You are on page 1of 8

KHỔ 1 VỘI VÀNG

“Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh
liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”. Thật vậy, trong nền văn học Việt Nam cũng có một nhà
thơ say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời đến độ nồng nàn, tha thiết. Không ai khác đó chính là
Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”. Đó là những hồn thơ trẻ trung,
tươi mới và cũng là quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu. Tình yêu cuộc sống đến độ đam mê
ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội Vàng”. Trong đó, mười ba dòng tơ đầu chứa đựng những
cảnh sắc chân thật nhất.
Xuân Diệu, tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê ở làng Trảo Nha, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông
hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá nghệ thuật với tư cách một nhà văn chuyên
nghiệp. Trước Cách mạng, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ với giọng
thơ sôi nổi, say đắm cuộc đời. Sau đó, ông hướng mạnh vào thực tế đời sống, giàu tính thời
sự. “Vội Vàng” được trích trong tập “Thơ thơ”, bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà
thơ. Mười ba dòng thơ đầu là tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết, tỏ rõ ý thức cá nhân của
“cái tôi” thơ mới và mang đạm bản sắc riêng của hồn thơ Xuân Diệu.
Niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và những lí giải vì sao phải sống vội vàng đã
được hé lộ ngay ở phần đầu tác phẩm:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Đại từ nhân xưng “tôi” bắt đầu bài thơ biểu hiện một tư thế đĩnh đạc của cá nhân giữa
đất trời. Cái “tôi” xuất hiện và đòi được khẳng định mình, đồng thời mang đến những cảm xúc
mới mẻ chưa từng có trong thơ ca trước đó. Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” bởi thi sĩ lo sợ
“màu nhạt mất”, “hương bay đi”, sợ rằng xuân sắc, cảnh đẹp của trần gian sẽ phai nhạt mất.
Nghĩa là Xuân Diệu muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế, muốn mãi mãi một mùa
xuân tuyệt vời. Tác giả đã dùng những động từ mạnh “muốn, tắt, buộc” để thực hiện ý muốn
đoạt quyền của tạo hoá, muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để níu giữ những thời khắc đẹp
nhất của đời người. Quả thật, phải là một hồn thơ yêu đời mãnh liệt đến nhường nào mới có
những ham muốn táo bạo đến như vậy, nếu không muốn nói là không cuồng. Câu thơ ngắn,
nhịp thơ nhanh và biện pháp điệp cấu trúc khiến khổ thơ như một khúc ca sôi nổi, bộc lộ sự tự
tin, tự tôn và những khát vọng mãnh liệt của cá nhân. Đam mê sống, đam mê cái cái đẹp gần
như tuyệt đối, khát vọng kì lạ ấy chính là nỗi thoảng thốt của thi sĩ muốn kìm lại bước đi của
thời gian, là cái tôi mê say cái đẹp và muốn giao cảm với vẻ đẹp cuộc sống “vĩnh viễn”.
Một thiên đường ngay trên mặt đất là điều mà tác giả đã phát hiện và say sưa ở những
dòng thơ tiếp theo:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
Cảnh miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới, câu thơ thứ nhất và thứ tư được đảo
trật tự cú pháp nhằm tô đậm hương vị và âm sắc của mùa xuân. Những điệp từ “Này đây”
cùng với nhịp thơ dồn dập như một lời mời gọi hấp dẫn đưa du khách bước vào khu vườn trần
thế của người chủ nhân quyền uy, nơi mà trần gian hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp, sắc hương của
nó. Mọi vật như đang căng tràn nhựa sống: đó là mật ngọt của mùa xuân đang giục giã ong
bướm bay đi hút nhuỵ, đó là hoa của đồng nội xanh tốt, mỡ màng, là lá của cành tơ mơn mởn
“phơ phất” tinh khôi, đó là khúc nhạc si mệ, quyến rũ. Còn có một liên tưởng độc đáo “ánh
sáng chớp hàng mi”: ánh sáng trần gian tựa như hàng mi của một cô gái đẹp, chìm đắm say
mê. “Thần Vui” cũng là một hình thức so sánh mới mẻ. Đây là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi
non, trẻ trung của thiên nhiên giàu có, được mở rộng ba chiều vô tận trước sự chiêm ngưỡng
của người đọc. Khúc thơ bất ngờ chuyển sang thể thơ tám chữ liền mạch với các biện pháp
điệp từ, liệt kê đã liên tục phơi bày và mời gọi ngườu đọc thưởng thức mọi cảnh sắc trong khu
vườn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng. Có lẽ đây là câu thơ hay nhất
của bài thơ: “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Đây là hình thức so sánh ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác, từ thời gian trừu tượng đến hình ảnh cụ thể. Đó cũng là một đặc trưng của thơ Xuân
Diệu: lấy vẻ đẹp của con người làm thước đo cho thiên nhiên. Tháng giêng được so sánh với
đôi môi quyến rũ của người thiếu nữ, từ đó mới thấy tháng giêng “ngon và ngọt” như Hàn Mạc
Tử cũng đã viết:
“Môi thiếu nữ vừa trang điểm
Nắng mới âm thầm ước kết hôn
Đưa má hồng đào cho nắng nhuộm
Tình thay! Một vẻ ngọt và ngon…”
(Nắng tươi)
Vẻ đẹp của người phụ nữ được ví von với tự nhiên, khiến cho thiên nhiên phải chìm
đắm tạo cảm giác ái ân tình tự. Như vậy, trần gian trong mắt nhà thơ là vô cùng tươi đẹp, mơn
mởn, ngập tràn tình yêu và hạnh phúc.
