You are on page 1of 12

Cảm nhận 13 câu đầu

Tôi muốn tắt nắng đi


Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;


Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

I. Mở bài:
Xuân Diệu là nhà thơ khát khao giao cảm mãnh liệt với đời, yêu đời tha thiết. Ở các sáng
của thi nhân ta đều có thể cảm nhận được điều đó. Vì thế mà trong “Thi nhân Việt Nam”
Hoài Thanh đã nhận xét: “Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa tùng có ở chốn
nước non lặng lẽ này”. Quả thật vậy! Bài thơ Vội vàng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ
Xuân Diệu, đặc biệt là 13 câu đầu thi nhân đã thể hiện lòng yêu đời qua việc cảm nhận
một thiên đường nơi trần thế:
Tôi muốn tắt nắng đi
……………………..
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
II Thân bàii:
Vội vàng được in trong tập thơ đầu tay: Thơ thơ (1938 ), một trong những bài thơ tiêu
biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu đã thể
hiện một ước muốn kì lạ đến ngông cuồng:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
- Nắng và gió là hiện tượng tự nhiên, của tạo hóa. Vì vậy “tắt nắng”, “buộc gió” là những
ước muốn kỳ lạ, táo bạo và có phần ngông cuồng của thi nhân.
- Thi nhân muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để làm gì? Mục đích là để “cho màu đừng
nhạt mất”, “cho hương đừng bay đi”. Đó chính là hương và sắc của cuộc đời – hai yếu
tố cấu thành làm nên cuộc sống tươi đẹp. Nhà thơ muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái
đẹp mãi mãi lên hương tỏa sắc giữa cuộc đời này.
- Thực chất đằng sau ước muốn ấy là sự sợ hãi thời gian trôi chảy, muốn níu giữ thời
gian. Vì thời gian trôi đi hương sắc sẽ phai tàn. Niềm ước muốn mang một vẻ đẹp nhân
văn của một tâm hồn nghệ sỹ.
- Điệp ngữ “tôi muốn” bộc lộ sự khát khao mãnh liệt của cái tôi cá nhân khao khát giao
cảm và yêu đời thiết tha. Thể thơ ngũ ngôn ngắn gọn, rõ ràng như lời khẳng định.
- Sở dĩ có khát vọng kỳ lạ đó là bởi lẽ dưới con mắt của thi sỹ mùa xuân đầy sức hấp
dẫn và quyến rũ, cuộc sống như một vườn địa đàng:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
….
Của yến anh này đây khúc tình si
- Các câu thơ kéo dài thành tám chữ để dễ dàng vẽ bức tranh cuộc sống thiên đường
chính ngay trên mặt đất, ngay trong tầm tay mỗi chúng ta.
- Nói đến thiên đường, con người thường nghĩ ngay đến hình ảnh mùa xuân vĩnh cửu.
Xuân Diệu cũng thế. Thi nhân cảm nhận mùa xuân nơi thiên đường hạ giới với những
hình ảnh đầy sức gợi:
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
- Nói đến mùa xuân là nói đến các loài hoa rực rỡ và tràn ngập hương sắc, cỏ cây vạn
vật tràn trề nhựa sống “đồng nội xanh rì”, của độ xanh non mơn mởn, căng tràn sức
sống “lá của cành tơ phơ phất”.
- Mùa xuân thiên đường ấy không thể thiếu tuổi trẻ. Bởi đó là thời khắc thanh xuân đẹp
nhất đời người:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
- Tuổi trẻ được cảm nhận qua đôi mắt với hàng mi cong vút, bừng nở ra ánh sáng rực rỡ
“ánh sáng chớp hàng mi”, hay đó cũng là ánh mắt ngạc nhiên, si mê trước vườn xuân
nơi trần thế. Và tuổi trẻ còn gắn với niềm vui. Mỗi sáng thức giấc là một niềm vui mới.
Niềm vui được nhân cách hóa thành một vị thần ban phát hạnh phúc cho mọi người vào
