You are on page 1of 4

VỘI VÀNG

Thời đại thơ Mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo bạo của nền thơ ca Việt Nam. Khi ấy, thơ văn
khoác lên cho mình một chiếc áo được cách tân đầy mới mẻ, là mảnh đất vô cùng màu mỡ đã vun
trồng biết bao hồn thơ độc đáo như: Tản Đà, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử hay Xuân Diệu. Nếu Tản Đà được
biết đến là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì
Xuân Diệu lại là người đã đưa những khúc nhạc ấy đến một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả. Bài
thơ “Vội vàng” – một thi phẩm tiêu biểu cho một phong cách thơ được cách tân rất mới mẻ về cả nội
dung và hình thức của Xuân Diệu, bài thơ thể hiện quan niệm sống, niềm ham sống, khao khát sống
và tận hưởng đến vô biên của thi nhân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợp tắt
Còn hơn buồn lẻ loi suốt trăm năm”
Đặc biệt trong mười ba câu thơ đầu, thiên đường mùa xuân sức sống, một mùa xuân của tình yêu, tuổi
trẻ, một mùa xuân thể hiện đậm nét nhất phong cách thơ, hồn thơ Xuân Diệu đã được tái hiện trước
mắt độc giả:
Tôi muốn tắt nắng đi

