You are on page 1of 9

Phân tích bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu

Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi ấy, thơ văn khoác lên cho
mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun trồng biết bao hồn thơ độc đáo
như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở
đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị
trí xứng tầm trong lòng độc giả. Bài thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách
tân rất mới mẻ về cả nội dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm sống, niềm ham sống, khao
khát sống và tận hưởng đến vô biên của thi nhân (Trích thơ)
Mở đầu bài thơ là bốn câu thơ có lẽ mang nét độc đáo nhất trong bài, thể hiện mãnh liệt và táo bạo của thi
nhân:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Chỉ riêng bốn câu thơ ấy mang thể ngũ ngôn, đây là thể thơ phù hợp cho việc diễn tả cảm xúc đặc biệt của Xuân
Diệu. Câu thơ ngắn kết hợp với nhịp điệu gấp gáp, dồn dập tựa như những cơn sóng đang trào dâng dữ dội trong
lòng nhà thơ. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần, đều đứng ở đầu câu qua đó thể hiện khát vọng cháy bỏng
của thi sĩ cùng với sự chủ động, kiêu hãnh về khát vọng của mình. Sau điệp từ là những động từ có tính mệnh lệnh
cùng những hình ảnh thuộc về tự nhiên và biểu tượng cho cái đẹp: “tắt nắng”, “buộc gió”. Ta đều biết rằng nắng
và gió luôn tuân theo quy luật của tự nhiên khiến con người không thế chế ngữ được. Vậy mà ở đây, Xuân Diệu có
khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm đoạt quyền của tạo hóa để níu giữ vẻ đẹp đất trời. Ông sợ gió
cuốn đi hương thơm ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân sắc.
Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên là một điều phi
lý bởi ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ cho vẻ đẹp trần gian mãi mãi
mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi lí đi chăng nữa thì nó vẫn có cái đáng yêu của một tâm hồn
lãng mạn, luôn thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với ông, cuộc sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kì
diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến.
Với tâm hồn cao cả của một thi sĩ, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp phơi phới đầy tình tứ ở những cảnh
vật thiên nhiên nhiên quen thuộc quanh ta:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa quả của động nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh
nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng bởi vậy mà ông đã cảm nhận về mùa
xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên mặt đất vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật
đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực đơn quyến rũ. Lầu thơ của ông được xây dựng trên mặt đất
bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm thanh. Cảnh vật hiện lên
đều có đôi, có cặp: “ong bướm” – “tuần trăng mật”, “hoa” – “đồng nội xanh rì”, “lá”– “cành tơ phơ phất”, “yến
anh” – “khúc tình si”. Xuân Diệu đã dựng lên một bức tranh thiên nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được
liệt kê bằng hàng loạt tình tứ đậm nhạt khác nhau cùng cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân
xưa thường chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới trong đó có Xuân Diệu lại
huy động tất cả những giác quan để cảm nhận cảnh vật đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca
Phương Tây, Xuân Diệu đã sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong cách nhà thơ. Trong cảnh ấy có hình
ảnh “tuần tháng mật” của loài ong bướm, chúng say mê trong mùa hoa tựa như con người đang chìm đắm trong
niềm hạnh phúc ban đầu. Ở đấy có hình ảnh “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ trung,
phơi phới, hứa hẹn một mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho vẻ đẹp
con người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị phá vỡ, chao đảo nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các
cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt…cái cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì
tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng
trước một cánh đồng xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái
tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi... cái tình trong giây phút, cái tình ngàn thu…” Và Xuân
Diệu là một trong những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm ấy qua hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”. Những tia
nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của thiếu nữ đang chớp dưới hàng mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy
đã tưới lên cảnh vật nguồn nhựa sống mang đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những
khao khát của Xuân Diệu hoàn toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được nhắc lại đến 5 lần khiến những
câu thơ giống như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện ra thiên đường trên mặt đất. Giống như
Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”, Xuân
Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú, ông đã biến thành một hướng dẫn viên du lịch đắm chìm trong những
lời giới thiệu để chào mời mọi người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng
nhung, thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều thân quen
ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu
của người nghệ sĩ mang tình yêu thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng.
Được xem là: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã kết lại bức tranh
mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:
“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Thiên đường trên mặt đất thắm sắc, ngát hương và tràn đầy ánh sáng nay được Xuân Diệu khép lại bằng lối văn vô
cùng độc đáo và gợi cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, tràn đầy ánh sáng, màu sắc, hương thơm đã trở thành
“cặp môi gần” của người tình. Chỉ với một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác cho ta thấy tình yêu đời, yêu cuộc
sống đến cuồng si của thi sĩ.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được thể hiện rất rõ qua hai câu thơ:
“Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Dấu chấm giữa câu thơ “Tôi sung sướng. Nhưng tôi vội vàng một nửa” như ngắt làm đôi và cũng như phân tách
nhà thơ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng sung sướng là niềm hạnh phúc, lạc quan, tươi
vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha, gắn bó. Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối, buồn đau bởi
nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi. Xuân Diệu luôn là con người như thế đấy! Trong lúc vui ngất ngây thì tình yêu thi sĩ đã
phải thổn thức bởi những điều tiếc nuối. Cũng bởi vì vậy, mặc dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã
cảm thấy tiếc nuối mùa xuân: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Đây là tâm trạng hoài cổ mà ta thường bắt
gặp trong thơ của các thi nhân xưa. Nhưng ở đây, sự hoài cổ của Xuân Diệu thật lạ và ám ảnh, nhà thơ không chỉ
tiếc nuối những cái dĩ vãng đã qua mà còn tiếc nuối ngay cả những cái đang hiện hữu. Mùa xuân chưa qua mà
Xuân Diệu đã cảm thấy tiếc nhớ, đây quả là một trái tim quá nhạy cảm với những chuyển biến của thời gian cũng là
một tâm hồm đa sầu, đa cảm. Bằng ngôn ngữ rất đỗi Phương Tây nhưng cũng chẳng kém phần gần gũi, thân thuộc,
Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân thật nồng nàn, tha thiết.
