You are on page 1of 7

Vội Vàng- Xuân Diệu

Mở bài:

“Thời gian qua kẽ tay


Làm khô những chiếc lá”

- Dòng thời gian là người bạn nghiệt ngã của trí nhớ và những người hay hoài niệm. Thuận dòng theo
dòng chảy vô thủy vô chung của nó, tất cả như mờ dần, nhòa dần, mất hút vào quên lãng như chiếc lá
tịnh lại nơi cội cây. Thời gian có thể lấy đi nước mắt, những kí ức đau buồn nhưng cũng mang lại những
niềm vui, hạnh phúc, kỉ niệm mà ta không bao giờ quên. Thời gian một đi không trở lại. Phải chăng vì
thế mà với một nhà thơ yêu đời, khát khao cuộc sống, luyến tiếc nhân gian như Xuân Diệu luôn sống
vội, ước mong níu giữ thời gian một cách mãnh liệt. Tất cả những tiếng lòng của một tâm hồn tha thiết
và luôn chảy hết mình với cuộc sống ấy được gửi gắm trọn vẹn, đầy đủ và sâu sắc trong “Vội vàng”.
Đến với bài thơ, ta được đắm say cùng những vần ca của một thi nhân sống một cách hết mình cho từng
phút từng giây của cuộc đợi, sao cho mỗi thời khắc trôi qua đều mang ý nghĩa, đều không phí phạm.

- Nhắc đến Xuân Diệu, người ta nhớ đến một tác giả, một nhà văn hóa lớn. Xuân Diệu là một trong những
cây bút có sức sáng tạo dồi dào và bền bỉ bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trên thi đàn văn
học dân tộc, ông được xem là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Hoài Thanh đã nhận xét về
ông: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần, một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ... và
thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, tạo ra một cảm giác mới
trước cuộc đời và trước thiên nhiên. Có lẽ, Xuân Diệu là người đã tạo ra sự đổi mới đó một cách mạnh
mẽ nhất. Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới cùng với
những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Chính vì vậy, khi nhắc đến Xuân Diệu, nhà phê bình, nghiên
cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã nói: “Với những nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân dù lúc
vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thắm thiết”. Với một hồn thơ
khát khao giao cảm với đời, cuộc đời ở đây được hiểu theo nghĩa trần thế mới. “Vội vàng” là một tác
phẩm nói lên quan niệm sống vội, sống nhanh, sống gấp để tận hưởng trọn vẹn cái đẹp của cuộc sống,
của tuổi trẻ trong nhà thơ. Bài thơ in trong tập “Thơ thơ”- tác phẩm thi ca đầu tay của Xuân Diệu. Khi
đó thi sĩ là một chàng trai hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên đài trần ngây thơ, mắt như bao
luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm chân tình sẵn lòng ân ái. Với “Vội vàng”, Xuân
Diệu đã gửi gắm tới người đọc bức thông điệp mang quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mĩ mới
mẻ, tiến bộ. Cũng thả mình vào từng câu thơ, đắm chìm trong dòng cảm xúc ngọt ngào, giao cảm với
tâm hồn thi nhân để cảm nhận những điều tuyệt vời ấy.

Nội dung 1: Khao khát chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa khi lòng ham sống, ham yêu, ham lưu giữ vẻ
đẹp xuân sắc của đất trời trào dâng.

- Xuân Diệu từng tâm sự: “Tôi để lòng tôi trong những câu tiếng, tôi đã gửi nhịp máu trong nhịp thơ,
đã gói ghém hơi thở của tôi trong ít nhiều âm điệu”. Và “Vội vàng” là một bài thơ như thế - nơi mà
ông Hoàng thơ tình được trải lòng cùng với trời đất, được khát khao cống hiến và hưởng thụ, nơi mà
một tài năng trở thành bất diệt... Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, ta đã bắt gặp tiếng lòng của tâm hồn
vì quá yêu đời, yêu cuộc sống nên đã bộc lộ khát vọng không tưởng, táo bạo – ước muốn níu giữ thời
gian để vĩnh cửu hóa vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

