You are on page 1of 6

Vội Vàng (1)

“Khó có thể nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam khi Xuân Diệu đến” Hoài Thanh đã mở đầu trang viết về Xuân Diệu
trong cuốn “thi nhân Việt Nam” bằng một giọng điệu nghẹn ngùng và ngạc nhiên như thế. Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam
như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Ông bước đi trong dòng chảy thơ ca
Việt những năm 32-45 với một cái tôi hoàn toàn nổi bật. Có chăng cái tôi ấy đã đã làm nên một hồn thơ rất mới mẻ, rất độc đáo, rất
Xuân Diệu mà Vội Vàng là một trích dẫn tiêu biểu nhất?

Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ
tình cháy bỏng, nồng nàn. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm khẳng định được cái tôi riêng biệt
trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình.

“Vội vàng” là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời. Bài cũng chứa
đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự chảy trôi vội vã của thời gian. Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ
giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và
mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải nghiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc
đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu.

Đến với 13 câu đầu, Xuân Diệu đưa người đọc đến những cảm xúc vui tươi, yêu đời trước vẻ đẹp của mùa xuân mơn mởn. Vẻ đẹp
đất trời hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, đẹp đẽ đến nao lòng. Trước mắt nhà
thơ, cuộc sống đang diễn ra thật sôi động và tràn đầy nhựa sống.

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ:

“Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm, cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người. Mỗi ngày
vạn vật lại mang đến cho con người 1 bữa ăn thịnh soạn để thưởng thức và ngắm nhìn. Thức nhận được sự trôi chảy vô biên của thời
gian, nhà thơ như cảm thấy sợ hãi và khao khát níu giữ được nó để tận hưởng vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Xuân Diệu muốn tắt
nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là ông muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa
vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghệ thuật điệp từ “tôi muốn” kết hợp cùng các động từ mạnh đã cho người đọc thấy được niềm đam
mê mãnh liệt và khát khao nắm giữ, chinh phục tạo hoá của nhà thơ. Xuân Diệu như muốn lưu giữ khoảnh khắc của tuổi xuân,
muốn thời gian ngưng đọng lại, và muốn như vậy mới có đủ thời gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Đó là ước
muốn giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao.

Là một nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, say mê cuộc đời bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, Xuân Diệu đã phát hiện ra
bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính
là mùa xuân và tuổi trẻ:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật


Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cưa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần!

Từ những câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, khúc thơ bất ngờ chuyển sang những câu thơ tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ
thuật đặc sắc: điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc, liệt kê, so sánh. Âm điệu thơ sôi nổi, háo hức cuồn cuộn như dòng thác dâng trào. Có
cái gì như vội vàng quấn quýt, có cái gì như đắm đuối mê say. Như ngàn lời mời gọi, điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần từ
đầu đến cuối đoạn thơ vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác
giả. "Này đây" là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không
phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay lúc này. Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh . Cuộc sống như bữa tiệc đang
chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng mạn của “ong bướm”, “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh
rì”, khúc tình si của chim yến, chim oanh. Tình yêu lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc
ngập tràn khắp mọi nơi. 
Bằng tâm hồn phong phú và trí tưởng tượng dồi dào của mình với câu thơ: "Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa", thi nhân đã tạo ra
sự bất ngờ đầy thú vị bởi sự liên tưởng bất ngờ hết sức độc đáo. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi liên tưởng gần gũi với hình
tượng mặt trời trong thần thoại Hy Lạp xưa, cũng có thể là vị thần mang niềm vui ban tặng cho thế gian vào mỗi buổi sớm mai,
đánh thức mọi người dậy để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng
ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng.

Và trong niềm hân hoan vui sướng đó, ngòi bút của Xuân Diệu thật sự rất xuất thần, ông đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút: "Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần". Có thể nói, trước Xuân Diệu, chưa có ai "tỏ tình" với thiên nhiên như vậy. Sự hấp dẫn của thiên
nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với "cặp môi gần" căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ. Nhà thơ đã huy động mọi giác
quan: từ thị giác, thính giác, vị giác đến xúc giác để tận hưởng thiên nhiên, tuổi trẻ và cuộc đời này. Phép so sánh như đã đưa cặp
môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
"Tháng giêng" là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở
nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ đầy sâu sắc.