Không chỉ dừng lại ở việc thể hiện tình yêu tha thiết của mình đối với cuộc sống nơi thiên đường hạ giới mà
thi nhân còn thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người và sự qua nhanh của thời gian qua các
câu tiếp theo. Trước tiên đó là quan niệm hết sức độc đáo:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
Từ trước đến nay thời gian luôn vận động theo đúng quy luật của tạo hóa và cũng có nhiều cách quan niệm về nó
như: “thời gian thấm thoát thoi đưa”’ “thời gian như bóng câu vút qua cửa sổ”, “thời gian như nước chảy qua
cầu”’… ngay cả Xuân Diệu cũng vậy, ông đã sử dụng nghệ thuật điệp từ, từ nhiều nghĩa và từ mang sắc thái tương
phản để diễn tả sự trôi qua của thời gian, sự tàn phai của tạo vật. Người ta mừng vì mùa xuân tới thì Xuân Diệu
trong niềm vui chào đón mùa xuân thoáng qua có một chút xót xa vì nó tới cũng là lúc tuổi xuân dần trôi qua mau.
Xuân Diệu đã đối lập mùa xuân của đất trời với tuổi xuân của con người. Nếu như mùa xuân của đất trời qua đi rồi
lại trở về theo đúng vòng tuần hoàn của nó. Còn tuổi xuân của con người thì một đi không trở lại. Ngỡ như Xuân
Diệu đưa ra điều phi lí nhưng thực ra hoàn toàn biện chứng và trong cái biện chứng ấy lại chứa đầy cảm xúc. Xuân
Diệu từng viết: “Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” để rồi đến bài thơ “Vội vàng” thì triết lí nhân sinh gắn liền với
cảm thức về thời gian một lần nữa được nhấn mạnh.
Chính vì cảm nhận được tuổi xuân của con người một đi không trở lại nên thi nhân thấy tiếc nuối, buồn
đau:
“Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Vẫn là những từ ngữ mang màu sắc tương phản, Xuân Diệu đã đi từ mùa xuân của thiên nhiên để mở ra mùa xuân
của con người. Với giọng điệu như hờn giận, u hoài, Xuân Diệu đã đối lập cái vô hạn của đất trời với cái hữu hạn
của đời người. Đất trời thì còn mãi nhưng tuổi xuân con người thì không, dường như thiên nhiên đã trở thành lực
lượng đối kháng với con người.
Và rồi Xuân Diệu còn say sưa tranh luận với quan niệm cũ về thời gian:
“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Xuân Diệu đã tạo nên thế đối lập giữa cá nhân nhỏ bé với sức mạnh vô thường của tạo hóa, thi nhân như nhận ra sự
bất lực của mình khi muốn chiến thắng thời gian. Bởi vì dẫu vũ trụ là vĩnh viễn, dẫu thời gian có thể tuần hoàn
nhưng tuổi trẻ của con người “chẳng hai lần thắm lại”. Nhận ra cái yếu hạn trong sức mạnh của con người, Xuân
Diệu như thở dài ở những câu thơ chất chứa nỗi buồn về sự bất lực trước quy luật tự nhiên, ý thức được điều đó,
nhà thơ lại càng trân trọng tuổi xuân hơn và đây cũng là tiếng nói tiêu biểu của một tâm hồn tha thiết yêu đời, yêu
cuộc sống.
Xuân Diệu ý thức được đời người quá ngắn ngủi nên ông đã nhìn bức tranh thiên nhiên mất vẻ tươi vui:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”
Trời đất là vĩnh hằng, đời người là hữu hạn, hình dung về một thế giới chẳng còn tôi khiến thi nhân đau đớn, tiếc
nuối khiến ông cảm thấy “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”. Ở đây, cuộc chia phôi như làm rớm máu cả thời
gian, nó không diễn ra ở một không gian cụ thể hay nhỏ bé mà diễn ra ở không gian rộng lớn “Khắp sông núi”.
Dường như chỗ nào cũng ủ ê những tiếng nỉ non, than vãn. Một ngọn gió mùa xuân nhỏ bé, duyên dáng đang
vương vít với những cành cây chẳng muốn rời xa. Gió và cây đang thì thào lời tiễn biệt và gió như giận hờn vì sớm
phải chia tay. Tiếng chim đang hót rộn ràng bỗng đứt giữa chừng bởi lo sợ độ phai tàn của cuộc thi sắp đến. Nghệ
thuật nhân hóa kết hợp với những câu hỏi tu từ liên tiếp như khẳng định thêm nỗi buồn của cảnh vật thiên nhiên khi
xuân tàn và đó cũng là tâm trạng bâng khuâng, tiếc nuối đến ngẩn ngơ của thi sĩ Xuân Diệu.
Cách cảm nhận thời gian của thi nhân là cách cảm nhận đầy tính mất mát, có được điều đó là do tác giả ý
thức được cái tôi cá nhân một cách sâu sắc, ý thức về sự có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời và cũng do ông
luôn nâng niu, trân trọng từ giây phút của cuộc đời nhất là những năm tháng tuổi trẻ:
“Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Với nhịp thơ dồn dập, gấp gáp, cách ngắt nhịp biến hóa, ý thơ như hóa lời giục giã với mọi người: hãy mau lên, vội
vàng lên để tận hưởng những giây phút tuổi xuân, để sống có ý nghĩa khi chưa mãn chiều xế bóng. Nỗi lo âu của
nhà thơ về vòng quay của tạo hóa chợt bừng lên thành tiếng thôi thúc, gấp gáp: “mau đi thôi”. Những vần thơ ấy
càng giúp người đọc thấy được ý thức về thời gian và tuổi xuân của thi sĩ Xuân Diệu. Nhận ra rằng chẳng thể sống
mãi với thời gian vậy cớ gì ta không ngại, không tận hưởng cuộc sống bằng cả trái tim nồng cháy trước khi ta già
nua cơ chứ?
