You are on page 1of 4

Xuân Diệu đang mơ màng trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân đậm sắc hương vị giữa

cái
sung sướng ấy nhà thơ bất chợt dừng lại vội vã nuối tiếc mùa xuân ngay chính giữa mùa
xuân. Quả thực đó là một cách nghĩ vô cùng kỳ lạ và khó hiểu, thế nhưng chính cái sự ưu lo,
tiếc nuối lạ lùng ấy lại là chi tiết cho thấy tấm lòng khao khát, trân trọng mùa xuân và tuổi
trẻ của Xuân Diệu nó tha thiết, sâu đậm hơn bao giờ hết. Đồng thời cũng là cánh cửa để mở
ra những triết lý nhân sinh mới mà tác giả muốn truyền đạt.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong
bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ; thì
đến khổ thơ thứ hai, tác giả lại thể hiện sự khắc khoải trước những tốc độ trôi thật nhanh của
thời gian. Dường như sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy, đã có ý thức rất rõ sự vô
tình của thời gian trôi đi quá nhanh. Trước một mùa xuân tràn đầy sức sống và sắc hương
quyến rũ mê ấy, tác giả cũng hòa mình vào bầu không khí, cùng thưởng thức đấy thôi nhưng
lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi xuân cũng sẽ “đương qua”, xuân còn non
không có nghĩa là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây qua đi như đẩy cuộc đời của con
người thêm ngắn lại. Ta vẫn thường thấy trong thơ ca trung đại là thời gian tuần hoàn nghĩa
là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn hết một vòng lại quay về vị trí
xuất phát cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi như Hồ Xuân Hương đã từng nói : “ ngặt nỗi xuân đi
xuân lại lại”. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn tĩnh lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước
đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu ông nhìn đời bằng đôi mắt động. Với ông thời gian
là tuyến tính nghĩa là thời gian như một vòng chảy xuôi chiều, chẳng chờ đợi ai, cứ mặc kệ
đi tuổi trẻ, thanh xuân, cảnh vật xung quanh mà vụt đi mất và chắc chắn nó sẽ chẳng bao giờ
quay trở lại. Sự phối kết hợp những động, tính từ trái nghĩa “tới” - “qua”; “ già”- “non”, đã
cho thấy cảm quan của thi nhân trước thời gian đầy nhạy bén, tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng
năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, khi mà ta không còn thấy được những vẻ đẹp của
mùa xuân nữa nghĩa là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc đời. Dù biết lòng
người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đấy nhưng biết làm sao
được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi trẻ nhân gian đâu có chịu dài.
Bước đi của màu xuân cũng là bước tiến của thời hạn và bước tiến của đời người. Phép điệp
“ nghĩa là ” càng nhấn mạnh thêm sự giật mình có phần hoảng loạn về dòng chảy của thời
hạn của cuộc sống cũng như làm cho mạch thơ trở nên sâu sắc chặt chẽ hơn thể hiện 1 quan
niệm nhân sinh tích cực của Xuân Diệu về cuộc sống. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ khi
nó đã qua đi, khi nó chỉ còn là kỷ niệm nhưng Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay khi nó đang
đến, ngay khi ông đang đắm mình trong bức tranh xuân ấy. Đó không chỉ là mùa xuân của
đất trời mà còn là mùa xuân của đời người. Nếu các nhà thơ xưa lấy sinh mệnh của vũ trụ
làm thước đo cho cuộc đời thì Xuân Diệu lại lấy sinh mệnh cá nhân mình làm thước đo thời
gian vì vậy:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời ”
Tác giả đã sử dụng từ “ xuân ” để kết nối những câu thơ lại với nhau. Điệp từ “ xuân ” được
lặp lại để nhấn mạnh vấn đề mùa xuân của đất trời cũng như vấn đề mùa xuân của tuổi trẻ.
Đó đều là những gì đẹp nhất của đất trời, của đời người. Những tưởng thời hạn bốn màu
xuân hạ thu đông cứ thể mà chảy trôi mặc kệ sự sống sót của con người, nhưng trong những
dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có liên hệ có sự kết nối với nhau. Khi thời gian vạn vật
thiên nhiên kết thúc “ xuân hết ” nhưng kéo theo đó “ tôi cũng hết ”. Câu thơ vang lên như
một tiếng thở dài cùng đất trời. Tuổi trẻ qua đi thì sự sống sót của “ tôi ” cũng trở nên không
có ý nghĩa khi mọi thứ cũng cứ thế mà trôi đi cùng dòng chảy của thời hạn. “ Lòng tôi ” và “
lượng trời ” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn . Tuy nhiên trong góc
nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được lan rộng ra đến vô cùng “
lòng tôi rộng ” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời hạn của đất trời lại trở nên nhỏ bé
“ lượng trời cứ chật ” nên tuổi trẻ nhân gian không thể dài thêm mãi. Dường như thời hạn đất
trời cũng đang trêu chọc con người. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn
nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi mãi. Cho nên Xuân Diệu
đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm
lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian,
sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Vì thế dù thời hạn có lặp lại thì mọi thứ
cũng không còn ý nghĩa bởi lúc đó “ tôi ” không còn là “ tôi ” của thời điểm ngày hôm nay.
Như chính Xuân Diệu đã từng nói
“Cái bay không đợi cái trôi Từ tôi phút ấy sang tôi phút này ”
(Đi thuyền – Xuân Diệu )
Nên khi nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật
mới mẻ:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Trời đất cứ thế mà xoay vần nhưng tôi sẽ không vĩnh hằng cùng đất trời. Lúc này, hẹn ước