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới” (Hoài Thanh), Xuân Diệu là tiếng thơ
thể hiện tập trung nhất ý thức sâu sắc của cái tôi cá nhân, cá thể, cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy
đua với thời gian luôn khao khát tình yêu, cuộc sống :
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào.
Bài thơ Vội vàng được trích trong tập Thơ thơ (1938) là một trong những thi phẩm thể hiện đầy đủ
nhất chất thơ Xuân Diệu. Với mười ba dòng mở đầu, con sóng tình Xuân Diệu đã dâng lên mãnh liệt
thiết tha – một thứ tình đặc biệt rất riêng của nhà thơ dành cho cuộc sống, con người. Nếu như bốn
câu đầu là niềm khát khao mãnh liệt được níu giữ cuộc sống thì chín câu tiếp theo là tình yêu dạt dào
bức tranh thiên đường trên mặt đất. Bài thơ kết lại với niềm nuối tiếc, xót xa trước sự trôi chảy của
thời gian.
Chỉ mới là khúc dạo, bản giao hưởng tình yêu của Xuân Diệu đã làm đắm say và nhiều xót xa :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Đó là những ước muốn thật táo bạo: “tắt nắng”, “buộc gió”, để giữ lại khoảnh khắc cuộc đời bừng sắc
lên hương. “Tắt nắng, buộc gió” thể hiện một niềm mong ước tước quyền tạo hoá để định đoạt lại thời
gian. Điệp từ “tôi muốn” không chỉ nhấn mạnh cái khát khao cháy bỏng, da diết ấy mà còn thể hiện
một sự quyết liệt rất Xuân Diệu, thể hiện ý thức mạnh mẽ muốn chặn đứng bước chân thời gian. Xuân
Diệu có khát vọng hướng tới cái không thể, khát vọng chiếm đoạt quyền của tạo hóa để níu giữ vẻ đẹp
đất trời. Ông sợ gió cuốn đi hương thơm ngào ngạt, sợ nắng làm nhạt mất màu xuân sắc. Ước muốn
níu giữ thời gian, chặn vòng quy luật của vũ trụ, đảo ngược quy luật thiên nhiên là một điều phi lý bởi
ngay nhà thơ Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào quy luật của tạo hóa:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhưng đối với Xuân Diệu, ông muốn chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa để giữ cho vẻ đẹp trần gian
mãi mãi mang sắc xuân. Dù có là ước muốn viển vông và phi lí đi chăng nữa thì nó vẫn có cái đáng
yêu của một tâm hồn lãng mạn, luôn thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống. Dường như với ông, cuộc sống
là cả một hạnh phúc lớn lao, kì diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Cùng với thể thơ ngũ ngôn,
nhịp thơ nhanh, gấp gáp thể hiện sự hối hả, cuống quýt của nhà thơ từng khao khát :
Thà một chút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
(Giục giã)
Đấy là một cái tôi Xuân Diệu luôn khao khát sống hết mình để được tận hưởng cuộc sống, tình yêu.
Chín câu tiếp theo là một bức tranh được vẽ bằng cái “thần” của mùa xuân, bằng tâm hồn của người
nghệ sĩ và bằng nét bút chấm phá tuyệt diệu :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật ;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất Của yến anh này đây khúc tình si ;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp mối gần
Nhà thơ Thế Lữ đã từng nói: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình
bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” cũng bởi vậy
mà ông đã cảm nhận về mùa xuân bằng tất cả sự tinh tế nhất của tâm hồn. Thiên đường trên mặt đất
vừa như một mảnh vườn tình ái vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với thực đơn
quyến rũ. Nếu như những nhà thơ lãng mạn chỉ muốn sống một cuộc sống nơi thoát khỏi nơi trần thế,
trốn khỏi cõi hư vô hão huyền, bồng lai tiên cảnh như Chế Lan Viên hay Thế Lữ từng viết:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”
(Những sợi tơ lòng – Chế Lan Viên)
“Trời cao xanh ngắt. Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai”
(Tiếng sáo Thiên Thai – Thế Lữ)
thì Xuân Diệu đã “Đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Lầu thơ của ông được xây dựng trên
mặt đất bằng một tấm lòng trần gian. Bức tranh hội tụ đầy đủ hương thơm, ánh sáng, màu sắc, âm
thanh. Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp: “ong bướm” – “tuần trăng mật”, “hoa” – “đồng nội xanh
rì”, “lá”– “cành tơ phơ phất”, “yến anh” – “khúc tình si”. Xuân Diệu đã dựng lên một bức tranh thiên
nhiên với những vẻ đẹp rất cụ thể, chúng được liệt kê bằng hàng loạt tình tứ đậm nhạt khác nhau cùng
cách ngắt nhịp đầy linh hoạt, biến hóa. Nếu các thi nhân xưa thường chỉ sử dụng thị giác để cảm nhận
vẻ đẹp của ngoại giới thì các nhà thơ mới trong đó có Xuân Diệu lại huy động tất cả những giác quan
để cảm nhận cảnh vật đất trời lúc sang xuân. Có lẽ do ảnh hưởng từ thơ ca Phương Tây, Xuân Diệu đã
sáng tạo ra những hình ảnh mới lạ in đậm phong cách nhà thơ. Trong cảnh ấy có hình ảnh “tuần tháng
mật” của loài ong bướm, chúng say mê trong mùa hoa tựa như con người đang chìm đắm trong niềm
hạnh phúc ban đầu. Ở đấy có hình ảnh “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ” gợi sức sống mới trẻ
trung, phơi phới, hứa hẹn một mùa trái chín. Nếu như thi ca Trung Đại xưa luôn lấy thiên nhiên làm
tiêu chuẩn cho vẻ đẹp con người thì nay lầu son gác tía của thi pháp Trung Đại đã bị phá vỡ, chao đảo
nói như nhà thơ Lưu Trọng Lư: “Các cụ ta ưa cái màu đỏ choét, ta lại ưa những màu xanh nhạt…cái
cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà đúng ngọ. Nhìn một cô gái xinh
xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi, ta tì ta cho là mát mẻ như đứng trước một cánh
đồng xanh mướt. Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn
trạng: cái tình say đắm, cái tình thoảng qua, cái tình gần gũi, cái tình xa xôi… cái tình trong giây phút,
cái tình ngàn thu…” Và Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đã phá vỡ tính quy phạm ấy qua hình
ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”. Những tia nắng xuân bừng sáng tựa như cặp mắt của thiếu nữ đang
chớp dưới hàng mi dày thật quyến rũ. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật nguồn nhựa sống mang
đến cho bức tranh thiên nhiên năng lượng tràn trề, thế mới hiểu những khao khát của Xuân Diệu hoàn
toàn đúng đắn. Đặc biệt, qua điệp từ “này đây” được nhắc lại đến 5 lần khiến những câu thơ giống
như một chuỗi tiếng reo vui của tác giả khi phát hiện ra thiên đường trên mặt đất. Giống như
Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở
cái đẹp”, Xuân Diệu cũng vậy, với sự say mê và thích thú, ông đã biến thành một hướng dẫn viên du
lịch đắm chìm trong những lời giới thiệu để chào mời mọi người đến tận hưởng nơi đây. Bằng giọng
thơ mượt mà, êm dịu như một cánh hồng nhung, thiên đường trên mặt đất của Xuân Diệu không phải
là thế giới xa xăm, lạ lẫm mà là những điều thân quen ở quanh ta khi mùa xuân đến. Vẻ đẹp ấy được
nhìn qua cặp mắt “non xanh, biếc rờn” và được sàng lọc qua tình yêu của người nghệ sĩ mang tình yêu
thiên nhiên, cuộc sống đến cháy bỏng. Được xem là: “Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
(Hoài Thanh) nên Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng hai câu thơ đầy gợi cảm:
“Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Những ánh nắng sớm của buổi bình minh vừa tựa như “hàng mi” trong cái chớp mắt kì diệu của ban
mai, vừa như những ngón tay vươn dài gõ vào cánh cửa mỗi nhà, ban phát hạnh phúc cho mỗi người.
Cuộc sống bỗng trở thành một chuỗi hạnh phúc bất tận. Bình minh vụt trở thành một giai nhân tràn
đầy sức sống với vẻ đẹp diễm lệ, kiêu sa. Chỉ có trong thơ Xuân Diệu, những sự vật, hình ảnh quen
thuộc ấy mới được tái sinh, rạo rực thanh tân như thế. Đúng là một thiên đường nơi trần thế.
Nhưng với Xuân Diệu, cuộc đời chỉ thực sự đẹp khi có sự hiện diện của con người trong tuổi trẻ,
trong tình yêu. Xuân đã gắn với tình làm nên câu thơ táo bạo nhất của thi sĩ :
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Trước Xuân Diệu, chưa ai diễn tả hình ảnh thiên nhiên như vậy. Câu thơ ánh lên bao vẻ đẹp. “Tháng
giêng” là mùa xuân, là sự khởi nguồn của năm mới, gợi sự thanh tân của cuộc sống. “Cặp môi gần”
gợi ta nhớ đến cặp môi hồng, chín mọng của thiếu nữ đang hé mở. Mùa xuân bỗng trở thành một giai
nhân tuyệt mĩ. Phép so sánh tháng giêng như một cặp môi gần thật độc đáo, làm mùa xuân thành
nàng xuân nồng nàn, gợi cảm, đầy mời mọc, quyến rũ.
Thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cái đẹp của con người : “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
(Nguyễn Du, Truyện Kiều). Còn Xuân Diệu làm ngược lại : lấy con người làm chuẩn mực, làm thước
đo cho cái đẹp tạo hoá. Đó là một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, hiện đại. Chữ “ngon” trong câu thơ
mang rõ nhất cảm hứng thơ, cá tính thơ độc đáo của Xuân Diệu. Đó là phép ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác độc đáo. Lần đầu tiên trong thơ Việt, tình yêu được vị giác hoá, được cảm thụ một cách nhục
cảm, qua giác quan. Đó là một đóng góp đáng kể trong quá trình phát triển tư duy thơ Việt.