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
……
……
-Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Ba từ “Ta muốn ôm” được tách riêng biệt làm nổi bật hình ảnh nhân vật trữ tình đầy kiêu hãnh. Ông như muốn
đứng trên cao, dang rộng vòng tay để cảm nhận, để ôm trọn trái đất này. Ta bỗng nhớ tới cái tôi “ngất ngưởng” của
Nguyễn Công Trứ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
(Với mọi việc trong trời đất này không việc gì không phải của ta)
Còn với Xuân Diệu, cái tôi của ông cũng thật kiêu hãnh, nếu đoạn mở đầu là điệp ngữ “tôi muốn” thì đến đây đã
trở thành “ta muốn” nghe thật tự tin làm sao! Bởi vậy mà Viên Mai từng nói rằng: “Làm người thì không có cái
tôi… nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”.
Như vậy trong thơ Xuân Diệu luôn thể hiện được cái tôi cá nhân tự tin và đầy kiêu hãnh. Ba từ “Tôi muốn ôm” như
một nốt nhấn để rồi từ đó âm thanh của khát vọng tuôn trào, dào dạt tràn qua cả ngôn từ. Giữa những câu thơ dài
đột ngột xen vào một câu thơ ngắn như thắt ngang giữa bài làm ta liên tưởng đến vòng tay đang níu giữ, quấn quít
“cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy gợi cảm và giàu ý nghĩa gợi cảm giác cây cối, sự vật
đang ở độ non mướt, tươi tốt, đầy sức sống.
Lần theo bước chân vội vàng ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh sinh động, đẹp đẽ:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hồn nhiều”
Phép điệp cấu trúc “Ta muốn” đã khiến đoạn thơ trở nên dồn dập, gấp gáp tựa như những cơn sóng ào ạt nối tiếp
nhau, như hơi thở gấp gáp của thi nhân đã diễn tả khát khao đến hàm hở cuồng nhiệt. Sau mỗi lần điệp lại đi liền
với một động từ mạnh được sắp xếp theo trật tự tăng tiến: “riết”, “say”, “thâu”; cùng với đó là những hình ảnh
nồng nàn, khỏe khoắn: “mây đưa và gió lượn”, “cánh buồm với tình yêu”. Thiên nhiên rực rỡ sắc màu say nồng
và đầy quyến rũ lại tràn ngập trong hồn thơ Xuân Diệu. Những hình ảnh ấy làm đoạn thơ đầy sinh khí và làm sống
lại không khí tươi vui của toàn bài thơ.
Trời xuân thì non tơ, tình xuân thì nồng nàn khiến nhà thơ trở nên “tham lam”, dường như lúc nào cũng
muốn khát khao thêm:
“Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Sự kết hợp giữa những từ “no nê”, “đã đầy” và điệp từ “và” đã thể hiện cảm xúc ham muốn đến tột cùng trong tâm
hồn thi sĩ. Ở đây không chỉ là sự tận hưởng tinh thần mà còn là tận hưởng theo kiểu vật chất không có điểm dừng.
Với ông, cuộc sống trần thế như bày ra cả một bàn tiệc đầy những hình ảnh non tơ và đầy hương sắc vì vậy Xuân
Diệu đã khát khao đến tột cùng đúng như phong cách Xuân Diệu – một cái tôi không bao giờ chấp nhận sự lưng
chừng, lỡ cỡ. Với những khát khao ấy, nhà thơ đã nhìn mùa xuân giống như con người và thốt lên một tiếng
kêu thể hiện niềm yêu đời, khát khao chưa từng có trong thơ ca Việt Nam:
“Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
“Hỡi” là tiếng gọi tha thiết vang lên cuối bài làm mạch cảm xúc của nhà thơ như vang lên không dứt. Ông khát
khao tận hưởng mùa xuân, một mùa “xuân hồng” chứ không phải là “xuân xanh” như trong thơ Nguyễn Bính:
“Mùa xuân là cả một mùa xanh”
Xuân hồng là đôi má nồng nàn của thiếu nữ. Với Xuân Diệu con người mới là chuẩn mực của cái đẹp nên mùa
xuân cũng giống như người thiếu nữ căng tràn sự sống. Nhà thơ muốn cắn vào nó cho thỏa mãn đam mê. Với cách
sử dụng từ ngữ táo bạn, Xuân Diệu đã thể hiện một ham muốn không có giới hạn. Đứng trước sự hấp dẫn của mùa
xuân dường như thi sĩ không nén nổi lòng yêu thiên nhiên đã đi đến một cử chỉ táo bạo nhưng cũng thật đáng yêu.
Nếu như Huy Cận, Chế Lan Viên hay Hàn Mạc Tử đều cùng nhau thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào
đấy để ôm ấp những nỗi sầu u oải, mơ hồ thì “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy... Xuân
Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi
của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. (Hoài Thanh) Cũng là nỗi buồn nhưng nỗi
buồn ấy, ngọt ngào, hồ hởi và háo hức, đó là sự tiếc nuối trước dòng chảy không ngừng của thời gian, là sự cô đơn
giữa dòng đời của cái Tôi nhỏ bé đã tạo nên một hồn “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”.

