You are on page 1of 26

ĐỀ 1: QUAN NIỆM SỐNG VỘI VÀNG CỦA XD

Nhắc đến phong trào Thơ Mới không thể không nhắc đến nhà thơ Xuân Diệu –
nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ Xuân Diệu được hun đúc bởi
một tâm hồn thiết tha rạo rực, một tâm hồn cháy bỏng với cuộc đời và sự
sống. Bởi vậy, trong thơ ông đâu chỉ đẹp thôi mà thơ ông còn tình nữa, nó gửi
gắm biết bao tâm sự, bao nỗi lòng, bao khát khao và quan niệm nhân sinh của
người thi sĩ. Với bài thơ “Vội vàng” in trong tập Thơ thơ, Xuân Diệu đã viết
nên một quan niệm đấy triết lí trong đời sống đó là quan niệm sống vội vàng.
KHÁI QUÁT
TB:
Sống vội vàng nghĩa là sống gấp gáp, nhanh chóng, khẩn trương, sống thúc
giục, hối hả. Sống không chần chừ, do dự. Và Xuân Diệu cũng thế, ông
muốn mình được sống trọn vẹn trong từng giây phút thực tại của cuộc đời.
Triết lí ấy được thể hiện rõ qua chính nhan đề mà ông lựa chọn đặt cho bài
thơ – Vội vàng. Đó là cách sống tận hưởng cuộc sống, tận hưởng mọi lúc,
mọi thời khắc của đời người, sống cuống quýt hết mình với từng phút giây.
Ông khát khao được thoả mình hưởng thụ những tinh hoa của thiên nhiên
vạn vật với nét đẹp nao lòng, Ông phải sống vội, bởi Xuân Diệu biết rằng
thời gian là hữu hạn, đời người thì ngắn ngủi, không sống vội vàng liệu có
bắt kịp tuổi trẻ, thanh xuân :
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu đến nữa không phải rằng gặp lại.”

Thời gian dài thật đấy nhưng đời người ngắn ngủi, ai biết được rồi sẽ ra sao,
xuân đến xuân qua như quy luật của tạo hoá, người lại thêm tuổi tác. Bởi vậy,
ông chọn cách sống vội để có thể có trọn vẹn những khoảnh khắc tuyệt vời,
để khỏi hối tiếc thời gian qua đi. Sự chảy trôi của dòng thời gian khiến con
người lại càng ý thức hơn cách sống cho chính mình, bởi vậy mà Xuân Diệu
lại càng mãnh liệt hơn, khát khao hơn trong cuộc sống:

Tôi muốn tắt nắng đi,


Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những
khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là
trái tim đầy khao khát mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn
giữ mãi cho mình những hương, những sắc của của cuộc đời. Mà cuộc đời
trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao nhiêu.
Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé
đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh túy nhất của mình:

Của ong bướm này đây tuần trăng mật;


Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần";
Chốn dương gian như một thiên đường nơi cõi trần tuyệt mỹ, đẹp đến xốn
xang. Khúc nhạc hòa ca với vẻ đẹp tròn đầy nhất, viên mãn nhất của mùa xuân
với đủ những âm thanh sắc màu tươi đẹp, có ong bướm, có hoa, có lá cành
tơ, có nàng yên anh hót khúc tình ca và rợn ngợp hạnh phúc của thần Vui mỗi
sáng. Tất cả dường như thật trọn vẹn, hữu tình, như ý. Bởi mùa xuân đẹp đến
thế, yêu đến thế mà khiến lòng người thổn thức, sung sướng ngập tràn và mãi
mãi không muốn mất đi. Muốn giữ lại tất cả những ngào ngạt của chốn bồng
lai nơi mặt đất. Nhưng dù có sung sướng, có mãn nguyện hay nhiệt thành đến
đâu tác giả vẫn ý thức được phải sống vội để giữ lấy tất thảy những yêu
thương ấy:

"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa"


Càng sợ hãi trước thời gian, càng lo sợ trước tương lai ông lại càng muốn
sống hết mình cho hiện tại, vội vàng nhưng tinh nhạy, vội mà không hư ảo, vội
là để giữ tròn đầy nhất những gì tuyệt đẹp cho bản thân, cho đất trời tạo hoá:

" Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân"


Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng"
Không chờ ngày mai mới tiếc nuối ngày hôm qua, tiếc nuối dĩ vãng tươi đẹp.
Từ ý thức biến thành hành động, tác giả muốn tận hưởng hết ngay bây giờ,
ngay lúc này, muốn chiếm hữu hết vẻ đẹp, sức hấp dẫn của mùa xuân xanh,
của tuổi trẻ. Muốn được ôm những sự sống mơn mởn, muốn được riết lấy làn
làn mây và khúc gió dạo giữa trời xanh, muốn hôn lên ánh nắng buổi chiều
hôm cho thoả lòng khao khát. Tận hưởng cho đã đầy dư vị của đời sống thân
yêu:

"Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng


Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"
Mọi giác quan đều được ông thức tỉnh để nếm trọn nét đẹp của mùa xuân, của
đời sống. Xuân hồng như một tình nhân bé nhỏ của thi nhân, rực rỡ, dịu ngọt,
mà không kém phần đằm thắm, thương yêu. Xuân càng đẹp khiến tác giả lại
càng không thể chần chừ hơn, do dự hay đắn đo suy nghĩ nữa mà phải nhanh
chóng tận hưởng và sống, sống trọn vẹn nhất ngày hôm nay. Sống cuống
quýt, hối hả, rối rít như muốn dang rộng vòng tay nhỏ bé của mình mà ôm lấy
vũ trụ tươi đẹp bao la ấy. Xuân Diệu quả thực phải có một tâm hồn rất đời và
rất người mới có những vần thơ tràn trề sinh lực và đầy sức sống như thế.