- Điệp ngữ “tôi muốn” đưa tới cho người đọc cảm nhận về một cái tôi tự tin, kiêu hãnh của nhà thơ. Ông
muốn tước đoạt quyền năng của tạo hóa, cưỡng lại quy luật của tự nhiên. Hành động “tắt nắng”, “buộc
gió” để giữ lại màu sắc và cản lại mùi hương cho mùa xuân, cuộc sống xanh tươi mãi mãi. Thể thơ năm
chữ ngắn gọn, giọng điệu dồn dập kết hợp với điệp từ “cho”, hình thức câu thơ vắt dòng đã truyền tải
khát vọng đó một cách mạnh mẽ, ráo riết. Đây là một khát khao không tưởng nhưng lại rất nhân văn,
nhân bản. Hương sắc ở đây không chỉ là thiên nhiên, là mùa xuân của đất trời, mà còn là tuổi xuân và
lòng người. Khát vọng muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi cho
đời. Ngông cuồng hơn, nhà thơ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại để thi nhân tận hưởng
khoảng thời gian tươi đẹp nhất của tuổi trẻ, của đời người. Đây cũng là khao khát đáng trân trọng, bởi lẽ
khi nhiều nhà thơ cùng thời đã muốn thoát li cuộc sống như “Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư”, thì Xuân Diệu vẫn ở đời, vẫn say mê níu kéo hương sắc cuộc
sống mà chống lại sự chảy trôi của thời gian. Chẳng vậy mà Thế Lữ cho rằng: “Xuân Diệu là một người
của đời, một người giữa loài người, lầu thơ của ông được xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”.

Như thế, bốn câu thơ đã khẳng định một cái tôi trữ tình, một cái tôi đứng lên bộc bạch ước muốn
của cái tôi cá nhân, dù ước muốn ấy có đôi phần phi lí và vượt tầm với của bản thân. Đây là cái mới của
nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Nó trái ngược hoàn toàn với tính phi ngã của văn học trung
đại. Giọng thơ trong bốn câu thơ đầu mang âm điệu tình yêu da diết và mạnh mẽ. Cảm nhận sâu hơn ta
thấy được lời thơ có sự tiếc nuối trong chữ “đừng” day dứt.

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rạt rào
chưa từng thấy ở chốn non nước lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội
vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc sống ngắn ngủi của mình”. Và nhà thơ Lawrence
Ferlinghetti nói rằng: “Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng.”
Bằng tình yêu cuộc sống, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên trần thế đầy ngọt ngào, tươi đẹp
và cảm nhận nó theo một cách riêng. Xuân Diệu cũng hưởng thụ thiên nhiên như cách ông hưởng thụ ái
tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