Để tỏ rõ nội dung luân lí về lẽ sống vội vàng của mình, Xuân Diệu đã tuyên bố:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Câu thơ bị ngắt làm hai bởi dấu chấm, biểu hiện cho niềm vui không trọn vẹn. Nó như
hai cái bản lề khép mở tâm trạng đắm say vẻ đẹp của tạo hoá vừa là linh cảm bất an, băn
khoăn khi thời gian qua mau. Cụm từ lạ hoá “vội vàng một nửa” là dự cảm mơ hồ về sự mong
manh, ngắn ngủi của kiếp người khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng. “Tôi” phải
sống từ bây giờ ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, sẽ không để “nắng hạ” xuân qua rồi
mới tiếc nuối một thời tươi đẹp ấy. Qua đó, thể hiện một quan niệm mới rằng: trong thế giới
này, đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu bởi “Tuổi trẻ không gắng
sức, già cả những ngậm ngùi”.
Mười ba dòng đầu là dung hoà của nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Thể thơ tự do
phóng túng, tự nhiên, giọng điệu thơ gần gũi với những hình ảnh, âm thanh tươi tắn, nhẹ
nhàng. Bên cạnh đó là hàng loạt các biện pháp tu từ như so sánh, liệt kê, nhân hoá, điệp từ đã
làm cho cảnh vật thêm rực rỡ và sinh động. Tất cả đã tạo nên một cuộc sống trần gian đẹp như
giấc mộng, trong đó có con người giao hoà với thiên nhiên với thái độ hân hoan, mãn nguyện
và khoẻ khoắn.
Tóm lại, phần đầu của “Vội Vàng” là một bức tranh thiên nhiên căng tràn, đầy hương sắc
và niềm vui. Đó là niềm say mê trước cái đẹp đến độ thiết tha, cháy bỏng của tác giả. Qua đó,
thể hiện được quan niệm nhân sinh của nhà thơ về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Thời
gian quý giá nhất của đời người là tuổi trẻ mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. Do
vậy, hãy sống thật mãnh liệt, sống hết mình, hãy đón nhận và tận hưởng cuộc sống trong sự
say mê vì cuộc đời nhân thế là vô hạn còn tuổi trẻ hôm nay là có hạn, là vô cùng ngắn ngủi. Đó
cũng chính là bài học tư tưởng quý giá mà Xuân Diệu muốn gửi đến lớp trẻ thanh niên ngày
nay.

KHỔ 3 VỘI VÀNG


“Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh
liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”. Thật vậy, trong nền văn học Việt Nam cũng có một nhà
thơ say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời đến độ nồng nàn, tha thiết. Không ai khác đó chính là
Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”. Đó là những hồn thơ trẻ trung,
tươi mới và cũng là quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu. Tình yêu cuộc sống đến độ đam mê
ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội Vàng”. Trong đó, mười dòng cuối với tiết tấu nhanh và
mạnh như một lời kết luận cho châm ngôn sống vội của ông.
Xuân Diệu, tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê ở làng Trảo Nha, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông
hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá nghệ thuật với tư cách một nhà văn chuyên
nghiệp. Trước Cách mạng, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ với giọng
thơ sôi nổi, say đắm cuộc đời. Sau đó, ông hướng mạnh vào thực tế đời sống, giàu tính thời
sự. “Vội Vàng” được trích trong tập “Thơ thơ”, bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà
thơ. Mười dòng thơ cuối là lời giục gã sống vội vàng để tận hưởng hạnh phúc, là cách “thực
hành” lẽ sống “vội vàng” được nhà thơ dần hé lộ.