“Chưa bao người ta thấy xuất hiện cùng một lúc một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư,
hùng trúng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Thi nhân Việt Nam). Chẳng lẽ tự
nhiên mà Hoài Thanh lại ưu ái Xuân Diệu đến vậy, chỉ có thể là do những cống hiến to lớn của ông dành cho thi
đàn văn học Việt Nam đặc biệt là qua thi phẩm “Vội vàng”. Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết
mình, hãy quý trọng từng giây từng phút của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Tư tưởng ấy được thể
hiện qua bàn tay nghệ thuật điêu luyện, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, giọng điệu
say mê, sôi nổi nhưng sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh. Cũng bởi lẽ thế “Vội vàng” dù đã được sáng tác
những năm 30 của thế kỉ trước nhưng vẫn vang vọng, đọng lại trong lòng hậu thế những vần thơ tựa như mật ngọt
đầy tinh túy khiến ta phải ghi nhớ mãi cái tên Xuân Diệu-ông hoàng thơ tình trong làng thi ca Việt!
Cảm nhận bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người, trước hết không gì bằng tình, đầu tiên không gì bằng lời, tha thiết
không gì bằng thanh, sâu xa không gì bằng nghĩa. Vậy đối với thơ tình là gốc, lời là cảnh, thanh là họa, nghĩa là
quả”. Có thể nói, tình cảm là yếu tố sinh mệnh của thơ ca, thiếu tình cảm thì chỉ có thể trở thành người thợ làm
những câu có vần chứ không làm được nhà thơ. Đồng thời, thơ ca không bộc lộ tình cảm một cách bản năng, trực
tiếp mà nó được ý thức, được siêu thăng, được lắng lọc qua cảm xúc thẩm mĩ gắn liền với ý thức về mình, về đời.
Hiện lên như một “ngôi sao chổi” xoẹt qua bầu trời thi đàn văn học với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình, Hàn
Mặc Tử đến với thơ, với đời bằng tình cảm tha thiết, chân thành của một kẻ sĩ đứng giữa hai bờ sinh tử, chơi vơi
giữa cõi thực và cõi mộng. Gã làm thơ khi đã nếm trải đủ mùi vị đau thương trong chốn vốn chẳng có gì là vĩnh
hằng. Bao giờ cũng vậy, Hàn Mặc Tử luôn muốn thoát li hiện thực, tìm về một cõi xa xăm nào đấy để ôm ấp những
nỗi sầu u oải, mơ hồ, và có lẽ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã bước ra từ sự quằn quại, đau đớn để góp vào vườn thơ Hàn Mặc Tử
“rộng không bờ không bến” một cõi hư vô rợn ngợp khiến thi nhân không khỏi thổn thức:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
………………………………
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu, có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ Mới giai
đoạn 1932 – 1945. Thế giới thơ ông đầy bí ẩn, phức tạp, luôn đan xen giữa những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng
liêng nhất với những gì ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trong đó hình ảnh trăng, hoa, nhạc luôn chan lẫn với
hình ảnh hồn, máu, yêu ma nói như Hoài Thanh: “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến, càng đi xa càng ớn
lạnh…”. Sự nghiệp thơ ca của Hàn là một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân
thế… vì vậy những hình tượng thơ của ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt và có khi khó hiểu. Vườn
thơ của ông có lẽ được xếp vào loại “siêu”: siêu thực, siêu thức và siêu thoát nhưng đọc thơ ông nào đã thoát, rốt
cuộc vẫn lơ lửng, vẫn còn đó một câu hỏi lớn: “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong
tập “Thơ điên” (1938), toàn bộ thi phẩm là tiếng lòng vừa tha thiết mê đắm, vừa đau đớn tuyệt vọng của một thi
nhân yêu đời da diết mà phải vĩnh viễn rời xa cuộc đời bởi bi kịch éo le và vô vọng.

Tại trại phong Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã nhận được tấm bưu ảnh chụp cảnh bến Vĩ Dạ cùng lời thăm hỏi của
Hoàng Cúc. Chính bức ảnh cùng lời hỏi thăm đó đã gợi lên trong lòng nhà thơ kỉ niệm về một miền quê và người
con gái trong mối tình đơn phương, cũng bởi vậy mà mỗi vần thơ thấm đượm nỗi buồn sâu sắc. Thôn Vĩ Dạ là một
làng nhỏ nằm bên bờ sông Hương, đây là nơi nghỉ ngơi của những quan lại, viên chức về hưu hưu nên cuộc sống
nơi đây vô cùng bình yên, no đủ và thơ mộng với những vườn cây xum xuê, những ngôi nhà xinh xắn,... Từ xa xưa
Vĩ Dạ đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc xứ Huế:
“Du khách bảo đây vườn kín đáo
Đây xứ mơ màng đây xứ thơ”
Mạch thơ như một dòng tâm tư bất định, khước từ vai trò tổ chức chặt chẽ vốn là đặc trưng của “Thơ điên” với
những “đứt đoạn”, “cóc nhảy”. Có thể thấy thi phẩm được dệt bằng một chuỗi hình ảnh liên kết với nhau rất bất
định. Vừa mới ngoại cảnh (phần đầu) thoắt đã tâm cảnh (phần sau). Hãy còn tươi sáng (Vườn thôn Vĩ) chợt đã âm
u (cảnh sông trăng và sương khói)...Những mảng thơ phản trái nhau cứ dính kết vào nhau ngỡ như rất thiếu trật
tự, “vô kỉ luật”. Nhưng nhìn kĩ sẽ thấy đó chỉ là sự chuyển kênh quá mau lẹ từ “hàng chữ gấm” sang “đôi mắt mờ
lệ”. Dường như Hàn Mặc Tử đưa ta từ cõi thực đến cõi mộng rồi chìm đắm vào hư vô lúc nào không hay.