Đoạn thơ như 1 bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lại và đưa ai ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi
ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non
đến thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời đến tham dự. Nhà thơ đã “say đắm với tình
yêu, hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả các giác
quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”. Nhưng ngay lúc thi sĩ đang ngất ngây mê đắm vô
cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi
sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một
nửa”

Câu thơ được thi nhân ngắt làm hai, thể hiện niềm vui một cách không trọn vẹn. Nhà thơ đã nhận ra rằng điều sung sướng ấy thật
ngắn ngủi biết bao. Chính dự cảm mơ hồ về sự mong manh và ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống tận hưởng
một cách vội vàng. Từ trạng thái vui tươi phấn chấn đầy yêu đời “tôi sung sướng” bỗng xuất hiện dấu chấm, như một điềm báo
trước một sự hụt hẫng lo lắng phía sau. Dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ như bị chẻ đôi, một bên là niềm vui sướng hân hoan một
bên là vực thẳm của sự hoài nghi, lo âu. Ta có thể thấy niềm vui như chùng xuống, khựng lại và không trọn vẹn. Bởi, Xuân Diệu
phát hiện rằng điều sung sướng mà ông đang tận hưởng ấy ngắn ngủi biết bao. Chính vì dự cảm mơ hồ về sự mong manh của kiếp
người đó đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Dù bất lực trước dòng chảy thời gian, trước quy luật của thiên nhiên nhưng Xuân Diệu không bi quan về cuộc sống mà ông đã tìm
đến một cách giải quyết tuyệt vời. Đó chính là đừng tiếc nuối cho tương lai mà hãy tận hưởng sống hết mình cho giây phút hiện tại.
Hai câu thơ được xem như hai bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu, vừa là linh cảm bất an,
băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của những cảm quan
tinh tế về thời gian.

Như một thước phim sống động, khúc thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân vô cùng độc đáo và lộng lẫy: rộn rã
những âm thanh tình tứ, rực rỡ ánh sáng tinh khôi, nồng nàn hương thơm sắc thắm và ngọt ngào men say ái tình. Mùa xuân có khác
nào một mảnh vườn tình ái rạo rực sức sống mà vạn vật đang đua nhau khoe sắc dâng hương, đắm đuối xuân tình. *Chúng ta nhận
ra rằng Xuân Diệu đã đem đến một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính
là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta
được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc. Hãy biết yêu và trân trọng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ lúc còn trẻ
cống hiến hết mình cho cuộc đời. Tập “Thơ thơ” nói chung hay “vội vàng” nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm cho người đọc, giá trị
của nó vẫn mãi lưu truyền đến hiện tại và mãi mãi. Người ta sẽ luôn nhớ đến thi sĩ Xuân Diệu là ” ông hoàng thơ tình”, ông đã để lại
cho đời những áng văn hay!
Vội Vàng (2)

“Khó có thể nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam khi Xuân Diệu đến” Hoài Thanh đã mở đầu trang viết về Xuân Diệu
trong cuốn “thi nhân Việt Nam” bằng một giọng điệu nghẹn ngùng và ngạc nhiên như thế. Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam
như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Ông bước đi trong dòng chảy thơ ca
Việt những năm 32-45 với một cái tôi hoàn toàn nổi bật. Có chăng cái tôi ấy đã đã làm nên một hồn thơ rất mới mẻ, rất độc đáo, rất
Xuân Diệu mà Vội Vàng là một trích dẫn tiêu biểu nhất?

Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ
tình cháy bỏng, nồng nàn. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm khẳng định được cái tôi riêng biệt
trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình.

“Vội vàng” là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời. Bài cũng chứa
đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự chảy trôi vội vã của thời gian. Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ
giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và
mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải nghiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc
đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu.

