You are on page 1of 15

Phân tích 13 câu đầu bài thơ vội vàng

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu biểu cho
tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm
với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong
bút pháp thi ca. "Vội vàng" không chỉ là thi phẩm đặc sắc nhất trong tập thơ
Thơ - bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài thơ hay
nhất cả cuộc sống sáng tác của ông. Bài thơ vừa như một nguồn cảm xúc trào
dâng vừa là tuyên ngôn sống của một nhà thơ khao khát yêu đời. 13 câu đầu là
đoạn thơ hay nhất thể hiện tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của thi
nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.
Với "Vội vàng" nhà thơ đã xây lầu thơ giữa vẻ đẹp cuộc đời. Bài thơ hấp dẫn
người đọc không chỉ bởi sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc
dồi dào và mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn
mang đến sự trải nghiệm mới mẻ về sự cách tân nghệ thuật độc đáo của một hồn
thơ mới Xuân Diệu.
Mở đầu bài thơ tác giả bày tỏ thái độ oai nghiêm như muốn đoạt quyền tạo hóa.
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Điệp ngữ "tôi muốn" và thể thơ ngũ ngôn với tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã
góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt
nắng buộc gió để "màu đừng nhạt mất" để "hương đừng bay đi". Nếu thời gian
đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ muốn níu giữ
thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời, để giữ
mãi thời tươi xuân thì của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho
cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào
mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là
một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và gìn giữ.
Là một nhà thơ khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp
thiên nhiên của nhà thơ phải chăng xuất phát từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Như ngàn lời mời gọi, điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần từ đầu đến
cuối đoạn thơ trên, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên
vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. "Này đây" là sự hiện
hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà gần
gũi ngay trước mắt, không phải ở kiếp khác, không phải ở tương lai hay quá
khứ mà ngay trong lúc này.
Điệp từ "của" lặp lại khiến câu thơ có vẻ hơ Tây và mới lạ. Sau từ "của" mang
tính chất kết nối ấy bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế lần
lượt hiện ra, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến
lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân.
Chính cái nhìn trẻ, cặp mắt xanh non biết rờn luôn lấy con người làm chuẩn
mực của cái đẹp đã tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần
tháng mật của yêu thương vội chốc trở thành mùa vui của bướm ong dập dìu,
cành xuân đã hóa thành cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng hót say sưa của
chim yến, chim oanh trở thành điệu tình si say đắm lòng người và bình minh
xuân diễm lệ mang gương mặt của người đẹp kiều diễm với rèm mi ánh sáng.
Bằng tâm hồn phong phú và trí tưởng tượng dồi dào của mình với câu thơ:
"Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa"
Thi nhân đã tạo ra sự bất ngờ đầy thú vị bởi sự liên tưởng bất ngờ hết sức độc
đáo. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt
trời trong thần thoại Hy Lạp xưa, cũng có thể là vị thần mang niềm vui ban tặng
cho thế gian vào mỗi buổi sớm ban mai, đánh thức mọi người dậy để tận hưởng
thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được
chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày
hân hoan vui sướng. Và trong niềm hân hoan vui sướng đó ngòi bút của Xuân
Diệu thật sự rất xuất thần, ông đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần"
Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của
mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói, trước Xuân Diệu, chưa
có ai "tỏ tình" với thiên nhiên như vậy. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình
lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ
đẹp của người tình với "cặp môi gần" căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.
Từ ngon được thốt lên đầy khát khao, nhục cảm bởi nhà thơ đã huy động mọi
giác quan: từ thị giác, tính giác, vị giác đến xúc giác để tận hưởng thiên nhiên,
tuổi trẻ và cuộc đời này. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ
trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là
thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. "Tháng giêng" là một khái niệm thời gian vốn vô
hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã
trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi gần của người thiếu nữ đầy sâu
sắc.
Nhưng ngay lúc chàng thi sĩ trẽ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận
hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc
lớn của trần gian và reo lên "tôi sung sướng" thì cũng chính là lúc thi nhân
ngừng lặng với cảm giác "vội vàng một nửa".