- Một văn sĩ đã từng nói: “Một cuộc thám hiểm thực sự ở chỗ không phải cần một vùng đất mới mà cần
một đôi mắt mới”. Với sức sáng tạo của một nhà thơ bậc nhất, Xuân Diệu không tạo ra một thế giới mới
nhưng đã có cặp mắt tươi rất mới. Xuân Diệu gọi đó là cặp mắt “xanh non- biếc rờn”, thoát khỏi hệ
thống ước lệ, cái tính phi của văn học Trung đại. Cuộc đời được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách
riêng với khát vọng “sống toàn tâm. Toàn trí, toàn hồn, sống toàn thân và thức nhọn giác quan”. Với tâm
hồn giao cảm tinh tế như thế như thế, cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất, con người như đi lạc
vào một bữa tiệc lớn của nhân gian. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “Vội vàng” vừa
như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến
rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Vì thế, nhà thơ Thế Lữ rung cảm mà đưa ra đánh giá:
“Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống dạt dào của cuộc đời”.
- Điệp ngữ “này đây” được nhắc lại năm lần, diễn tả sự sống đang phơi bày ngập tràn trước mắt. Thiên
nhiên hữu hình, xinh đẹp, mơn mởn đến lạ kỳ. Ở đó, người đọc cảm nhận thi sĩ như một diễn viên điện
ảnh đang trỏ tay để trưng ra những vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên, đất trời trong sự sống ấm áp, biêng
biếc sắc màu giữa chốn trần gian. Khung cảnh mùa xuân đang ở thời kì sung sức nhất, tình tứ ngọt ngào
nhất khi mà Xuân Diệu liệt kê ra một thức đơn đầy quyến rũ: cảnh ong đưa và bướm lượn tình từ ngọt
ngào như tuần tháng mặt, màu hoa trở nên thắm sắc, ngát hương giữa đồng nội xanh rì, cây cối đâm
chồi, nảy lộc tạo nên những cảnh tơ với những chiếc lá non phất phơ. Điểm vào phong cảnh non nước
hữu tình ấy, là tiếng hót đắm say của loài chim yến anh tạo nên khúc tình si đầy đắm say lòng người.
Biện pháp liệt kê cùng trường từ vựng: ong bướm, hoa, đồng nội, lá, cành tơ,... giúp người đọc hình
dung ra bàn tay kì diệu của tạo hóa, người đã gieo dắt trên mảnh đất trần thế những gì tinh túy, tươi tốt,
trong lành và đẹp đẽ nhất. Tất cả tạo nên bức tranh mùa xuân diễm lệ, mơ mang đầy sức sống; tạo nên
một niềm vui thần diệu. Mỗi buổi sớm thần Vui đều gõ cửa lòng ta. Ánh sáng buổi sớm phát ra từ cặp
mắt đẹp long lanh như có hồn của nàng công chúa có tên bình minh. Nàng vừa tỉnh giấc nồng, mắt chớp
chớp hàng mi, rồi bừng mở ra muôn vàn hào quang. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật, làm cho
bức tranh thiên nhiên như một nguồn nhựa sống chảy dạt dào xung quanh cuộc sống và con người. Bức
tranh căng tràn nhựa sống ấy được vẽ lên bởi màu sắc, ánh sáng, bằng mọi giác quan. Nó khác hẳn vẻ
đẹp chốn thần tiên mơ mộng, huyền ảo mà Thế Lữ tìm ra:

“Trời cao xanh ngắt ô kia


Hai con hạc trắng bay về bồng lai”

- Đó cũng không phải là buổi xuân chiều vắng của Anh Thơ:

Mưa đồ bụi êm êm trên bến vắng


Đồ biếng lười nằm mặc nước trôi sông
Quảng tranh đứng im lim trong bến lặng
Bên chòm xoan hao tim rụng tơi bời.

- Điểm nhắn của mùa xuân trong khổ thơ được miêu tả ở câu thơ mới nhất: “và này đây ánh sáng chớp
hàng mi” – “ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Với cái nhìn của một nhà thơ mới, ánh sáng của
đất trời buổi bình minh được ví như cái chớp mi thẹn thùng của người thiếu nữ mang vẻ đẹp trong trẻo
buổi ban sơ. Độc đáo nhất là Xuân Diệu so sánh “tháng giêng” với “cặp môi gần”. Tháng giêng là mùa
xuân, là khởi đầu cho một năm, nó gợi vị thanh tân của cuộc sống. Lấy “cặp môi gần” là hình ảnh hữu
hình mang vẻ đẹp của người thiếu nữ, lấy “tháng giêng” là biểu hiện của thời gian, của cái vô hình để so
sánh thì quả là táo bạo và bất ngờ. Như thế, hoa trái và hương sắc của mùa xuân đã đóng dấu vào thời
gian. Xuân đã trở thành tình nhân trong tấm lòng rộng mở của người tình và thi sĩ. Xuân Diệu đã cảm
nhận thiên nhiên qua vóc dáng của người thiếu nữ. Mùa xuân không chỉ đẹp mà còn quyến rũ rạo rực
xuân tình. Cái nhìn ấy đã trẻ hóa thời gian cũ kĩ, già nua này. Câu thơ được xem là câu thơ hay nhất
trong thi phẩm “Vội vàng”. Và đó cũng là những câu thơ mới nhất của Xuân Diệu, làm nên một thời đại
trong thi ca. Với những vần thơ ấy, Xuân đã làm tròn ý nghĩa về hình thức nghệ thuật trong văn chương,
theo Tô Hoài quan niệm: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo, hạt ngọc ấy phải là hạt
ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cánh văn chương của mình mà có...” Như thế, với Xuân
Diệu, thời gian này đẹp mê hồn nhất vì có con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Ta biết thơ xưa thường
lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người “phù dung như diện liều như mi”. Đến Thúy
Kiều, Nguyễn Du cũng viết:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”.
- Xuân Diệu đã đưa ra tiêu chuẩn khác với văn học xưa khi lấy con người giữa tuổi trẻ là chuẩn mực, là
thước đo thẩm mỹ của vũ trụ, là kiểu mẫu của muôn loài. Đó là ý nghĩa nhân bản tiến bộ trong quan
niệm thẩm mỹ của Xuân Diệu.