Nếu như ở phần đầu của bài thơ, tác giả vì yêu cái đẹp của thiên nhiên mà muốn đoạt quyền tạo hóa “tắt nắng”, “buộc gió” thì quan
niệm vô cùng tích cực của thi nhân, sự lí giải đầy sâu sắc được trình bày ở phần thứ hai.

Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian "tuần hoàn" nghĩa là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1
vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn "tĩnh", lấy cả sinh mệnh vũ trụ để
làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua


Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.”

Thời gian chia phôi, thiên nhiên cũng như vậy, cơn gió hờn dỗi vì phải rời xa lá biếc, chim không còn hót véo von rộn ràng mà trở
nên im bặt. Tất cả đều không thể chống lại quy luật của tạo hóa. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy,
tác giả cũng tận hưởng, cũng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng "xuân đương tới" rồi xuân cũng sẽ "đương
qua", xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng
thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được đời người. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa "tới" - "qua"; " già"-
"non", đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng
sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân
đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy,
Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:

“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,


Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”

“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì
cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng đến vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của
đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” - “chật”,
“xuân tuần hoàn” - “tuổi trẻ chẳng hai lần”, “còn” - “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối trước thời
gian, cuộc đời

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy,
giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở
đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.

Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai
trục không gian và thời gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa?

Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi. Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị,
đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, dường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm
tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.
Những cơn gió xuân đùa trong lá vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành
ngừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo
quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.

Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…” Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ
có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm
tâm trạng bàng hoàng tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mây khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng,
thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ.

Đoạn thơ trên đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: Sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan
niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân
tình của người viết, tác giả đã mang đến cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học tập:
Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm
say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc. Hãy biết yêu và trân trọng
những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ lúc còn trẻ để cống hiến hết mình cho cuộc đời. Tập “Thơ thơ” nói chung hay “vội
vàng” nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm cho người đọc, giá trị của nó vẫn mãi lưu truyền đến hiện tại và mãi mãi. Người ta sẽ luôn
nhớ đến thi sĩ Xuân Diệu là ” ông hoàng thơ tình”, ông đã để lại cho đời những áng văn hay!
Vội Vàng (3)

“Khó có thể nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam khi Xuân Diệu đến” Hoài Thanh đã mở đầu trang viết về Xuân Diệu
trong cuốn “thi nhân Việt Nam” bằng một giọng điệu nghẹn ngùng và ngạc nhiên như thế. Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam
như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Ông bước đi trong dòng chảy thơ ca
Việt những năm 32-45 với một cái tôi hoàn toàn nổi bật. Có chăng cái tôi ấy đã đã làm nên một hồn thơ rất mới mẻ, rất độc đáo, rất
Xuân Diệu mà Vội Vàng là một trích dẫn tiêu biểu nhất?

Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được mệnh danh là “ông hoàng” của những bài thơ
tình cháy bỏng, nồng nàn. Không giống như những nhà thơ mới cùng thời, Xuân Diệu đã sớm khẳng định được cái tôi riêng biệt
trong chất sống sôi nổi, cuồng say của mình.

“Vội vàng” là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời. Bài cũng chứa
đựng cả nỗi trăn trở, khắc khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự chảy trôi vội vã của thời gian. Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ
giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc dồi dào và
mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang đến sự trải nghiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc
đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu.