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa"
Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng
điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn
ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
"Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân."
Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm
say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của
nhà thơ vì thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi không trở lại, quả thật Xuân Diệu
là nhà thơ của những cảm quan tinh tế về thời gian.
Trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ
xuân diệu nhất. Bằng một hình thức nghệ thuật điêu luyện, sự kết hợp nhuần nhị
giữa cảm xúc mong manh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với
những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Qua 13 câu đầu, Xuân Diệu
đã đem đến một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn tích cực: Trong thế gian này
đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu; thiên
đường chính là cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thiết tha yêu,
hãy đắm say tận hưởng và tận hiến để mỗi ngày qua đi ta được sống trọn vẹn
trong tình yêu và hạnh phúc
Phân tích 16 câu giữa bài thơ vội vàng
Xuân Diệu là một nhà thơ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt
Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ "Vội vàng" trích
trong tập "Thơ thơ". Thi phẩm mang đến cho đọc giả một bức tranh mùa xuân
tươi mới và những cảm quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn
văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc đời.
"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian."
Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với
ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng
của người thi sĩ thì đến khổ thơ thứ 2, Xuân Diệu lại thể hiện sự khắc khoải
trước những bước đi của thời gian. Dường như, sâu thẳm trong tâm hồn người
thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi đến mức vô tình của thời gian. Trước một
mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng,
cùng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng "xuân đương tới"
rồi xuân cũng sẽ "đương qua", xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không
già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian chẳng thể
níu giữ được mùa xuân, được tuổi trẻ, được thanh xuân, được đời người. Thời
gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi thế mà tứng giấy đều phải trân
trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp
những động, tính từ trái nghĩa "tới" - "qua"; " già"- "non", đã cho thấy cảm quan
của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng
năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn cảm nhận được
mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời.
Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ
đấy nhưng biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu
hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ
càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào:
"Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời"
Đất trời rộng lớn, vũ trụ bao la, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải chấp
nhận sự thật dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy thôi nhưng tuổi trẻ đâu có
tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt
huyết. Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia ly
cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không
gian:
"Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa."
Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi.
Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió
xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru
khúc nhạc tình cũng đành dừng lại. Có lẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia
lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa.
"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm"
Đến cuối cùng, chẳng bao giờ có thể làm được những điều mình ước muốn nếu
cứ mãi đợi chờ, mãi hy vọng. Tiếng "ôi" thật nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết,
vừa như hối tiếc lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành động, hành động
ngay bây giờ:
"Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm"
Hãy nhanh nhanh chạy đua với vũ trụ, với thời gian nhân lúc "mùa chưa ngả
chiều hôm", nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia ly chưa đến. Câu cầu
khiến "Mau đi thôi" như một lời thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong
sự chậm chạp, trễ nải và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách
nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài.
Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của
người viết, tác giả đã mang đến cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi
một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học tập. Thơ Xuân Diệu phải chăng chính
là "tiếng nói của một tâm hồn yêu đời" như thế. Đọc đoạn thơ, em thấy mình
cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có
ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật trọn vẹn.
Xuân Diệu được mệnh danh là nhà thơ của mùa xuân và tình yêu, ông mang
trong mình tình yêu cháy bỏng với cuộc sống, với thiên nhiên, cũng bởi vì quá
yêu cuộc sống mà nhà thơ nhạy cảm, ám ảnh hơn với những bước đi của thời
gian.
