You are on page 1of 10

GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

ÔN TẬP TỔNG HỢP -VỘI VÀNG

- XUÂN DIỆU-

Nội dung 1. Khao khát chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa khi lòng
ham sống, ham yêu, ham lưu giữ vẻ đẹp xuân sắc của đất trời trào
dâng.
Xuân Diệu từng tâm sự: “Tôi để lòng tôi trong những câu tiếng, tôi đã gửi nhịp
máu trong nhịp thơ, đã gói ghém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu”. Và “Vội
vàng” là một bài thơ như thế – nơi mà ông hoàng thơ tình được trải lòng cùng với
trời đất, được khát khao cống hiến và hưởng thụ, nơi mà một tài năng trở thành bất
diệt... Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp tiếng lòng của tâm hồn vì
quá yêu đời, yêu cuộc sống nên đã bộc lộ khát vọng không tưởng, táo bạo - ước
muốn níu giữ thời gian để vĩnh cửu hóa vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống:

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.”

Điệp ngữ “tôi muốn” đưa tới cho người đọc cảm nhận về một cái tôi tự tin, kiêu
hãnh của nhà thơ. Ông muốn tước đoạt quyền năng của tạo hóa, cưỡng lại quy luật
của tự nhiên. Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại màu sắc và cản lại mùi
hương, cho mùa xuân, cuộc sống xanh tươi mãi mãi. Thể thơ năm chữ ngắn gọn,
giọng điệu dồn dập kết hợp với điệp từ “cho”, hình thức câu thơ vắt dòng đã truyền
tải khát vọng đó một cách mạnh mẽ, ráo riết. Đây là một khao khát không tưởng
nhưng lại rất nhân văn, nhân bản. Hương sắc ở đây không chỉ là thiên nhiên, là
mùa xuân của đất trời, mà còn là tuổi xuân và lòng người. Khát vọng muốn chiếm
đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi cho đời. Ngông
cuồng hơn, nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận
hưởng khoảng thời gian tươi đẹp nhất của tuổi trẻ, của đời người. Đây cũng là
khao khát đáng trân trọng, bởi lẽ khi nhiều nhà thơ cùng thời đã muốn thoát li cuộc
sống như “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu
Trọng Lư”, Xuân Diệu vẫn ở đời, vẫn say mê níu kéo hương sắc cuộc sống mà
chống lại sự chảy trôi của thời gian. Chẳng vậy mà Thế Lữ cho rằng: “Xuân Diệu
GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

là một người của đời, một người giữa loài người, lầu thơ của ông được xây dựng
trên đất của một tấm lòng trần gian”.

Như thế, bốn câu thơ đã khẳng định một cái tôi trữ tình, một cái tôi đứng lên bộc
bạch ước muốn của cái tôi cá nhân, dù ước muốn ấy có đôi phần phi lí và vượt tầm
với của bản thân. Đây là cái mới của nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Nó
trái ngược hoàn toàn với tính phi ngã của văn học trung đại. Giọng thơ trong bốn

câu thơ đầu mang âm điệu tình yêu da diết và mạnh mẽ. Cảm nhận sâu hơn ta thấy

được lời thơ có sự tiếc nuối trong chữ “đừng” day dứt.

Nội dung 2. Tâm trạng say mê trước cảnh đẹp tuyệt sắc của thiên
nhiên, đất trời.
Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là nguồn
sống dạt dào chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình
yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc
sống ngắn ngủi của mình”. Bằng tình yêu cuộc sống, nhà thơ đã vẽ lên một bức
tranh thiên nhiên trần thế đầy ngọt ngào, tươi đẹp và cảm nhận nó theo một cách
riêng. Xuân Diệu cũng hưởng thụ thiên nhiên như cách ông hưởng thụ ái tình. Yêu
thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Một văn sĩ đã từng nói: “Một cuộc thám hiểm thực sự ở chỗ không phải cần một
vùng đất mới mà cần một đôi mắt mới”. Với sức sáng tạo của một nhà thơ bậc
nhất, Xuân Diệu không tạo ra một thế giới mới nhưng đã có cặp mắt tươi rất mới.
Xuân Diệu gọi đó là cặp mắt “xanh non - biếc rờn”, thoát khỏi hệ thống ước lệ, cái
GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