Tôi vẫn thường hay tự hỏi, sống vội để làm gì nhỉ?, liệu khi sống vội ta có
đánh mất chính mình hãy không khi ngoài kia đầy rẫy những chông gai, cám
dỗ. Nhưng đọc xong Vội vàng của Xuân Diệu, tôi lại càng hiểu hơn sự cần
thiết của cách sống ấy, đó là một lối sống lành mạnh và đầy tích cực. Hãy
sống, tận hưởng và cống hiến hết mình cho thực tại thân yêu, cho cộng đồng
đất nước. Sống trong từng thời khắc phải có ý nghĩa, làm đẹp cho tâm hồn
chính mình và cho cuộc sống thân yêu. Sống vội nhưng phải là lối sống mang
lại sự tích cực cho bản thân và xã hội.
ĐỀ 2: 13 CÂU ĐẦU BÀI VỘI VÀNG
Nhắc đến phong trào Thơ Mới không thể không nhắc đến nhà thơ Xuân Diệu –
nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ Xuân Diệu được hun đúc bởi
một tâm hồn thiết tha rạo rực, một tâm hồn cháy bỏng với cuộc đời và sự
sống. Bởi vậy, trong thơ ông đâu chỉ đẹp thôi mà thơ ông còn tình nữa, nó gửi
gắm biết bao tâm sự, bao nỗi lòng, bao khát khao và quan niệm nhân sinh của
người thi sĩ. Với bài thơ “Vội vàng” in trong tập Thơ thơ là bài thơ rất tiêu biểu
cho phong cách thơ tình yêu của XD viết về mùa xuân, tuổi trẻ
Bài thơ vội vàng nằm trong tập “thơ thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ
tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ XD nói chung. “Vội vàng” là một
trong những bài thơ tiêu biểu của XD. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường
của XD trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Cả bài
thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. thiên đường
là ở ngay trên mặt đất. Điều đó được khắc hoạ đặc biệt ở 13 câu đầu, nét bút
của XD đã vẽ lên bức tranh TN mùa xuân đặc sắc sinh động và nổi bật ở đó là
cả 1 khao khát sống hết mình, quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ mới mẻ của
tác giả
Mở đầu bài thơ trước hết là nỗi niềm khao khát chất chứa sự cháy bỏng
và táo bạo của thi nhân muốn níu giữ hương sắc êm dịu của xuân thì:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Mùa xuân - mùa của những nét đẹp tinh khôi, là thời điểm ôm trọn tất thảy
những tinh túy dạt dào của thiên nhiên đất trời và là mùa của những trái tim
rạo rực tươi thắm tình yêu. Ấy vậy nên Xuân Diệu - một ông hoàng thi ca tình
ái đã luôn không thể kìm lòng mình mà muốn thổ lộ khát khao rất táo bạo,
ngông cuồng, muốn được níu giữ sắc xuân qua điệp cấu trúc "Tôi muốn". Vì
yêu nên thi sĩ luyến tiếc, muốn đoạt quyền của tạo hoá để lưu giữ tất cả vẻ đẹp
đang có ở cuộc đời này. Xuân Diệu khát khao được “tắt nắng” và “buộc gió”
để cho thời gian ngừng trôi, để sắc màu đừng nhạt mất, hương thơm đừng
bay đi, để thời gian mãi ngừng lại ở phút giây này và để thi sĩ được sống mãi
trong tuổi trẻ và tình yêu. Có thể nói, chế ngự sự vận động, luân chuyển của
vũ trụ là một ý muốn phi lí, đảo ngược quy luật tự nhiên, song nó vẫn có cái
đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn, bởi ẩn chứa trong đó là cả một biển trời
cảm xúc chân thành, và là tình yêu tha thiết của thi nhân muốn được cứu rỗi
và tôn vinh cái đẹp. Với nhịp thơ sôi nổi cùng thể ngũ ngôn tạo điểm nhấn,
bốn câu thơ đầu hiện lên tựa như khúc dạo đầu đầy hứng khởi về tình yêu da
diết cùng những khát khao của thi sĩ muốn nâng niu và gìn giữ mọi thanh sắc
tinh khiết của cuộc sống trần thế này.
Đương lúc ngập tràn tình ý tha thiết được bất tử hoá cái đẹp, Xuân Diệu
lại tiếp tục thức nhọn tâm hồn thấm đẫm tình xuân của bản thân để tận tay vẽ
nên một thế giới rực rỡ, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Như lời mời gọi, điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần ở đoạn thơ trên,
vừa nói lên sự giàu có, phong phú của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân
hoan, vui sướng của tác giả. "Này đây" là sự hiện hữu của hương sắc cuộc
đời trần thế ngay trong lúc này, gần gũi ngay trước mắt chứ không phải xa
xôi, không phải ở tương lai hay quá khứ, lại càng không phải ở kiếp khác.
Điệp từ "của" mang tính chất kết nối khiến câu thơ trở lên mới lạ hơn. Sau từ
"của" bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần được thể hiện thật
rõ nét, khu vườn xuân cũng là khu vườn tình yêu ngập tràn ái ân hạnh phúc.
Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng trao gửi sắc hương, khiến lòng người
ngất ngây.
Nhà thơ luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, tạo nên vẻ đẹp riêng
trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương cũng trở
thành mùa vui của bướm ong dập dìu, cành tơ phơ phất đầy nhựa sống, tiếng
hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành khúc tình si, say đắm lòng
người và ánh sáng xuân lướt qua hàng mi diễm lệ của người đẹp kiều diễm
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa
Với tâm hồn bay bổng và trí tưởng tượng phong phú, nhà thơ đã tạo ra sự bất
ngờ đầy thú vị bởi liên tưởng hết sức độc đáo. Hình ảnh "thần vui hằng gõ
cửa" gợi lên hình tượng mặt trời hoặc cũng có thể là một vị thần mang niềm
vui ban tặng cho thế gian vào mỗi sớm ban mai, đánh thức mọi người bằng
những niềm vui để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu
mỗi ngày được sống, được ngắm nhìn ánh dương, được tận hưởng sắc
hương của vạn vật là một ngày hạnh phúc ngập tràn. Đặc biệt, bức tranh mùa
xuân còn được tác giả vẽ ra với một hình ảnh hết sức táo bạo "Tháng giêng
ngon như một cặp môi gần". "Tháng giêng" vốn là một khái niệm thời gian vô
hình lại được so sánh với "cặp môi gần" căng tràn quyến rũ của người thiếu
nữ diễm lệ, vừa gợi nét đẹp đẫm sắc xuân tình, vừa gây cho người đọc một
nỗi thèm khát được hưởng thụ sự tươi hồng và tình tứ ấy. Dường như thi
nhân đã huy động tất cả những rung động và giác quan tinh tế của người
nghệ sĩ để cảm nhận hết mọi tinh túy và báu vật của cảnh trời nhân gian lúc
sang xuân. Platon đã từng nói:" Hãy hát lên khi mỗi mảnh hồn anh là một sợi
dây đàn". Quả thật, bằng một niềm vui sướng dạt dào trước một mâm tiệc với
thực đơn quyến rũ, Xuân Diệu như khoác lên mình tấm áo của người kĩ sư đốt
mình vì nghệ thuật mà gảy lên từng phím đàn, cất lên những khúc hát, những
bản tình ca thấm đượm tình yêu, mê đắm của chàng thi sĩ trẻ. Với Xuân Diệu,
nếu trần thế chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa, và những
hương sắc nhạt phai thì đó không còn là thế giới mà thi nhân hằng ham muốn
đem bầu máu nóng và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa. Qua đó thổ
lộ một niềm say đắm rạo rực cùng tình yêu tha thiết của nhà thơ trước cảnh
tình sắc xuân đầy tinh khôi và quyến rũ của đất trời, đồng thời thể hiện khả
năng quan sát và miêu tả bức tranh thắm sắc tài tình đến điêu luyện của thi
nhân.
Với thiên chức cao quý mà tạo hoá ban tặng cho người nghệ sỹ, Xuân
Diệu đã tinh tế bày tỏ những tình cảm của một tâm hồn lãng mạn trước một
thiên đường huyền diệu và thanh sắc tinh khiết này:
"Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân."
Đắm mình và quyện hoà vào bữa tiệc tình ái tràn ngập màu sắc xuân thì, thi
nhân đã đón nhận vẻ đẹp của thiên đường kì diệu bằng tất cả niềm hân hoan
và vui sướng của một người nghệ sĩ. Ấy nhưng, "thời gian là kẻ sát nhân giỏi
nhất", nó dùng thanh kiếm của sự ngắn ngủi mà chặt đứt niềm vui còn dở
dang, thi nhân tuyệt nhiên giật mình thoát khỏi bữa tiệc mỹ vị và mang trong
mình những lo lắng, bồn chồn trước dòng chảy trôi của thời gian hữu hạn.
Thật kì lạ thay khi nhà thơ Xuân Diệu lại đặt hai thái cực đối lập nhau vào
trong cùng một câu thơ: " Tôi sung sướng" và "vội vàng một nửa". Nhịp ngắt
3/3/2 kết hợp với dấu chấm giữa dòng thơ đã vô tình tạo một nốt lặng trầm tư
trong dòng chảy cảm xúc của tác giả, khiến cho rào cản và khoảng cách giữa
niềm vui và sự lụi tàn dường như bị tháo gỡ và trụi cháy, chỉ sót lại những dư
âm đầy buồn bã của một thời xuân thì tươi thắm nồng nàn, đượm màu tình ái.
Hạnh phúc và lo âu - hai trạng thái cảm xúc tưởng chừng như hai đường
thẳng song song, không thể cùng tồn tại, song khi đặt vào thơ Xuân Diệu, nó
lại tạo cảm giác thống nhất đến lạ thường, bởi lẽ thi nhân đã gửi gắm nơi thi
ca tất cả những tình yêu da diết của một tâm hồn nhạy cảm trước mùa xuân và
tuổi trẻ. Mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân lại vô cùng tiếc
nuối khi nhìn thấy sự lụi tàn của cảnh vật: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài
xuân". Xuân Diệu là thế, vẫn luôn là một tâm hồn đa sầu đa cảm, trong lúc vui
ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã phải thổn thức bởi ông sợ bản thân không so
kịp với bước chân của tạo hóa, không thể thụ hưởng hết tất thảy những sắc
xuân mơn mởn tươi thắm chốn non nước này. Qua đó thể hiện một quan niệm
nhân sinh cao quý của thi sĩ, ông hối hả, thúc giục mọi người về một triết lí
sống vội vàng, cháy hết mình với những năm tháng tuổi trẻ và chiếm lĩnh tuyệt
đối giá trị của cuộc sống nơi trần thế này. Nói Xuân Diệu "khi vui cũng như khi
buồn, người đều nồng nàn tha thiết" (Hoài Thanh) quả thật không sai, bởi lẽ,
phải là một tâm hồn say mê, đa tình và vấn vương cuộc sống trần thế đến vô
tận thì thi nhân mới có thể tận hứng hết thảy nét đẹp mà thổi hồn cho câu chữ
cất lên thành lời.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng
điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức
gợi cảm, kết hợp với thủ pháp ẩn dụ chuyên đổi cảm giác, nhân hoá,... và các
động từ mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quít, hối hả khiến cho bài thơ như
một lời hiệu triệu, một sự giục giã của XD
Đã một khoảng thời gian dài trôi qua đoạn thơ đầy cảm xúc trên vẫn
luôn để lại trong lòng độc giả biết bao ấn tượng sâu sắc. Chính khao khát
mãnh liệt cùng bức tranh quyến rũ buổi xuân thì đã làm nên thành công lớn
cho "Vội vàng". Có lẽ bởi cái hay, cái đẹp ấy mà thi phẩm luôn có chỗ đứng
vững chắc trong lòng độc giả và trường tồn mãi với thời gian.