Câu hỏi mở đầu chủ yếu là thanh bằng khiến lời thơ thật nhẹ nhàng, êm ái như nghe văng vẳng bên tai
giọng nói của người con gái xứ Huế ngọt ngào:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Đại từ “anh” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng đó là sự phân thân của nhân vật trữ tình, thi
nhân tự vấn lòng mình “sao lâu quá rồi mà chưa một lần về thăm thôn Vĩ?” như nhắc nhở đến một việc cần làm,
đáng phải làm, mà cũng chẳng biết giờ đây có còn cơ hội để thực hiện nó nữa không, ấy là về lại với thôn Vĩ, về
thăm lại chốn cũ, cảnh xưa. Có người lại cho rằng đó là lời của Hoàng Cúc đang hỏi dịu dàng, kín đáo nhưng ẩn
sau trong đó là lời trách móc “Thôn Vĩ đẹp sao anh chẳng về chơi?”. Hàn Mặc Tử dùng hai chữ “về chơi” bởi nó
mang sắc thái thân mật, gần gũi thay vì chỉ mang vẻ xã giao, có khoảng cách như hai chữ “về thăm”. Chẳng phải
vô tình mà nhà thơ viết “không về chơi thôn Vĩ?”, “không về” khác hoàn toàn với “chưa về”. Nó dường như khép
lại mọi nẻo đường về thôn Vĩ, cộm lên biết bao xót xa vì giờ đây thôn Vĩ chỉ còn trong hoài niệm của quá khứ xa
vời. Hố sâu ngăn cách giữa Hàn Mặc Tử với thế giới ngoài kia chính là căn bệnh hiểm nghèo khiến cho nhà thơ vô
cùng cô đơn, tuyệt vọng. Hơn nữa, hai chữ “không về” còn thể hiện rõ được tình cảm một phía của Hàn Mặc Tử
với Hoàng Cúc. Câu hỏi mở đầu mang nhiều sắc thái khác nhau, hỏi để mà trách nhưng lời trách thân mật, đáng
yêu. Trách để mời mọc, để tiếc nuối. Thanh trắc duy nhất của câu thơ rơi vào chữ “Vĩ” ở cuối cùng khiến cho nỗi
buồn như đằm xuống thành nỗi nhớ vô hạn về cảnh và về người thôn Vĩ. Câu hỏi tu từ như cái cớ để nhà thơ gợi lại
vẻ đẹp thi vị, nên thơ của thôn Vĩ Dạ.

Bắt đầu bằng câu hỏi đầy ẩn ý đã giúp nhà thơ mở ra khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ tinh khôi, sống động,
tươi đẹp và căng tràn sức sống:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Đọc thơ Tử, qua các tập, thấy vườn thực sự là một môtip ám ảnh. Nào vườn trần, vườn tiên, vườn chiêm bao... Dù
mỗi nơi một khác, nhưng vườn của Tử đều mang chung một diện mạo mà Tử muốn gọi là “chốn nước non thanh
tú”. Nhắc đến Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là hình ảnh hàng cau, nó mang vẻ đẹp rất đặc
trưng của nhà vườn xứ Huế. Cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn
là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam – nơi có tập tùng ăn trầu từ ngàn đời. Nguyễn Bính đã đặt mối tình
bình dị của đôi trai gái thôn quê trên nền phong cảnh có hình ảnh hàng cau quen thuộc:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.”
Bởi lẽ là loài cây cao nhất trong vườn Vĩ Dạ, cau được đón những tia nắng đầu tiên trong một ngày mới tràn đầy
sức sống. Thơ Mới thường đem đến cho người đọc những cấu tứ, thi liệu mới mẻ. Ta đã bắt gặp trên diễn đàn thơ
Mới nhiều màu nắng lạ, đó là cái nắng chang chang trong bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử:
“Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”
còn ở đây ta lại bắt gặp hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên”. Từ “nắng” được lặp lại hai lần cho ta cảm giác
thôn Vĩ đang bừng sáng lên trong ánh bình minh. Đó không phải là ánh nắng nhạt buồn của hoàng hôn hay ánh
nắng chói gắt của buổi trưa mà là ánh nắng mới mẻ, trong sáng và tinh khôi của buổi sớm mai làm ta liên tưởng
đến câu thơ của Hồng Nguyên: “Có nắng chiếu đột kích mấy hàng cau”. Chi tiết ấy không chỉ gợi lên cảm giác
trong trẻo, tươi tắn mà còn mở ra không gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai mà còn là khoảnh khắc diệu kì khi làn
sương mỏng trên lá cau chưa kịp từ biệt sau một đêm dài thì thi nhân đã bắt gặp những tia nắng ban mai tổ điểm,
đó là nắng ướt, nắng tươi, nắng long lanh, nắng thiếu nữ. Cây cau xuất hiện trong vườn thôn Vĩ như cây thước của
thiên nhiên để đo mực nắng như thầy Chu Văn Sơn từng viết: “Đốt cau như thước đo mực nắng trong vườn”.
Phải yêu lắm, say lắm vẻ đẹp của đất trời, của thiên nhiên xứ Huế thi nhân mới chụp được khoảnh khắc đặc biệt ấy
vào tâm trí mình. Nắng dường như làm bừng sáng cả khoảng trời kí ức của nhà thơ, nó lưu lại trong tâm hồn thi sĩ
những kí ức không thể nào phai. Bước vào thơ Hàn ta như được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt sắc đến cực tả của
thiên nhiên cũng như con người.
