You are on page 1of 8

Vội vàng

⟡ KIẾN THỨC TRỌNG TÂM


I. MƯỜI BA CÂU ĐẦU
1. Ước muốn kì lạ đến ngông cuồng
Tôi muốn tắt nắng đi
Tôi muốn buộc gió lại.
Đó là những ước muốn kì lạ bởi “tắt nắng”, “buộc gió” là công việc của tạo hóa tự nhiên. Thi sĩ
muốn tước đoạt quyền của tạo hóa. Là bởi tắt năng để cho màu đừng nhạt, buộc gió cho hương
đừng bay đi. Hóa ra trong niềm ước hết sức ngộ nghĩnh, ngông cuồng ấy nhà thơ muốn bất tử
hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp mãi mãi lên hương tỏa sắc giữa cuộc đời này.
- Với Xuân Diệu không vội vàng, không chạy tới để ôm trọn những gì đang có thì làm sao mà
cảm nhận hết vẻ đẹp của đời.
- Đại từ mà tác giả Xuân Diệu đã đặt ở đầu tiên là “tôi”, chứ không phải “ta” hay “chúng ta” và
cùng với đó là động từ “muốn” - “tôi muốn”. Nhà thơ đang thể hiện “cái tôi” công khai ngang
nhiên không lẫn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất
ít dám thể hiện cái tôi của bản thân mình.
 Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng
kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, nhà thơ càng luyến tiếc trước dòng
chảy của thời gian. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian
với một thái độ mến yêu trân trọng này đây.
2. Bức tranh tình yêu cuộc sống tràn đầy màu sắc
Của ong bướm này đây tuần tháng một
Này đây hoa của đông nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của ong bướm này đây khắc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa.
- Khung cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất,
đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tắn, mượt
mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của
thi sĩ:
+ “Tuần tháng mật” của đôi tình nhân đắm say trở thành mùa của ong bướm dập dìu rất lãng
mạn.
+ Tiếng hát của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu
cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hóa như một nàng tiên e thẹn với những ánh
mi dài cuốn hút vạn vật.
- Thi sĩ chọn thời điểm rạo rực nhất “tháng giêng”, tươi mới nhất “mỗi buổi sớm”, để miêu tả
khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi, xinh đẹp. Không chỉ vậy, nhà thơ còn tạo
nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được dùng rất linh hoạt từ
xúc giác “tuần tháng mật”, thính giác “khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.
- Tất cả như chan hòa làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của
mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. Qua đó, ta
thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy
với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở.
- Đặc biệt là hình ảnh tháng giêng ngon như một cặp môi gần cho thấy sự đẹp tuyệt vời lôi cuốn
ấy. Đây được coi là câu thơ có một không hai trong thơ ca Việt Nam, tác giả đã dùng cái vật
nhìn thấy để so sánh với cái vô hạn của thời gian. Câu thơ đặc sắc lấp lánh ba vẻ đẹp độc đáo.
“Tháng giêng” là khởi đầu của một năm, khởi đầu của mùa xuân - mùa xuân tươi non mơn mởn
là biểu tượng vẻ đẹp cuộc sống. Hình ảnh “cặp môi gần” gợi làn môi tươi hồng của thiếu nữ
đang hé mở đợi chờ.
 Vẻ đẹp của khổ thơ thật trẻ, thật nồng. Qua đây ta thấy một thiên đường được nhà thơ vẽ lên
trước mắt chúng ta thật hấp dẫn lôi cuốn đến kì diệu. Không những thế ẩn sau những câu thơ ấy
ta thấy được tình yêu thiên nhiên, yêu đời tha thiết da diết của thi sĩ.
3. Cảm xúc vui sướng nhưng lại vội vàng một nửa
- Mạch thơ vui đang dào dạt cháy bỏng vấp phải một dấu chấm cắt giữa câu thơ:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Dấu chấm giữa dòng như sự ngăn giữa hai thái cực của cảm xúc.
- Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành hai câu chứa đựng hai tâm trạng,
hai cảm xúc trái ngược nhau “sung sướng” - “vội vàng”. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn
tả là “vội vàng một nửa”.
- Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang
quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng vội: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Tác
giả hạnh phúc nhưng cũng vội vàng để nhanh chóng tận hưởng cho hết những gì tươi đẹp nhất
của cuộc sống này. Cuộc sống tươi đẹp, ý nghĩa bao nhiêu thì nhà thơ lại cảm thấy mình rơi vào
tấn bi kịch bấy nhiêu. Bi kịch cuộc sống dồn tụ trong câu thơ.
 Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi
hoa niên mà đã vội vàng… Cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn
nhiên, mới mẻ.
II. MƯỜI BẢY CÂU TIẾP THEO
1. Xuân Diệu quan niệm thời gian tuyến tính từ cái nhìn động
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
- Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kì bốn
mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Xuân Diệu nhìn cuộc đời bằng
con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ
sợ nhất là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng
chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viên.
- Cách dùng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “tới- qua”, “non - già” đã cho người đọc thấy được
sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy
không ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở
tương lai.
 Nhà thơ bộc lộ niềm say mê, vui sướng bất chợt khi mùa xuân vừa đến nhưng rồi nhà thơ
chợt tỉnh lại được, ý thức được về thời gian mà từ đó hưởng thụ mùa xuân ngay trong thực tại.
2. Phát hiện triết học về thời gian
- Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian hữu
hạn của cuộc đời mình (sinh mệnh cá thể) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ
lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước
đo:
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi răng xuân vân tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
- Chữ “xuân” được điệp đi điệp lại cả năm đến sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần).
“Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là xuân của cuộc đời, của tuổi trẻ. Mỗi lần nhắc lại là
mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà xuân của
đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có rộng đến bao nhiêu thì lượng trời vẫn cứ
chật. Nên tuổi trẻ nhân gian không thể dài thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt
trong thể tương phản đối lập cao độ (tới - qua, non - già, rộng - chật, xuân tuần hoàn – tuổi trẻ
chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi bật tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc đời. Vũ trụ có
thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã
qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
- Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại chẳng hai lần thắm lại thì
làm chi có sự tuần hoàn! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt
của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người Xuân Diệu đã
đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
+ Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng
khuâng, nuối tiếc của nhà thơ phả vào đất trời. Dường như trước mặt người đọc là cả một trời
tiếc nuối.
+ Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ Giục giã:
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
Dung nhan xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lâu chiều đã vỡ.
 Phải chăng vì quá yêu mến tuổi trẻ mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã thức nhọn giác quan để
sống toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn mà say, thâu, hôn, cắn cho kì hết những hương nồng của
tuổi trẻ?
3. Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát
- Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến khắp sông núi
mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước
vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
- Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận
ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị
chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một
cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn
như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thấm đẫm hương vị của
sự chia li. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than thở tiễn biệt khắp sông núi vẫn than thầm
tiễn biệt. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là
mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó.
- Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi
chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
+ Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là
lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc
trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, chẳng phải có sự đe dọa nguy hiểm
nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua.
+ Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy
luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu
đưa ra một quyết định hợp lý cho mình và cho tất cả mọi người tôi không chờ nắng hạ mới hoài
xuân.
 Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác - mùi tháng năm, thời gian được hình dung là
hương hoa – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại để cho hương sắc kia đừng bay đi. Nhà
thơ đã cảm nhận sự trôi chảy vô tình của thời gian bằng tất cả các giác quan. Mỗi khoảnh khắc
thời gian đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ.
4. Một tiếng thốt về tuyên ngôn sống
Chẳng bao giờ, ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.
- Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì mùa chưa ngả chiều hôm, nghĩa
là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả “mau đi thôi”. Câu cảm
thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống
tiếc rẻ, bâng khuâng.
- Thế đấy, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian,
thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian là phải tranh thủ sống. Xưa kia, Nguyễn
Trãi viết trong chùm Thơ tiếc cảnh:
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về
màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Cũng qua đó để hiểu thêm về lòng ham sống đến
nhiệt cuồng của nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài Thanh).
- Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của sự
sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất
đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình.
Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế
mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống vội vàng.
 Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về thời gian tuyến tính phải sống vội vàng cho cuộc đời
tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng
Xuân Diệu. Nói như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời,
yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới
mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
III. CHÍN CÂU CUỐI
1. Biểu hiện của hành động vội vàng
- Đoạn thơ mở đầu bằng ba chữ “ta muốn ôm” như phơi bày ra hết sự ham hố và cuồng nhiệt
của Xuân Diệu với cuộc sống trần thế.
- Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng”, “buộc gió” nhưng ở đoạn thơ
cuối này cái tôi ấy đã hóa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời.
- Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn. “Mơn
mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó gợi cảm sự vật, cây cối đang ở độ non
mướt, tươi tốt đầy sức sống khi tháng giêng ngon như một cặp môi gần, khiến cho thi nhân trào
lên bao khao khát:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quít cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
(Thanh niên - Xuân Diệu)
 Tác giả muốn “ôm”, nhưng không phải một sự sống đơn lẻ mà là “cả sự sống” – một sự thâu
tóm, ôm trùm, chiếm lĩnh trọn vẹn đến ham hố, tham lam, không muốn bỏ sót, bỏ phái bất cứ
điều gì.
2. Niềm khát khao tận hưởng cuộc đời
- Và đằng sau khao khát ôm cả sự sống mơn mởn ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục
giã tràn đầy nỗi yêu:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muôn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
- Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn năm từ “ta muốn” được lặp đi lặp lại như nhịp điệu hối hả,
như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt rối rít, cuống quýt, như muốn
cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với
Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống.
- Điệp ngữ “ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở,
cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình mây đưa và gió lượn, muốn
đắm say với cánh bướm tình yêu, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy một cái hôn nhiều.
Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào và non nước, và cây, và cỏ rạng. Để rồi, chàng như
con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, mới lảo
đảo bay đi.
+ Câu thơ: Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời
tươi. Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ
thỏa thuê, sung mãn, trọn vẹn.
+ Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong
niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất,
trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ
tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
- Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “ta
muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn
hơn: ôm – sự sống; riết – mây đưa, gió lượn; say – cánh bướm, tình yêu; thâu – cái hôn nhiều ,
để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống
chưa từng có trong thơ ca Việt Nam: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
+ Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Dưới ngòi bút của Xuân
Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động
như có hình có dáng, có hồn có sắc “xuân hồng”.
+ Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh,
trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn tháng giêng
ngon như một cặp môi gần.
- Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nổi lòng yêu đã đi
đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu: Ta muốn cắn vào ngươi. Có lẽ trong các bài thơ của Xuân
Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang
hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của một nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới (Hoài
Thanh).
=> Đoạn thơ đã thể hiện cái tôi cá nhân đầy say mê, rạo rực. Xuân Diệu đã bộc lộ một cái tôi
tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của
cuộc đời. Thi sĩ như muốn giang rộng cả đôi tay, cả lồng ngực của mình để đón nhận mùa xuân
của tình yêu, của tuổi trẻ. Sự thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ
thuật: điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần; sử dụng động từ mạnh: “thâu”, “riết”,
“say”, “hôn”, “cắn”; giọng điệu say mê, nhịp điệu gấp gáp chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ
táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm xúc của tác giả.
IV. TỔNG KẾT
- Vội vàng thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian,
biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu, tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy
đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Tám thập kỉ sau bài thơ Vội vàng ra đời,
nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống
với Vội vàng như vậy.
- Sự sống trong thơ Xuân Diệu phong phú và đa dạng. Đó là mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu; là thế
giới muôn hình muôn vẻ, tràn đầy niềm vui và ánh sáng. Chính vì thế, Xuân Diệu và thơ tình
Xuân Diệu mãi mãi thuộc về tuổi trẻ - những con người sống để yêu thương. Nhà thơ Xuân Diệu
đã đi vào thế giới vĩnh hằng cùng với những tạo nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông
đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi.

You might also like