Phân tích khổ cuối bài thơ vội vàng
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu trích trong tập thơ “Thơ và Thơ” của nghệ sĩ tài
năng Xuân Diệu. Bài thơ là tiếng nói tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, thiết tha
với tuổi trẻ của Xuân Diệu. Mười câu thơ cuối bài chính là khúc hát khép lại bài
thơ với những quan niệm nhân sinh sâu sắc.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”
Nếu như ở những vần thơ trên tác giả dùng “tôi” thì ở đây Xuân Diệu lại dùng
“Ta”. Theo như Chu Văn Sơn lý giải: “Ở trên, tác giả xưng ”tôi” để đối thoại
với đồng loại, ở dưới lại xưng “ta” để đối diện với sự sống”. Dưới con mắt của
tác giả, sự sống hiện lên “mơn mởn”. Từ láy “mơn mởn” miêu tả sức sống căng
tràn, tươi mới. Chính cái “mơn mởn” của sự sống khiến tác giả như tham lam
“muốn ôm” lấy tất cả. Sự sống ấy rộng lớn lắm, bao la lắm nhưng nghệ sĩ ấy
vẫn muốn ôm lấy, giữ chặt lấy.
Nhịp thơ như gấp rút, giọng thơ như dồn dập, cảm xúc như dâng trào bật lên
thành những ước nguyện cao đẹp:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng"
Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây,
gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần
mãnh liệt hơn: từ “ôm”, “riết”, đến “say”, “thâu”, và sau cùng là “cắn”. Từng
lần từ “ Ta muốn” vang lên là từng ước nguyện được nói lên. Nhân vật trữ tình
như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với
“cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn
nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ
rạng”. Điệp từ “ta muốn” cùng nhịp thơ dồn dập như diễn tả hơi thở gấp gáp của
thi nhân và nhịp điệu hối hả của trái tim vội vàng. Phải chăng thi sĩ Xuân Diệu
của chúng ta đang nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang
tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình? Phải chăng sống
vội vàng, sống hối hả, sống nhiệt huyết như thế với Xuân Diệu mới được gọi là
sống trọn vẹn?
Lí giải cho những ham muốn của mình, thi nhân có viết:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến diễn tả Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc
sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong cảm xúc dạt dào, trước
cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời chỉ đẹp khi sống hết
mình, khi đam mê hết mình, khi hòa hết mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp
nhất của tuổi đời con người – tuổi trẻ.
Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái
yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn và rồi đến cuối cùng, tác giả
phải thốt lên:
“– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
“ Xuân hồng” hai từ thôi mà nghe sao mềm mại thế, nghe đằm thắm thế. Mùa
xuân không chỉ còn là tên gọi mà mùa xuân trong thơ Xuân Diệu trở nên có
hồn, có sức sống. Mùa xuân ấy đẹp, ngọt ngào như đôi môi người thiếu nữ
khiến “ Ta muốn cắn vào ngươi”. Mùa xuân là cái hữu hình, làm sao thi nhân có
thể cắn? Đúng thi nhân không thể cắn nhưng thi nhân có thể hòa mình vào mùa
xuân, có thể say đắm trong cơn tình dịu ngọt của mùa xuân.
Khổ thơ cuối với ngôn từ đậm chất thơ Mới, thoát khỏi những vi phạm của quy
luật chặt chẽ thơ ca trung đại đã diễn tả không chỉ cảm xúc mãnh liệt của Xuân
Diệu trước cuộc đời, trước tuổi trẻ mà còn ẩn ý về một cái tôi trữ tình tràn đầy
sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc
của cuộc đời.
Cảm nhận khổ đầu bài thơ Tràng giang
Những cung bậc cảm xúc của con người thường được con người ẩn giấu qua
những câu hát, giai điệu, câu thơ câu văn. Chính các nhà văn, nhà thơ thường
bày tỏ nỗi lòng của mình qua các câu chữ thấm đậm tình. Huy Cận là một trong
những nhà thơ như vậy. Độc giả luôn cảm nhận được tâm trạng của ông qua các
bài thơ ông sáng tác. "Tràng giang" - một tác phẩm không thể không kể đến,
một tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả. Chắc hẳn
mọi độc giả đều ấn tượng với khổ thơ đầu tiên. tác giả đã vẽ lên khung cảnh
thiên nhiên thật đẹp trước sự cô đơn hiu quạnh quặn lòng.