ĐỀ 3: KHỔ 2 VỘI VÀNG


Nhắc đến phong trào Thơ Mới không thể không nhắc đến nhà thơ Xuân
Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ Xuân Diệu được hun đúc
bởi một tâm hồn thiết tha rạo rực, một tâm hồn cháy bỏng với cuộc đời và sự
sống. Bởi vậy, trong thơ ông đâu chỉ đẹp thôi mà thơ ông còn tình nữa, nó gửi
gắm biết bao tâm sự, bao nỗi lòng, bao khát khao và quan niệm nhân sinh của
người thi sĩ. Với bài thơ “Vội vàng” in trong tập Thơ thơ là bài thơ rất tiêu biểu
cho phong cách thơ tình yêu của XD viết về mùa xuân, tuổi trẻ

Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài
thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội
vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện tập
trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận
thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa
nhân bản sâu sắc. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ “Vội
vàng”. Ở đoạn này thi sĩ tập trung thể hiện quan niệm về thời gian.

Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian
được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về
điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời
khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời gian tuần hoàn”
xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm
thước đo thời gian. Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh
cãi” lại quan niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một
cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng ý thức triết học đã thấm nhuần
cảm xúc. Đoạn thơ với giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi, khẩn
trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng
cảm nhận về thời gian của thi sĩ. Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm
“thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân
vẫn tuần hoàn”. Như vậy, Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác
“thời gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy
xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh
viễn. Cho nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài
nghi. Nếu như ở khổ thơ đầu của bài, nhà thơ đã phác họa lên một bức tranh
mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là
tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ; thì đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại thể
hiện sự khắc khoải trước những tốc độ trôi thật nhanh của thời gian. Dường
như sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy, đã có ý thức rất rõ sự vô tình
của thời gian trôi đi quá nhanh. Trước một mùa xuân tràn đầy sức sống và sắc
hương rực rỡ quyến rũ mê ấy, tác giả cũng hòa mình vào bầu không khí, cùng
thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi
xuân cũng sẽ “đương qua”, xuân còn non không có nghĩa là xuân sẽ không
già, bởi mỗi phút giây qua đi như đẩy cuộc đời của con người thêm ngắn lại.
Thời gian chẳng chờ đợi ai, nó cứ mặc kệ đi tuổi trẻ, thanh xuân, cảnh vật
xung quanh mà vụt đi mất. Thời gian, tuổi trẻ, chả bao giờ có thể quay lại, bởi
thế mà tứng giấy đều phải trân trọng, phải sống một cách vội vàng kẻo lỡ
những thành xuân cuộc đời. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa
“tới” - “qua”; “ già”- “non”, đã cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian
đầy nhạy bén, tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi đời người thêm phần
ngắn lại, khi mà ta không còn thấy được những vẻ đẹp của mùa xuân nữa
nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời. Dù biết lòng
người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đấy nhưng
biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ
nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, nhà thơ càng bất an,
càng thảng thốt, nghẹn ngào:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn


Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.”
Thật vậy, đất trời, vũ trụ bao la là thế, nhưng con người lại nhỏ bé, đời người
lại hữu hạn. Phải chấp nhận sự thật dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đấy
thôi, nhưng tuổi trẻ đâu có vĩnh viễn mà tuần hoàn theo thời gian, đâu thể
thắm lại những lần như thuở còn sung sức, dồi dào sức khỏe, tràn đầy nhiệt
huyết. Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia ly
cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của
không gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi


Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.”
Có thể thấy rằng, đây chính là lẽ thường của tạo hoá, một quy luật của vũ trụ
mà vạn vật đều không tránh khỏi. Vì thời gian rớm màu chia phôi, núi sông
than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào đến thế cũng thều
thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành dừng lại.
Có lẽ con người chúng ta đều sợ thời gian, sợ những khoảnh khắc phải chia
xa, nước mắt rơi, sợ những phai tàn, héo úa.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa ...


Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm.”
Và đến đây, thi sĩ Xuân Diệu đã vỡ lẽ ra một điều rằng chẳng bao giờ có thể tắt
nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ của mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng
trong lồng ngực, ước muốn táo bạo đã tan thành mây khói. Chỉ còn lại nỗi
bàng hoàng, thoảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và
dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu
giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc bản thân mình và mọi
người hãy sống vội vàng, tràn đầy nhiệt huyết để không lãng phí thời gian trôi
qua: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Lời giục giã hối thúc mang sắc
điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm
giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rẩt điển
hình, tiêu biêu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước Cách
mạng Tháng Tám. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã
mọi người cần sống mau, sống vội. Hãy mau mau chạy thật nhanh để đua với
vũ trụ, với thời gian, nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm”, nhân lúc màu lá
phải chưa ngả, mùa chia ly chưa đến. Câu cầu khiến “Mau đi thôi” như một lời
thức tỉnh những ai đang u mê ngập chìm trong sự chậm chạp, trễ nải và thơ ơ
hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi
những tháng năm sống phí, sống hoài.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng
điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức
gợi cảm, kết hợp với thủ pháp ẩn dụ chuyên đổi cảm giác, nhân hoá,... và các
động từ mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quít, hối hả khiến cho bài thơ như
một lời hiệu triệu, một sự giục giã của XD