tính phi của văn học Trung đại. Cuộc đời được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách
riêng với khát vọng “sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn, sống toàn thân và thức
nhọn giác quan”. Với tâm hồn giao cảm tinh tế như thế, cuộc đời như một thiên
đường trên mặt đất, con người như đi lạc vào một bữa tiệc lớn của nhân gian. Cái
thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “Vội vàng” vừa như một mảnh vườn
tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến
rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Vì thế, nhà thơ Thế Lữ rung cảm mà
đưa ra đánh giá: “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu đang tay chào đón
nhựa sống dạt dào của cuộc đời”.

Điệp ngữ “này đây” được nhắc lại năm lần, diễn tả sự sống đang phơi bày ngập
tràn trước mắt. Thiên nhiên hữu hình, xinh đẹp, mơn mởn đến lạ kỳ. Ở đó, người
đọc cảm nhận thi sĩ như một diễn viên điện ảnh đang trỏ tay để trưng ra những vẻ
đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, đất trời trong sự sống ăm ắp, biêng biếc sắc màu giữa
chốn trần gian. Khung cảnh mùa xuân đang ở thời kì sung sức nhất, tình tứ ngọt
ngào nhất khi mà Xuân Diệu liệt kê ra một thực đơn đầy quyến rũ: cảnh ong đưa
và bướm lượn tình tứ ngọt ngào như tuần tháng mật, màu hoa trở nên thắm sắc,
ngát hương giữa đồng nội xanh rì, cây cối đâm chồi, nảy lộc tạo nên những cành
tơ với những chiếc lá non phất phơ. Điểm vào phong cảnh non nước hữu tình ấy, là
tiếng hót đắm say của loài chim yến anh tạo nên khúc tình si đầy đắm say lòng
người. Biện pháp liệt kê cùng trường từ vựng: ong bướm, hoa, đồng nội, lá, cành
tơ,... giúp người đọc hình dung ra bàn tay kì diệu của tạo hóa, người đã gieo dắt
trên mảnh đất trần thế những gì tinh túy, tươi tốt, trong lành và đẹp đẽ nhất. Tất cả
tạo nên bức tranh mùa xuân diễm lệ, mơ màng, đầy sức sống; tạo nên một niềm vui
thần diệu. Mỗi buối sớm thần Vui đều gõ cửa lòng ta. Ánh sáng buổi sớm phát ra
từ cặp mắt đẹp long lanh như có hồn của nàng công chúa có tên bình minh. Nàng
vừa tỉnh giấc nồng, mắt chớp chớp hàng mi, rồi bừng mở ra muôn vàn hào quang.
Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật, làm cho bức tranh thiên nhiên như một
nguồn nhựa sống chảy dạt dào xung quanh cuộc sống và con người. Bức tranh
căng tràn nhựa sống ấy được vẽ lên bởi màu sắc, ánh sáng, bằng mọi giác quan. Nó
khác hẳn vẻ đẹp chốn thần tiên mơ mộng, huyền ảo mà Thế Lữ tìm ra:

“Trời cao xanh ngắt ô kìa

Hai con hạc trắng bay về bồng lai”

Đó cũng không phải là buổi xuân chiều vắng của Anh Thơ:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông dung


GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

Quảng tranh đứng im lìm trong bến lặng

Bên chòm xoan hao tím rụng tơi bời.”