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Nhan đề bài thơ là từ Hán Việt "Tràng giang", hai từ này nghĩa là "sông dài",
thật gợi hình gợi cảm tạo nên một không gian cổ kính. Thêm vào đó, điệp vần
"ang" đã tạo nên một âm vang xa mà rộng, mà dài, kéo mãi gợi nên một không
gian bao la rộng lớn dài thật trang nghiêm. Cùng với nhan đề, đề tựa của bài thơ
cũng rất đặc biệt "Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài". Phải chăng "bâng
khuâng" chính là cảm xúc chủ đạo của bài thơ để tác giả gửi gắm nỗi buồn vô
hình của mình. Hình ảnh con người thật là nhỏ bé cô đơn trước biển "trời rộng,
sông dài".
Mở đầu đoạn thơ, mở ra trước mắt ta là một dải sông dài rộng lớn:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp"
Một câu thơ chỉ vẻn vẹn có bảy chữ mà đã miêu tả được bao quát khung cảnh
rộng lớn cùng với cảm xúc trong lòng tác giả. "Sóng gợn" - hình ảnh những làn
sóng nhỏ li ti di chuyển trên một dòng sông dài và rộng làm cho con người ta
khi đứng trước cảnh này không khỏi cảm thấy mơ hồ. Ở đây, tác giả đã sử dụng
đến từ láy "điệp điệp" để miêu tả nỗi lòng của mình. Những gợn sóng cho ta
cảm giác rất nhẹ nhàng nhưng không, nó cứ xô tiếp, "điệp điệp" kéo dài không
ngớt, nó đẩy lòng người vào một nỗi buồn dai dẳng không ngừng.
Hình ảnh chiếc thuyền lại được xuất hiện thật gợi hình gợi cảm trong thơ của
Huy Cận:
"Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả"
Trước một khung cảnh bao la bát ngát, xuất hiện lên một con thuyền khiến nó
trở nên thật cô đơn hiu quạnh lênh đênh trên dòng sông nước rộng lớn. Những
tưởng "thuyền" và "nước" là hai vật thể "song song" không thể tách rời, nhưng
qua cái nhìn của Huy Cận, chúng lại chia lìa nhau. Một hình ảnh đối lập giữa
"thuyền" và "nước", một nỗi "sầu" của hai vật thể song song mà trải dài đến tận
trăm ngả, điều đó càng giúp ta hiểu thêm được nỗi lòng của nhà thơ đó là nỗi
buồn chia li, nỗi lòng tiếc nuối.
Nếu như thuyền, sông, sóng và nước quá đỗi quen thuộc với độc giả trong các
bài thơ thì chắc chắn độc giả sẽ không khỏi ngạc nhiên với hình ảnh nhà thơ đã
mượn để miêu tả ở câu thơ cuối của khổ đầu:
"Củi một cành khô lạc mất dòng"
Có thể nói rằng đây là một câu thơ "đắt" nhất của khổ đầu. "Củi" một thứ mộc
mạc đơn sơ giản dị, tưởng chừng không mang một ý nghĩa gì trong thơ văn,
nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận nó lại trở nên thật gợi hình gợi cảm. Một hình
ảnh ẩn dụ mà mang tính hiện đại mới mẻ đến với người đọc. Lối viết đảo ngữ
"củi một cành khô" gợi nên một sự cô đơn, lạc lõng nó gần như "khô" quạnh
không có sức sống. Đó cũng chính là tâm trạng của tác giả cũng như bao con
người đang lạc mình trong thời kỳ mất nước.
Một khổ thơ chỉ có hai mươi tám chữ mà đã vẽ lên cho người đọc bao cảm xúc
bồi hồi của một tâm hồn lớn trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Tác giả đã
rất thành công trong việc miêu tả cảnh, sử dụng độc đáo các biện pháp nghệ
thuật như điệp ngữ và ẩn dụ. Giữa không gian rộng lớn mênh mông, người nghệ
sĩ thấy bơ vơ, nỗi buồn nhân thế giữa dòng đời xô đẩy.