Khổ thơ thứ hai không phải là quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu
những cảm xúc của người viết, của tác giả Xuân Diệu. Khổ thơ đã mang đến
cho chúng ta - những người trẻ tuổi một cảm quan mới mẻ về lẽ sống để học
tập. Hồn thơ Xuân Diệu phải chăng chính là “tiếng nói của một tâm hồn yêu
đời” như thế. Đọc khổ thơ, chúng ta càng thấy mình cần phải gắng sức mỗi
ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để
sống một tuổi trẻ thật đẹp, thật trọn vẹn.
ĐỀ 4: KHỔ CUỐI VỘI VÀNG ( 9 câu còn lại)
Nhắc đến phong trào Thơ Mới không thể không nhắc đến nhà thơ Xuân
Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Thơ Xuân Diệu được hun đúc
bởi một tâm hồn thiết tha rạo rực, một tâm hồn cháy bỏng với cuộc đời và sự
sống. Bởi vậy, trong thơ ông đâu chỉ đẹp thôi mà thơ ông còn tình nữa, nó gửi
gắm biết bao tâm sự, bao nỗi lòng, bao khát khao và quan niệm nhân sinh của
người thi sĩ. Với bài thơ “Vội vàng” in trong tập Thơ thơ là bài thơ rất tiêu biểu
cho phong cách thơ tình yêu của XD viết về mùa xuân, tuổi trẻ
Được in trong tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho nhịp
sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu. Là người yêu đời, ham sống tha
thiết, mãnh liệt nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Xuân Diệu không bao giờ bỏ
cuộc, vẫn cứ bám chặt vào cuộc đời. Trong tâm thế sống “Chẳng bao giờ chán
nản”, Xuân Diệu đã có giải pháp tích cực khi ước muốn níu giữ mùa xuân
không thành. Sau lời hối thúc, giục giã phải sống mau, sống vội, Xuân Diệu
say sưa cụ thể hóa lẽ sống vội vàng bằng lẽ sống thiết thực. Với thi sĩ, vội
vàng không đơn thuần chỉ là sống gấp sống vội mà còn là sống với cường độ
cao nhất: “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”:

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
– Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi”
Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ
thơ. Câu thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang rộng cánh
tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra
trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những
câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng mãnh
liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam
của Xuân Diệu. Đại từ nhân xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước
sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở đây thi sĩ
đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống
mãnh liệt, hãy sống tận độ trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”?

Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự
sống. Dĩ nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà
Xuân Diệu khát khao phải là thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới
bắt đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ. Điều ấy có nghĩa là
Xuân Diệu tham lam, ham hố tận hưởng tất cả những gì ngon nhất, đẹp nhất
của sự sống. Nàng xuân mà Xuân Diệu đắm đuối hết sức thanh tân quyến rũ,
rạo rực xuân sắc, đắm đuối xuân tình. Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân
như đến với người tình tuyệt vời của mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân
cùng sự sống. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến lần lượt xuất
hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “ riết”, “say”, “thâu”, “cắn” là biểu hiện của
tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt. Ôm chọn khắp, riết thật chặt, say sưa
mê đắm và đỉnh điểm là cắn. Xuân Diệu đã tận hưởng thiên nhiên như tận
hưởng ái tính. Hình ảnh “thâu trong một cái hôn nhiều” rất Tây. Đi liền đó là
câu thơ thừa thãi liên từ “và”: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Chính sự lặp
lại có vẻ như thừa thãi ấy lại là một sáng tạo rất hiện đại của Xuân Diệu. Sự lặp
lại liên tiếp liên từ “và” trong một dòng thơ đã truyền đến người đọc một cảm
xúc hăm hở cuồng nhiệt của một gã suy tình trước tình nhân đắm đuối.

Xuân Diệu tận hưởng sự sống mơn mởn như tận hưởng ái tình và phải đạt
đến độ no nê, đã đầy, chênh choáng. Nghĩa là phải thỏa thuê, ngây ngất, mê đi,
lịm đi:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Xuân Diệu hiện ra đúng là một gã si tình chếnh choáng men say. Hàng loạt
điệp từ “cho” liên tiếp lặp lại dồn đầy cảm xúc yêu đương cuồng nhiệt, mãnh
liệt đến vô biên, tuyệt đích. Lời yêu cháy bỏng không thể kìm nén trong lòng,
thì thầm trong trái tim mà vang lên thành lời đối thoại dõng dạc, trực tiếp: “Hỡi
xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đọc câu thơ, ta tưởng nhu thi sĩ đang
muốn hét lo lên để cả đất trời, vũ trụ hiểu được niềm yêu cuồng nhiệt của
mình. Ôm, riết, say, thâu chưa đủ, no nê, đã đầy, chếnh choáng vẫn chưa thỏa
mà phải cắn vào xuân hồng, phải tận hưởng bằng cả tâm hồn, bằng cả trái tim
đắp đuối, ham hố mới thỏa niềm khát khao. Ở đây, dường như có để biểu đạt
niềm yêu đời cuồng nhiệt vô biên của mình, Xuân Diệu đã dùng đến yếu tố phi
lí, phi hiện thực. Cũng chính vì thế mà câu thơ: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn
vào ngươi!” trở thành một trong những vần thơ độc đáo, táo bạo nhất trong
thơ hiện đại. Cùng với “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, Xuân Diệu
đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới.

Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng
điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
Cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức
gợi cảm, kết hợp với thủ pháp ẩn dụ chuyên đổi cảm giác, nhân hoá,... và các
động từ mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quít, hối hả khiến cho bài thơ như
một lời hiệu triệu, một sự giục giã của XD
Đã một khoảng thời gian dài trôi qua đoạn thơ đầy cảm xúc trên vẫn
luôn để lại trong lòng độc giả biết bao ấn tượng sâu sắc. Chính khao khát
mãnh liệt cùng bức tranh quyến rũ buổi xuân thì đã làm nên thành công lớn
cho "Vội vàng". Có lẽ bởi cái hay, cái đẹp ấy mà thi phẩm luôn có chỗ đứng
vững chắc trong lòng độc giả và trường tồn mãi với thời gian.
ĐỀ 5: TRÀNG GIANG 2 KHỔ ĐẦU
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với
những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách
sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách
mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển
biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào
hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng
giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u
buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài
thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và
cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con
sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng
đến những bài thơ Đường của Trung quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng
gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân
phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của
nỗi u uất như thế.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát
nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng
giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện
đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
“Tràng giang” có thể xem là một nốt nhạc buồn trong bản giao hưởng
đa sầu đa cảm của “lửa thiêng”. Bài thơ được Huy Cận viết vào tháng 9 năm
1939. Năm 1940, tập thơ “lửa thiêng” của Huy Cận xuất hiện như một mảnh
hồn đầy ảo não giữa trời thơ mới đang đi dần vào bế tắc. điều được quan tâm
nhất là trong hồn thơ ảo não ấy, Huy cận vẫn giữ đc nét trong trẻo lạ thường.
Huy cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu
mộng của mình để lượm nhặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ.
“Tràng Giang” có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong
cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa
thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Với một loạt từ ngũ gợi buồn thê lương "buồn", "xuôi mái", "sầu trăm ngå",
"lạc mấy dòng" kết hợp với từ láy “điệp điệp", "song song" dường như đã lột
tả hết thần thái
và nỗi buồn vô biên, vô tận cua tác gia. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của
cổ điển đã hoà lẫn với nét hiện đại. tác giả đã mượn hình ảnh con thuyên xuôi
mái nước và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng
nước mênh mông, vô tận, vô định. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám
ảnh, một con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng
khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Lọt thỏm giữa dòng sông vũ trụ
mênh mông vô định là những hình ảnh lẻ mọn, nhỏ nhoi khiến cho không gian
trở nên thật khác lạ : “song gợn tràng giang buồn điệp điệp”. câu thơ dung
chứa cả hai đợt sóng, sóng nước và sóng lòng. Đây là con sóng đa tầng nghĩa
khiến cho dòng sông cựa mình biến thành một thế lực vô thường. nhạc sóng
và nhạc lòng, không gian vũ trụ và không gian tâm tưởng hoà quện vào nhau
tạo thành thứ sắc màu tâm lý, màu buồn đổ bóng lên vạn vật “ con thuyền
xuôi mái nước song song”. Hai chữ “ xuôi mai” đầy bât lực và phó mặc tất cả
mọi quyền lực được trao trọncho số phận, cho sự cheiém lĩnh của không gian
và thời gian.
Con thuyền cứ lững lờ nhẹ trôi trong không gian mênh mông của sông nước
càng làm nổi bật ấn tượng về sự đơn độc, lẻ loi, vô định. Thiên nhiên mênh
mông quá, lòng sông dài rộng quá, biết tìm đâu bến đỗ cho con thuyền kia?
Thuyền cứ thế thả mình xuôi theo những luồng nước song song, đi về mãi tận
cuối chân trời. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với các từ ngữ vần bằng càng gợi thêm
những nét mênh mang của vùng sông nước vừa như gần gũi lại vừa như xa
vắng:

"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả


Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Thuyền và nước vốn song hành, gắn bó cùng nhau, nhưng trong cảm nhận
của Huy Cận, thuyền và nước lại chẳng cùng chung một điểm đến "thuyền về
nước lại". Bằng biện pháp đối lập tương phản "thuyền về nước lại" đã đặc tả
nỗi sầu xa cách, chia lìa. Cụm tính từ "sầu trăm ngả " làm cho nỗi buồn như
lan tỏa, giăng kín cả bức tranh thơ. Là thiên nhiên đang mang 'sầu trăm ngả"
hay chính lòng người đượm niềm tiếng sầu bi? Sóng nước mênh mông,
thuyền không bến đậu ngỡ là tột cùng của nỗi buồn, hình ảnh cành củi khô trơ
trọi đang lạc lõng giữa dòng càng làm cho lòng người thêm bâng khuâng,
khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ được tác giả vận dụng đầy tinh tế nhằm nhấn
mạnh cái lạc lõng của vật giữa vật, của người giữa người, của cuộc đời giữa
vũ trụ bao la. Số từ "một" gợi lên sự đơn lẻ, cô độc, ít ỏi, danh từ "củi" kết
hợp với tính từ "khô" càng gợi sự nhỏ bé, héo khô nhựa sống. Cành củi khô
trôi dạt về đâu nơi vùng sóng nước. Không gian mang màu tâm trạng được
tác giả vẽ nên bằng những nét vẽ giản dị của ngôn từ mà khiến lòng người
không khỏi xót xa, u hoài.
Nếu trong khổ thơ mở đầu của bài thơ, tác giả vẽ nên không gian sông
nước mênh mong thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả lại mở ra không gian nơi
cồn nhỏ. Hai câu thơ mở đầu khổ thơ thứ 2 đã vẽ nên một không gian hoang
vắng, hiu quạnh
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Với việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ cùng từ láy “lơ thơ” đìu hiu đặc biệt gơi
cảm tác giả đã vẽ nên một bức tranh nơi cồn nhỏ vừa thưa thớt, hoang vắng,
lạnh lẽo vừa gợi nên một nỗi buồn mênh mang. Thêm vào đó, sự hoang vắng,
tĩnh mịch của không gian như càng được tô đậm thêm qua câu thơ “đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều”. có thể nói đây là một câu thơ có nhiều cách hiểu, đâu
là đâu có, là phủ nhận âm thanh của tiếng chợ chiều hay là đâu đó, gợi lên âm
thanh yếu ớt của tiếng chợ. Chợ vốn là hình ảnh của ko gian sống, là biểu
tưởng của cuộc sống nhộn nhịp. nhưng chợ ở đây là chợ chiều đã vãn, đã
tàn. Cảnh vật héo buồn, hiu quạnh, ảm đạm. “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự xuất
hiện ít và thưa thớt, cảm giác của con người thoáng buồn khi đứng trước tầm
nhìn rộng. cảnh vật thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm tìm
đến sự tri ân.
Nếu hai câu thơ đầu khổi hai gợi lên không gian cồn nhỏ vắng vẻ, đìu
hiu thì dường như trong câu 3 4 không gian ấy như được mở rộng cả về bốn
phía làm cho cảnh vật vốn đã vắng vẻ lại càng thêm cô liêu, tĩnh mịch
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sống dài, trời rộng, bến cô liêu
Không gian thơ càng trở nên rợn ngợp và ám ảnh hơn khi tứ thơ đột ngột
được nhấc bổng lên để toa ra đôi bờ và phía cồn nhỏ, làng xa gợi cảm giác về
vũ trụ quá rộng nhưng rỗng và lạnh. Câu thơ đầu như một sự mở rộng về
không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để nhận thấy nắng
càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được mở ra hai chiều rộng dài
đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại cảm giác mạnh cho
người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng chưa dừng lại ở
đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách dùng từ ngữ
thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ cao thì
ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một
hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông
nước đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích
mới. Và phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ
sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống
chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các
chiều kích của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và
không gian càng mở ra bao nhiêu thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh
bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của bến cô liêu như lạc giữa đất trời, như lẻ
loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ hai trong cái nhìn bao quát toàn cảnh vật
của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều kích, tới không giới hạn để
rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô quạnh.
ĐÁNH GIÁ: Thơ HC hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý suy tưởng.
một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giap hoà giữa con người và
tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lắng. cảnh sắc trong “tràng
giang” đẹp mà buồn. Với thể thơ thất ngông mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng.
mỗi khổ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm
hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê
hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp
điệp trong lòng ng đọc bấy lâu nay.
KẾT BÀI: Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong
trào thơ mới nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ
Huy Cận mà dường như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy
giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông
cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê
hương đất nước vẫn chảy trong họ những một dòng sông mãnh liệt và bền
vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của
“Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất
hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.