Sóng Hồng đã từng tâm đắc “Thơ ca là viên kiêm cương lấp lánh dưới ánh mặt trời”. Thật vậy, Vội
vàng đã trở thành viên kim cương rực rỡ trong lòng bạn đọc. Với những so sánh, nhân hóa, phép ẩn
dụ chuyển đổi cảm giác, những phép điệp tinh tế trong cả ngữ âm và tự vựng, những từ ngữ hình ảnh
giàu sức biểu cảm, đoạn thơ đã vẽ nên hình ảnh cuộc đời tràn đấy hương thơm, màu sắc, âm thanh và
nhất là niềm vui sống đầy quyến rũ. Đó là thiên đường ngay trên mặt đất, trong hiện tại, là bữa tiệc
trần gian ngay trên mặt đất này chứ không phải ở một cõi xa xăm nào khác. Và đó chính là nguyên
nhân cho niềm yêu đời mê đắm của thi nhân
Bài thơ đã khép lại với những hình ảnh độc đáo mới lạ, dư âm của “thiết tha, rạo rực” mà Xuân Diệu
mang đến dường như vẫn chảy trong lòng người. Tình yêu nồng nàn, say đắm kia dù có những lúc sôi
nổi lại có cả những lúc băn khoăn nhưng đều khởi nguồn từ một tấm lòng trần gian muốn lưu luyến
cõi đời của Xuân Diệu. Xuân Diệu là thế ! Ta yêu “cái dáng yêu kiều, cái cốt cách phong nhã” của
hồn thơ Xuân Diệu. Đến với Xuân Diệu, ta không chỉ cảm nhận được cái tinh vi ngưng đọng trên từng
câu chữ mà còn có một thứ gì của Xuân Diệu mà ta rất đỗi nâng niu. Phải chăng chính là cái nhựa
sống không bao giờ cạn khô của ông ? Hay là cái vẻ đẹp tràn đầy của thiên nhiên trong thơ ông ?
Xuân Diệu đã xây lầu thơ ngay trên mặt đất bằng một tâm hồn luôn rộng mở – một hồn thơ níu kéo
lấy con người, bám riết lấy cuộc đời. Hồn thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dạt dào chưa từng thấy ở
chốn nước non lặng lẽ này” với một phong cách không thể trùng lặp, và Xuân Diệu còn là “một người
thợ dẻo dai khiến ta ngạc nhiên với sự cần mẫn trong nghệ thuật". Ngay từ đầu, nó đã hoà lẫn vào
nhau và tạo nên một hồn thơ Xuân Diệu độc đáo...!

You might also like