lúc sáng sớm. Những hình ảnh nói về tuổi trẻ mang tính chất trẻ trung, tràn đầy sức
sống.
- Nói đến mùa xuân, tuổi trẻ là phải nói đến tình yêu – một xúc cảm tuyệt vời:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật…
Của yến anh này đây khúc tình si.
- Khi nói về hạnh phúc của tình yêu tuổi trẻ, nhà thơ sử dụng những hình ảnh đầy gợi
cảm và sáng tạo: tình yêu lãng mạn, lả lơi của loài “ong bướm”; cảm xúc ngọt ngào kéo
dài “tuần tháng mật” (cách nói sáng tạo “tuần trăng mật” của người phương Tây); tình
yêu là sự gắn kết, thủy chung của loài “yến anh” và chìm ngập trong nhạc khúc say đắm
của “khúc tình si”.
→ Thi sĩ đã tạo lên một bức tranh tràn đầy ánh sáng tinh khôi, đầy âm thanh tình tứ, rộn
ràng. Tất cả như đang ở độ xuân thì của nó. Ngây ngất giữa khu vườn mùa xuân, nhà
thơ hạnh phúc như đang lạc vào giữa vườn hồng. Hạnh phúc hơn thế nữa là những vẻ
đẹp ấy không phải ở chốn xa xăm , mộng ảo mà ngay chốn trần gian, mọi vật đều đang
sẵn sàng dâng hiến, mời chào, ban tặng cho nhà thơ.
- Điệp từ “này đây” và nhịp điệu liên tục cũng cho ta niềm hạnh phúc của thi nhân khi
chứng kiến và muốn phô bày ra tất cả cho mọi người thấy cảnh sắc và vẻ đẹp của khu
vườn. Những hình ảnh thơ tươi mới, xanh non, mơn mởn, cách diễn đạt giàu hình ảnh,
cảm xúc, mới lạ.
- Thiên nhiên qua con mắt cảm nhận của Xuân Diệu như đôi lứa đang yêu nhau quấn
quýt. Và táo bạo nhất là hình ảnh so sánh: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Hình ảnh so sánh vừa táo bạo nhưng đồng thời cũng thanh tân, trong sáng của nụ hôn
đôi lứa yêu nhau. Nếu như các nhà thơ xưa lấy vẻ đẹp thiên nhiên làm tiêu chuẩn, thước
đo cho vẻ đẹp con người: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần” (Nguyễn Du) thì với Xuân Diệu
ngược lại, vẻ đẹp của con người mới là tiêu chuẩn, là thước đo cho vẻ đẹp của thiên
nhiên.
- Thế nhưng không ai có thể sống mãi để tận hưởng mọi lạc thú, năm tháng chảy trôi,
tuổi xuân thì một đi không trở lại:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
- Tác giả sử dụng cấu trúc ngữ pháp hiện đại. Câu thơ gồm bảy âm tiết nhưng được
ngắt ra làm hai vế. Dấu chấm câu đặt giữa dòng bộc lộ hai trạng thái tâm lý trái ngược
nhau của Xuân Diệu: sung sướng và âu lo trước sự bào mòn của thời gian. Nhà thơ
nhận thức được rằng xuân vô cùng ngắn ngủi, thời gian vô cùng tàn nhẫn đối với sự
sống và con người. Cái thế giới này lộng lẫy nhất, ngon nhất ở độ xuân, còn con người
cũng chỉ hưởng thụ cái non kia khi còn trẻ, mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian
sẽ cướp đi hết thảy.
Nghệ thuật: Đoạn thơ với giọng điệu sôi nổi, sự kết hợp giữa mạch cảm xúc và luận lý;
cách nhìn cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ; Sử dụng ngôn từ;
nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.
III Kết bài:
Xuân Diệu là một hồn thơ yêu đời và tài hoa. Thi sĩ đã vẽ lên trong tâm tưởng người đọc
một bức tranh thiên nhiên nơi trần thế tuyệt đẹp. Đó chính là “nguồn sống dạt dào” mà
nhà thơ đã truyền cho mỗi chúng ta. Đọc thơ Xuân Diệu giúp ta có cái nhìn mới mẻ về
cuộc đời, cho ta niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Chính thế đã làm nên những giá trị
lớn lao trong thơ Xuân Diệu.
Cảm nhận đoạn thơ sau:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