ĐỀ 6 : NÉT CỔ ĐIỂN HIỆN ĐẠI BÀI TRÀNG GIANG


Những dòng sông hiền hòa, thơ mộng hay hùng vĩ, mênh mang, chắt chiu phù
sa nuôi bến bờ xứ sở. Những dòng sông tắm mát, vỗ về, an ủi, nâng đỡ tâm
hồn bằng cái bao dung mở lòng ngọt ngào của nước. Và rồi, sông nuôi nấng
tâm hồn thi sĩ. Sông dạo những bản tình ca êm đềm, những khúc nhạc mạnh
mẽ kiêu hùng. Biết ơn những dòng sông để từ đó Trương Hán Siêu viết “Bạch
đằng giang phú”, để Văn Cao làm “Trường ca sông Lô”, để nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp tha thiết “Chảy đi, sông ơi!” Và để một chiều thu đã xa, Huy Cận
đạp xe đến bờ nam bến Chèm, ngắm nhìn dòng sông miên man nước chảy mà
thấy “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” và rồi vẽ nên một bức tranh quấn
quyện, hài hòa giữa phong vị cổ điển và hiện đại của “Tràng giang”.
Còn nhớ, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng nhận xét thế này: “Đời
chúng ta nằm trong một vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi
sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình
của Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say
cùng Xuân Diệu”. Nếu Xuân Diệu gắn liền với đắm say với thiết tha, rạo rực thì
nhà thơ Huy Cận lại gắn liền với nỗi sầu vạn kỷ mênh mang, đa sầu, đa cảm.
Bài thơ “Tràng giang” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và tình thơ Huy Cận
được sáng tác vào một buổi chiều mùa thu năm 1939. Ở đó ta thấy một bức
tranh thiên nhiên mênh mông vương màu buồn thương, hiu quạnh của một cái
tôi mang nỗi sầu vạn kỉ.
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được
trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm
sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người. Ấy là một thế giới vừa được
nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn
của một cái “tôi” hiện đại, rất đặc trưng cho Thơ mới. Có lẽ vì thế mà “Tràng
giang” hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ,
vừa cổ kính, trong đó thi sĩ hiện lên như một lữ thứ đơn độc lạc loài?
Trước hết, không gian “Tràng giang” thuộc về mênh mông vô biên. Ngay cái
tên bài thơ đã như một cửa ngõ mở vào vô biên bởi “Tràng giang” gợi ra hình
tượng một con sông chảy mênh mang giữa trời đất. Và câu đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài”, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã
như một bức rèm hé mở mang ta vào với vô tận, mà người đọc cần vén lên;
hoặc như một hành lang mở thông vào vô biên, mà người đọc cần dấn bước.
Dẫu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn
toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày
vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những
luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang
loang ra, lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai
lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không
gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là nó có thấp thoáng
âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài “Đăng cao” nổi tiếng của
Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cồn cồn lai.”
(Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi.)
Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng cao” đặt ở
giữa câu, thì tác giả “Tràng giang” lại đẩy xuống cuối câu. Nhờ thế hai từ láy
nguyên “điệp điệp” và “song song” tạo ra được dư ba. Nghĩa là lời thơ đã
ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mã vào vô biên.
Trước không gian mênh mông, vô tận của sóng nước, Huy Cận như thả hồn
mình nơi ấy, để rồi từng con sóng cũng biết “buồn điệp điệp” - một nỗi buồn
không mãnh liệt trào dâng mà u sầu miên man không sao ngừng được. Giữa
một dòng sông lớn mang trong lòng một nỗi buồn lớn thấp thoáng hơi ấm của
con người khi xuất hiện hình bóng của “thuyền” nhưng lạ thay con thuyền ấy
lại “xuôi mái” chảy theo dòng nước mênh mông vô định, không người chèo
lái, không bến bờ trở về. Văn học xưa nay ta vẫn hay thấy cặp hình ảnh thuyền
và nước, chúng gắn bó chặt chẽ với nhau. Ấy thế mà giờ đây, trong hồn thơ
Huy Cận - một tạng thơ ảo não, sầu muộn thì thuyền và nước lại xa cách, biệt
li:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước những tưởng là hai hình ảnh song song đồng hành với nhau,
đến đây lại cách xa, buồn tủi. Hình ảnh đối ngẫu “thuyền về nước lại” gợi sự
chia lìa xót xa, thuyền một hướng, nước một hướng, sầu thương vô cùng.
Thuyền lênh đênh trôi mãi đi xa để lại dòng nước lặng lẽ ở lại, heo hắt, cô
quạnh. Thuyền và nước ở đây không còn là sự vật vô tri vô giác của thiên
nhiên mà đã được nhân hóa lên như một con người. Trước sự chia li, cách
biệt chúng cũng có cảm xúc như con người: “sầu trăm ngả”. Nỗi sầu không
ngả một bên mà ngả trăm đường, lan tỏa, tràn lan như bao trùm cả khoảng
không. Sự trái ngược đó nhìn có vẻ phi lí nhưng ta cũng thấy rõ sự logic trong
câu thơ của tác giả, nó thể hiện được cảm xúc chủ đạo của bài thơ, sự chia li,
xa cách trước thời thế của cuộc đời, dạt dào trôi nổi trong trạng thái bị động
và nỗi buồn trong cái tôi của Huy Cận. Để rồi một hình ảnh thật lạ, thật đặc biệt
bước vào thi ca như để phá vỡ mọi quy phạm của văn học trung đại:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Từ một cành cây xanh tươi nơi núi rừng đầu nguồn đến một cành củi khô bập
bềnh trôi nổi dưới dòng, ta biết thân phận cỏ cây ấy đã qua nhiều thương đau.
Điều đó khiến ta liên tưởng đến những phận người bé nhỏ, nổi trôi, bị dập vùi
trước bể dâu cuộc đời. Trong câu thơ này, Huy Cận đã sử dụng biện pháp đối
lập triệt để. Bên này là “củi một cành khô” còn bên kia là “lạc mấy dòng” như
để tô đậm thêm sự mênh mông vô tận của không gian sông nước song cũng
khiến người đọc không khỏi bận lòng trước một cành củi bị dập vùi. Dẫu nhấn
mạnh điều gì thì ta cũng không thể phủ nhận nỗi buồn, sự cô đơn, chơi vơi,
lạc lõng của thi nhân giữa dòng đời vô chung vô thủy, trước thời đại xô bồ,
hỗn loạn. Tâm trạng ấy không chỉ có ở Huy Cận mà ta còn gặp trong một hồn
thơ tha thiết, khát yêu của Xuân Diệu:
“Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối”.
Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc họa vẻ mênh mông vô biên của
không gian bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật khác.Vừa dùng cái lớn
lao để gợi sự mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. Ấy là
hàng trăm ngả sông, bao cồn đất:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”
Khung cảnh bến bờ hoang vắng trong một buổi chiều mùa thu buông xuống
chỉ thấy lơ thơ vài cây cỏ mọc lổm nhổm trên những cồn cát nhỏ chạy giữa
dòng sông gợi một thiên nhiên bao la chìm trong sự cô đơn, hoang vu, lạnh
lẽo. Nếu ở khổ thơ đầu ta chỉ thấy được hình ảnh con thuyền lênh đênh một
mình với nỗi buồn “điệp điệp” thì ở khổ thơ thứ hai ta lại được nhìn thấy
những cồn cát nhỏ bé, trôi nổi lênh đênh trên mặt nước sóng vỗ đang dần bị
sức mạnh của gió cuốn trôi. Hình ảnh đó làm ta liên tưởng đến số phận con
người trong xã hội cũ lúc bấy giờ. Tất cả đều là bị động, số phận của con
người giờ đây đã bị an bài, sắp đặt. Hình ảnh cồn nhỏ và những ngọn gió đìu
hiu, lạnh lẽo trong một không gian rộng lớn khiến người đọc không khỏi bồi
hồi, xao xuyến, đồng cảm với cảm xúc của nhà thơ.
Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám
mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng
xĩnh nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Huy Cận mượn thi pháp văn trung đại thật khéo, ấy là lối lấy động tả tĩnh, lấy
âm thanh để gợi mở một không gian vô cùng tĩnh tại. “Đâu” mang ý nghĩa thứ
nhất là không tồn tại. Giữa cả một khung cảnh với thiên nhiên rộng lớn, vắng
vẻ nhưng không nghe thấy bất kì một tiếng động nào từ phiên chợ tạo nên
một khoảng không gian buồn hiu, quạnh vắng. Hay cũng có ý kiến cho rằng
“đâu” được hiểu với nghĩa đâu đó vẫn có tiếng chợ lao xao, rì rào của phiên
chợ tàn. Dù theo nghĩa nào thì nó cũng nhằm nói đến cuộc sống tân rã, một
đằng thì đã vắng bóng, một đằng thì đang vắng bóng mà thôi.
Một bức tranh thiên nhiên hiu quạnh, vắng lặng, thiếu vắng sự sống con
người là thế! Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của “Tràng giang” đạt đến tận
cùng là ở hai câu này:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên cả bề
rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ:
“Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược hướng lên và xuống đem lại một
cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó
được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lí! Có lẽ không
chịu được vẻ phi lí mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót
vót” để dễ dàng hình dung hơn. Tiếc rằng, chính “sâu” mới là sự xuất thần
của hồn thơ. Đây không phải là sự lạ hóa ngôn từ. Nếu có, thì trước hết là sự
lạ hóa trong cách nhìn, trong cảm giác. Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh
trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao, mà nó như xuyên vào
đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song, dẫu sao, đây vẫn vẫn là chiều sâu
của một cái nhìn ngước lên. Cho nên, mới là “sâu chót vót”. Chót vót vốn là
một từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ.
Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu
thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng
với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được viết giản dị,