Bài thơ "Tràng giang" nói chung cũng như khổ thơ đầu nói riêng đã đạt đến
trình độ cao của văn chương, khiến người đọc không thể nào quên được. Huy
Cận thật khéo léo khi kết hợp tả khung cảnh thiên nhiên và nỗi lòng của mình
vào trong đó. Dù tác giả không có nhắc trực tiếp đến đất nước những từ tận sâu
trong bài thơ đó là tình yêu Tổ quốc, một lòng đau đáu về đất nước, luôn cầu
mong cho đất nước "quốc thái dân an".
Phân tích khổ 2 bài Tràng giang
Nếu cả bài thơ tràng giang là một bức tranh sông nước rợn ngợp những nỗi
buồn, nỗi sầu thương thì khổ thứ 2 trong bài đã gợi lên một khung cảnh hoang
vắng đến xác xơ, tiều tụy.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Cảm nhận chung về những dòng thơ này là một khung cảnh hoang vắng. Làng
xóm ven sông vắng lặng, cảnh sông nước thật mênh mang trong một không gian
nhiều chiều. Câu thơ đã gợi ra cảnh tượng: một vài cồn cát chạy nổi giữa dòng
sông với sự đơn độc, lẻ loi. Trên những cồn cát đó chỉ thấy lơ thơ vài cây mọc
hoang. Đây là dòng sông mùa nước, nước sông cứ dềnh mãi lên. Cảnh tượng
thực này lại mang rất nhiều tính biểu tượng trong nó. Nếu trước đó ta thấy con
thuyền bị vây bủa bởi những lớp sóng như những nỗi buồn điệp điệp thì ở đây
ta lại gặp con người như những cồn cát nhỏ bé, chơi vơi đang bị dòng lũ cuộc
đời nhấn chìm dần.Hình tượng thơ đó còn gợi lên cảm giác suy ngẫm về những
cuộc đời trong xã hội cũ.
Tất cả đều được sắp đặt, an bài, đều bị phủ lấp. Hình ảnh những cồn cát lơ thơ
giữa dòng nước gợi một cái gì thật buồn bã trước sự trùm phủ. Nó chẳng khác
nào cành củi khô, nhỏ bé lập lờ giữa dòng nước mênh manh. Trong khung cảnh
đó, thoáng những cơn gió đìu hiu.Cái cảm giác đìu hiu như lan tỏa; khung cảnh
câu thơ như gợi ra sự quạnh quẽ, hoang tàn. Đây là sự kế thừa và sáng tạo bút
pháp của Chinh phụ ngâm. Chính Huy Cận đã cho biết:ông viết dòng thơ này
với sự ảnh hưởng từ thơ Chinh phụ ngâm:
"Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Câu thơ” Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có nhiều cách hiểu khác nhau. Đâu
đó, đâu đây hình như đang vẳng lại những tiếng lao xao của cảnh chợ chiều.
Những tiếng chợ chiều vẳng lại trong gió đã gợi được cái tĩnh lặng của khung
cảnh.Phải yên tĩnh lắm mới có thể nghe được những âm thanh đó.Nhưng những
tiếng lao xao của cảnh chợ chiều lại chỉ gợi ra những gì là tàn tạ, thê lương. Bởi
còn gì buồn hơn cảnh chợ chiều, chợ tàn.
Cảnh ở đây vắng lặng đến tuyệt đối. Cảnh không những không có sự hoạt động
của con người mà ngay đến âm thanh của hoạt động đó cũng không có. Dẫu sao
thì cảnh ở đây vẫn thiếu một cái gì đó có thể lôi cuốn, vỗ về con người. Dù là có
hay không có những âm thanh của tiếng chợ chiều, ta vẫn không thấy được bất
kì mối liên hệ nào giữa những cồn cát lơ thơ và tiếng chợ chiều. Thế nhưng tất
cả vẫn gắn với nhau trong một biểu hiện chung, gợi lên những cảm giác cô
đơn,buồn bã và hiu hắt.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Đến hai câu thơ này, ta lại thấy gợi lên một nỗi buồn mênh mang khắp sông dài
trời rộng. Tạo vật ở đây có nhiều nét độc đáo. Độc đáo trước hết ở chỗ tạo dựng
không gian: những chữ “xuống, lên, dài, rộng, sâu” đã gợi được một không gian
nhiều chiều, có cài gì thăm thẳm hun hút, lại có cái dài rộng, mênh mang.Chút
nắng chiều sót lại, rơi xuống tạo cảm giác bầu trời như cao thêm lên. Những tia
nắng của ngày tàn đó đang rơi vào thăm thẳm để đẩy bầu trời lên cao chót vót,
xa vời. Nhưng cái nhìn của Huy Cận hướng về bầu trời lại thấy cảm giác sâu
chót vót như ông bị hút vào cái thăm thẳm của bầu trời trong một cảm giác rợn
ngợp không cùng.