Nếu ở những khổ thơ trước, Xuân Diệu giãi bày tâm sự về tình yêu mãnh liệt và nỗi nuối tiếc chia lìa thì đến đây, nhà thơ đưa ra câu
trả lời cho châm ngôn sống vội, sống tận hưởng của mình. Khổ thơ cuối cùng này chính là sự lên ngôi của tinh thần thơ Xuân Diệu
một cách mạnh mẽ nhất.
" Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội
vàng, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Cụm từ “mau đi thôi” như một lời thúc giục khi tác giả
nhận ra rằng vẫn còn kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi xuân cho đến phút cuối cùng. Phải rồi! “mùa chưa ngả chiều
hôm”, xuân vẫn còn đó, người đang yêu tha thiết thì tại sao phải nghĩ nhiều đến chia lìa để hao hụt niềm vui hiện tại. Vì thế mà
Xuân Diệu bừng tỉnh và giọng điệu thơ trở lại sự nồng nhiệt thiết tha:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
Guồng chảy của thời gian cứ thế trôi, cuốn đi những thanh sắc tươi đẹp của cỏ cây đất trời. Vì yêu vì đắm say mà hơn ai hết Xuân
Diệu cảm nhận xiết bao từng khoảnh khắc quý giá ấy để rồi bâng khuâng: “Ta muốn ôm - Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;”.
Đang từ những câu thơ 8 chữ, bỗng rút ngắn lại với câu thơ 3 chữ - câu ngắn nhất trong toàn bài thơ, làm cho giọng thơ đanh lại, rắn
chắc như một mệnh lệnh đòi hỏi hiện thực hoá những khát vọng. Khao khát cháy bỏng kia không phải của riêng ai mà là của tất cả
mọi người. Nó thôi thúc, gịuc giã những ai đang mang trong mình sức sống của tuổi trẻ. Mỗi người đọc hãy cảm nhận lấy khát vọng
của mình trong cái "ta" ấy. Ai mà chẳng muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra quanh mình: từ cái
mơn mởn của một nụ hoa xuân hoặc một nụ đời và tất cả những sự sống đang bắt đầu hé nhú, để nó khỏi trôi đi.

Trước thiên nhiên bao la rộng lớn, Xuân Diệu như mở rộng tầm mắt của mình để thâu tóm. Sau bao đau đớn, tuyệt vọng về sự hữu
hạn của đời người, về sự trôi chảy tuyến tính của thời gian đất trời, những câu thơ tiếp nối nhau như để góp phần làm bùng cháy lên
một khát vọng mãnh liệt:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Điệp ngữ "Ta muốn" lặp lại năm lần, mỗi lần lại tha thiết, mạnh mẽ hơn tạo âm hưởng dồn dập, khẩn thiết trở thành cao trào của
khát vọng sống. Các động từ phát triển theo cấp độ từ thấp đến cao như “ôm, riết, thâu, cắn” nhằm thể hiện một cảm xúc ngày càng
mãnh liệt. Hồn thơ Xuân Diệu như cánh buồm giương to, căng phồng nhịp tình sống. Ta cảm giác nhà thơ không chỉ giục giã mà
còn hăm hở lao vào, ôm ghì sự sống để tận hưởng sắc hương và mật ngọt của đời. Bổ ngữ cho hệ thống động từ là một loạt những
hình ảnh mây đưa, gió lượn, cánh bướm, non nước, cây cỏ. Phép liệt kê khiến bức tranh hiện lên có hình dáng, màu sắc. Mùa xuân
như đôi môi người thiếu nữ trẻ trung, tràn đầy năng lượng sống và thi sĩ muốn dành nụ hôn để thâu tóm non nước, cỏ cây. Liên từ
"và" lặp lại ba lần trong một câu thơ nhằm nhấn mạnh cảm xúc dâng trào mãnh liệt trong trái tim yêu đời của thi sĩ. Phân tích khổ
cuối bài thơ "Vội vàng", ta có thể cảm nhận được rằng mọi khung cảnh của thiên nhiên đều được nhìn qua lăng kính của một trái
tim yêu vì thế cảnh vật không hề u buồn như "Gió theo lối gió, mây đường mây" của Hàn Mặc Tử mà rạo rực, duyên dáng giữa đất
trời.
Nhưng với một tâm hồn đầy thi vị và nhạy cảm như Xuân Diệu thì điều đó đâu là đủ để thỏa mãn ông. Đã tận hưởng thì phải tận
hưởng cho kì hết, cho thỏa cái thú vui lãng mạn. Bởi thế mà suy nghĩ cũng biến thành ý thơ:
“Cho chếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”
Tình cảm của nhà thơ đến đây đã dâng lên đến tột độ. Xuân Diệu như muốn ôm, muốn riết, muốn say, muốn thâu với tạo hóa để
được cảm nhận những dư vị ngọt ngào, để được ánh sáng và thanh sắc đời xuân tắm mát. Tâm hồn nhà thơ như được tắm táp thỏa
thê, trọn vẹn, sung mãn với âm thanh, mùi vị, ánh sáng, hương vị rạo rực đất trời. Điệp từ "cho" lặp lại ba lần kết hợp với biện pháp
liệt kê diễn cả sự ham sống, muốn tận hưởng thiên nhiên một cách cao nhất, mãnh liệt nhất. Thời tươi đó với ông là khoảng thời
gian của tình yêu và tuổi trẻ. Không thể tắt nắng, buộc gió, không thể can dự vào quy luật tất yếu của tạo hóa cũng như kéo dài tuổi
xuân của mỗi đời người, cái duy nhất ta có thể chọn là một lối sống cho mình. Sống tận hưởng, tận hiến để không phí hoài thời gian,
ôm trọn mọi khoảnh khắc của đời người. Tất cả như tròn đầy trong tâm hồn thi nhân, tràn ra từng câu chữ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi
Nghệ thuật làm thơ khó nhất là ở câu cuối vì nó vừa phải nâng cao cảm xúc vừa chứng tỏ sự vận động của tứ thơ đạt tới độ hoàn hảo
không thể thêm bớt. Xuân Diệu đã vượt qua được ranh giới đó khi bật lên tiếng thơ chân thành, đầy khao khát. Ta từng biết "Mùa
xuân chín" trong thơ Hàn Mặc Tử, "Mùa xuân xanh" trong thơ Nguyễn Bính nay ta bắt gặp trái xuân hồng trong thơ Xuân Diệu. Nó
như một trái quả ngọt lành mà thi sĩ muốn cắn để tận hưởng. Động từ "cắn" khép lại bài thơ chính là điểm nhấn ấn tượng nhất của
cả bài. Xúc giác, khứu giác hay vị giác cũng không đủ để tận hưởng. Với câu thơ này, một nhà phê bình đã tinh tế nhận ra rằng:
"Xuân Diệu giống như một con ong hút nhụy đã no nê đang lao đao bay đi". Đây quả là sự giao cảm táo bạo, mãnh liệt của một trái
tim căng tràn tình yêu, sức sống.