I.Mở bài:
Thời gian trong vũ trụ này thì muôn đời vẫn thế. Chỉ có quan niệm của con người về thời
gian thì đổi thay. Sự đổi thay này có thể do trình độ nhận thức khoa học, ý thức triết học,
ý thức thẩm mĩ … của mỗi thời một khác. Trong bài thơ “Vội Vàng”, bài thơ tiêu biểu cho
hồn thơ Xuân Diệu, đặc biệt là phần 2 bài thơ, thi nhân đã đưa ra một quan niệm mới
của mình về thời gian, về tuổi trẻ:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
…………………………………………..
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
II.Thân bài:
Vội vàng được in trong tập thơ đầu tay: Thơ thơ (1938 ), một trong những bài thơ tiêu
biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. Đoạn thơ thuộc phần thứ hai bài
thơ, bộc lộ quan niệm của Xuân Diệu về thời gian, tuổi trẻ.
- Quan niệm cũ về thời gian mà Xuân Diệu muốn chống đối là “thời gian tuần hoàn”.
Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại
quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời
khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại” (Hồ Xuân
Hương). Xuân đi rồi xuân lại quay trở lại, một năm là một vòng tuần hoàn như thế. Quan
niệm “thời gian tuần hoàn” ấy xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh
vũ trụ để làm thước đo thời gian.
- Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm ấy bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm
chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”. Xuân Diệu lựa chọn cho mình một quan niệm khác: “thời
gian tuyến tính”. Nghĩa là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một
đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm “thời gian
tuyến tính” xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ, về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
- Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời
gian hữu hạn của cuộc đời mình (sinh mệnh cá thể) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ.
Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là
tuổi trẻ để làm thước đo:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
- Đoạn thơ sử dụng một hệ thống tương phản : xuân tới – xuân qua, xuân non – xuân già,
xuân hết – tôi mất, lòng rộng – trời chật… để khẳng định một chân lý: tuổi xuân không
bao giờ trở lại, thế giới luôn vận động. Dưới con mắt của một nhà thơ, Xuân Diệu nhận
thấy thời gian trôi qua thật nhanh, trong cái xuân tới ông đã thấy xuân qua, trong cái
xuân non đã thấy xuân già… Hệ thống tương phản ấy còn thể hiện một chân lý mà nhà
thơ phát hiện ra: sự đối lập giữa cái vô hạn của vũ trụ với cái hữu hạn của đời người.
Điệp từ “nghĩa là” được lặp đi lặp lại nhằm định nghĩa, giải thích, mang tính khẳng định
tất yếu quy luật của thiên nhiên.
- Trước quy luật tàn nhẫn của thời gian, khắp vạn vật trong vũ trụ đều lo lắng, sợ hãi:
năm tháng rớm vị chia ly, sông núi nhuốm màu tiễn biệt, con gió hờn vì phải bay đi, chim
chóc sợ độ phai tàn…:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc
trôi qua là một sự mất mát; đó chính là một phần đời trong sinh mệnh, cá thể đã mất đi
vĩnh viễn, thấm thía hơn là phần vô cùng đáng giá của tuổi trẻ mình đã mất đi vĩnh viễn.
Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một
cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian
được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thẫm
đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt.
- Nói thiên nhiên chính là để nói tới lòng người. Con người lo lắng, buồn bã, tiếc nuối khi
xuân qua. Đoạn thơ sử dụng hàng loạt biện pháp nhân hóa nhằm nói thiên nhiên là để
nói tới con người. Cấu trúc câu được sử dụng trong đoạn thơ là kết cấu câu phức: “Nói
làm chi… nếu… nhưng chẳng còn… nên…”; điệp ngữ: “phải chăng…” thể hiện sự lý lẽ,
biện minh về chân lý nhà thơ đã phát hiện ra.
- Kết thúc đoạn thơ bằng một tiếng than thở đầy tuyệt vọng trước sự trôi chảy thời gian
và đời người ngắn ngủi: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
- Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá
trị của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính
vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng
giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần
phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống
“Vội Vàng”.
Nghệ thuật: Quan niệm về thời gian, về tuổi trẻ được thể hiện qua một hình thức nghệ
thuật điêu luyện, sự kết hợp hài hòa giữa mạch cảm xúc với mạch luận lý, ngôn từ và
hình ảnh thơ mới mẻ.
III. Kết bài:
Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho
cuộc đời tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân
trọng của tư tưởng Xuân Diệu. Quả thật, với quan niệm trên về thời gian, tuổi trẻ, Xuân
Diệu đã thổi vào phong trào thơ mới một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, một
quan niệm sống mới mẻ và nhân văn.
Cảm nhận 13 câu đầu