Ở câu thơ tiếp theo, thi nhân đã chuyển điểm nhìn từ bầu trời tràn ngập ánh nắng xuống khu vườn phủ đầy
một màu xanh lá, khu vườn ấy như hóa thành một viên ngọc lớn trong đôi mắt của thi nhân:
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Câu thơ như một tiếng reo vui đầy thích thú thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả trước vẻ đẹp của thôn
Vĩ. Câu thơ sử dụng một loạt các từ trong cùng một trường từ vựng: “mướt”, “xanh”, “ngọc” để miêu tả màu xanh
non tơ, trẻ trung, tươi mới. Vườn Vĩ Dạ sau một đêm những chiếc lá cây được sương đêm lau chùi sạch sẽ giờ đây
bỗng bừng sáng lung linh. Tác giả khéo léo sử dụng từ cảm thán “quá” – không chỉ là từ chỉ mức độ gợi vẻ đẹp
thanh sạch của cây lá, nhà vườn xứ Huế mà còn bộc lộc cảm giác ngạc nhiên, đầy ngưỡng mộ, cùng với đó việc
dùng tính từ “mướt” chứ không phải là “mượt” vì tính từ ấy ngoài chỉ sự nhẵn bóng còn gợi vẻ óng ả, mỡ màng.
Hai thanh trắc đứng liền nhau trong cụm từ “mướt quá” đã tạo ra ấn tượng mạnh về một tiếng reo, một cảm xúc
bồng bột không thể kiềm chế. Vẻ đẹp của vườn cây còn được miêu tả qua phép so sánh độc đáo “xanh như ngọc” –
đó là cách nói ước lệ nhằm lí tưởng hóa đối tượng thẩm mĩ, gợi ra màu xanh trong mướt, quý giá, cả vườn thôn Vĩ
hiện lên như một viên ngọc óng ánh sắc xanh và tỏa ra không gian một màu xanh long lanh ánh sáng. Dường như
trong thơ Hàn rất ưa dùng những vật liệu cao sang nhất là giai đoạn cuối đời. Các trang thơ đều tràn ngập những
vàng, gấm, lụa, trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược... đặc biệt là ngọc được so sánh ở mức tuyệt đối.
Tiếp đến là cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “vườn ai”, vườn Vĩ Dạ vườn nào mà chẳng đẹp, vườn nào mà chẳng tươi
nhưng để có được vẻ đẹp khiến thi nhân say đắm như vậy chỉ có thể là vườn của người mình thương, mình nhớ.
Hai chữ “vườn ai” không phải là câu hỏi để tìm chủ nhân khu vườn mà chỉ là cách thể hiện niềm vui sướng, niềm
bất ngờ khi gặp lại dẫu chỉ là trong tưởng tượng mà thôi. Đại từ phiếm chỉ như mang một sắc thái mơ hồ, mang lại
cho cả câu thơ một chút nhớ nhung, một chút ngậm ngùi và một chút xa vắng bởi tất cả đã thuộc về thế giới khác,
thế giới của ai đó ngoài kia chứ không còn thuộc về mình nữa… Cuối cùng Hàn Mặc Tử khép lại khổ thơ bằng
một nét vẽ thi vị về cảnh và người thôn Vĩ:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Từ một hình ảnh thật trong tấm bưu thiếp, Hàn Mặc Tử đã sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật độc đáo, thơ
mộng, đẹp đẽ. “Mặt chữ điền” chỉ những người có khuôn mặt vuông vắn, đầy đắn ứng với đức tính thật thà, phúc
hậu. Khuôn mặt ấy trở nên duyên dáng khi được những cành trúc tô điểm, bóng dáng con người làm cảnh Vĩ Dạ
vốn đã đẹp nay lại càng đẹp hơn trong sự hài hòa giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động qua tạo nên nét đẹp e lệ,
kín đáo, duyên dáng của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như
tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở. Song có lẽ đây là câu thơ gây nhiều tranh cãi bởi khuôn
mặt chữ điền kia là đàn ông hay phụ nữ? Lối tạo hình của nó là cách điệu hay tả thực? Dường như vườn thơ Hàn là
một tháp ngà kiêu sa, tráng lệ, ánh hào quang của nó tỏa sáng chói lòa nhân thế… bởi lẽ những hình tượng thơ của
ông khiến người đọc khó đến gần, khó nắm bắt hiểu, nhiều tầng nghĩa và cũng có nhiều cách hiểu. Có người cho
rằng đó là khuôn mặt đôn hậu của người con gái xứ Huế, có người lại cho rằng đó là khung cửa sổ, là cổng nhà quý
phái hay đặc biệt hơn cả đó chính là khuôn mặt của tác giả. Hàn Mặc Tử tự vẽ mình lên trang thơ như một “kẻ
đứng ngoài”, “kẻ đi ngang qua cuộc đời”, “kẻ đứng cách xa hàng thế giới”, là vị “khách xa lạ”, là kẻ đứng ngoài
mọi cuộc vui, mọi cảnh đẹp trần thế. Phải chăng đó là sản phẩm của mặc cảm chia lìa?

Khổ 2:
Đắm chìm trong cảnh sắc tươi đẹp của vườn thôn Vĩ chỉ là khoảnh khắc với Hàn Mặc Tử, để rồi khi tác giả
chợt nghĩ đến hố sâu ngăn cản giữa mình với thôn Vĩ bởi chứng bệnh nan y như đang vẫy gọi án tử hình.
