh ẩn dụ “dữ oai hùm” làm ta nhớ tới hình ảnh “cọp trêu người” ở đoạn thơ đầu. Dường
như những người lính đóng quân rất sâu trong rừng, cũng cần phải có vẻ oai hùng, dữ dội thì
mới có thể chế ngự và chiến thắng hiểm nguy. Khi miêu tả những người chiến sĩ Tây Tiến,
Quang Dũng không chú trọng vào gian khổ, bệnh tật mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường,
lãng mạn, hào hùng, đem đến một ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường
vượt lên khó khăn.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

“Mắt trừng” là ánh mắt hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu và
khát vọng chiến thắng. Nét vẽ này đã tôn thêm sự oai phong, lẫm liệt và ngạo nghễ của binh
đoàn. “mộng” ở đây là những lí tưởng, khát vọng lớn lao. Cũng giống như những tráng sĩ thuở
xưa sẵn sàng “giã nhà đeo bức chiến bào”, những người lính Hà Nội ra đi theo sự vẫy gọi mãnh
liệt của lí tưởng cao đẹp đó. “Mắt trừng” cũng là mắt mở to, thao thức không ngủ được vì
“mộng”. Nếu “mộng qua biên giới” là khát vọng hoà bình thì “Đêm mơ Hà Nội” là nỗi nhớ nhà,
nhớ quê hương, sau những nét phi thường là nét đời thường với những nỗi nhớ nhung, xao
xuyến. “dáng kiều thơm” gợi ra hình bóng, dáng vẻ thanh lịch, yêu kiều của những người con
gái Hà Thành. Không chỉ dáng hình mà còn hương sắc của những người con gái cũng để lại tơ
vương trong lòng những người lính. Con người cần hướng tới nghĩa chung, nhưng cũng cần có
tình riêng, chính giấc mơ này làm cho bức chân dung của người lính trở nên gần gũi với đời
thường. Họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường mà còn tâm hồn lãng mạn, mộng mơ.

“Những đêm dài hành quân nung nấu


Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi)

Hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong thơ của Quang Dũng và Nguyễn Đình Thi có những nét
tương đồng: người lính ở trong cả 2 bài thơ đều coi việc đi chiến đấu là lí tưởng sống cao đẹp,
là khát vọng lớn lao. Họ cũng có những giây phút riêng tư trong thế giới riêng của mình, đều là
những chàng trai lãng mạn.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ


Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ được ngắt nhịp 4/3, âm điệu chợt trầm và trùng xuống. Một lần nữa, Quang
Dũng lại đề cập đến sự hi sinh, chính sự hiện diện của cái chết khiến câu thơ mang cảm giác
trầm buồn. “mồ viễn xứ” là từ gợi tả chính xác hiện thực những người con chết xa nhà bấy giờ.
Trong quá trình chiến đấu, khi có người lính ngã xuống, việc chôn cất sơ sài khiến đồng đội cảm
thấy rất xót xa. Bản thân cái chết đã lạnh lẽo, giờ đây nó càng lạnh lẽo hơn khi đi cùng vời “Rải
rác biên cương” gợi sự xa xôi, thiếu hơi ấm. Có thể nói “Tây Tiến” là một trong số ít tác phẩm
văn học VIệt Nam miêu tả sự mất mát chân thực như thế. Tuy nhiên, bi mà không luỵ, ảm đạm
mà không yếu mềm, cảm hứng bi tráng đã đem đến sự mạnh mẽ, hào hùng cho đau thương.
Cảm giác ảm đạm nhanh chóng được xoá bởi tứ thơ rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu thơ
tiếp theo. Cách diễn đạt chủ động trong sắc thái phủ định đã tô đậm lí tưởng cao cả và khí
phách kiên cường của những người chiến sĩ anh dũng, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. “đời
xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân – quãng thời gian đẹp nhất đời người một đi
không trở lại. “chẳng tiếc đời xanh” thể hiện sự tự nguyện, ý chí quyết tâm của những chàng
thanh niên sẵn sàng hiến dâng cuộc đời, tuổi thanh xuân cho đất nước.

“Áo bào thay chiếu anh về đất


Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Bằng bút pháp mĩ lệ hoá của cảm hứng lãng mạn, tác giả đã biến tấm áo quân phục của
người lính thành tấm áo bào trang trọng, thiêng liêng. Đây là cách nói để thể hiện sự trân trọng
của nhà thơ, của đồng đội đối với những người đã hi sinh. Nếu người tráng sĩ ngày xưa với hình
ảnh "da ngựa bọc thây" là chuyện nhẹ nhàng, thì người lính Tây Tiến với hình ảnh "áo bào thay
chiếu" cũng xem cái chết là một niềm vinh quang. “về đất” là biện pháp nói giảm nói tránh giúp
làm dịu đi nỗi đau, đồng thời còn gợi ra tầng lớp nghĩa khác. Đất gợi sự bền vững của non sông
đất nước, vì vậy “về đất” là sự đón nhận của đất nước, quê hương khi các anh trở về yên nghỉ.
Sự trở về này giúp các anh nhập vào thế giới vĩnh hằng - thế giới của những con người chưa bao
giờ khuất. Âm hưởng bi tráng được đẩy lên đỉnh điểm, hình ảnh “sông Mã” một lần nữa được
nhắc đến. “Sông Mã”là hình ảnh biểu tượng cho thiên nhiên và vùng đất Tây Bắc gắn liền với kỉ
niệm của người lính Tây Tiến, giờ đây quay trở lại với âm thanh hào hùng. Biện pháp nhân hoá
góp phần diễn tả tính chất dữ dội trong những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ, thể hiện sự đau xót,
tiếc thương của đất nước, quê hương trước sự ra đi của những người lính. “khúc độc hành” gợi
sự mạnh mẽ, hùng tráng đồng thời phảng phất âm hưởng cô đơn.

Cũng viết về đề tài người lính, bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu cũng là một tác phẩm
được độc giả yêu mến rộng rãi. Về nét chung, cả 2 bài thơ đều được sáng tác vào năm 1948,
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến,
cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên
định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Ngoài những
điểm tương đồng trên thì ở mỗi tác phẩm hình tượng người lính lại hiện lên với những nét đẹp
riêng biệt. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên trí thức xuất thân từ Hà Nội. Qua bút pháp
bi tráng, hình tượng các anh hiện lên vừa hào hùng, dũng cảm lại vừa hào hoa, lãng mạn. Còn
người lính trong “Đồng chí” là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ những làng quê
nghèo. Người chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị, các anh hiện ra với dáng
vẻ chất phác, lam lũ. Nhưng cho dù họ là ai, họ xuất thân từ đâu, thì họ đều mang trong mình
những lí tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng cống hiến hết mình vì Tổ quốc, vì quê hương.

“Tây Tiến” vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào hùng vừa
mang vẻ đẹp hoà hoa. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng thơ sâu lăng, Quang Dũng đã thổi vào thơ
ca Việt Nam một ngọn gió mới, một tuyệt phẩm về người lính để lại ấn tượng sâu sắc cho người
đọc.

You might also like