Điểm nhấn của mùa xuân trong khổ thơ được miêu tả ở câu thơ mới nhất:
“và này đây ánh sáng chớp hàng mi” – “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Với cái nhìn của một nhà thơ mới, ánh sáng của đất trời buổi bình minh được ví
như cái chớp mi thẹn thùng của người thiếu nữ mang vẻ đẹp trong trẻo buổi ban
sơ. Độc đáo nhất là Xuân Diệu so sánh “tháng giêng” với “cặp môi gần”. Tháng
giêng là mùa xuân, là khởi đầu cho một năm, nó gợi vị thanh tân của cuộc sống.
Lấy “cặp môi gần” là hình ảnh hữu hình mang vẻ đẹp của người thiếu nữ, lấy
“tháng giêng” là biểu hiện của thời gian, của cái vô hình để so sánh thì quả là táo
bạo và bất ngờ. Như thế, hoa trái và hương sắc của mùa xuân đã đóng dấu vào thời
gian. Xuân đã trở thành tình nhân trong tấm lòng rộng mở của người tình và thi sĩ.
Xuân Diệu đã cảm nhận thiên nhiên qua vóc dáng của người thiếu nữ. Mùa xuân
không chỉ đẹp mà còn quyến rũ rạo rực xuân tình. Cái nhìn ấy đã trẻ hóa thời gian
cũ kĩ, già nua này. Câu thơ được xem là câu thơ hay nhất trong thi phẩm “Vội
vàng”. Và đó cũng là những câu thơ mới nhất của Xuân Diệu, làm nên một thời đại
trong thi ca. Với những vần thơ ấy, Xuân Diệu đã làm tròn ý nghĩa về hình thức
nghệ thuật trong văn chương, theo Tô Hoài quan niệm: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc
buông xuống trang bản thảo, hạt ngọc ấy phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm
được, do phong cách văn chương của mình mà có..”. Như thế, với Xuân Diệu, thời
gian này đẹp mê hồn giữa tuổi trẻ và tình yêu. Ta biết thơ xưa thường lấy thiên
nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người “phù dung như diện liễu như mi”.
Đến Thúy Kiều, Nguyễn Du

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn.

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

tuổi trẻ là chuẩn mực, là thước đo thẩm mỹ của vũ trụ, là kiểu mẫu của muôn loài.
Xuân Diệu đã đưa ra tiêu chuẩn khác với văn học xưa khi lấy con người giữa Đó là
ý nghĩa nhân bản tiến bộ trong quan niệm thẩm mỹ của Xuân Diệu.

Nội dung 3. Quan niệm nhân sinh về thời gian và tuổi trẻ, niềm khao
khát được sống mãnh liệt, sống ý nghĩa, sống hết mình với mùa
xuân, thời gian và cuộc đời.
Đỗ Lai Thúy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn
một lần thi sĩ từng giục giã:
GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

“Mau với chứ, vội vàng lên với chứ

Em, em ơi. Tình non sắp già rồi”

Cũng bởi thế dù đang dắm mình vào thiên nhiên ông bỗng giật mình và thốt lên sự
tiếc nuối:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Câu thơ có hai tâm trạng, bởi sự ngăn cách của dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ
như bị ngăn cách làm đôi. Đó là cách ngắt nhịp chịu ảnh hưởng của thơ tượng
trưng Pháp. Câu thơ đặc tả hai chiều tâm trạng của tác giả, phân tách nhà thơ thành
hai nửa: sung sướng và vội vàng. Trong đó tâm trạng sung sướng là tâm trạng hạnh
phúc, lạc quan, yêu đời, cười vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm thiết tha, trìu
mến, gắn bó; Còn vội vàng là tâm trạng tiếc nuối bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi tuổi
già sắp đến. Vì thế dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi sĩ cảm thấy tiếc nuối
nó. Câu thơ sau mang hình ảnh ẩn dụ: “nắng hạ” tượng trưng cho những năm tháng
sau này. Nhà thơ không đợi những cơn mưa rào mùa hạ đến rồi mới nhớ đến mưa
phùn lất phất của mùa xuân. Ông tiếc mùa xuân, những năm tháng trẻ trung căng
tràn sự sống ngay khi nó còn đang diễn ra. Hai câu thơ chính là nỗi buồn, sự hụt
hãng của con người biết quý trọng thời gian, thấy sự trôi chảy của dòng đời. Đây
cũng chính là con người đưa ra quan niệm sống vội vàng, sống cuống quýt, chạy
đua với thời gian, trân trọng và giữ gìn từng phút từng giây cuộc đời quý giá.

Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu.
Thời gian một đi không trở lại. Dù xuân có đẹp đến đâu đi chăng nữa, xuân chỉ là
một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu,
mùa đông sẽ đến, nên xuân mang trong nó tính thời gian, mang ý nghĩa trôi chảy:

“Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.

Không cho dài thời trẻ của nhân gian


GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,”

Nếu con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình
như họ yên trí với quan niệm “thời – gian - tuần - hoàn”, với cái chu kì bốn mùa,
cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian
lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lại lấy sinh mệnh cá thể
làm thước đo chuẩn mực cho thời gian. Nên họ sống với quan niệm “thời - gian -
tuyến - tính”. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh
khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”

Vũ trụ vẫn chuyển động như vốn dĩ nó tồn tại, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ
tiếp diễn như quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu
sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một sự thật đáng buồn: Tuổi trẻ chẳng hai lần
thắm lại cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày hôm qua, huống chi
năm này với năm khác, nàng xuân thì trường sinh còn tuổi trẻ mỗi người đều có
giới hạn. Nhà thơ lấy mùa xuân, tuổi trẻ làm thước đo cho cuộc đời mỗi con người.
Tuổi trẻ là khoảng thời gian quý giá nhất, nhưng sao khắc nghiệt quá, nó vô cùng
ngắn ngủi. Đời người và tuổi xuân được đặt trong mối quan hệ với không gian,
thời gian mênh mông vĩnh hằng: “Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất” cho nên lại
càng ngắn ngủi, hữu hạn biết bao nhiêu. Khát khao của người nghệ sĩ càng lớn lao
thì giới hạn của kiếp người lại càng trở nên ngắn ngủi, chật chội. Đến đây cái vui
rạo rực trong xúc cảm khao khát dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u
buồn, một nỗi niềm tiếc nuối khôn nguôi đối với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian
này: Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi, nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

Và phải chăng bởi quá nhạy cảm, Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống nơi “vườn trần"
đều ít nhiều mang "bi kịch" về thời gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,


GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Thi sĩ thấy thời gian như cơn gió bay thật nhanh, lướt qua vạn vật. Lúc tạo vật ở
bánh xe thời gian. Tất cả đều bất ngờ, hụt hẫng, tiếc nuối, thảng thốt. Thời gian có
độ căng mọng nhất, cũng là khi đối diện với sự tàn phai hủy diệt đến ám ảnh của
mùi, có vị chia phôi. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một chia lìa, một mất mát. Bao
nhiêu sự vật trên thế giới này. Mỗi khoảnh khắc trôi qua như đều đang từ giã bản
thân mình. Cho nên cả trời đất, núi sông dâng lên một âm thanh duy nhất: âm
thanh của sự chia li. Vạn vật thở than ngậm ngùi đưa tiễn phần đời của chính nó.
Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” - thời gian của Xuân
Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn “buộc gió lại” ư - hương
bay đi là thời gian trôi mất, là phai nhạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy khứu
giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ đang rơm rớm
tước sự phai phôi. Nó như cứa vào da thịt con người khi không níu giữ được thời
gian. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là
một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” đều
từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường
long lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân,
biểu tượng của sự chia phôi. Thi sĩ cảm thấy thật rõ từng khoảnh khắc đang lìa bỏ
hiện tại để trở thành quá khứ. Đó thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời
khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người,
chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi
cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ
nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên
bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian
trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một
sự tàn phai không thể nào tránh khỏi.

Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, sống.
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa
lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:

“Chẳng bao giờ,ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”


GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

Chính vì sự nghiệt ngã của thời gian nên Xuân Diệu mới hối hả, cuống quýt, giục
giã sống nhanh, sống gấp. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi
đi vĩnh viễn không trở lại. Vì thế nhà thơ “Giục giã” chúng ta phải “Nhanh lên”,
vội vàng lên để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “Mùa chưa ngả chiều
hôm”

khi mà xuân đang non, xuân chưa già: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”.