Mở đầu đoạn thơ là lời thúc giục:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Lời giục giã mọi người cũng là lời giục giã chính mình: hãy mau lên, gấp lên để tận hưởng
cuộc sống. “Mau đi thôi” là câu cảm thán thể hiện giọng điệu, thái độ khẩn trương, hối hả,
thúc giục người đọc chúng ta nhận ra rằng vẫn còn kịp để yêu thương và sống trọn vẹn với tuổi
xuân cho đến phút cuối cùng. Bởi “mùa chưa ngả chiều hôm”, xuân vẫn còn đó, người đang có
tình yêu thì hà cứ gì phải nghĩ đến việc chia xa mà hãy hãy trân trọng những niềm vui hiện tại.
Nhà thơ Xuân Diệu muốn nói rằng chúng ta vẫn còn thời gian để sống hết mình, để yêu
thương vì ta còn trẻ, còn tràn trề sức sống nên đừng phí hoài một giây phút nào nữa. Có thể
giấy, giục giã đã trở thành mô típ quen thuộc trong thơ Xuân Diệu:
“Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.”
(Giục giã)
Nhà thơ đã bừng tỉnh qua lời giục giã khẩn trương và giọng điệu thơ đã nồng nhiệt thiết
tha trở lại hé mở một tâm trạng yêu đời, ham sống đến thiết tha, rạo rực của một con người
luôn sợ sự vội vàng của thời gian.
Sáu câu thơ tiếp theo là những hành động sống vội vàng bộc lộ thái độ hăm hở, ham hố
của thi nhân:
“Ta muốn ôm,
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.”
Ở đoạn thơ đầu, tác giả xưng “Tôi” thì đến đoạn cuối ông lại dùng “Ta”. Cách sử dụng
chuyển ngôi mang một ý nghĩa sâu sắc đó chính là sự đồng điệu giữa các tâm hồn, khát khao
giao cảm càng ngày càng nhân lên như bằng nhiều cái tôi gộp lại. “Ta muốn ôm” là một câu
thơ đặc biệt: chỉ có ba tiếng, lại được đặt ngay giữa dòng thơ như diễn tả tư thế ham hố giữa
đất trời, muốn ôm hết, thâu tóm hết tất cả sự “mơn mởn”, ôm lấy vạn vật vào lòng mình biểu
hiện cho lòng yêu đời cuồng nhiệt của Trảo Nha.
Điệp ngữ “Ta muốn” đi cùng với động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu” tạo thành một cấu
trúc đều đặn, hối hả lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc. Các động từ chỉ tâm thế có sự tăng tiến
rõ rệt trong ước muốn. Ban đầu chỉ là một cái ôm nhẹ nhàng nhưng “ôm” nào cho đủ sự khao
khát, phải “riết”, phải “thâu” thì mới cảm nhận được tình yêu. Biểu hiện cho cảm xúc tăng tiến
của một khát khao tận hưởng cuộc sống đang trào dâng mãnh liệt, ngày càng nồng nàn và
cháy bỏng. Thêm nữa, ta cũng cảm nhận được bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đầy
sức sống. Nhân vật trữ tình như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn
đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy trong “một cái
hôn nhiều”. Bức tranh mùa xuân của Xuân diệu mới trọn vẹn làm sao, vừa có hơi thở của thiên
nhiên mùa xuân, vừa có hơi thở của tình yêu. Có thể nói, Trảo Nha đã nhìn đời bằng cặp mắt
“xanh non, biếc rờn” và một trái tim yêu đời mãnh liệt, nồng nàn, da diết.
Đặc biệt, câu thơ “và non nước, và cây, và cỏ rạng” vô cùng độc đáo cho thấy Xuân Diệu
xứng đáng với danh xưng “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Điệp từ “và” được lặp lại
ba lần trông có vẻ thừa thải nhưng lại là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Sự cộng hưởng đã tạo
nên sự bao quát, cảm giác ham hố, vồ vập, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực
của nhà thơ. Như vậy, qua những hành động sống hăm hở, cuồng nhiệt, Xuân Diệu muốn
khẳng định, với ông “vội vàng” là sống hết mình, cống hiến hết mình, là “sống toàn tâm, toàn
trí, toàn hồn; Sống toàn thân và thức nhọn giác quan.”