Nội dung 3. Quan niệm nhân sinh về thời gian và tuổi trẻ, niềm khao khát được sống mãnh liệt, sống ý
nghĩa, sống hết mình với mùa xuân, thời gian và cuộc đời.

- Đỗ Lai Thủy đã gọi Xuân Diệu là “Nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian”. Hơn một lần thi sĩ từng giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi. Tinh non sắp già rồi
- Cũng bởi thế dù đang đắm mình vào thiên nhiên ông bỗng giật mình và thốt lên sự tiếc nuối:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân hoài xuân”.
- Câu thơ có hai tâm trạng, bởi sự ngăn cách của dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ như bị ngăn cách làm
đôi. Đó là cách ngắt nhịp chịu ảnh hưởng của thơ tượng trung Pháp. Câu thơ đặc tả hai chiều tâm trạng
của tác giả, phân tách nhà thơ thành hai nửa: sung sướng và vội vàng. Trong đó tâm trạng sung sướng là
tâm trạng hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, cười vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm thiết tha, trìu mến,
gắn bó; Còn vội vàng là tả tâm trạng tiếc nuối bởi nhà thơ sợ tuổi trẻ qua đi tuổi già sắp đến. Vì thế dù
đang sống trong mùa xuân nhưng thi sĩ cảm thấy tiếc nuối nó. Câu thơ sau mang hình ảnh ẩn dụ: “nắng
hạ” tượng trưng cho những năm tháng sau này. Nhà thơ không đợi những con mưa rào mùa hạ đến rồi
mới nhớ đến mưa phùn lất phất của mùa xuân. Ông tiếc mùa xuân, những năm tháng trẻ trung căng tràn
sự sống ngay khi nó còn đang diễn ra. Hai câu thơ chính là nỗi buồn, sự hụt hẫng của con người biết quý
trọng thời gian, thấy sự trôi chảy của dòng đời. Đây cũng chính là con người đưa ra quan niệm sống vội
vàng, sống cuống quýt, chạy đua với thời gian, trân trọng và giữ gìn từng phút từng giây cuộc đời quý
giá.
- “Thời gian và vàng là ngọc”, thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu vút qua cửa sổ, như nước chảy
qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Dù xuân có đẹp đến đâu đi chăng nữa, xuân chỉ là một trong
bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nên xuân mang
trong nó tính thời gian, mang ý nghĩa trôi chảy:
Xuân đang tới nghĩa là xuân sẽ qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất những chẳng còn tôi mãi.
- Nếu con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với
quan niệm “thời- gian- tuần- hoàn”, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày
của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất pháp ban đầu. Con người hiện đại lại lấy
sinh mệnh cá thể làm thước đo chuẩn mực cho thời gian. Nên họ sống với quan niệm “thời- gian- tuyến-
tinh”. Thời gian như một dòng chảy vô thủy vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh
viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
“ Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”.
- Vũ trụ vẫn chuyển động như vỗn dĩ nó tồn tại, thời gian vẫn trôi, cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn như quy
luật khắc nghiệt của tạo hóa. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân sâu sắc, nhà thơ cảm nhận hơn ai hết một
sự thật đáng buồn: Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, ngày
hôm nay đã khác hôm qua, huống chi năm này với năm khác, nàng xuân thi trưởng sinh còn tuổi trẻ mỗi
người đều có giới hạn. Nhà thơ lấy mùa xuân, tuổi trẻ làm thước đo cho cuộc đời mỗi con người. Tuổi