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,


Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

I.Mở bài:
Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con
người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn
trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn,
phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian,
những thứ qúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Vì vậy trong khổ cuối Vội vàng -
bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu - in trong tập Thơ thơ, thi nhân giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
………………………………………..
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

I. Mở bài:
Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con
người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn
trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn,
phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian,
những thứ qúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Vì vậy trong khổ cuối Vội vàng -
bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu - in trong tập Thơ thơ, thi nhân giục giã:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
………………………………………..
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

II. Thân bài:


- Vội vàng được in trong tập thơ đầu tay: Thơ thơ (1938 ), một trong những bài thơ tiêu
biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám. Đoạn thơ thuộc phần cuối bài thơ,
bộc lộ quan niệm sống vội, sống tranh thủ thời gian của thi nhân.
- Thời gian cứ lạnh lùng, tàn nhẫn mang theo mọi vẻ đẹp của cỏ cây, hoa lá lẫn với tiếng
chim trời cùng tuổi trẻ ra đi để cho lòng tiếc nuối. Vì thế Xuân Diệu giục giã:
Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm.
Nhà thơ hối thúc vì nhận ra vẫn còn kịp để tận hưởng hạnh phúc của mùa xuân, tuổi trẻ.
Trong bài thơ Giục giã thi nhân viết: “Mau với chứ, vội vàng lên với chứ - Em, em ơi, tình
non đã già rồi”.
- Đang từ những câu thơ 8 chữ, bỗng rút ngắn lại với câu thơ 3 chữ: “Ta muốn
ôm” - câu ngắn nhất trong toàn bài thơ, đặt ở giữa dòng, làm cho giọng thơ đanh lại,
rắn chắc như một mệnh lệnh đòi hỏi hiện thực hoá những khát vọng. Nếu như ở đầu bài
thơ, thi nhân xưng tôi thể hiện cái tôi cá nhân với nghĩa tuyệt đối của nó, thì đến khổ này,
Xuân Diệu chuyển thành “Ta”. Ở đây là “cái tôi” đầy kiêu hãnh của thi nhân như muốn
hòa nhập đồng điệu trong tâm hồn nhà thơ, mang tính phổ quát, đồng thời cũng là cái tôi
của mỗi con người chúng ta. Bởi ai mà chẳng có nỗi niềm khát khao như khao khát của
nhi nhân. Mỗi người đọc hãy cảm nhận lấy khát vọng của mình trong cái “ta” ấy. Ai mà
chẳng muốn ôm giữ lấy những vẻ đẹp non tươi của cuộc sống đang diễn ra quanh mình:
từ cái mơn mởn của một nụ hoa xuân hoặc một nụ đời và tất cả những sự sống đang
bắt đầu hé nhú: “Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, để nó khỏi trôi đi.
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng
chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên
sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận
để khẳng định niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân
Diệu.
- Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm - muốn
riết - muốn say - muốn thâu - muốn cắn thể hiện tâm trạng si mê đến cuồng nhiệt. Nghĩa
là dang tay vòng “ôm” thôi chưa đủ mà phải “riết” cho chặt cả những thứ không thể