Những câu thơ cuối càng khẳng định được những khát vọng và ước nguyện của tác giả
về mùa xuân, ông sống thật mãnh liệt là để:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
Vậy là những câu thơ cuối chính là kết quả của sự khát khao sống vội vàng ở trên. Mục
đích cuối cùng của tác giả là hưởng thụ hết “mùi thơm”, “ánh sáng”, “thanh sắc của thời tươi”.
Ông nhận ra rằng khi sống hết mình mới có thể thấy được cuộc đời này tươi đẹp làm sao, ta
phải tận hưởng hết hương sắc của trần gian, phải sống thật đẹp, thật ý nghĩa để sau này không
hối tiếc. Điệp từ “cho” và các tính từ cực cấp “chếch choáng”, “đã đầy”, “no nê” có mức độ
tăng tiến biểu hiện cho cảm xúc dào dạt, trước cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu muốn
sống thật hăng say, sống tràn trề nhiệt huyệt khi hoà mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp nhất
của tuổi đời con người – tuổi trẻ.
Khao khát mãnh liệt ấy khiến tác giả phải thốt lên rằng: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi”. “Xuân hồng”, hai từ thôi mà nghe sao thật mềm mại, đằm thắm. Đó là mùa xuân ở độ
chín hồng, mang đạm khát vọng tuổi trẻ và khát khao sống mãnh liệt. Xuân Diệu hình dung
tuổi xuân của đời người như một cô gái đẹp đến độ khiến “ta muốn cắn vào ngươi”. Tuy không
thể “cắn” nhưng thi nhân có thể hoà mình vào mùa xuân thể hiện sự quý trọng thời trẻ của đời
người, đồng thời bộc lộ rõ lòng yêu cuộc đời đắm say như yêu người yêu của mình.
Mười dòng thơ cuối là dung hoà của nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Thể thơ tự do
phóng túng, tự nhiên, giọng điệu sôi nổi với những hình ảnh, âm thanh tươi tắn, nhẹ nhàng.
Biện pháp tu từ điệp ngữ cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập đã làm cho cảnh vật thêm rực rỡ
và sinh động. Tất cả đã tạo nên một khát vọng sống hăm hở của một trái tim sôi nổi, rạo rực
đến độ vội vàng, gấp gáp để tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu.
Tóm lại, phần cuối của “Vội Vàng” là một lời tuyên ngôn mạnh mẽ, là đỉnh điểm của cảm
xúc, là những hành động sống vội vàng. Xuân Diệu đang cuống quýt tận hưởng tất cả những gì
xuân sắc, xuân tình nhất, tươi đẹp nhất, ngọt ngào nhất. Từ đó, thấy được một quan niệm mới
mẻ rằng: vội vàng là chạy đua với thời gian, là trân quý từng phút giây của tuổi trẻ, đừng hoài
phí tuổi thanh xuân, vội vàng là sống mạnh mẽ, đủ đầy với từng phút giây của sự sống. Đó
cũng chính là bài học tư tưởng quý giá mà Xuân Diệu muốn gửi đến lớp trẻ thanh niên ngày
nay.

2 KHỔ ĐẦU TRÀNG GIANG


Nếu như Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi
khắc khoải không gian. Những cung bậc cảm xúc, những mong ước thầm kín được thi nhân
khắc hoạ qua cảnh sắc đượm buồn chung quanh. Độc giả luôn cảm nhận được tâm trạng của
ông qua các bài thơ ông sáng tác. "Tràng Giang" - một tác phẩm không thể không kể đến, một
tác phẩm kiến người đọc phải bồi hồi trong cảm xúc của tác giả. Tâm trạng ấy được thể hiện rõ
nhất ở hai khổ thơ đầu tiên của bài thơ.
Huy Cận, tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê làng Ân Phú, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông tích
cực hoạt động trong mặt trận Việt Minh và được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn
quốc. Trước Cách mạng, Huy Cận là nhà thơ lãng mạn, thơ ông là niềm khắc khoải, giàu chất
suy tưởng triết lí. Sau đó, ông chuyển thành nhà thơ cách mạng, tìm thấy sự hoà điệu giữa con
người và xã hội. “Tràng Giang” in trong tập “Lửa thiêng”, được viết vào mùa thu năm 1939 và
viết theo thể thơ Mới bảy chữ. Hai khổ thơ đầu là nỗi buồn cô đơn trước tạo vật mênh mông,
hoang vắng.