trẻ là khoảng thời gian quý giá nhất, nhưng sao khắc nghiệt quá, nó vô cũng ngắn ngủi. Đời người và
tuổi xuân được đặt trong mối quan hệ với không gian, thời gian mênh mông vĩnh hằng: “Mà xuân hết
nghĩa là tôi cũng mất” cho nên lại càng ngắn ngủi, hữu hạn biết bao nhiêu. Khát khao của người nghệ sĩ
càng lớn lao thì giới hạn của kiếp người lại càng trở nên ngắn ngủi, chật chội. Đến đây cái vui rạo rực
trong xúc cảm khao khát dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một nỗi u buồn, một nỗi niềm tiếc nuối
khôn nguôi đối với cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này: Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi, nên
bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
- Và phải chăng bởi quá nhạy cảm, Xuân Diệu cảm nhận cuộc sống nơi “vườn trần” đều ít nhiều mang “bi
kịch” về thời gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vần than thắm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá viếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ dộ phai tàn sắp sửa”
- Thi sĩ thấy thời gian như cơn gió bay thật nhanh, lướt qua vạn vật. Lúc tạo vật ở độ càng mọng nhất,
cũng là khi đối diện với sự tàn phai hủy diệt đến ám ảnh của bánh xe thời gian. Tất cả đều bất ngờ, hụt
hẫng, tiếc nuối, thảng thốt. Thời gian có mùi, có vị chia phôi. Mỗi khoảnh khắc trôi qua như đều đang từ
giã bản thân mình. Cho nên cả trời đất, núi sông dâng lên một âm thanh duy nhất: âm thanh của sự chia
li. Vạn vật thở than ngậm ngùi đưa tiễn phần đời của chính nó. Thời gian được cảm nhận bằng khứu
giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn
“buộc gió lại” ư – hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai nhạt phôi pha! Một chữ “rớm” cho thấy
khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ đang rơm rớm tước sự phai
phôi. Nó như cứa vào da thịt con người khi không níu giữ được thời gian. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy
cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi”! Thì ra
chữ “rớm” và chữ “vị” đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thành
hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Thi sĩ cảm thấy thật hiền hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại
để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi
như thế, thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia
lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền
miên bất tận: “than thầm tiễn biệt”. Không gian đang tiễn biệt thời gian! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho
cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi.
- Không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế
nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sống. Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Với cách
ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
“Chẳng bao giờ! Ôi chằng bao gì nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
- Chính vì sự nghiệt ngã của thời gian nên Xuân Diệu mới hối hả, cuống quýt, giục giã sống nhanh, sống
gấp. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì thế nhà thơ
“giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, vội vàng lên để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “Mùa
chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, xuân chưa già: “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”.