không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của tràng giang,
thế thôi! Vậy mà thấy động. Các trạng thái tĩnh, các tính từ dường như “cựa
quậy” đòi động từ hóa. Trong áp lực của cái nhìn xa hút, có cảm giác “sông
dài” (ra) trời rộng (thêm). “Sông dài trời rộng” bao nhiêu, to lớn bao nhiêu thì
sự sống của con người càng nhỏ bé bấy nhiêu. Sở dĩ tác giả sử dụng “cô liêu”
để làm nổi bật cảnh vật không có sự xuất hiện bóng dáng của con người, con
người chỉ là một phần nhỏ trong không gian, một hình thể nhỏ bé trong vũ trụ
khổng lồ với nỗi buồn hiu quạnh.
Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều hiện lên thật đẹp song
cũng thật buồn, nỗi buồn ấy phải chăng do sự hiu quạnh của thiên nhiên hay
do nỗi lòng người nghệ sĩ đang nặng trĩu:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợn chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Cùng với hình ảnh của thuyền và củi thì đó là hình ảnh bèo trôi dạt. Sự cô
đơn, lạc lõng cứ miên man nối dài từ khổ này sang khổ khác khiến người đọc
cảm nhận sâu sắc sự lênh đênh, trôi nổi, vập dùi của kiếp người nhỏ bé. Họ sẽ
đi đâu về đâu trước cuộc đời dâu bể? Hay họ đành bất lực phó mặc phận mình
cho dòng đời xô đẩy, dập vùi? Ý thơ này của Huy Cận phải chăng được lấy
cảm hứng từ câu ca dao than thân:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Hình ảnh không phải mới nhưng vẫn đặc biệt khi đặt giữa dòng “tràng giang”,
người đọc thấm thía cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian, cái
vô cùng của thiên nhiên tạo hóa. Để rồi hai bên bờ sông tựa như hai thế giới
cách biệt, những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của con người cũng
không hề có:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Những con đò, thuyền, bến bờ đều là những nơi rất quen thuộc, gần gũi với
con người. Đó là địa điểm buôn bán, giao thương, chuyện trò khi phiên chợ
bắt đầu ấy thế mà trong câu thơ của tác giả lại mang những cảm xúc chơi vơi,
im ắng đến lạ kỳ, một cảm giác thật trống vắng, cô đơn lạnh lẽo không một
bóng dáng con người. Với nỗi chơi vơi, thầm kín đó, tác giả mong muốn được
tìm sự đồng cảm, sự sẻ chia “không cầu gợi chút niềm thân mật” nhưng vẫn
tuyệt nhiên không tìm thấy chỉ còn lại “bờ xanh tiếp bãi vàng”. Nỗi buồn cứ
thế nối tiếp nhau, trải dài và giãn nở trong một không gian mênh mông vô tận.
Hình ảnh thiên nhiên tuyệt đẹp lại trái ngược với hình ảnh con người, giờ đây
không còn nữa. “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi nữa” trong bài thơ “Vội
vàng” của Xuân Diệu cũng đề cập đến điều này. Sự vắng bóng đó làm cho
cảnh sắc thiên nhiên trở nên ảm đạm, tẻ nhạt, nhàm chán, quẩn quanh chỉ có
tiếng sóng vỗ lặng lẽ tiếp nối nhau. Qua đó ta thấy được một bức tranh với cô
đơn, một nỗi buồn mênh mang đến vô tận, thể hiện được kiếp người bé nhỏ,
trôi nổi bồng bềnh, bơ vơ, bất hạnh thấm thía nỗi buồn của sự cô đơn, hiu
quạnh.
Cảm xúc dồn nén đến độ căng nhất định thì sẽ trào dâng ngút ngàn thế nên ở
khổ thơ cuối, Huy Cận bộc bạch cả tấm lòng nặng trĩu ưu tư với dân, với
nước:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Đứng ở bờ Nam bến Chèm, Huy Cận thả hồn, ngắm cảnh sắc non sông. Một
bức tranh đẹp đẽ, tráng lệ. Đó là hình ảnh “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”.
Những đám mây đan xen vào nhau chờ những ánh tà dương chiếu xuống
không trung. Một cảnh thiên nhiên thật ấm áp đến kì lạ. Nhưng đối lập với
cảnh hùng vĩ đó ta lại nhìn thấy “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” một
nỗi cô đơn, buồn tẻ lại hiện lên trong một bầu trời rộng lớn. Chính sự nhỏ bé
hiện ra trong một vũ trụ bao la làm cho cảm xúc của thi nhân như đè nặng
hơn. Hình ảnh chim, bến, thuyền, củi,... những sự vật nhỏ bé, đơn côi trước
sự rợn ngợp của không gian. Tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ để nói đến
số phận con người thật nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng chiều của những con sóng
nước. Tất cả đều là hình ảnh đối lập giữa cảnh thiên nhiên và số phận con
người. Đất trời có to lớn, thênh thang bao nhiêu thì số phận con người vẫn chỉ
là một hạt cát, một sự sống bé nhọn bấy nhiêu.
“Lòng quê dợn dợn vời con nước”
Nếu sóng nước trong khổ thơ đầu là những “gợn” buồn nối tiếp giữa sông dài
trời rộng thì trong câu thơ này, đó đã là những “con nước lớn”. Từ láy “dợn
dợn” gợi tả trạng thái những con sóng dập dềnh lên xuống, khi nổi, khi chìm
từ đó diễn tả nỗi rợn ngợp của lòng người giữa đất trời mênh mang. “Vời” là
ánh mắt nhìn về phương xa, ánh mắt mải miết dõi theo những con sóng nhấp
nhô, gối đầu lên nhau, miên man, típ tắp… Theo ánh mắt “vời” về phương xa
ấy là nỗi buồn nhớ về miền quê thân yêu, ấm áp, một ánh mắt như khao khát
giao cảm, khao khát tình đời, tình người và cũng hoàn toàn vô vọng trong
niềm khao khát ấy! Đằng sau ánh mắt “vời con nước” là một tấm lòng quê
nặng trĩu ưu tư:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Thôi Hiệu xưa nhớ nhà cũng bởi sắc hoàng hôn như thế:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
Mượn tứ thơ xưa cho câu kết của “Tràng giang”, Huy Cận đã đem đến một
phong vị Đường thi cổ điển làm xao xuyến cả câu câu thơ lãng mạn. Nhưng ấn
tượng ở chỗ Huy Cận thật biết làm mới mình. Nếu trong thơ Thôi Hiệu, nỗi sầu
nhớ quê hương bắt nguồn từ “khói hoàng hôn” - cũng có nghĩa ít nhiều chịu
sự tác động của ngoại cảnh thì với cấu trúc phủ định “không … cũng” của
Huy Cận đã đem đến một cảm nhận mới: nỗi buồn, sự cô đơn, lòng nhớ quê
không chỉ do hoàng hôn, không vì những tác động của ngoại cảnh như thơ
xưa. Trái lại nỗi buồn có sẵn trong lòng người, tỏa ra tự lòng người, loang
thấm vào ngoại cảnh - nỗi buồn của những người dân đang sống trên đất
nước mình mà vẫn “nhớ nhà”, vẫn thấy như “thiếu vắng quê hương” bởi thực
chất đó là nỗi buồn của những người dân mất nước. Nỗi buồn của thi nhân
trước cảnh sông nước kín đáo hòa quyện với lòng yêu quê hương đất nước.
Buổi chiều mùa thu hôm ấy đã hết, “Tràng giang” cũng đã khép lại trên bàn
làm việc, tôi bâng khuâng, lưu luyến trước vẻ đẹp “lạ” của một hồn thơ ẩn
chứa “nỗi buồn vạn kỉ”. Ấy là vẻ đẹp của sự hài hòa giữa nét cổ điển và hiện
đại. Trước tiên là cái đẹp mang phong vị Đường thi, dường như nó đã ngấm
sâu trong từng nét chữ để rồi nồng thở vị xa xưa. Ngay từ nhan đề “Tràng
giang” - một từ Hán Việt ý chỉ con sông dài kết hợp với điệp vần “ang” tạo nên
sắc thái cổ kính cùng âm hưởng ngân vang dài rộng. Màu sắc cổ điển ngay từ
đầu đã dẫn dắt, khơi nguồn cảm hứng cho thi nhân khắc họa bức tranh thiên
nhiên vô cùng, vô tận với nỗi sầu muộn chất chứa trào dâng. Và cứ thế phong
vị cổ điển như được nối dài miên man bằng những chất liệu, hình ảnh, bút
pháp miêu tả, ngôn ngữ, giọng điệu. Vốn ta chẳng còn xa lạ với những hình
ảnh như: “sóng gợn, bến, cánh chim, áng mây, bóng hoàng hôn, …” trong thơ
xưa, bởi đôi lần ta đã gặp gỡ:
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
(Chinh phụ ngâm)
Hay trong bài “Cảm xúc mùa thu” của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Quen mà vẫn lạ, ấy là bởi Huy Cận thật biết làm mới mình. Ông đặt để một “cái
tôi” cô đơn, sầu muộn trong tứ thơ xưa. Để ta thấy nỗi buồn của lòng người
đang tan ra hòa vào không gian vũ trụ đến mênh mông, bất tận. Nó khiến cho
vạn vật như trôi nổi, bấp bênh, vô định, thiếu vắng sự sống của con người.
Phải chăng vì cô đơn, lạc lõng nên “cái tôi” ấy mới dợn dợn trào dâng nỗi nhớ
nhà, nhớ quê hương ngay cả khi đang đứng trên quê hương mình. Tâm sự ấy
chính là dấu ấn của cái tôi đương thời mang trong mình tấm lòng “An Nam
hoàn toàn”. Cái tôi ấy chẳng thể lẫn vào đâu được trong tinh thần chung của
Thơ mới. Huy Cận đã quyến rũ bao thế hệ bạn đọc bằng cái tạng riêng của
mình như thế!
Cổ điển, hiện đại đan xen hòa hợp đã mang đến cho “Tràng giang” âm hưởng
nhịp nhàng với cảm xúc buồn hiu, lạnh lẽo. “Tràng giang” đã hiện lên như một
bản nhạc êm đềm, thiết tha mang nỗi lòng của Huy Cận gửi vào chốn mênh
mông sâu thẳm chẳng có bến bờ nào. Một nỗi niềm chan chứa ưu tư của tác
giả về tình yêu quê nhà, đất nước, con người của chính mình ông. Một cảm
xúc rất chân thật trước bầu trời thiên nhiên mênh mông, bao la đến bất tận!
ĐÁNH GIÁ: Thơ HC hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý suy tưởng.
một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giap hoà giữa con người và
tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lắng. cảnh sắc trong “tràng
giang” đẹp mà buồn. Với thể thơ thất ngông mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng.
mỗi khổ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm
hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê
hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp
điệp trong lòng ng đọc bấy lâu nay.
KẾT BÀI: Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong
trào thơ mới nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ
Huy Cận mà dường như nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy
giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc mất phương hướng trước dòng sông
cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi quê hương, tình yêu quê
hương đất nước vẫn chảy trong họ những một dòng sông mãnh liệt và bền
vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của
“Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất
hiện đại làm nên một thi phẩm độc đáo.

