You are on page 1of 4

VỘI VÀNG

Xuân Diệu là một trong những cây đại thụ lớn của nền thi ca Việt Nam, ông còn được mệnh danh là “ông
hoàng” của những bài thơ tình cháy bỏng, nồng nàn. Ngay trong lời thơ hay đời thực thì Xuân Diệu lúc nào cũng
thể hiện được cái khát khao mãnh liệt với tình yêu, với cuộc đời. Vội vàng là bài thơ được trích từ tập Thơ Thơ
(1938), được lấy cảm hứng từ một tâm hồn yêu cuộc sống thiết tha. Đó là một sáng tác rất tiêu biểu, nói lên tiếng
của một trái tim đang khát khao, cuồng si với lẽ sống cuộc đời. Bài thơ cũng chứa đựng cả nỗi trăn trở, khắc
khoải, lo âu của Xuân Diệu trước sự trôi nhanh vội vã của thời gian.
Mở đầu bài thơ tác giả đưa người đọc đến những cảm xúc vui tươi, yêu đời trước vẻ đẹp của mùa xuân mơn
mởn. Vẻ đẹp đất trời hiện lên như một bức tranh nhiều màu sắc với những hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, đẹp đẽ
đến nao lòng. Trước mắt nhà thơ, cuộc sống đang diễn ra thật sôi động và tràn đầy nhựa sống:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc đặc biệt của Xuân
Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn sóng đang trào dâng dữ dội trong
lòng nhà thơ. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát vọng cháy
bỏng của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh về khát vọng của mình. Nghệ thuật điệp từ “tôi muốn” được nhắc
lại hai lần, kết hợp cùng các động từ mạnh đã cho người đọc thấy được niềm đam mê mãnh liệt và khát khao nắm
giữ, chinh phục tạo hóa của nhà thơ. Có lẽ vì quá say mê trong niềm hạnh phúc tột cùng mà tác giả đã nảy ra
trong đầu một ý nghĩ thật táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió”. Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể
làm được, đó là những khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lý với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy
khao khát mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của
của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao.
Nếu như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt ham muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh
sắc trần gian thì đến những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một
mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa đến cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ sắc màu được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động.
Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một “thiên đường trên mặt đất”. Hình ảnh “ong
bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật
đáng yêu, thật say đắm lòng người. Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng
mạn của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì”, âm thanh lôi cuốn trầm bổng như
“khúc tình si”. Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính
từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng
sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên đường tồn tại chính trên cõi trần này. Tình yêu
lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc ngập tràn khắp mọi nơi. Điệp từ “này
đây” được nhắc lại đến năm lần khiến những câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện
ra thiên đường trên mặt đất. Những khi sáng sớm, “thần Vui hằng gõ cửa” ta lại chào đón một ngày mới trong
niềm hân hoan, rạng rỡ. Hình ảnh so sánh đầy sáng tạo và rất gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”,
tháng giêng tháng của mùa xuân tràn đầy sức sống được so sánh như “một cặp môi gần”. Một cách so sánh rất
riêng, rất táo bạo, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó
giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng,
vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê,
cháy bỏng! Đây quả là một câu thơ đặc sắc và có giá trị nghệ thuật vô cùng to lớn. Có một cuộc sống đẹp như thế
để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nói tóm lại, mùa
xuân có vẻ đẹp hồng hào, tươi tắn, nồng nàn như đôi môi quyến rũ của người con gái mà tác giả khao khát muốn
tận hưởng. Khác với thi pháp cổ điển và đưa ra quan điểm thẩm mĩ mới, Xuân Diệu cho rằng cái đẹp của con
người mới tuyệt vời, chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp của tạo hóa. Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi
vội vàng một nửa” như ngắt làm đôi và cũng như phân tách nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội
vàng. Tâm trạng sung sướng là niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến,
thiết tha, gắn bó. Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối, buồn đau bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Quá sung sướng với
niềm khát khao của mình, tác giả đã vội vàng chạy theo nhịp sống hối hả, ông chẳng thể chờ “nắng hạ” bởi vì tâm
hồn ông lúc nào cũng như đang là mùa xuân chói sáng. Đây là tâm trạng hoài cổ mà ta thường bắt gặp trong thơ
của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây, sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và ám ảnh, nhà thơ không chỉ tiếc nuối
những cái dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa qua mà Xuân Diệu
đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái tim quá nhạy cảm với những chuyển biến của thời gian cũng là một tâm
hồn đa sầu, đa cảm. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc, Xuân
Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân thật nồng nàn, tha thiết.
Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống nơi thiên đường hạ giới mà
thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh của thời gian:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;”
Tác giả sử dụng điệp ngữ “xuân” là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. “Xuân” ở đây không chỉ có nghĩa là mùa
xuân của đất trời, là thời gian, mà nó còn có ý nghĩa ẩn dụ nói về tuổi trẻ, tuổi xuân của con người. Điệp cấu trúc
“nghĩa là” là cách định nghĩa cụ thể, thẳng thắn của tác giả về mùa xuân, về thời gian. Nó như nhấn mạnh, rồi day
đi day lại cái quy luật phũ phàng: Thời gian trôi đi quá nhanh, cái đẹp rồi sẽ không còn nữa, tuổi trẻ sẽ đi qua.
Nhịp thơ tuôn trào như dòng chảy của thời gian. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già”, “hết – mất”
thể hiện bước đi của thời gian cả trong quá khứ, hiện tại lẫn tương lai. Tác giả tiếp tục sử dụng cặp từ đối lập
“rộng – chật” trong câu thơ tiếp. Tác giả trách móc, u hoài, uất ức tại sao thời gian qua đi mà tuổi xuân con người
không thể nào giữ lại. Cụm từ “nói làm chi” là cách nói phủ định thẳng thắn, quyết liệt. Tác giả phủ định cái quan
niệm thời gian tuần hoàn trong văn học trung đại. Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu của người xưa có sự
khác biệt. Trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương có viết: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại” ý chỉ một vòng
tuần hoàn, thời gian đi rồi trở lại. Nhưng với Xuân Diệu thì không phải vậy, thời gian đối với ông là một đường
thẳng, nó hoàn toàn sẽ không có bất cứ một điểm gặp gỡ nào giữa các mốc thời gian. Đó chính là thời gian tuyến
tính một đi không trở lại. Đối ngược với quan niệm của thời xưa là quan niệm thời gian tuần hoàn đi rồi sẽ trở lại
vị trí cũ. Thước đo về thời gian mà Xuân Diệu quan niệm là sinh mệnh của con người. Con người chỉ có một lần
tuổi trẻ và khoảng thời gian tuổi trẻ ấy cũng chỉ có một lần trong tất cả vĩnh cửu thời gian. Thời gian của người
xưa được đo bằng sinh mệnh của vũ trụ. Trước quan niệm về thời gian nghiệt ngã ấy, Xuân Diệu đã bộc lộ thẳng
thắn tâm trạng “tiếc cả đất trời”. Từ đó, ông cảm nhận sự vật bằng con mắt của sự chia li, sầu thảm khi mà thời
gian đã lấy đi tất cả của con người. Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ
đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân
thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang giọng điệu buồn bã:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...”
Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn tôi khiến thi nhân đau đớn, tiếc
nuối. Tác giả diễn đạt ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. “Chia phôi” là chia ly, phôi pha. Sự chia ly ấy được cảm nhận
bằng xúc giác nhưng Xuân Diệu lại cảm nhận nó bằng vị giác. Ở đây, cuộc chia phôi như làm rớm máu cả thời
gian, nó không diễn ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp sông núi”.
Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ non, than vãn. Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị
chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Một ngọn
gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang vương vít với những cành cây chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì
thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm phải chia tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi
lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp đến. Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng
định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến
ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu. Hình ảnh thiên nhiên cũng bộc lộ tâm trạng của nhà thơ thông qua biện pháp điệp
cấu trúc - câu hỏi tu từ “Phải chăng…?” thể hiện sự bất ngờ, bâng khuâng, lo lắng. Nhà thơ bất lực trước sự ra đi
của cái đẹp, mùa xuân và thấy đời người hữu hạn nên câu thơ chùng xuống buồn não nuột: “Chăng bao giờ, ôi!
Chẳng bao giờ nữa…”
Từ “ôi” vang lên nhẹ nhàng mà cũng thật tha thiết, vừa hối tiếc lại vừa thúc giúc. Tác giả còn sử dụng từ cảm thán
cùng với nhịp thơ đứt đoạn với giọng thơ gấp gáp với đôi chút giận hờn. Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc
lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng
mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời
người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ.