Cũng vì vậy bài thơ đã có sự chuyển ý, “bật cóc” rất nhanh từ cảnh sắc vui tươi đã chuyển sang đau thương u
hoài:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Cái lối chuyển tứ nhanh, có khi rất xa, có khi rất kì lạ song đó là một đặc điểm của thơ Hàn và khi “những đột
xuất ấy lặp đi lặp lại với tần số cao sẽ tạo nên sự khó hiểu” (Vũ Quân Phương), quả thực là như vậy. Bốn câu
thơ khổ hai không có liên hệ gì về chi tiết với đoạn một, cả khu vườn hay khuôn mặt chữ điền kia cũng không hề
được nhắc lại. Cảnh bây giờ đã hoàn toàn khác, nhưng cái tâm trạng vẫn một xa cách, vẫn một vắng vẻ. Thấm
đượm trong lời thơ là cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa. Nhịp thơ 4/3 chậm rãi như ngắt câu thơ làm hai nửa, âm
điệu dàn trải như đưa người đọc chìm đắm vào nỗi buồn hiu hắt cùng thi nhân. Dường như cảnh vật đang bắt đầu
chia lìa, gió và mây đều có đường đi riêng cũng giống như sự chia li của mối tình đơn phương, vô vọng sớm muộn
cũng tàn. Điệp từ “gió” và “mây” đã càng tô đậm sự chia lìa ấy. Gió thổi mây bay là quy luật tất yếu của tự nhiên
nhưng cái tưởng như không thể chia cách ấy nay lại xa cách chia lìa, mỗi thứ một phương, gió một đường, mây một
nẻo. Những hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc độ của mây mà là để tạo ra
một khoảng không gian khép kín chia rẽ đôi bờ xa cách. Nỗi đau đến tốt cũng đã thấm đượm vào cả không gian
khiến cho dòng nước sông Hương cũng nhuốm màu tâm trạng. Phép nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” vừa làm
hiện lên một dòng sông phẳng lặng như không trôi chảy, vừa gợi như làm ngưng đọng nỗi buồn. Thêm vào đó là
động thái “lay” của hoa bắp chính là một nét buồn phụ họa vào khung cảnh bởi bản thân nó vốn dĩ chẳng mang
nghĩa buồn hay không vui, ta cảm thấy dường như thật nhẹ nhàng, thật buồn. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã gợi lại
nỗi buồn đến tê tái, thiên nhiên Huế vốn được ban tặng vẻ đẹp bình lặng, trầm tư mà giờ đây sàng lọc qua tâm hồn
Hàn Mặc Tử đã trở thành nỗi buồn sâu tận đáy lòng. Có phải có một chữ “lay” buồn như thế từ bông sậy của dân ca
đã xuôi theo ngọn gió thời gian mà đậu vào thơ Tử. Hàn Mặc Tử nhìn thấy hoa bắp lay như nhận ra sự phiêu tán,
chia lia. Tất cả gió, mây, dòng nước đều đang lưu chuyển, đều đang rời bỏ chốn này mà đi hết và bỏ rơi lại hoa bắp.
Chỉ còn một mình, nó đang cố lay động như một sự níu giữ, một lưu luyến trong vô vọng của kẻ bị chia lìa.
Nếu cõi thực của kí ức trong khổ đầu thật trong trẻo, tươi tắn và rực rỡ với ánh nắng ban mai ấm áp thì đến khổ hai
đã tràn ngập ánh trăng làm vạn vật mờ ảo, nhạt nhòa, lạnh lẽo như thực, như mơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. Hàn rất mê trăng, nó đã đi vào vườn thơ ông thật ám ảnh như
một nhân vật huyền thoại, như một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu du, thoát tục. Còn ở đây Hàn Mặc Tử
đã gợi ra một hình ảnh thật lạ, đó là một thế giới huyền diệu, nơi ấy có con thuyền chở trăng và có một bến sông
trăng. Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng, thuyền mới chở được đầy trăng. Cách diễn đạt phiếm chỉ
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” tạo ra cảm giác bóng tối lạnh lẽo như bao trùm lên dòng sông, lên cảnh vật, thi
sĩ như khát khao có con thuyền chở trăng về, phải chăng là để chở những khát khao hy vọng đến khắc khoải về một
sự gặp gỡ và hòa hợp? Chữ “kịp” trong câu thơ càng thấm thía nỗi tiếc nuối, xót xa, lo sợ khi luôn biết rằng chẳng
bao giờ kịp nữa nhưng ông vẫn cố hỏi khiến tâm trạng trở nên bồn chồn, chua xót, bất lực. Hỏi chỉ để tiếc, để tự
dày vò bản thân mình mà thôi. Dường như, nếu trăng không về “kịp” thì kẻ bị số phận bỏ rơi bên rìa cuộc đời này,
bỏ dưới trời sâu này sẽ hoàn toàn lâm vào tuyệt vọng, vĩnh viễn đau thương.
Cụm từ “tối nay” càng làm thi nhân thêm khắc khoải bởi khi tối là khoảng thời gian cuối cùng của một ngày, “tối
nay” lại mang ý nghĩa xác định khiến quỹ thời gian vốn ngắn ngủi nay lại càng ngắn ngủi. Chỉ có “tối nay”, chỉ còn
“tối nay” nữa mà thôi, dường như với Hàn, sống là chạy đua với thời gian. Nếu như Xuân Diệu chạy đua với thời
gian để sống tận hưởng và tận hiến hết mình, ông chỉ sợ thời gian cướp đi tuổi trẻ cũng như tình yêu thì ở Hàn
Mặc Tử đang đứng ở giữa hai bờ sinh tử, lưỡi hái của tử thần đã huơ lên lạnh buốt sau lưng bởi vậy gã lo sợ từng
khắc từng giờ sẽ sớm vĩnh viễn rời xa cõi đời. Trong cảnh ngộ ấy, trăng dường như là điểm tựa duy nhất, là bấu víu
cuối cùng của kẻ cô đơn đang chới với trong mơ hồ. “Thơ là sự lên tiếng của thân phận”, thật trớ trêu, định
nghĩa ấy hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.