ĐỀ 7 : 2 KHỔ CUỐI TRÀNG GIANG


Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với
những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách
sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách
mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển
biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào
hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng
giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u
buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài
thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và
cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con
sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng
đến những bài thơ Đường của Trung quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng
gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân
phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của
nỗi u uất như thế. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần
nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng
ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ
đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
“Tràng giang” có thể xem là một nốt nhạc buồn trong bản giao hưởng đa sầu
đa cảm của “lửa thiêng”. Bài thơ được Huy Cận viết vào tháng 9 năm 1939.
Năm 1940, tập thơ “lửa thiêng” của Huy Cận xuất hiện như một mảnh hồn đầy
ảo não giữa trời thơ mới đang đi dần vào bế tắc. điều được quan tâm nhất là
trong hồn thơ ảo não ấy, Huy cận vẫn giữ đc nét trong trẻo lạ thường.
Thế giới HC là thế giới của “Buồn bã không gian/Mây bay lững thấp
giăng màn âm u. Trong t/gioi ấy, tgian dừng lại, lặng lẽ chuyển hoá thành tĩnh
tại, thành một điểm của kgian. Hình thái cảm ứng ấy đặc biệt được biểu hiện
trong bài thơ “TG”. Đó là khúc trữ tình của một chiếc linh hồn nhỏ, mang
mang thiên cổ sầu. “TG” là một bức tranh phong cảnh. Phong cảnh “TG”
không có màu sắc:
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ thơ thứ 3 là cái rùng mình lạnh toát mồ hôi của sự đứt mối giao cảm. Vạn
vật vụn vỡ, đứt mối liên hệ dồn con người về phía cô đơn và ngột thở trong
cái không gian ba chiều hun hút. Nỗi cô đơn của khổ thơ được diễn tả = hình
ảnh cánh bèo truyền thống nhưng mang linh hồn hiện đại “bèo dạt về đâu,..”.
câu thơ là sự ngân dài qua ba biến tấu, từ kiếp “củi” dến kiếp “bèo” và cuối
cùng là kiếp “người”. Chữ “dạt” đứng sau chữ “bèo” gợi sự chới với, chơi
vơi. Càng ấn tượng hơn nữa là hai chữ “không”. “không cầu”, “không đò”, lấy
cái không cầu, không đò để diễn tả nỗi cô đơn đã chiếm lĩnh hết vị trí của oxi
trong cái không gian hình lập phương ba chiều ấy. “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng” Hai chữ “bờ xanh” và “bãi vàng” khiến câu thơ đẹp như trong miền cổ
tích ngày xưa hay từ lời ru đưa nôi nhưng hoang vắng lạ thường. Từ láy mênh
mông đc tgia đẩy lên đầu câu thơ nhằm khéo léo mở ra tầm nhìn bao quát toàn
cảnh tràng giang. Trong cái nhìn bao quát ấy, HC càng như thất vọng trc cái
hoang vắng, lạnh lẽo của TN. Hình ảnh cây cầu và chuyến đồ ngang xhien
trong đoạn thơ không chỉ là hiện thân cho dấu vết của sự sống con người mà
còn là cầu nối những bờ sông, là con đò nối hai bờ sông nước. Tuy nhiên,
cách nói pđ “không cầu, không 1 chuyến đò ngang” và hình ảnh “bờ xanh tiếp
bãi vàng” đã khiến cho cảnh vật thiên nhiên càng hoang vắng, trống trải, hiu
hắt. lời thơ đó của HC gợi nhớ cảm nhận về TN của TK khi nàng đang đứng ở
lầu Ngưng Bích
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Trong khổ thơ cuối bài “Tràng giang”, ta thấy Huy Cận chia đôi khổ thơ làm
hai phần rõ rệt. Hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì
miêu tả cảnh sông dài. Mà song hành cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô
đơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, đặc biệt là vào
lúc hoàng hôn đang buông khép lại một ngày.

Hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy Huy Cận thật tài hoa khi vẽ nên một
nét chấm phá đậm dấu ấn Đường thi, phác họa cảnh hoàng hôn vùng sông
nước:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,


Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Những lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi
trùng điệp. Còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp
lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy
thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:

“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm


Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.
Giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chim đơn côi, bé
bỏng. Cánh chim nhỏ như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương
rồi mất hút. Ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ
trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.

Chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh
chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác phẩm của Huy Cận. Qua đó,
độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của Huy Cận. Một mình
đứng trước vũ trụ bao la, đối diện với nỗi cô đơn, nhà thơ càng thấm thía cái
vô tận, vĩnh hằng của không gian, thời gian và đồng thời là cái ngắn ngủi, hữu
hạn của đời người.

Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của Huy Cận còn tăng gấp bội khi ông
dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,


Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây
núi, cánh chim giữa không trung rồi dừng lại trước mặt nước dập dềnh sóng.
Từ láy “dợn dợn” mang tính gợi hình, vẽ ra những con sóng đang nhấp nhô
trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sóng cứ dồn gối
lên nhau. Còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những con
sóng. Huy Cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh
triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,

Trong thơ cổ điển,hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ,
thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hương của người thi sĩ. Còn ở đây, Huy
Cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói
về nỗi niềm da diết nhớ quê hương. Như vậy, hai khổ thơ cuối bài tràng giang
ta thấy, Huy Cận đã không lặp lại người xưa ở cái nguyên cớ nhớ quê nhưng
vẫn khiến người đọc thấy bâng khuâng, nao nao thương nhớ.

Nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu
sắc hơn, là nỗi buồn. Nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh
nước mất nhà tan. Vì vậy, đằng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa
tình yêu đất nước thầm kín mà sâu sắc của Huy Cận.

Có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc
nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ
điển kết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm
xúc cá nhân và suy tư thời đại. Chính những sự cộng hưởng này đã khiến tâm
trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô đơn và nỗi hoài vọng quê hương của Huy Cận
càng thêm da diết, triền miên.

You might also like