You are on page 1of 4

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới với hồn thơ tiêu

biểu cho tiếng nói thiết


tha, tình yêu cuộc sống, con người và rạo rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế,
gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong bút pháp thi ca. “Vội vàng” không chỉ là thi phẩm
đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” – bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài
thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời gian được thể hiện
trong khổ 2 bài thơ:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Bài thơ “Vội vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập
thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống
hết mình, hãy quý trọng từng phút giây của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn
thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Ngay từ nhan đề bài thơ đã cho ta thấy một cái gì đó hối hả,
vội vã, ta cảm nhận được lòng ham sống đến cuồng nhiệt của nhà thơ với một quan niệm mới về thời
gian, tuổi trẻ và hạnh phúc, một khát vọng sống cao đẹp đồng thời cũng là một triết lí sống mà nhà
thơ mang đến. Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quý cuộc đời, sống mãnh liệt, sống hết mình, trân
trọng tuổi trẻ, mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Thế nhưng vội
vàng không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ mà mà phải biết tận hưởng một cách cao
đẹp, nâng niu, sáng tạo.
Nếu như ở khổ thơ đầu của bài, nhà thơ đã phác họa lên một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với
ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến anh, cùng với đó là tình yêu đến cháy bỏng của người thi sĩ; thì đến
khổ thơ thứ hai, tác giả lại thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh
của thời gian. Dường như sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy, đã có ý thức rất rõ sự vô tình
của thời gian trôi đi quá nhanh. Trước một mùa xuân tràn đầy sức sống và sắc hương rực rỡ quyến rũ
mê ấy, tác giả cũng hòa mình vào bầu không khí, cùng thưởng thức đấy thôi nhưng lòng vẫn lo sợ:
“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già”
Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, nghĩa là thời gian được hình dung
như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi
mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời
gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo
thời gian. Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu
kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Minh chứng trong câu thơ
của Mãn Giác Thiền trong Cáo tật thị chúng:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
(Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười)
Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi
những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là
tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Quan
niệm “thời gian tuần hòa” xuất phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm
thước đo thời gian. Cách thức trình bày của Xuân Diệu trong đoạn thơ là sự tranh biện với quan
niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm mới mẻ của mình bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt.
Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói
làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn” và lựa chọn cho mình một quan niệm khác về thời gian – “thời
gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở
lại. Đây là một quan niệm mới mẻ, tiến bộ. Và vì mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn cho
nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài nghi. Cách dùng cặp từ đối lập
trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” cùng kiểu câu thơ định nghĩa đã cho người đọc thấy được
sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy không
ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khư và hé mở tương lai.
Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian
hữu hạn của cuộc đời mình (sinh mệnh cá thế) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ
lấy quãng ngắn nhấ, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng biển trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của tương lai
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần).
“Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là mỗi
lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời
người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” đến bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật.
Nên “tuổi trẻ nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong
thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non – già, rộng – chật, xuân tuần hoàn – tuổi trẻ chẳng hai
lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng tiếc nuối thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có thể vĩnh viễn,
mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi mãi.
Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!”
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại”
thì làm chi có sự tuần hoàn! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt
của con người thật ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến
một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
“Còn đất trời, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Tác giả phát hiện ra mối quan hệ mâu thuẫn giữa xuân của đất trời và xuân của đời người.
Xuân của đất trời thì tuần hoàn, xuân của đời người một đi không trở lại. Đọc hai câu thơ, ta cảm
nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuổi tiếc của nhà thơ
phả vào đất trời. Dường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Dù thời gian có lặp lại thì
mọi thứ cũng vô nghĩa bởi lúc đó “tôi” không còn là “tôi” của hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã
từng nói:
“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”
(Đi thuyền – Xuân Diệu)
Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi
qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và
thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn
phai không thể nào trnh khỏi:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm
nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác
“vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một
cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như
một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thấm đẫm hương vị của sự chia
lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.
Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật
thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể
đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai
tàn của từng cá thể:
“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”
Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là
lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên
cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ
vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong
thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian
ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người: “Tôi
không chờ nắng hạ mới hoài xuân”:
“Chẳng bao giờ ôi! Chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì "mùa chưa ngả chiều hôm",
nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “Mau đi thôi”. Câu cảm
thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ,
bâng khuâng. Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được
thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống. Xưa kia,
Nguyễn Trãi viết trong chùm "Thơ tiếc cảnh":
"Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên".
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong "Vội vàng" về màu
thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến nhiệt cuồng
của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
Cảm thức về thời gian luôn thường trực trong tâm hồn thi nhân. Xuân Diệu cảm nhận rất rõ
những bước đi của thời gian trong hơi thở của đất trời. Và cùng với thời gian, những gì đẹp nhất của
mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu, của đời người rồi sẽ ra đi không trở lại. Cách cảm nhận về thời
gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh
khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan
niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi
khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu
xa của thái độ sống “Vội Vàng”.
Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc
đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng
Xuân Diệu.
Sử dụng phép điệp ngữ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo được niềm vui
vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu, tiếc…); Hệ thống từ ngữ, hình ảnh
được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu ý nghĩa
mang đậm dấu ấn Xuân Diệu.
Trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh từng nhận xét: “Chưa bao người ta thấy xuất hiện
cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng trúng như Huy
Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị
như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Chẳng lẽ tự nhiên mà Hoài
Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi
đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh
liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng
tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ
và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác những năm 30 của thế kỉ trước nhưng
vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt đầy tinh túy khiến ta
phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu – ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!

You might also like