Nội dung 4: Khát vọng cuống quýt, giục giã, gấp gáp, tràn đầy cảm xúc dâng trào.
- Nhà văn Raxun Gamatop từng nói: “... giống như ngọn lửa bùng lên từ những cây củi khô, tài năng cũng
được nuôi dưỡng bằng những tình cảm mạnh mẽ của con người- bằng tình yêu và lòng căm thù; thơ sinh
ra từ nụ cười trong sáng hay từ giọt nước mắt cay đắng.” Và có lẽ, những vần thơ trong “Vội vàng”
được thêu dệt bởi những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập.
Nếu ở khổ đầu, tác giả thể hiện khát vọng không tưởng thì đến đây, một lần nữa là những tâm tình của
một trái tim yêu đời, ham sống:
“Ta muốn ôm:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa gió và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng.
Cho chếch choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Dường như ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ
ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, nó giao thoa, nó song hành tạo thành những
đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc và ngưng đọng ở đó mãi không thôi! Nếu như ở câu thơ đầu thi
phẩm, tác giả xưng tôi để đối thoại với đồng loại thì đến đoạn thơ này, tác giả xưng “ta” để đối thoại với
vũ trụ, đất trời. Ba chữ “ta muốn ôm” như phơi bày hết sự ham hố và cuồng nhiệt của Xuân Diệu với
cuộc sống trần thế. Câu thơ ngắn chỉ có ba tiếng những đã khắc họa được hình ảnh một con người vững
chãi đang đứng giữa đất trời, đang dang rộng vòng tay của mình để ôm lấy sự sống mơn mởn vào lòng.
Cái “ta” của Xuân Diệu trong câu thơ không phải là cái tôi phi ngã trong văn học trung đại, mà là cái ta
của chủ thể trữ tình, tự tin, kiêu hãnh, đang hừng hực sức sống... đang đối diện với cuộc đời và đất trời.
Câu thơ đã thể hiện được một cái tôi ý thức về giá trị cá nhân trong một tâm thế vội vàng, tích cực,
cuồng nhiệt.
- Liền ngay sau câu thơ “Ta muốn ôm”, Xuân Diệu thể hiện cái tươi non của một sự sống mơn mởn. Đó là
những câu thơ mạnh bạo, giục giã, tràn đầy nỗi yêu. Bằng một tấm lòng yêu cuộc sống đắm say nồng
nàn, Xuân Diệu đã đưa người đọc vào một thế giới ăm sắp sự sống, biêng biếc sắc màu, với những hình
ảnh tình tứ đang ở độ thanh xuân: mây đưa, gió lượn, cánh bướm với tình yêu, non nước, cây cỏ, mùi
thơm, ánh sáng, thanh sắc của thời tươi... Một lần nữa, Xuân Diệu lại dựng lại bức tranh đang ở độ xuân
tình, ứa tràn sự sống. Trong đôi mắt của kẻ si tình, thiên nhiên một lần nữa được phong tình hóa, trữ tình
hóa trở nên rạo rực, đắm say. Nhà thơ muốn tận hưởng cuộc sống đó ở nhiều cấp độ: “ôm, riết, say,
thâu, cắn” với nhiều cảm giác “chếnh choáng, no nê”. Thi nhân huy động mọi giác quan để cảm nhận
cuộc sống, thẩm hút vị ngọt thiên nhiên ở nhiều cấp độ. Xuân Diệu như đang căng trái tim ra để thấy hết
vẻ đẹp đất trời, như một tình nhân của vũ trụ.
- Một đoạn thơ ngắn có sáu câu mà có tới năm từ “ta muốn” được lặp đi lặp lại như nhịp điệu hối hả, gấp
gáp của thi nhân, chứng tỏ Xuân Diệu rất nồng nhiệt, rất cuống quýt như muốn cùng lúc ra tay ôm trọn
hết tất cả vũ trụ, cả cuộc đời, cả mùa xuân, thiên nhiên, đất trời vào lòng mình. Sự sống như thế mới là
sống, mới đi đến niềm tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “ta muốn” còn muốn nói lên
cái ham muốn thèm khát của nhà thơ, điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến giúp Xuân Diệu nhận ra cuộc