ôm.. “Ôm” rồi “riết”, dù có chặt đến mấy đi nữa thì vẫn chỉ ở bên ngoài nên còn đòi hỏi
phải “say” cho đến tận hồn. Nhưng cho dù say đến mấy đi nữa thì vẫn còn là mối quan
hệ giữa khách thể và chủ thể. Nên cần phải “thâu tóm” mọi vẻ đẹp kia về phía mình,
chiếm đoạt làm của riêng. “Cái hôn nhiều” ở đây, muốn nói về độ dài của thời gian. “Cái
hôn” không phải là mục đích mà chỉ là một phương tiện để thu hút lấy tất cả mọi hương
sắc. Mọi thần khí, thần hồn về phía mình cho thỏa mãn.
- Trong một câu thơ mà có đến ba hư từ “và”, cách hành văn rất Tây: “Và non nước, và
cây, và cỏ rạng” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng
lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với
Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là
có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng
cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”.
- Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một
cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để
cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim
nồng cháy của Xuân Diệu. “Xuân hồng” là mùa xuân đương độ với hoa lá măng tơ đầy
hương sắc. “Xuân hồng” cũng có thể là hình ảnh biểu trưng cho tuổi trẻ và cũng có thể
là một dáng Xuân đời. “Cắn vào ngươi”, tưởng như thô thiển mà lại đầy chất thơ. Đó chỉ
là cách nói về sự hưởng thụ cả tinh thần lẫn vật chất đến mức cuồng nhiệt. Đến với hoa
xuân đừng đứng ở bên ngoài, xin hãy vào giữa vườn xuân cho hương sắc tràn đầy mọi
giác quan của ta.
Với tuổi trẻ cũng vậy, xin đừng chỉ nhìn ngắm gương mặt tuổi trẻ của chính mình ở trong
gương mà hãy biến nó thành sức mạnh, thành giá trị vật chất để làm cho đời thêm ý
nghĩa. Đây cũng không chỉ là ham muốn hưởng thụ mà còn là nỗi buồn, là sự hoảng hốt
trước sự ra đi của mọi vẻ “xuân hồng”. Vì vậy mà cuống quít, phải “cắn” để giữ lấy,
không để cho nó rơi đi và trôi đi. Phải “cắn” để giữ lấy thời gian, tuổi trẻ, đừng để cho
nhanh về cái bến già nua tuổi tác. Đặc biệt trong tình yêu lứa đôi, con người luôn luôn
có khát vọng đi tìm sự hòa đồng đến vô biên, tuyệt đích giữa hai cá thể, cả về tâm hồn
lẫn thể chất . “Cắn vào ngươi” là đòi hỏi được hóa thân trong tình yêu.
Về nghệ thuật, nét nổi bật ở khổ thơ này là cách dùng một loạt động từ và tính từ ngày
càng mạnh, càng tăng, tạo nên một giọng điệu liên hoàn, sôi nổi như khát vọng mãi
không thôi. Nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt. Cách nhìn, cách cảm mới mẻ
và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ. Bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi,
giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại.
IiI. Kết bài:
Nhìn chung lại, đây là nhân sinh quan mới, có nét tích cực. Trong khi những cái tôi lãng
mạn khác lại xa lánh cuộc sống trần gian, đi tìm cõi bồng lai ở chốn hư vô, thì Xuân Diệu
không đi đâu cả mà coi trần gian chính là thiên đường và sống hết mình trong cõi trần
gian ấy. Hãy biết hướng đời mình về phía ánh sáng, đừng để cho tuổi xanh trôi đi một
cách uổng phí. Bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Song nếu chỉ biết tận hưởng một
cách vội vàng, cuống quýt mà không biết làm gì để cho sự tận hưởng ấy thì lại là tiêu
cực. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng
nhân văn của nhà thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong
cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.
Phân tích hai khổ đầu bài thơ Tràng Giang