Mặc dù đang sống với cảnh mộng và sống với người trong mộng, câu thơ đang bồng bềnh phút chốc như trở
nên hụt hẫng khi thi sĩ rơi về hiện thực của cuộc đời:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”
Khi không còn ánh nắng ấm áp, cũng không còn ánh trăng mộng ảo thi nhân đưa người đọc tới một cõi xa xăm,
không gian đã chuyển sang hoàn toàn thế giới mộng ảo. Màu sắc, âm thanh, đường nét đều mờ nhòa, chỉ còn một
bóng hình ai đó đang chập chờn xuất hiện, phải chăng đó là hình bóng xa xôi của một nữ sinh Đồng Khánh thuở
nào… Chữ “mơ” đầu câu thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của thi nhân muốn được cảm nhận, gần gũi với
những hình bóng, hơi ấm của con người và cuộc đời nơi trần thế song điệp từ “khách đường xa” trong hai vế câu
như tái hiện hình ảnh con người nơi trần thế đang xa dần, mờ khuất dần trong ánh nhìn tiếc nuối mà vô vọng của
thi nhân. Hình ảnh người con gái xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng “em” rất mơ hồ. Em gần gũi đấy nhưng mà
sao lại quá đỗi xa vời? Gần gũi vì đây là hình ảnh thường trực trong cõi lòng thi nhân, xa vời vì giữa hai người là
khoảng cách thời gian cùng màn khói sương của quá khứ mờ ảo hay là vì xuất phát từ sự mặc cảm tự ti trong tình
yêu.
Hàn Mặc Tử muốn cực tả sắc trắng trong câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” ở độ tuyệt đối, tột cùng. Nó
choáng cả không gian làm lập lòe cả thị giác. Ta dễ thường thấy trong thơ Tử hình bóng giai nhân bao giờ cũng là
hiện thân sống động của vẻ đẹp trinh khiết xuân tình và gắn vào làm một với hình bóng họ là sắc áo trắng tinh khôi.

Hình ảnh “khách đường xa” đã trở về trong cõi mộng khiến nhà thơ ngơ ngẩn, bâng khuâng, Hàn như bất lực trước
cuộc đời khi thấy nó mỗi ngày một xa dần tưởng như nắm bắt được rồi lại tuột ra khỏi tay…
Say đến đâu rồi cũng phải tỉnh, mơ mộng đến mấy rồi cũng phải quay lại thực tại, Hàn Mặc Tử cũng vậy,
ông đã đến lúc phải quay về với thực tại u ám dù chẳng muốn chút nào, ấy là chốn lãnh cung ảm đạm mờ
mịt chẳng biết tương lai ngày mai ra sao:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Cụm từ “ở đây” đã vẽ ra hai không gian hoàn toàn đối lập. “Ở đây” là nơi nhà thơ đang sống, là không gian nghiệt
ngã và tăm tối đang bủa vây xung quanh Tử tựa một lãnh cung nơi không có “niềm trăng và ý nhạc”, nơi có “người
cung nữ nhớ thương vua”. Không gian ấy bây giờ chìm trong sương khói mông lung, lạnh lẽo của xứ Huế buồn lắm
nắng, nhiều mưa. Dù tất cả đều chìm vào ảo ảnh nhưng tâm hồn thi nhân vẫn luôn băn khoăn, day dứt với
một câu hỏi:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Từ cõi hư vô ấy, câu hỏi cuối cùng vang lên như một nỗi xót xa, tuyệt vọng của một con người tha thiết mê đắm
với cuộc đời, khao khát bộc lộ tình yêu đời và khắc khoải tìm kiếm sự đồng cảm, đồng điệu. Câu thơ sử dụng đến
hai lần đại từ phiếm chỉ “ai” gợi nhiều liên tưởng đến mối giao cảm của nhà thơ với người con gái xứ Huế. Chẳng
biết thôn Vĩ có hiểu cho mối tình đơn phương mà tha thiết đó không? Chẳng hay người thôn Vĩ có tình cảm đậm đà
với mình không? Đó là câu hỏi của tình yêu và cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả những người đang yêu tha
thiết. Câu thơ của Tử rất mơ hồ, một câu hỏi đã hàm ý vô vọng nhưng vẫn thể hiện được niềm khao khát của thi
nhân. Hai chữ “đậm đà” khép lại bài thơ như muốn nói dẫu vô vọng nhưng thi nhân vẫn khao khát, vẫn mong ai đó
biết và thấu hiểu cho tình yêu, cho sự đậm đà của tình người.

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi
sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Biết bao ống kính thiên văn đua
nhau chĩa về “ngôi sao chổi” kì lạ ấy, song tiếc thay, cái vừng sáng vừa trong trẻo, vừa chói lói, vừa ma quái phát
ra từ ngôi sao có sức cuốn hút bao nhiêu cũng có sức xô đẩy bấy nhiêu. Dù xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam
vỏn vẹn 12 năm, song những gì ông để lại cho hậu thế là cả một vườn thơ “rộng không bờ, không bến, càng đi xa
càng ớn lạnh”, càng thấy “nhọc” bởi lớp lớp tầng nghĩa của những vần thơ vẫn chưa được lật mở.

Ba câu hỏi ở ba khổ thơ là ba sắc thái tình cảm hoàn toàn khác nhau. Câu hỏi thứ nhất là để nhớ mong, tiếc nuối,
câu hỏi thứ hai là khắc khoải, lo âu và câu hỏi cuối cùng cho ta thấy khát khao cũng như hoài nghi của thi nhân. Ba
câu hỏi như sợi dây vô hình gắn kết các khổ thơ trong mặt cảm xúc thống nhất, bài thơ thể hiện một tâm hồn rạo
rực tình đời, tình người tha thiết hướng về cuộc sống đến khắc khoải của thi nhân.

You might also like