Nội dung 4. Khát vọng cuống quýt, giục giã, gấp gáp, tràn đầy cảm
xúc dâng trào.
Nhà văn Raxun Gamatop từng nói: "giống như ngọn lửa bùng lên từ những
cây củi khô, tài năng cũng được nuôi dưỡng bằng những tình cảm mạnh mẽ của
con người - bằng tình yêu và lòng căm thù; thơ sinh ra từ nụ cười trong sáng hay từ
giọt nước mắt cay đắng". Và có lẽ, những vần thơ trong “Vội Vàng” được thêu dệt
nên bởi những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt,
vồ vập. Nếu ở khổ thơ đầu, tác giả thể hiện khát vọng không tưởng thì đến đây,
một lần nữa là những tâm tình của một trái tim yêu đời, ham sống:

“Ta muốn ôm:

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Dường như ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim
Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo
nhau, nó giao thoa, nó song hành tạo thành những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm
hồn người đọc và ngưng đọng ở đó mãi không thôi! Nếu như ở câu thơ đầu thi
GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

phẩm, tác giả xưng tôi để đối thoại với đồng loại thì đến đoạn thơ này, tác giả xưng
“ta” để đối thoại với vũ trụ, đất trời. Ba chữ “ta muốn ôm” như phơi bày hết sự
ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế. Câu thơ ngắn chỉ có
ba tiếng nhưng đã khắc họa được hình ảnh một con người vững chãi đang đứng
giữa đất trời, đang dang rộng vòng tay của mình để ôm lấy sự sống mơn mởn vào
lòng. Cái “ta” của Xuân Diệu trong câu thơ không phải là cái tôi phi ngã trong văn
học trung đại, mà là cái ta của chủ thể trữ tình, tự tin, kiêu hãnh, đang hừng hực
sức sống. đang đối diện với cuộc đời và đất trời. Câu thơ đã thể hiện được một cái
tôi ý thức về giá trị cá nhân trong một tâm thế vội vàng, tích cực, cuồng nhiệt.

Liền ngay sau câu thơ “Ta muốn ôm”, Xuân Diệu thể hiện cái tươi non của
một sự sống mơn mởn. Đó là những câu thơ mạnh bạo, giục giã, tràn đầy nỗi yêu.
Bằng một tấm lòng yêu cuộc sống đắm say nồng nàn, Xuân Diệu đã đưa người đọc
vào một thế giới ăm ắp sự sống, biêng biếc sắc màu, với những hình ảnh tình tứ
đang ở độ thanh xuân: mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, non nước, cây
cỏ, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc của thời tươi... Một lần nữa, Xuân Diệu lại dựng
lại bức tranh đang ở độ xuân tình, ứa tràn sự sống. Trong đôi mắt của kẻ si tình,
thiên nhiên một lần nữa được phong tình hóa, trữ tình hóa trở nên rạo rực, đắm say.
Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở nhiều cấp độ: “ôm, riết, say, thâu, cắn”
với nhiều cảm giác “chếnh choáng, no nê”. Thi nhân huy động mọi giác quan để
cảm nhận cuộc sống, thấm hút vị ngọt thiên nhiên ở nhiều cấp độ. Xuân Diệu như
đang căng trái tim ra để thấy hết vẻ đẹp đất trời, như một tình nhân của vũ trụ.

Một đoạn thơ ngắn có sáu câu mà có tới năm từ “Ta muốn” được lặp đi lặp
mùa xuân, thiên nhiên, đất trời vào lòng mình. Sự sống như thế mới là sống, mới đi
rất cuống quýt như muốn cùng lúc ra tay ôm trọn hết tất cả vũ trụ, cả cuộc đời, cả
lại như nhịp điệu hối hả, gấp gáp của thi nhân, chứng tỏ Xuân Diệu rất nồng nhiệt,
đến niềm tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “ta muốn” còn muốn
nói lên cái ham muốn thèm khát của nhà thơ, điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến
giúp trái tim đỏ hồng, chín mọng thơm mát ngọt ngào, xuân hồng để cho nhà thơ
tận Xuân Diệu nhận ra cuộc đời mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như
một

hưởng trong niềm khao khát.