Một sự chuyển đổi cảm giác tinh tế không chỉ gợi được sức sống mà còn gợi được cả cháy khao rực cháy hối hả quấn quýt trong
tâm hồn thi nhân. Nếu trong thi ca trung đại, thiên nhiên là tiêu chí đánh giá cho mọi vẻ đẹp của cuộc đời, là thước đo thẩm mĩ của
vũ trụ thì Xuân Diệu lại đưa ra tiêu chí mới, giàu tính nhân văn sâu sắc. Con người hồng hào, tươi trẻ giữa tuổi trẻ và tình yêu mới
là chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian. Mùa xuân như đôi môi ửng hồng của người thiếu nữ, tràn đầy sự trinh nguyên và một
chút rạo rực của tình yêu.

Toàn bộ bài thơ là một khúc ca say đắm yêu đời mà khúc ca nổi bật nhất, say đắm nhất chính là khúc cuối. Khúc ca vừa rạo rực vừa
đằm thắm. Đoạn cuối như một khúc vĩ thanh kết lại bài thơ. Chính vì vậy, tứ thơ tuy đã kết thúc nhưng vẫn để lại dư ba trong lòng
người đọc về một trái tim yêu đời, một triết lý sống độc đáo: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa
tuổi trẻ và tình yêu. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn
trong tình yêu và hạnh phúc. Hãy biết yêu và trân trọng những thứ cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ lúc còn trẻ để cống hiến hết
mình cho cuộc đời. Tập “Thơ thơ” nói chung hay “vội vàng” nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm cho người đọc, giá trị của nó vẫn
mãi lưu truyền đến hiện tại và mãi mãi. Người ta sẽ luôn nhớ đến thi sĩ Xuân Diệu là ” ông hoàng thơ tình”, ông đã để lại cho đời
những áng văn hay!

You might also like