Nhan đề bài thơ là từ Hán Việt "Tràng giang", hai từ này nghĩa là "sông dài", thật gợi
hình gợi cảm tạo nên một không gian cổ kính, trang trọng. Thêm vào đó, điệp vần "ang" đã tạo
nên một âm vang xa mà rộng, mà dài, kéo mãi gợi nên một không gian bao la rộng lớn. Cùng
với nhan đề, đề tựa của bài thơ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" đã thâu tóm được mạch
cảm xúc chủ đạo, gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ. Sông nước mênh mông đã khát quát
lên tâm trạng cô đơn, nhỏ bé của con người. Sự đối lập đó tạo nên nỗi buồn của con người
trước thiên nhiên, vũ trụ bao la.
Hình ảnh dòng sông hiện lên có sự xen lẫn của tạo vật và tâm tình làm cho câu thơ có
sức gợi hơn là tả:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Một câu thơ chỉ vỏn vẹn có bảy chữ mà đã miêu tả được bao quát khung cảnh rộng lớn
cùng với cảm xúc trong lòng tác giả. Câu thơ đầu nhắc lại tựa đề, điệp vần “ang” góp phần tạo
nên dư âm vang xa, diễn tả con sông không chỉ dài mà còn rộng. “Sóng gợn” theo kiểu “sóng
biếc theo làn hơi gợn tí” của Nguyễn Khuyến cứ lan toả nhẹ nhàng làm cho “trang giang” thêm
rộng ra. Nhưng đấy chỉ là hiện tượng vật lí, sẽ chẳng mang tâm trạng nào nếu như không có
cảm xúc “buồn” của con người. Vì thế, biện pháp nhân hoá và từ láy “điệp điệp” còn làm
không gian thêm buồn hơn, những lớp sóng nối tiếp nhau không dứt, nó đẩy vào lòng người
một nỗi buồn dai dẳng không ngừng.
Từ góc nhìn xa, bao quát, tác giả chuyển đến một điểm nhìn cụ thể:
“Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Vốn tưởng sự xuất hiện của con thuyền sẽ mang đến chút hơi thở của sự sống, nhưng
trái lại càng thêm càng thêm nỗi buồn thê lương. Con thuyền đã nhỏ nhoi lại còn rơi vào trạng
thái “xuôi mái”, buông bỏ cho dòng nước đẩy đưa. Huy Cận đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy
động tả tĩnh, con thuyền tưởng như đang vận động, song thực tế lại hoàn toàn bất động. Theo
lẽ tự nhiên, “thuyền” và “nước” là hai vật thể không thể tách rời, nhưng qua cái nhìn của Huy
Cận, chúng lại chia lìa nhau. Nó như phá vỡ quy luật thường tình khi có sự xuất hiện của “về -
lại” gợi sự chia ly, không chung hướng. Phải chăng sự phi logic trong câu là nỗi lo âu, lạc lõng
của chính tác giả? Đó cũng chính là nghệ thuật đối được thi nhân vận dụng linh hoạt giữa
“thuyền về - nước lại” hay “sóng gợn – con thuyền xuôi mái”. Nhấn mạnh sự lẻ loi của con
thuyền và phát triển sự chia lìa của cảnh vật nhằm tô đậm hơn mối “sầu trăm ngả”, mối sầu
“dằng dặc” toả khắp bốn phương đất trời.
Tràng Giang vừa phảng phất âm hưởng Á Đông vừa có nét hiện đại ở hình ảnh, thi liệu
rất lạ:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Có thể nói rằng đây là một câu thơ "đắt" nhất của khổ đầu. “Củi” là cái tầm thường, nhỏ
nhoi và ít được đưa vào thơ ca. Nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó trở nên thật gợi hình gợi
cảm. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho thân phận con người đang trôi dạt giữa sóng gió dòng đời, là
tâm trạng bơ vơ của tác giả cũng như của biết bao người đang lạc mình trong thời kỳ mất
nước. Như vậy, với nghệ thuật đối của thơ Đường, thanh điệu hoán vị bằng trắc đều đặn đã
tạo nên tiết tấu chậm rãi, trầm buồn. Khổ thơ đầu là ngoại cảnh của dòng sông tâm hồn, của
nỗi buồn trải ra cùng lớp sóng.