đời mùa xuân như một cái gì đó quý nhất, trọn vẹn như một trái tim đỏ hồng, chín mọng, thơm mát ngọt
ngào, xuân hồng để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát.
- Câu thơ cuối mang một vẻ đẹp độc đáo: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Câu thơ giao thoa hai
vẻ đẹp: Một vẻ đẹp thuộc về cuộc sống mơn mởn, tròn căng như trái xuân hồng và một vẻ đẹp thuộc về
của tình yêu từ ước vọng. Nhà thơ muốn “cắn” vào trái đời ngọt lịm ất để tận hưởng cuộc sống hết mình.
Câu thơ cuối thể hiện quan niệm thẩm mí mới mẻ của Xuân Diệu. Mùa xuân như có hình của sắc, như
môi má người thiếu nữ. Xuân Diệu đã cảm nhận thiên nhiên như vóc dàng của một người thiếu nữ. Mùa
xuân không chỉ đẹp mà còn quyến rũ, rạo rực xuân tình. Như thế, Xuân Diệu nhìn thế giới này đẹp nhất
vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ, tình yêu, trở thành chuẩn mực, thước đo của vũ trụ, kiểu mẫu
của nhân loại. Đó là ý nghĩa tiến bộ nhân bản trong quan niệm thẩm mĩ của Xuân Diệu.
- Như vật, “Vội vàng” là lời giục giã thế hệ trẻ sống vội vàng, sống cuống quýt để hưởng thụ hết những gì
đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Bởi tuổi trẻ của mỗi người chỉ đến một lần duy nhất và thời gian thì không
đứng yên để đợi một ai cả. Nó sẽ trôi đi và người ta sẽ mất nó vĩnh viễn. Đồng thời, bài thơ đã thể hiện
lòng ham sống mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, rất hiện đại cùng với một quan niệm sống rất mới mẻ về
thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc. Cái tôi trong thơ Xuân DIệu là cái tội tiêu biểu của thời đại thơ mới,
cũng là dấu mốc cho sự thắng thế hoàn toàn của thơ mới trên thi đàn văn học lúc bấy giờ.
- “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo.
Hạt ngọc mới nhất của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có”. (Tô Hoài). Những vần thơ
trong “Vội vàng” được kết tinh từ trái tim, nỗi lòng của nhà thơ và chúng không thể được viết nên một
cách trọn vẹn nếu thiếu đi nghệ thuật độc đáo. Bài thơ có cách liên tưởng, so sánh mới lạ với những hình
ảnh thơ độc đáo, giàu sức gợi cảm, gợi hình: “Tháng giêng ngon, Mùi tháng năm...”. Thủ pháp ẩn dụ
chuyển đổi cảm giác để người thi sĩ có thể cảm nhận mùa xuân, cái đẹp của thiên nhiên đất trời bằng tất
cả các giác quan. Đó chính là cách sống hết mình, tận hưởng hết mình, giao hòa với thiên nhiên của
Xuân Diệu. Một loạt những hình ảnh nhân hóa, biện pháp điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc và các động từ
mạnh đã tạo ra nhịp điệu cuống quýt, hối hả, rộn rã khiến cho bài thơ mang âm hưởng như một lời hiệu
triệu, một sự giục giã của Xuân Diệu với những con người trẻ.
- Hoa nở rồi hoa sẽ tàn, gió đến rồi gió lại đi, xuân tới rồi xuân sẽ qua, nụ hồn thắm sẽ có ngày phôi phai.
Lớp bụi thời gian rồi cũng sẽ xóa mờ đi tất cả, để lại hoài niệm, tiếc nuối trong ta. Duy chỉ có những vần
thơ kia mãi xanh, còn mãi với đời. Xuân Diệu đã viết “Vội vàng” như một dòng tâm tình đầy sâu sắc,
thấm đẫm ngọt ngào nhưng cũng đầy sâu xa. Ông đã cùng bài thơ lưu lại những khoảnh khắc đẹp nhất
của trần gian, những ước muốn cháy bỏng của một đời người, để rồi mỗi khi đọc bài thơ, ta vẫn còn thấy
đó lời giục giã: Hãy yêu đời, hãy sống hết mình khi còn có thể để cuộc đời không còn là những tiếc nuối
mà đầy ắp niềm vui và hạnh phúc.

You might also like