Đoạn thơ cuối là khát khao sống cháy bỏng, mong muốn được giao cảm với cuộc đời. Nhịp sống vội vàng, dồn
dập được Xuân Diệu tái hiện bằng những câu thơ mang cảm xúc dạt dào và đầy cuồng nhiệt:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Cụm từ “mau đi thôi” là lời thúc giục của tác giả. “Mau đi thôi” vì chẳng có lí do gì và cũng chẳng thể nào mà
cuộc sống có thể đợi chờ một ai. Chúng ta phải nhanh chóng, khẩn trương hơn khi mùa xuân đang trôi qua một
cách gấp gáp. Dấu chấm than đặt giữa câu như nhấn mạnh cảm xúc hối hả đang trào lên trong lòng người thi sĩ.
Câu thơ, dòng thơ chỉ bao gồm ba chữ “Tôi muốn ôm” là lời tuyên bố của tác giả về triết lý sống. Cụm từ “ta
muốn” được lặp lại 4 lần thể hiện tột đỉnh ước muốn của tác giả. Giữa những câu thơ dài đột ngột xen vào một
câu thơ ngắn như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít “cả sự sống mới bắt
đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy gợi cảm và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật đang ở độ non mướt,
tươi tốt, đầy sức sống. Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh sinh động,
đẹp đẽ. Tác giả sử dụng động từ mạnh với sắc thái tăng tiến: ôm – riết – say – thâu – cắn. Nhịp thơ, tiết tấu nhanh,
gấp gáp, vội vã kết hợp với giọng điệu sôi nổi, khẩn trương đã thể hiện ước muốn vồ vập, khao khao muốn giao
cảm với đời, muốn ôm lấy, muốn giữ lấy, muốn níu lấy những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc đời. Bộc lộ niềm
khao khát và sự vỡ òa cảm xúc không thể kìm nén của thi nhân khi tìm được triết lý sống cho bản thân mình. Bức
tranh cuộc sống khi nhà thơ nghiệm ra chân lý sống được hiện lên qua các hình ảnh: sự sống mơn mởn, mây đưa
– gió lượn, cánh bướm – tình yêu, cái hôn, non nước, cây, cỏ rạng… Việc liệt kê một loạt các hình ảnh cụ thể đã
thể hiện sự phong phú, đa dạng, tràn đầy hương thơm và ánh sáng của cuộc sống, khơi gợi niềm khao khát tận
hưởng cuộc sống. “Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như vang lên
không dứt. Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng cháy của
Xuân Diệu. Ông khát khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng” chứ không phải là “xuân xanh”. Xuân
hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. “Cắn” là trạng thái cảm xúc tột đỉnh của tình yêu. Bằng nghệ thuật ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác “xuân hồng” là khái niệm trừ tượng được gắn với “cắn” là một sự vật cụ thể, hữu hình giúp
biến cái trừu tượng thành cái cụ thể để nhà thơ được thể hiện những cung bậc cảm xúc tột đỉnh của chính mình.
Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp nên mùa xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn
sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách sử dụng từ ngữ táo bạn, Xuân Diệu đã thể
hiện một ham muốn không có giới hạn.
Nhà thơ sống vội nhưng không phải sống một cách qua loa mà là vội trong cách cảm nhận, tận hưởng. Hãy
tranh thủ tận hưởng tất cả những gì tươi đẹp của cuộc sống, tranh thủ tận hưởng làm tất cả những gì mình muốn
bởi thời gian qua đi sẽ không trở lại. Phải vội vàng tận hưởng hạnh phúc và niềm vui của tuổi trẻ, vội thâu nhận
những vẻ đẹp của sự sống vì cái đẹp cũng giống như tuổi trẻ sẽ qua đi rất nhanh, không bao giờ trở lại. Phải vội
vàng phát huy tận độ mọi giác quan để cảm nhận cuộc đời, để nhân gấp nhiều lần sự sống. Vội vàng là để tăng
chất lượng cuộc sống chứ không phải sống gấp.
Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình
nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Bài thơ là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà
thơ của tình yêu. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng vẫn vang
vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta phải ghi nhớ mãi cái tên
Xuân Diệu - ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt

You might also like