Trước thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ mong tìm những nơi chốn tụ họp của con người,
ông nhìn đến những cồn cát:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Huy Cận không nhìn thấy những cồn cát lớn, mà lại thấy những cái cồn nhỏ nhoi, lạc
lõng "lơ thơ", tạo cảm giác ít ỏi, nhẹ tênh. Những tưởng Huy Cận tả cồn cát mà như tả một
cành liễu phất phơ trước gió vậy. Thêm chút "gió đìu hiu", lại càng khiến không gian trở nên
hoang vắng, hiu hắt hơn cả, gió ở bến sông mà chỉ tới mức "đìu hiu" thì ảm đạm quá. Từ láy ấy
là sự kế thừa và sáng tạo bút pháp của Chinh phụ ngâm. Chính Huy Cận đã cho biết rằng ông
viết dòng thơ này với sự ảnh hưởng từ thơ của Đặng Trần Côn:
"Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Cả hai câu thơ đều cùng gợi lên nỗi buòn bã, quạnh vắng, cô đơn tột độ.
Câu thơ thứ hai càng tô đậm thêm nét tĩnh lặng của cảnh vật: “Đâu tiếng làng xa vãn
chợ chiều”. Câu thơ có hai cách hiểu, một là đâu đây vẳng lại tiếng chợ chiều, hai là đâu có
tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nhưng dù hiểu theo nghĩa nào thì không gian ở đây cũng mang vẻ
vắng lặng cô tịch. Có tiếng chợ đấy nhưng xa lắm, chỉ lờ mờ, thấp thoáng mà thôi và Huy Cận
vẫn cô đơn, lẻ loi tại bến sông này. Nghệ thuật lấy động chế tĩnh thật hay và thật tài tình: lấy
cái tiếng vãn chợ tận "làng xa" nào ấy đem vào không gian rộng lớn này, điều ấy càng nhấn
mạnh thêm cái hoang vắng, bốn bề tĩnh lặng của bến sông Hồng.
Đến hai câu sau, không gian tràng giang được mở ra ba chiều đến mênh mông, vô tận:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Không gian như mở rộng hết chiều kích thước: “nắng xuống – trời lên” kết hợp với cụm
từ lạ hoá “sâu chót vót” làm người ta liên tưởng đến hình ảnh từng vạt nắng từ trên cao rọi
xuống đáy sông với cái chót vót khi nhìn lên đỉnh trời, gợi cái thăm thẳm của vũ trụ. Chỉ một
câu thơ đơn giản vậy thôi nhưng Huy Cận đã đem vào đó cái không gian rộng lớn, bao la và
riêng mình thi sĩ cô độc trong cái khoảng không ấy. Quả thực lời nhận định Huy Cận là nhà thơ
có nỗi ám ảnh với không gian sâu sắc là không sai chút nào, bởi nếu không có cái cảm xúc nhạy
cảm như vậy thì làm sao lại có những vần thơ tuyệt diệu về không gian như vậy.
Kết lại đoạn thơ, là câu thơ dường như là nhận định của tác giả "Sông dài, trời rộng, bến
cô liêu". Đúng vậy trời càng rộng sông càng dài thì cảnh vật càng trở nên vắng lặng, bờ bến
càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình đã lan rộng khắp không gian, cả
chiều cao, chiều dài và cả chiều rộng khiến cho cảnh vật đã hoang vắng lại còn “cô liêu”. Đúng
như lời Nguyễn Du trong Kiều: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", đó là nỗi buồn thế sự,
buồn cho thân phận nổi trôi vô định giữ thời buổi rối ren Tây ta lẫn lộn, là nỗi buồn chung cho
cả một xã hội Việt Nam thời bấy giờ.
Hai khổ thơ đầu của “Tràng Giang” là dung hoà của nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc.
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ điển ở thể thơ, cách đặt
nhan đề, bút pháp “tả cảnh ngụ tình”. Còn hiện đại trong việc xây dựng thi liệu, phơi bày “cái
tôi”. Bên cạnh đó, các biện pháp tu từ như từ láy, nhân hoá, ẩn dụ, từ ngữ mang dấu ấn riêng
cũng góp phần khắc hoạ hình ảnh con người cô đơn đến tột cùng trong vũ trụ bao la.
Tóm lại, hai khổ thơ đầu là tâm trạng buồn bã, là sự lẻ loi, cô độc của một kiếp người
giữa dòng đời rộng lớn. Hơn thế, “Tràng Giang” là tiếng nói đầy khát vọng của cái tôi, của con
người cá nhân đòi giải phóng khỏi cái nhỏ bé, cái mặt bằng không đáng sống của cuộc đời thực
tại để hoà nhập vào cõi cao rộng của không gian. Chất chứa đâu đó còn là tình yêu nước thầm
kín của Huy Cận gửi gắm qua nỗi buồn và niềm thiết tha trước tạo vật thiên nhiên.

You might also like