Câu thơ cuối mang một vẻ đẹp độc đáo: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào
ngươi”. Câu thơ giao thoa hai vẻ đẹp: Một vẻ đẹp thuộc về cuộc sống mơn mởn,
tròn căng như trái xuân hồng và một vẻ đẹp thuộc về tình yêu cuộc sống từ ước
vọng. Nhà thơ muốn “cắn” vào trái đời ngọt lịm ấy để tận hưởng cuộc sống hết
mình. Cầu thơ cuối thể hiện quan niệm thẩm mỹ mới mẻ của Xuân Diệu. Mùa
GV PHẠM THỦY SĐT 0965489044

xuân như có hình của sắc, như môi má người thiếu nữ. Xuân Diệu đã cảm nhận
thiên nhiên như vóc dáng một người thiếu nữ. Mùa xuân không chỉ đẹp mà còn
quyến rũ, rạo rực xuân tình. Như thế Xuân Diệu nhìn thế giới này đẹp nhất nhất vì
có con người. Con người giữa tuổi trẻ, tình yêu, trở thành chuẩn mực, thước đo của
vũ trụ, kiểu mẫu của nhân loại. Đó là ý nghĩa tiến bộ nhân bản trong quan niệm
thẩm mỹ của Xuân Diệu.

Như vậy, “Vội vàng” là lời giục giã thế hệ trẻ sống vội vàng, sống cuống
quýt để hưởng thụ hết những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Bởi tuổi trẻ của mỗi
người chỉ đến một lần duy nhất và thời gian thì không đứng yên để đợi một ai cả.
Nó sẽ trôi đi và người ta sẽ mất nó vĩnh viền. Đồng thời, bài thơ đã thể hiện lòng
ham sống mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, rất hiện đại cùng với một quan niệm
sống rất mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc. Cái tôi trong thơ Xuân Diệu là
cái tôi tiêu biểu của thời đại thơ Mới, cũng là dấu mốc cho sự thắng thế hoàn toàn
của thơ Mới trên thi đàn văn học lúc bấy giờ.

TỔNG KẾT:

“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc
buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhất của mình tìm được do phong cách
riêng của mình mà có” (Tô Hoài). Những vần thơ trong “Vội vàng” được kết tinh
từ trái tim, nỗi lòng của nhà thơ và chúng không thể được viết nên một cách trọn
vẹn nếu thiếu đi nghệ thuật độc đáo. Bài thơ có cách liên tưởng, so sánh mới lạ với
những hình ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi cảm, gợi hình: Tháng giêng ngon, Mùi
tháng năm,... Thủ pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để người thi sĩ có thể cảm nhận
mùa xuân, cái đẹp của thiên nhiên đất trời bằng tất cả các giác quan. Đó chính là
cách sống hết mình, tận hưởng hết mình, giao hòa với thiên nhiên của Xuân Diệu.
Một loạt những hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc và
các động từ mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quýt, hối hả, rộn rã khiến cho bài thơ
mang âm hưởng như một lời hiệu triệu, một sự giục giã của Xuân Diệu với những
con người trẻ.

Hoa nở rồi hoa sẽ tàn, gió đến rồi gió lại đi, xuân tới rồi xuân lại qua, nụ hồng
thắm sẽ có ngày phôi phai. Lớp bụi thời gian rồi cũng sẽ xóa mờ đi tất cả, để lại
hoại niệm, tiếc nuối trong ta. Duy chỉ có những vần thơ kia xanh mãi, còn mãi với
đời. Xuân Diệu đã viết “Vội vàng” như một dòng tâm tình đầy sâu sắc, thấm đẫm
ngọt

You might also like