ba sinh hay một đời sống chốn thiên đường cũng không hề xoa dịu tâm hồn thi nhân. Bởi lẽ
điều ông cần không phải là niềm hạnh phúc ở một kiếp nào khác mà phải là được tận thưởng
hương sắc được cảm nhận niềm hạnh phúc ngay trong khoảng thời gian ngắn hiện tại khi
tuổi trẻ đang đến, tình yêu đang xuân sắc .Thế nhưng người đọc lại cảm nhận được dù biết
trước “ tôi ” sẽ không sống sót vĩnh viễn để tiếp đón vạn vật thiên nhiên đất trời tươi đẹp
nhưng Xuân Diệu không tiếc cho mình, không tiếc cho tuổi trẻ mà điều ông tiếc nhất chính
là “ cả đất trời ”. Xuân Diệu có vẻ như đang hụt hẫng đầy bất lực vì không thể tận hưởng
trọn vẹn mọi hương sắc của cuộc sống. Qua đây ta thấy những dòng thơ này, mạng lưới hệ
thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản trái chiều cao độ “ rộng ” – “ chật ”, “
xuân tuần hoàn ” – “ tuổi trẻ chẳng hai lần ”, “ còn ” – “ chẳng còn”. Chính những điều đó đã
góp phần giúp người đọc cảm nhận rõ cái bâng khuâng nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất
trời. Trước mắt người đọc giờ đây là cả một bầu trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu
ta cũng bắt gặp trong bài thơ “Giục giã”:
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”
Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan”
để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những
hương nồng của tuổi trẻ? Trước dòng chảy ấy không chỉ Xuân Diệu cảm thấy hụt hẫng mà
mọi vật cũng mang sắc tố u buồn, đầy mất mát chia tay .
“Mùi tháng năm đều rớm vị li biệt
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt ”
Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm
nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị
giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình
dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một sự mất mát. Và dòng
thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian
thấm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt
“khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang
tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần
đời của chính nó. Dường như ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào
vừa hụt hẫng hụt hẫng trong từ “ rớm ” ấy. Hóa ra thời hạn không vô tình như ta vẫn thường
nghĩ mà tháng năm có vẻ như cũng đang hụt hẫng cho chính bản thân mình. Ý thơ ấy gợi ta
liên tương đến cảm nhận của Đoàn Phú Tứ
“Màu thời hạn không xanh Màu thời hạn tím ngát Hương thời hạn không nồng Hương thời
hạn thanh thanh ”
( Màu thời hạn – Đoàn Phú Tứ )
Cuộc chia tay báo trước không thể nào thoát khỏi. Không chỉ thời hạn mà cả khoảng trống
cũng tràn ngập dự cảm chia lìa. Đó là khoảng trống to lớn của cả sông núi. Cảnh vật tươi đẹp
hiện tại rồi sẽ trở thành quá khứ. Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi không níu lại được. Từ cảm
nhận chung về cả khoảng trống to lớn, Xuân Diệu mở màn vẽ ra cuộc chia tay của vạn vật
một cách đơn cử hơn
“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ? ”
Vẫn là hình ảnh chim, gió nhưng không còn rộn ràng sung sướng của khúc ca yến anh hay
của cành tơ phơ phất mà cũng hòa vào bản nhạc buồn chia tay của sông núi. Cơn gió không
reo vui cùng cành lá, đem lời ca niềm vui lan tỏa đến mọi người mà cơn gió ấy chỉ “ thì thào
trong lá biếc ” có vẻ như đang hờn giận điều gì . Đến tiếng chim không còn gảy khúc tình si
mà bỗng dưng lặng im chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc
cho mùa xuân sắp trôi qua. Hót để mà chi khi sau cuối vẫn phải nói lời ly biệt.” Người đọc
phát hiện ra biện pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh xảo để góp thêm phần tô đậm nỗi buồn
vạn vật trước thời gian biệt ly sắp đến. Mỗi sự vật có vẻ như đang tiễn biệt chính mình,
khoảng trống cất lên khúc hát tiễn biệt thời hạn. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật quản
lý và vận hành tự nhiên của nó không sao cưỡng lại được . Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu
mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không
bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho
mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Trước bài ca ly biệt của núi sông, thi nhân cũng cất lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy
nuối tiếc .
“Chẳng khi nào ôi ! chẳng khi nào nữa”
Câu thơ như một lời kêu đầy tá hỏa và bất lực. Hốt hoảng bởi lẽ đời sống trần gian ngắn ngủi
nhưng hương sắc cuộc sống lại bát ngát khi thi nhân vừa phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ
giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời hạn con người lại không hề xoay vần con tạo cứ
thế mà bị cuốn trôi đi không sao níu giữ . Phép điệp “ chẳng khi nào ” được lặp lại hai lần
càng nhấn mạng thêm tâm trạng bàng hoàng hụt hẫng ấy. Kết hợp cùng thán từ “ ôi ” như
một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ vì vậy mà càng trở nên da diết hơn. Tuy bàng
hoàng tá hỏa hụt hẫng nhưng Xuân Diệu không buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của
thời hạn nhưng không buông bỏ, ngồi im chờ đón thời hạn trôi. Xưa kia, Nguyễn Trãi viết
trong chùm "Thơ tiếc cảnh":
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu
thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt
cuồng của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.

You might also like