Hai câu thơ này còn tạo nên sự đối nghĩa rất đặc sắc. Nếu câu thứ 3 gợi cảm
nhận về bầu trời cao thì câu thứ 4 lại gợi về hình ảnh dòng sông dài, rộng mênh
mang. Câu “nắng xuống trời lên sâu chót vót” gợi sự hắt hiu còn câu ” sông dài
trời rộng bến cô liêu” lại gợi một nỗi sầu dằng dặc. Mặt khác hai dòng thơ này
còn tạo sự kết hợp mang cảm giác vũ trụ- cảm giác thường thấy ở thơ Huy Cận.
Giữa hai dòng thơ ta còn thấy một sự đăng đối:” sâu chót vót- bến cô liêu”. Sự
đăng đối này tạo ra quan hệ ý nghĩa: mối sầu chất ngất bắt đầu từ cái thăm thẳm
của bến cô liêu. Huy Cận đã dùng cái thực tế để biểu hiện cái hư ảo khó thấy và
lại dùng cái hư ảo để lột tả tinh thần của cái thực tế đến tàn nhẫn.
Cũng với những dòng thơ này ta còn thấy nỗi buồn của Huy Cận đã vượt khỏi
lòng mình để nhuộm sầu cả vũ trụ. Nhân vật trữ tình trong Tràng giang có nỗi
buồn mênh mang, trải khắp và thấm đượm cả một không gian bát ngát, bao la.
Sông dài, trời rộng, vũ trụ mênh mang và nỗi buồn của con người cũng là vô
tận. Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng giang thấy rõ rằng: Nếu trước đó ta
thấy sự tương phản giữa cành củi và dòng sông thì ở đây ta lại gặp sự đối lập
giữa bến cô liêu và sông dài trời rộng. Đây vẫn la cái nhìn tương quan trong
cảm giác về con người giữa vũ trụ vô cùng.
Khổ thơ thứ hai khép lại trong cái cô liêu chơi vơi của cả lòng người và tạo vật.
Huy Cận thực tài tình khi đã dựng tả cả một bức tranh trời nước mênh mang mà
đầy tâm tư sâu lắng.
Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang
Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong
cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo
cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì
ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ
Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy
Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng
giang của ông.
Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn”
thế hệ mang tính thời đại, một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài
triền miên, nó như dàn trải theo mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ
thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của
buổi chiều tàn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi
cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh,
nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng
chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ
với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng
chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình
quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho
núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần,
không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi chiếm
lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp.
Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong
cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn
nương thân da diết nhớ quê hương:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng
cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô
định”, một cành củi khô bập bềnh trôi trên sông (củi một cành khô lạc mấy
dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (bèo dạt về đâu hàng nối hàng). Với
khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện
trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang
chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng.
Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông
lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng
khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa.
Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh
của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều
sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên
mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng
nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của nhà thơ. Nó thể
hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la,
lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp
người.
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Chuyển sang câu thơ thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải
là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là
cõi lòng nhìn vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xôi.
“Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng có nghĩa diễn nôm na là:
của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại
thành tấm lòng của người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó
sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về
chính quê hương mình.
Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự
rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc
hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là
tâm tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ
nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế không có một sự
gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng
kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn của
mình.
Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó
rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ
chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh
đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng
“ảo não” bấy nhiêu.
Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn
nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm
hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ
quốc, tình yêu giang sơn đất nước.

You might also like