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,


Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,


Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

I.Mở bài:
Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận
vừa có chất cổ điển vừa giàu chất suy tưởng của triết lí. Tràng giang trích trong tập “Lửa
thiêng”. “Tràng giang” thể hiện nỗi sầu của cái tôi trước thiên nhiên mênh mông, hiu
quạnh trong đó thấm đượm tấm lòng đối với quê hương đất nước của thi sĩ. Hai khổ thơ
đầu là nỗi buồn được gợi ra từ bức tranh tràng giang mênh mông sóng nước và nỗi
buồn đó thấm sâu vào cảnh vật được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Sông dài trời rộng bến cô liêu.

II.Thân bài:
1. Giới thiệu chung
- Theo tác giả, bài thơ được viết vào mùa thu năm 1939, cảm xúc được khơi gợi chủ
yếu từ cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước.
- Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”. Câu đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” thâu
tóm cảnh – tình và chủ đề cả bài thơ: Nỗi niềm bâng khuâng tha thiết nhớ khi đứng
trước sông dài trời rộng.
2. Nội dung chính
- Câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Tràng giang
và trường giang đều có chung ý nghĩa là sông dài. Ở đây nhờ cách điệp vần “ang” đã
góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm hùng của câu thơ đầu và tạo nên âm hưởng
chug cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác tràng giang còn gợi lên hình ảnh con sông
không những dài mà còn rộng.
- Hai câu mở đầu vừa gợi được cảm xúc vừa gợi được ấn tượng về nỗi buồn triền miên
kéo dài trong không gian, thời gian:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
- Sóng gợn nhẹ từng lớp như lan tỏa tạo thành nỗi buồn điệp điệp lan tỏa ra đôi bờ
miên man không dứt. Thuyền và nước là hai đối tượng vốn gắn bó trong thực tế. Nhưng
ở bài thơ lại không liên quan gì đến nhau, chỉ “song song”, thậm chí ngược hướng nhau:
“thuyền về nước lại” gợi cảm giác chia ly, ngăn cách. Nghệ thuật dùng từ láy “điệp điệp”,
“song song” có hiệu quả gợi âm hưởng cổ kính.
- Tuy vậy nó vẫn có nét hiện đại ở hình ảnh, thi liệu, cảm xúc. Đó là hình ảnh củi một
cành khô lạc mấy dòng vì trước đó trong thơ không có những hình ảnh của những vật
tầm thường nhỏ bé. Câu thơ mới mẻ, xuất hiện cái tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa. Hình
ảnh một cành củi khi đơn lẻ trôi bồng bềnh trên mênh mông sóng nước gợi nên nỗi buồn
về thân phận người nhỏ bé.
→ Ở khổ thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được sử dụng hết sức linh hoạt,
chủ yếu là đối về ý. Nghệ thuật đối ý đối xứng một mặt làm bài thơ uyển chuyển, linh
hoạt. Mặt khác cũng đậm nét thơ tượng trưng Pháp, âm điệu thơ giàu chất nhạc.
- Sang khổ hai, nỗi buồn càng thấm thía vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Sông dài trời rộng bến cô liêu
Bức tranh có nhiều chi tiết hơn khổ một nhưng không sinh động hơn bởi bản thân cảnh
vật mang nỗi buồn. Cồn thì lơ thơ ít ỏi và nhỏ, gió thì đìu hiu, làng xa xôi, chợ vãn đã hết
người… Cặp từ láy có tính chất giảm cường độ hoạt động, tăng nỗi buồn: “lơ thơ”, “đìu
hiu” càng gợi lên một sự buồn lắng, lạnh vắng, cô đơn.
- Câu thơ thứ hai thể hiểu theo hai cách có và không có: “Đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều”. Mà dẫu hiểu cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi nên
một nét buồn. Dường như Huy Cận muốn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người,
chỉ còn cảnh vật đất trời. “Nắng xuống trời lên” đây là những câu thơ có giá trị đặc sắc,
không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. Từ “sâu” gợi thăm thẳm, hun hút, “chót vót”
khắc hoạ chiều cao vô tận. những tính từ chỉ phương ngược hướng nhau đẩy không
gian cao hơn, sâu hơn, rộng hơn, dài hơn. Càng rộng, sâu, cao thì cảnh vật càng thêm
vắng lặng. Trong không gian vũ trụ chỉ có sông dài trời rộng ấy bến lẻ loi xa vắng.
- Sự đối lập giữa điểm và diện làm tăng sự nhỏ bé và không gian mênh mông, vắng lặng.
Nỗi buồn tựa hồ thấm vào không gian 3 chiều, con người ở đây trở nên bé nhỏ trước vũ
trụ rộng lớn vĩnh hằng và không thể không cảm thấy lạc loài giữa mênh mông đất trời, xa
vắng.
→ Như vậy cả hai khổ thơ thấm đẫm một nỗi buồn triền miên vô tận. Nỗi buồn ở đoạn
thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn những nhà Thơ mới. Trước hết chính là nỗi buồn
cả thế hệ dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt dưới ách thống trị thực dân
Pháp. Hơn nữa nỗi buồn này còn xuất phát từ quan niệm mĩ học của các nhà thơ. Theo
họ cái đẹp đi đôi với cái buồn, cái buồn Huy Cận ở đoạn thơ này cũg như tác phẩm
trước sau cũng là cái buồn trong sáng góp phần phong phú thêm tâm hồn bạn đọc.
Nghệ thuật: Đoạn thơ có ý vị cổ điển do tác giả chọn được thể thơ thích hợp. Vận
dụng tự nhiên, hiệu quả các từ láy giàu giá trị biểu cảm. Ngoài ra còn có sự kết hợp hài
hòa giữa Đường thi và thơ tượng trưng Pháp tạo nên nét độc đáo của phong cách sáng
tác Huy Cận.
III. Kết bài:
Cổ kính, trang nghiêm đậm chất Đường thi nhưng tràng giang vẫn là một bài thơ rất Việt
Nam. Dòng sông sóng lượn, con thuyền xuôi mái...rất gần gũi với người Việt Nam chúng
ta. Và như vậy Tràng giang đúng là một bài thơ ca hát non sống đất nước.

You might also like